Tiếp tục mục Giai Nhân Hoa Thơ Nhạc, hôm nay tôi mời mọi người đi vào thế giới không phải là hoa mà là chiếc lá và hình ảnh của giai nhân trong thơ của thi sĩ Hoàng Cầm. Chiếc lá diêu bông và hình ảnh của cô gái trong thơ đã trở thành huyền thoại qua nét bút của nhà thơ Bên Kia Sông Đuống.
Đầu tiên là Những Bóng Hồng Trong Thơ Nhạc của Hà Đình Nguyên khi nhắc tới:
Hoàng Cầm và chiếc lá huyền thoại
Trên văn đàn Việt, những bài thơ “xuất thần” của Hoàng Cầm mang một giọng điệu hết sức lạ lùng, tứ thơ cũng thật lạ.Chính ông đã cho ra đời một thứ lá mà không ai có thể tìm thấy trên thế gian này: lá diêu bông!
Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ngày 22.2.1922 tại xã Phúc Tằng, H.Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Cha ông vốn là một ông đồ kiêm thầy lang, quê gốc ở Song Hồ, H.Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Vì người cha rời quê lên Bắc Giang dạy học và “chú nhóc” ra đời ở đấy nên ông thầy đồ đã ghép cả tên xã, tên huyện đặt thành tên cho con trai (Bùi Tằng Việt). Sau này, cậu bé ấy lại lấy tên một vị thuốc bắc rất đắng trong hộc tủ của bố làm bút danh cho mình: Hoàng Cầm.
5 tuổi, Bùi Tằng Việt đã phải xa gia đình lên tỉnh lỵ Bắc Giang để trọ học ở nhà ông bác, và 8 tuổi đã biết… yêu. Là thế này: một buổi chiều thứ bảy “định mệnh” của năm 1930, cậu bé Việt từ Phủ Lạng Thương về thăm nhà, bất giác gặp một cô gái đến trao đổi gì đó với mẹ mình (bán hàng xén). Trái tim của cậu bé 8 tuổi như không còn đập nổi trước dung nhan của cô gái 16 tuổi. Một “coup de foudre” (sét ái tình) làm cậu choáng váng. Rồi thứ bảy tuần sau, cậu về trao cho cô gái một bài thơ “tỏ tình”, đó là bài thơ lục bát dài hơn trang giấy học trò, có vẽ hoa bướm, ngọn núi, dòng sông… viết bằng mực tím nắn nót và câu đề tặng “Em gửi chị Vinh của em”.
Gần 70 năm sau, ký ức của lão thi sĩ Hoàng Cầm vẫn còn hiển hiện phút giây đầu tiên gặp gỡ chị Vinh, ông viết: “Trước mắt tôi, chị hiện ra rực rỡ như một thiên thần. Ngay lập tức, hồn tôi như bị chiếm đoạt đến đau điếng. Kể từ giây phút định mệnh ấy, tôi mê man chị chẳng còn biết trời đất, ất giáp, quên cả học hành sách vở, suốt ngày chỉ ngong ngóng sang bên kia đường, xê xế nhà tôi khoảng 20 mét, nơi thiên thần của tôi ngồi bán quán nghèo, phố nhỏ đìu hiu, tỉnh nhỏ… Tôi phải lòng chị, cứ thế giăng mắc tơ tình quanh chị suốt 4 năm trời, đến năm tôi 12 tuổi thì chị đi lấy chồng…” (Tám nhịp tuần du, NXB Văn học, 12.1999).
Thế “chị Vinh” có gì đặc biệt mà khiến một con người từ thuở còn là “thần đồng thơ” đến lúc đã trở thành “đại lão thi sĩ” vẫn cứ say như điếu đổ? Hoàng Cầm viết thế này: “…Chị Vinh võ vẽ chữ nho, đọc thông quốc ngữ, quê gốc Tiên Du (Bắc Ninh – PV) nên hát quan họ cũng làm người ta mê ngang với nhan sắc của chị… Chị thường nhờ những đêm trăng sáng, tổ chức đám thanh niên tụ tập ở cái bãi sau nhà ga, hát ví, hát trống quân, hát ống, hát giao duyên, hát vấn đáp… đặc biệt về môn hát quan họ thì chị là bà chúa của dân ca! Giọng ngọt, say như mật ong, đôi mắt đen buồn thăm thẳm với hàng mi cong và dài, đôi môi đã hồng lại còn cắn chỉ quết trầu, răng đen rưng rức hạt na.
Chị Vinh ơi, viết đến đây em vẫn bồi hồi nhớ từng sợi tóc chị dán trên vầng trán, từng con mắt chị lúng liếng tình tứ, từng giọng hát, từng nụ cười. Em còn ngửi thấy hơi tóc ấm của chị thoảng mùi hương nhu mới gội buổi chiều. Cả suối tóc ấy làm thành thế giới say mê của riêng em từ độ ấy đến ngày nay, dẫu tóc em đã trắng hết, em vẫn có thể vẽ đúng chân dung chị tuyệt vời. Ảnh chị in màu trong hồn em, không một nhà khoa học nào có thể làm ra cho em được những tấm ảnh như em đang có, vẫn còn đầy đủ và tươi tắn, nguyên vẹn từ hơn sáu chục năm rồi đấy, chị ơi!…”.
6+9Một buổi chiều của dịp lễ Giáng sinh năm 1934, nắng hanh vàng rộm, gió lạnh se se, thấy chị Vinh “diện” váy kiểu Đình Bảng, áo lụa cánh mỡ gà, bên ngoài áo ghi lê tím, bên trong yếm nhạt cánh sen, lưng thắt dải lụa đào, bước thoăn thoắt ra cánh đồng còn trơ gốc rạ dưới chân dãy núi Neo, cậu bé 12 tuổi lập tức “vọt” theo… Chị đi trên bờ ruộng, cứ vạch từng búi cỏ đầu bờ hoặc ở những bụi cây trên mấy gò nhỏ rồi cắm cúi tìm… Cứ thế, chị đi trước và tìm, cậu bé lẽo đẽo theo sau. Bỗng chị quay lại mắng: “Ơ hay! Sao mày cứ theo tao lẵng nhẵng thế nhỉ?”.
Cậu bé tự ái muốn bật khóc, nhưng cố nuốt nghẹn bước theo chị. Hình như chị có thoáng thấy nên… mỉm cười. Khi chị bước qua bờ ruộng khác thì cậu bé không kìm được, bật hỏi: “Chị Vinh ơi, chị tìm gì thế?”. Bỗng chị quay lại, nhìn thẳng vào mắt cậu bé, giọng bỡn cợt: “Chị tìm, tìm cái lá… ấy đấy. Đứa nào tìm được cái lá… ấy thì ta gọi là chồng!”. Dù chỉ mới 12 tuổi, cậu bé cũng nhận ra chị Vinh đã thay đổi cách xưng hô, từ “tao, mày”, rồi “chị”, đến “ta”. Cái lá mà chị Vinh nói có lẽ là một thứ lá có thật, nhưng rất khó kiếm. Cuối năm đó, khi chị Vinh đi lấy chồng thì cậu bé quên mất tên chiếc lá mà chị Vinh “đùa trên sự đau khổ” của mình…
Đúng 25 năm sau, một đêm mùa rét cuối năm 1959, trong một thoáng xuất thần – như có một giọng nữ đọc cho Hoàng Cầm chép một mạch bài thơ Lá diêu bông. Và, 60 năm sau – thi sĩ Hoàng Cầm ghi lại những câu văn thật cảm động: “Ngay lúc ấy, tuy mới 12 tuổi, tôi cũng đã nghĩ ngay ra rằng chiếc lá ấy rất hiếm, rất khó tìm. Chẳng thế mà chị đi hết bờ này bãi nọ, gần cả một buổi chiều mà có thấy được đâu! Cái lá oái oăm thế, chị mới trêu đùa thằng bé mà chị biết là nó đang say mê mình, nó “phải lòng” mình từ 5 năm nay rồi còn gì! “Đứa nào tìm được… ta gọi là chồng!”. Chị Vinh ơi, bây giờ chị ở cõi nào, nếu còn sống, chị đã gần tám mươi đấy chứ, sao hôm nay em đã ngoài bảy mươi, lúc em viết những trang nhớ lại này, em hoàn toàn vẫn là đứa em 12 tuổi đang theo chị và chị vẫn đang tuổi hai mươi ngoài cánh đồng làng Như Thiết ấy, chị vẫn trẻ đẹp diệu kỳ, chị ơi!…”.
Lá Diêu Bông- Hoàng Cầm
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo
Đứa nào tìm được lá diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày sau em tìm thấy lá
Chị chau mày
Đâu phải lá diêu bông
Mùa đông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới chị
Em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt chị không nhìn
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời…
…ới diêu bông…
Sau đây là bản nhạc do Phạm Duy phổ từ bài thơ Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm với tiếng hát Ý Lan.
[audio https://chusalan.files.wordpress.com/2013/01/ladieubongphamduy-hoangcam-yla_66z9.mp3]
Thủa còn đi học, bài thơ Bên Kia Sông Đuống là bài thơ ruột của tôi, dù chưa hề thấy con sông Đuống của nhà thơ HC. Mấy câu thơ ” Em ơi buồn làm chi… Anh đưa em về sông Đuống… Đứng bên này sông sâu nhớ tiếc... Sao xót xa như rụng bàn tay…” nghe thật buồn.
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp loáng
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn
Đêm buông xuống bên dòng sông Đuống
– Con là ai? – Con ở đâu về?
Hé một cánh liếp
– Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
“À ơi… cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù”
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
“Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu…”
Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
(Việt Bắc, tháng 4-1948)
CHUYỆN TÌNH HOÀNG CẦM
NTTNEW: Tang lễ Thi sĩ Hoàng Cầm sẽ được tổ chức tại Nhà Tang Lễ Bộ Quốc Phòng, số 5 Lê Thánh Tông, Hà Nội, từ 13 giờ – 15 giờ ngày 11/5/2010 và di quan đến Khu A nghĩa trang Văn Điển.
Tối chủ nhật vừa rồi, tôi đang đi từ Sóc Sơn về thì nghe điện thoại của Nguyễn Đình Toán báo cụ Cầm vừa vào cấp cứu ở bệnh viện Hữu Nghị, khó qua. Tôi linh cảm điều bất ổn, liền gọi ngay cho nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch hội Nhà Văn và hẹn sáng mai vào viện thăm ông. Ông nằm trên giường bệnh chụp ống thở oxy nhưng mắt vẫn mở ra nhìn chúng tôi và cố nấc lên mà không nói được. Hữu Thỉnh xúc động nói: “Cố lên anh nhé. Anh là nhà thơ xuất sắc, là người thầy, người anh đáng kính của bọn em”. Tôi sờ tay ông thấy lạnh toát, mồ hôi nổi hạt, và nghĩ: cây thi sĩ đang hết dần nhựa sống. Ngay lúc đó, chúng tôi bàn với gia đình việc chuẩn bị hậu sự cho ông. Hữu Thỉnh lẩm bẩm: Phải là một đám tang tầm cỡ!
Sáng 6 tháng 5, tôi đang trên đường đến hội Nhà Văn thì nhận được điện của Nguyễn Đình Toán báo tin thi sĩ Hoàng Cầm đã qua đời trước đó 5 phút, tức là 9 giờ 25 phút. Tôi dừng xe bên đường thấy lòng trào lên một nỗi buồn khó tả…
Tôi nhớ những chuyện tình của ông…
HAI CHUYỆN TÌNH HOÀNG CẦM
1. HOÀNG CẦM VÀ PHỤ NỮ
Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh năm 1922. Năm 18 tuổi ông lấy vợ là bà Hoàng Thị Hoàn quê ở Bắc Giang do gia đình cưới hỏi. Sinh được người con trai thì vợ ông mất trong kháng chiến chống Pháp. Hồi năm 1946 ông viết kịch thơ “Kiều Loan” và có một “tình yêu tự chọn” với nữ diễn viên Tuyết Khanh, sinh được một ái nữ đặt tên là Kiều Loan (1948). Do hoàn cảnh gia đình vợ ông phải theo chăm sóc mẹ đẻ, rồi vào Nam. Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, Hoàng Cầm trở về kết duyên cùng người đẹp Lê Hoàng Yến, sinh được hai người con trai. Năm 1985 bà Lê Hoàng Yến qua đời, Hoàng Cầm sống trong sự cô đơn đằng đẵng. Dù đông con cháu nhưng cảm giác cô đơn của một thi sĩ si tình không bao giờ được giải toả. Từ đó, theo cách nói của ông, Hoàng Cầm trở thành vị hôn phu vĩnh cửu.
Có nhiều mối tình đã để lại dấu ấn rất sâu đậm trong thơ ông. Bài thơ “Lá diêu bông” là một ví dụ đặc sắc về tình yêu huyễn tưởng tự tâm linh của ông hồi còn trẻ với cô gái tên Vinh hơn ông 8 tuổi. Sau này là nhiều bài thơ tình, khi thì viết tặng NA, khi thì viết tặng Đ.Đ.H, PD, hoặc PQ… Đọc tập thơ “99 bài tình” của Hoàng Cầm, ta thấy ông hiện lên với một tình yêu mê đắm, vừa chân thật vừa hư ảo, vừa yếu mềm vừa quyết liệt. Cũng xuất hiện trong tập thơ này nhiều giai điệu đẹp lung linh và dịu dàng như sương sớm. Tình yêu trong thơ ông vừa ngọt ngào vừa cay đắng. Chính vì thế ông trở thành “thi sĩ của tình yêu” được đông đảo bạn đọc mến mộ.
Có thể nói tình yêu của Hoàng Cầm với giới đẹp nói chung và người đẹp nói riêng là có thật. Cũng không ít người đẹp đã yêu, mê ông qua thơ của ông. Có người còn yêu thương cả cảnh ngộ cô đơn của ông. Theo ông cho biết thì có người còn viết thư “tỏ tình” với ông, nhưng khi gặp lại thấy “duyên không hợp”. Còn hầu hết những người ông cầu hôn thi không vượt qua được sự ngăn cản của gia đình hoặc dư luận, và rốt cuộc đều trở thành những người bạn, người em đáng quí của thi sĩ.
Khi đã vào tuổi bát thập, ông vẫn cảm thấy thèm một bàn tay của người bạn đời chăm sóc, từ lúc ốm đau đến khi trò chuyện. Ông nói: “Giá như khuy áo đứt có người đơm, màn thủng có người vá thì ấm cúng biết bao. Người xưa nói “Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông” thật là thấm thía”. Chính vì vậy, mà thơ của ông vẫn trẻ mãi nỗi đam mê và khao khát tình yêu. Hai câu thơ trong bài thơ: “Phía sau thư cầu hôn” dưới đây, phần nào bày tỏ sự khao khát của ông:
Đánh liều trao thư cầu hôn em
Bật sáng đáy tâm hồn trẻ nít…
Tuyết Khanh và Lê Hoàng Yến
2. HỎI CHUYỆN CHỦ QUÁN “LÁ DIÊU BÔNG”
Nghe nói ở làng Hạnh Hoa có một cô chủ quán rượu xinh đẹp lấy tên bài thơ “Lá Diêu Bông”cuả Hoàng Cầm đặt tên quán của mình, tôi bèn mang máy ghi âm bỏ túi đến… uống rượu. Quán nhỏ, lớp tranh đơn sơ, nhưng lich sự. Các tửu khách trông có vẻ trang nhã, không giống như quán rượu ở quê. Cô chủ quán đẹp như tiên, đi lại nhẹ nhàng như mây gió. Nghe nói ngày xưa chị trọt yêu một chàng trai kém mình 8 tuổi, gia đình cấm đoán, nên quyết định không lấy chồng. Từ hồi “đổi mới” chị mở quán rượu sinh sống, và luôn mơ được gặp tác giả “Lá Diêu Bông”.
Thấy tôi là khách lạ, chị ưu tiên tiếp rượu, và cuộc trò chuyện đã diễn ra như vầy:
– Chắc chị mê thơ lắm mới đặt tên quán bằng tên một bài thơ?
– Tôi mê tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng,. Nhưng khi đọc được bài thơ “Lá Diêu Bông” của Hoàng Cầm là tôi quên Vũ Trọng Phụng luôn. Từ đó tôi cũng hình dung Hoàng Cầm là cái cậu con trai cứ lẽo đẽo theo tôi đi tìm lá thuốc cho mẹ từ hồi mới lớn. Nhưng người phụ nữ trong bài thơ Hoàng Cầm thi đi lấy chồng, có con , còn tôi thì không.
– Chắc chị thuộc nhiều bài thơ Hoàng Cầm?
– Từ khi đọc bài thơ “Lá Diêu Bông”, là tôi đi tìm đọc Hoàng Cầm. Nghe nói trong “đổi mới” thơ ông bị “lưu ban” một thời gian dài. May mà từ khi tôi thích thơ Hoàng Cầm, thơ ông lại được in ra liên tiếp.Tôi có đủ các tập “Về Kinh Bắc”, “Men đá vàng”, “99 bài tình”, “Mưa Thuận Thành”, “Bên kia sông Đuống” và cả cuốn kịch thơ “Kiều Loan” ông viết từ hồi bốn lăm (1945). Tôi đọc đến đâu là thuộc đến đấy, vì thơ ông rất Việt Nam, rất thích hợp với tư duy của tôi. Như là ông viết riêng cho tôi.
– Chắc chị từng học đại học văn?
– Mấy đứa cháu tôi nó mới học đại học văn. Nhưng chúng nó chẳng hiểu gì về thơ. Chúng nó thạo kinh tế hơn. Bây giờ đứa nào cũng nhà lầu xe hơi trên phố.
– Thế chị học gì?
– Tôi học thơ Hoàng Cầm. “Sông Đuống trôi đi- Một dòng lấp lánh – Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”. Đọc câu thơ này, nhiều đêm tôi nằm nghiêng và thấy mình cũng như đang trôi đi.
– Chị lãng mạn thật.
– Con người, ai mà chả lãng mạn. Nhưng lãng mạn bằng thơ thì nó đẹp gấp trăm nghìn ngoài đời. Thơ làm cho người ta sống đẹp hơn.
– Nhưng phải là thơ Hoàng Cầm?
– Tất nhiên là với tôi. Nhưng có một ông khách trên phố về đây uống rượu, ông ta cũng mê thơ Hoàng Cầm lắm. Ông ấy bảo chỉ có thơ Hoàng Cầm và thơ Hàn Mặc Tử là nhất. Suýt nữa tôi với ông ấy đã thành đôi…
– Sao lại không thành?
– Vì tôi chỉ thích thơ Hoàng Cầm.
– Rắc rối nhỉ?
– Này anh, nghe nói ông Hoàng Cầm lại sắp lấy vợ phải không?
– Năm nào tôi cũng nghe nói như vậy. Nhưng rốt cuộc thì mười mấy năm nay chả có đám cuới nào cả.
– Thế cũng tốt.
– Sao lại tốt?
– Mỗi lần thi sĩ yêu lại có thêm bài thơ hay cho đời.
– Chị không ghen với các giai nhân thật sao?
– Việc gì mà tôi phải ghen với họ.
– Ở Sài Gòn cũng có một cái quán “Lá Diêu Bông” như quán chị…
– Tôi biết. Những cái quán ấy ra đời sau quán tôi. đọc báo tôi biết mà. Hai “anh- chị” còn làm thơ tặng nhau nữa. Thi sĩ Hoàng Cầm phủ dụ chị ta bằng những câu thơ thật sang trọng: “Kinh Bắc lên men đằm hương vương phi- Hỡi mưa Phương Nam bao giờ mưa đi?”. Thế mà chị ta không chịu đi thì thật là “trời không có mắt”.
– Nếu ông Hoàng Cầm mà làm thơ tặng chị, hay nói như chị là “phủ dụ” chị thì chị tính sao?
– Với tôi thật không có hạnh phúc nào bằng. Tôi phóng to bài thơ lên dán trên vách quán để khách rượu cùng thưởng thức.
– Nhỡ có người lại chê thì sao?
– Chê là quyền của người ta. Tôi cũng đọc một bài người ta phê bình thơ Hoàng Cầm là “thơ tình dục khiêu dâm”. Và tôi thấy chính cái tay phê bình ấy mới thực sự có một cái đầu “dâm”. Cứ theo cái đầu của anh ta thì Hồ Xuân Hương hay Nguyễn Du khi viết về tình dục sẽ bị anh ta xử trảm.
– Có lẽ chị nói đúng.
– Tôi nói đúng là cái chắc. Ví dụ những câu thơ đẹp như thế này: “Ấm êm em trong trắng thịt da đêm- Ngọn gió nào cũng ấp một hơi thèm” mà anh ta lại phán là “thơ khiêu dâm” thì tôi không hiểu là anh ta đọc thơ theo cách nào.
– Thơ cần có tri âm. Cũng như Bá Nha gẩy đàn phải có Tử Kỳ nghe. Chị là Tử Kỳ của riêng Của Hoàng Cầm rồi đấy!
Có thêm khách đến. Tôi chia tay chị chủ quán “Lá Diêu Bông”. Biết tôi quen Hoàng Cầm, chị mừng lắm, gửi tặng ông chai rượu Hạnh Hoa, và nhờ tôi mời thi sĩ ghé thăm quán. Hoàng Cầm cũng mừng lắm. Tôi và ông chuẩn bị “hành quân” thì ông bị đau phải vào bệnh viện. Vậy mà cái cậu con trai lẽo đẽo theo chị đi tìm lá Diêu Bông đã gần chin mươi xuân.
NGUYỄN TRỌNG TẠO
Nhà thơ Hoàng Cầm: Đơn côi trong không gian vài mét vuông
Như Bình
Cú ngã định mệnh đã “neo” ông hoàng của thơ tình lại với cái giường bé xíu và đầy những sách tít tận tầng 5 ngôi nhà trong ngõ 43 Lý Quốc Sư cũng đã gần 10 năm nay. Thi sỹ Hoàng Cầm tuổi cận kề 90, bất động và nhỏ thó, câm lặng giữa không gian đặc quánh tưởng chừng không dịch chuyển. Chỉ khuôn mặt vẫn vướng vất nét đẹp thời trai trẻ là thảng hoặc ánh lên những tia nhìn tinh anh ranh mãnh của sự sống.
Đôi chân Hoàng Cầm lâu nay không thể nâng nổi cái thân mình luôn gầy tong và yếu ớt của ông. Nhiều năm ròng mang trọng bệnh, ông chỉ nhích từng bước nhỏ một khi có người giúp đỡ trong khoảng vài ba mét vuông của tầng thượng ngôi nhà mà gia đình con cháu ông đang ở. Hoàng Cầm không còn khái niệm thời gian nữa. Ông chẳng biết trông vào đâu để phân biệt ngày và đêm, hôm qua và hôm nay, ngày kia và ngày mai tiếp nối.
Từ buổi đôi chân tê dại không tuân theo sự điều hành của trí não, cơ hội để ông được ra khỏi nhà, được ngửa mặt ngắm nhìn bầu trời và mở căng lồng ngực cho gió mơn trớn vuốt ve là rất ít ỏi, chỉ như một cộng với một mà thôi. Lần gần đây, ông được cõng xuống đến bậc cuối cùng của 5 tầng cầu thang và ngồi xe lăn ra đường là đêm công diễn vở kịch thơ “Kiều Loan” tại Nhà hát Tuổi trẻ tháng 8/2005.
Lần gần hơn nữa ở Lễ trao Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước đầu năm 2007 mà ông là một trong những thi sỹ già được xướng tên. Từ bấy đến nay, ông lại chỉ quẩn quanh nằm ngồi trong không gian vắng teo chưa hết một tay con gái.
Hoàng Cầm khó nhọc tính đếm kể tên những người con của chính mình, mãi cũng chưa ra hết, để cuối cùng, đạo diễn Đoàn Điện Biên mà ông tự nhận là con nuôi phải đính chính giùm. Đông con, nhưng Hoàng Cầm cũng đã hơn một lần phải chịu đựng nỗi đau khôn cùng của một người cha khi dứt ruột tiễn biệt những đứa con mệnh bạc của mình, nữ nghệ sỹ Hoàng Yến qua đời đã lâu và nhà báo Hoàng Kỳ mới lìa thế cách nay ít năm. Cả hai người con đã khuất đều là của ông với người vợ đầu tiên từ thuở “Tấm Cám”, bà Hoàng Thị Hoàn cũng vốn dân xứ Kinh Bắc đa đoan.
Hỏi ông có hay đọc thơ của các nhà thơ trẻ không, ông bảo có chứ, đấy người ta vẫn tặng sách thường xuyên. Rồi lại hỏi là ông thích ai trong số những người trẻ mà ông tiếp xúc qua tác phẩm, ông buột mồm nói ngay không đắn đo suy nghĩ: Phạm Tiến Duật. Một nốt trầm trĩu cả ánh sáng hiu hắt le lói qua các kẽ hở của những tấm tôn và cửa… Ông như đã từ lâu chưa giao tiếp với xung quanh, hoặc đơn giản hơn, ông không còn có thể nhớ được nữa.
Nói với ông Phạm Tiến Duật là tên tuổi nổi danh từ thời chống Mỹ, và thi nhân cũng đã thành người của cõi xưa vô định từ hơn một năm nay rồi, ánh mắt Hoàng Cầm vẫn thế, khuôn mặt ông vẫn thế, không biểu lộ gì. Ông như chả thèm để ý đến xung quanh, chỉ đắm đuối theo những suy tư của riêng ông và chỉ mình ông biết. Đạo diễn Đoàn Điện Biên tí cái lại đỡ lời: Đôi khi cụ rơi vào trạng thái lẫn, nói đấy rồi lại quên đấy mà thôi. Ông dường như còn không điều khiển được cả đến suy nghĩ của mình nữa.
Đến thăm Hoàng Cầm là một nhẫn nại mà chả phải ai cũng tỉ mẩn theo được. Nhiều lần nhiều người đã bất lực bấm chuông ngôi nhà ban ngày cửa luôn im ỉm khóa. Đạo diễn Anh Tú khi bắt gặp kịch thơ “Kiều Loan”, sung sướng quá tìm đến nhà tác giả xin cho phép được dàn dựng, cũng phải dùng điện thoại nói chuyện cả tiếng đồng hồ từ dưới đất lên sân thượng tầng 5 với ông mà không cách gì gặp mặt được.
Đơn giản chỉ là giờ hành chính cháu con ông đi làm hết, ông thì vĩnh viễn chẳng còn tự nâng mình dậy để cất bước mở cửa cho khách được. Ông giờ nằm đếm buồn đếm vui bằng những lần có bạn thơ, bạn văn, cả những người yêu thơ ngưỡng mộ thơ đến chơi và tán gẫu. Căn phòng nhỏ tầng 5 lâu lâu lại có người mở cửa, phả vào đó chút hơi ấm mặn mòi náo nhiệt của cuộc sống đời thường. Nhà thơ Hoàng Cầm mỗi giờ khắc lại đơn côi thêm một chút giữa trần thế đông đúc. Bạn bè ông đã tìm về cõi vĩnh hằng gần hết. Những người cùng thời cùng thế hệ với ông, nay quanh quẩn đâu còn được mấy ai. Để qua đi chầm chậm từng tích tắc dằng dặc của ngày tháng, ông đọc tất cả những tờ báo rơi vào tay mình. Khi buồn, ông với cái điếu cày đầu giường xòe lửa hít hà hương vị của khói thuốc lào gay gắt bảng lảng.
Nằm một chỗ từ rất lâu, nhưng Hoàng Cầm vẫn còn vẻ linh hoạt, không bị ám cái nặng nề nồng nặc của người già tật bệnh chịu lệ thuộc hoàn toàn vào con cái. Không bi quan, không sầu thảm, Hoàng Cầm vẫn ráng giữ sinh hoạt nền nếp khuôn phép để duy trì sức khỏe. Dường như nỗi buồn và sự cô đơn của ông đã hóa thạch, chìm vào tận đáy sâu tháng ngày.
Nhà thơ Hoàng Cầm sinh năm 1922, tuổi Tuất, giờ đã ngót nghét 90, đang đếm thời gian để mơ một lần thêm nữa được “Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc/ Chiều xưa giẻ quạt voi lồng/ Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc/ Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông…”
Đã tắt lặng Cây đàn thơ Hoàng Cầm
Tác giả: KIM DUNG- PHAN CHÍ THẮNG
Cây đàn thơ Hoàng Cầm đã tắt lặng, nhưng dư âm của nó vẫn ngân nga, vọng mãi trên thi đàn, trong lòng người và nhân thế…
Thế là giữa cuộc đời dâu bể này, đã tắt lặng cây đàn thơ điệu nghệ- Hoàng Cầm. Dù thông tin ông ốm nặng khó bề qua khỏi, lặng lẽ truyền đi trong giới văn chương và những người yêu thơ ông từ khá lâu. Nhưng tin ông ra đi, vẫn khiến văn đàn và không ít người ngưỡng mộ ông hụt hẫng, thương tiếc, xót xa. Dẫu biết tử sinh là lẽ thường tình…
Bởi cái tên Hoàng Cầm- mà người viết bài này, tự đặt – Cây đàn thơ- không chỉ được tạc trong “từ điển văn chương” của nước Việt, mà từ lâu, đã “tạc” trong tâm thức của những người yêu cái đẹp của thi ca, mà nhờ đó, trên hành trình của kiếp người, giữa bao nhiêu nhọc nhằn, biết “vịn câu thơ mà đứng dậy” (Phùng Quán).
Một cuộc đời thấm đẫm chữ Tình
Ông tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922, tại xã Phúc Tằng, (Việt Yên, Bắc Giang); nhưng quê gốc của ông ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, quê hương của những làn điệu quan họ óng ả, tình tứ, trong một gia đình nhà nho lâu đời. Cụ thân sinh ông thi không đỗ, về dạy chữ Hán và làm thuốc bắc ở Bắc Giang. Tên ông được đặt ghép từ địa danh quê hương: Phúc Tằng và Việt Yên.
Thuở nhỏ, ông học tiểu học, trung học ở Bắc Giang và Bắc Ninh. Năm 1938, ra Hà Nội học Trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân dân xã của Vũ Đình Long. Văn chương, trong đó, kịch nghệ và thi ca, với ông dường như là một duyên nghiệp, một duyên trời định. Và mảnh đất Kinh Bắc tài hoa làng nghề, tài hoa các làng quan họ như có sứ mệnh tạo nên một thi nhân- một cây đàn thơ lóng lánh muôn điệu: “Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc/ Chiều xưa giẻ quạt voi lồng/ Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc/ Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông… hay Sông Đuống trôi đi/ Một dòng lấp lánh/ Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ…
Ông lấy bút danh Hoàng Cầm, tên một vị thuốc đắng trong các vị thuốc bắc. Ông chọn tên vị thuốc đắng cho mình, như một ám ảnh, một linh cảm của tâm hồn thi sĩ bẩm sinh quá nhạy cảm? Hay chính định mệnh khắc nghiệt đã chọn sự cay đắng “tặng”cho số phận ông?
Không biết nữa!
Chỉ biết, chẳng có người yêu nước nào, dù bé nhỏ đến đâu, vào thời tao loạn của dân tộc, có thể đứng ngoài lề. Đời ông, có đủ đầy cung bậc thăng trầm của một người nghệ sĩ chân chính. Năm 1944, vào đúng lúc Thế chiến II diễn ra khốc liệt, ông đưa gia đình về lại quê gốc tại Thuận Thành, bắt đầu tham gia hoạt động Thanh niên Cứu quốc của Việt Minh. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông về Hà Nội, thành lập đoàn kịch Đông Phương. Khi chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông theo đoàn kịch rút ra khỏi Hà Nội, biểu diễn lưu động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình…
Tháng 8 năm 1947, ông tham gia Vệ quốc quân ở chiến khu 12. Cuối năm đó, ông thành lập đội Tuyên truyền văn nghệ, đội văn công quân đội đầu tiên. Năm 1952, ông làm Trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị, hoạt động biểu diễn cho quân dân vùng tự do và phục vụ các chiến dịch.
Tháng 10 năm 1954, giải phóng Thủ đô, đoàn trở về Hà Nội. Do mở rộng thêm nhiều bộ môn, năm 1955, Hoàng Cầm được giao nhiệm vụ trưởng đoàn kịch nói. Nhưng trước đó, từ năm 1945, ông đã nổi tiếng vì đóng góp không nhỏ cho sân khâu kịch nghệ Việt Nam, với hai vở kịch thơ: Hận Nam Quan và Kiều Loan.
Hòa bình được lập lại, cuối năm 1955, ông trở về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. rồi tham gia thành lập Hội Nhà văn và được bầu vào Ban chấp hành. Rồi, giữa lúc cuộc đời tưởng như yên ả nhất, ông bị cuốn vào bão tố của vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm”, buộc phải rút khỏi Hội Nhà văn- năm 1958 và về hưu non năm 1970, lúc mới 48 tuổi, cái tuổi sung sức nhất của sáng tạo.
Nhưng ẩn dật trong thi ca, lấy thi ca làm mái chắn che chở cho sự bình yên của tâm hồn, và con tim không ngừng náo động bồn chồn vì yêu- đời ông sống được bởi chữ Yêu- ông vẫn tiếp tục thai nghén, sáng tác trong âm thầm, lặng lẽ, trong bóng tối của số phận bất ngờ… Bởi những người vợ của ông- như Tuyết Khanh, như Hoàng Yến dẫu mặn nồng hương lửa, cũng đã lặng lẽ bỏ ông ra đi, về nơi cuối trời.
Hành trình cuộc đời ông là hành trình của những tập thơ nổi tiếng: “Tiếng hát quan họ”, “Men đá vàng”, “Mưa Thuận Thành” và đặc biệt là “Về Kinh Bắc”…Một cuộc đời hoạt động sôi nổi, khi thăng khi giáng, lúc ấm áp lúc cô đơn, nhưng luôn thấm đẫm chữ Tình: Yêu nước- yêu người- yêu đời, dù không ít cay đắng và bi kịch số phận cá nhân.
Đôi khi, người viết bài này tự hỏi, trong những đêm dài giá lạnh của cõi nhân gian, ông nghĩ gì, và tìm cho mình cuộc sống như thế nào nhỉ? Bỗng nhớ tới cái quán rượu số 43 con phố nhỏ Lý Quốc Sư. Rượu và Thơ- hai người bạn “tâm giao” không thể thiếu để đến lượt ông “vịn” vào, trong hành trình còn lại dằng dặc, cô độc, dù có thể lúc này lúc khác, bạn bè vẫn thăm hỏi…
Cho đến năm 75 tuổi, cái chữ Tình thấm đẫm cuộc đời ông như được kết tinh nhất, ngọt ngào nhất, đằm thắm nhất, ở tập “Thơ Hoàng Cầm- 99 tình khúc”.
Còn sự bình yên với nhân thế, phải gần 40 năm sau mới đem đến cho con tim người nghệ sĩ tài hoa. Đầu năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng.
Lá Diêu bông- hành trình kiếm tìm hạnh phúc
Trong tài sản thơ phú giầu có của ông, Hoàng Cầm có rất nhiều tác phẩm, ngay cả khi chưa công bố, đã được “ngôn truyền” trong công chúng. Và khi cất tiếng hoan ca, nó đủ sức lay động tới con tim mọi giai tầng. Lá Diêu bông là một bài thơ có số phận “hạnh phúc” như thế, cho dù nó nói về nỗi bất hạnh- hay hạnh phúc “ảo” của kiếp người.
Bài thơ dạng kể chuyện, ngắn gọn đến mức tiêu biểu cho sự hàm súc, hàm súc từ hình ảnh đến ngôn từ, khó có thể lược bớt đi một từ nào trong bài thơ.
Câu chuyện có hai nhân vật: Em – tác giả và Chị – đối tượng mối tình thơ ấu của ông. Người ta thường cho rằng bài thơ nói về mối tình đầu đơn phương mộng ảo của người nghệ sỹ tài ba. Nhiều người đã kiếm tìm để biết thêm về cuộc sống tình duyên của hai nguyên mẫu – tác giả và chị Vinh, khai thác sâu các tầng bậc chất lãng mạn trong con người và thơ Hoàng Cầm.
Nhưng thực ra, ngoài phần nổi của bài thơ đã là khá đẹp và hấp dẫn, còn có phần chìm, phần hồn- đó cũng chính là thông điệp của của bài thơ nữa. Cũng giống như người đi tìm trầm hương, cái lõi trầm bên trong mới thực sự quý giá.
Ta hãy quay lại bài thơ và cùng thưởng thức nó.
“Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều – cuống rạ”
Chỉ với ba câu, tác giả giới thiệu ngay với chúng ta nhân vật chính: Cô thiếu nữ dậy thì mặc váy (con gái Đình Bảng từ tuổi nào đó mới mặc váy), đang vu vơ đi tìm một cái gì đó phi vật thể giữa cuống rạ đồng chiều (có phiên bản chép là thẫn thờ, đúng ra phải là thẩn thơ, chữ thẫn thờ không hợp với tuổi thơ).
Đồng thời tác giả cũng đã tự giới thiệu về mình: Một chú nhi đồng. Một người trai mười tám chắc đã tả “em” nào là hai mắt lá răm, nào đôi môi hồng, nào làn thu thuỷ nét xuân sơn v.v. Còn chú bé nhi đồng chắc chắn chưa hề biết về những cái đó, chú chỉ nhìn thấy có mỗi cái váy (chắc vì ngang tầm mắt của chú!).
Tuổi Trẻ ngày nay ít người biết cửa võng là gì. Cửa võng- một thứ cửa làm bằng gỗ hoặc vải thêu, nhà giàu thì sơn son thếp vàng, hình chữ ∏, ba bên chạm trổ nhiều hoạ tiết, hoặc ghép thêm những chi tiết phụ nhằm tăng thêm sự cầu kỳ của cửa.
Váy buông chùng cửa võng nghĩa là hai thân váy thu sang hai bên rồi buông chùng xuống. Có thể Chị chưa hết tuổi lớn nên váy mặc còn tém sang hai bên như cửa võng.
“Chị bảo đứa nào tìm được lá diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng”
Chắc hẳn có mấy chú bé nhằng nhẵng bám theo nên chị nói cho qua chuyện. Xin lưu ý chữ “bảo“, không phải Chị nói mà là bảo, bảo là khi người trên nói với người dưới. Hơn nữa, Chị chỉ gọi là chồng, như một trò chơi đóng giả vợ chồng con cái của trẻ con chứ không như Trần Tiến “Em đố ai tìm được lá diêu bông, xin lấy làm chồng”
“Hai ngày em tìm thấy lá
Chị chau mày đâu phải lá diêu bông”
“Chau mày” không phải vì thằng bé dốt quá, làm gì có lá Diêu bông (lá Diêu bông là do nhà thơ sáng tạo ra, có thể hiểu là lá của một loài hoa phiêu diêu, không có thực, giống như hạnh phúc ở trên đời này vậy, cũng là một cái gì đó hư ảo). Hãy phân tích tiếp xem vì cái gì.
“Mùa đông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu trông nắng vãn bên sông”
“Lắc đầu’ là một động tác mạnh hơn “chau mày”, cộng thêm động tác nhìn về phía xa xa, như trông đợi một cái gì đó.
“Ngày cưới chị, em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim”
Chữ “cười” ở đây cho ta lời giải thích vì sao chị “chau mày” và “lắc đầu” ở hai thời điểm trước đó. Nghiã là chị đã đi tìm, đã mong mỏi hạnh phúc lứa đôi. Khi làm đám cưới, chị cảm thấy hạnh phúc, mãn nguyện (có bản chép xe chỉ cắm trôn kim hay ấn trôn kim, nghe thô lỗ quá, ấm trôn kim mới đúng, nó nói lên người con gái đã sẵn sàng cho vai trò làm vợ, may vá thêu thùa, giữ gìn mái ấm gia đình).
“Chị ba con em tìm thấy lá
Xoè tay phủ mặt chị không nhìn“
Khi đã có ba con, lúc nghe nhắc lại lá Diêu bông, Chị có thái độ hoàn toàn thất vọng, không còn muốn nhìn thấy một sự thật phũ phàng: Làm gì có hạnh phúc lứa đôi trong cuộc đời Chị, cái hạnh phúc mà Chị mong mỏi khi nhẩn nhơ đi tìm trong đồng chiều cuống rạ trước đây?
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi.
Diêu Bông hời…
ới Diêu Bông!
Khổ cuối của bài thơ như một lời kết cho câu chuyện, như láy lại sự kiên trì ngây thơ suốt cả cuộc đời “Em” trong mối tình vô vọng với “Chị”, như một lời than cho số phận bất hạnh của người đàn bà nói riêng và kiếp người nói chung.
Bài thơ thoạt tưởng chỉ là kể về câu chuyện tình liêu trai bất thành, mà thực ra nó là khúc ca xót xa, khóc cho người mình yêu chứ không phải là than thân trách phận. Nó triết lý về hành trình tìm kiếm hạnh phúc đời người. Và nó nói hộ nỗi lòng khát khao. Ai đọc, cũng thấy mình trong đó…
Hạnh phúc chỉ là ảo. Nhưng người ta vẫn không ngừng kiếm tìm…
Vì khát vọng vẫn mạnh hơn ảo vọng. Đó là cái lẽ, bài thơ Lá Diêu bông luôn được mọi lớp người yêu thích, nhập tâm suốt hơn nửa thế kỷ qua.
Và vì thế, cho dù tiếng tơ đồng của cây đàn thơ Hoàng Cầm đã tắt lặng, nhưng dư âm của nó vẫn ngân nga, vọng mãi trên thi đàn, trong lòng người và nhân thế…