TRĂNG NGHẸN…

Tôi là người rất mê thơ. Có thể nói đối với tất cả bộ môn nghệ thuật như văn chương, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kịch nghệ, phim ảnh; tôi đặt thơ đứng trên hết. Đừng hỏi tôi tại sao. Đừng bắt tôi phải giải thích. Mệt lắm. Tôi mê thơ và tôi đặt nó lên hàng đầu thế thôi. Mê thơ, tôi cũng khoái luôn mấy ông làm thơ. Từ các đại thi hào, thi bá, thi sĩ, thợ thơ… kể cả mấy ông làm thơ con cóc, con ếch, ễnh ương, nhái bầu, nhái bén hay nòng nọc gì gì đó ít hay nhiều cũng được tôi quý trọng. Khi người ta làm thơ là người ta đem tấm lòng của họ ra để chia xẻ với mình, do đó mình nên nâng niu và cám ơn công sức của người.

Cách đây thời gian khá lâu, đâu đó vào năm 2011, có một người quen gởi email cho tôi bài thơ với cái tên Trăng Nghẹn mà tác giả thì nghe lạ lắm. Hoài Tường Phong. Dường như tôi chưa hề đọc bất cứ bài thơ nào của ông ta. Có thể ông ta đã làm thơ và có tiếng tăm ở quê nhà mà tôi, vì không thường xuyên liên lạc với các văn nghệ sĩ ở trong nước nên không biết tới.  Điều đó không ngăn được tôi đọc đi đọc lại bài thơ 32 câu này cho tới khi hầu như thuộc lòng. Càng đọc càng thấm… Càng đọc càng khoái… Điều đó khiến tôi lên mạng tìm hiểu thêm về tác giả bài thơ Trăng Nghẹn: thi sĩ Hoài Tường Phong. Sau khi đọc hết câu chuyện về ông, tôi mang tâm trạng kỳ cục mà tôi xin được diễn tả sau khi quý độc giả đọc một số bài viết về Trăng Nghẹn của Hoài Tường Phong.  

chu sa lan

hvln

TRĂNG NGHẸN là bài thơ của Hoài Tường Phong vừa được Ban Giám Khảo chấm Giải Nhất cuộc thi thơ đồng bằng sông Cửu Long do các Hội Văn học – Nghệ thuật trong khu vực nầy liên kết tổ chức, tỉnh Cần Thơ đăng cai. Nhưng một sự cố lạ lùng chưa từng có đã xảy ra: Nhà thơ Phạm Sĩ Sáu, trưởng Ban Giám khảo cho hay, một số cơ quan “có thẩm quyền” ở thành phố Cần Thơ (thực chất là không có thẩm quyền)  đã yêu cầu Ban Giám khảo chọn lại bài khác để trao giải Nhất, vì bài nầy u ám quá. “Trăng thì phải sáng, thậm chí rất trong sáng chớ không thể nào nghẹn được”. Ban Giám khảo đã quyết định không chấm lại, cuối cùng họ quay sang tác giả. Nhà thơ Hoài Tường Phong cho biết, mấy ngày nay chủ tịch Hội Văn nghệ Cần Thơ yêu cầu ông làm đơn từ chối giải thưởng với lý do ” tôi không có gởi dự thi “. Ông khẳng định rằng ” tôi đã gởi dự thi “, sau đó vị chủ tịch Hội Văn nghệ lại yêu cầu ông làm đơn xin từ chối giải thưởng với lý do ” Thơ tôi có nhiều câu chữ không phù hợp với tiêu chí cuộc thi “. Ông Phong nói ” Đó là việc thẩm định của Ban Giám khảo “.

 

Chiều ngày  3-03-2010, Ban thường vụ Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật thành phố Cần Thơ đã họp và chính thức quyết định loại bỏ giải Nhất của bài thơ Trăng Nghẹn của Hoài Tường Phong.

Mời các bạn đọc bài thơ TRĂNG NGHẸN đã được Ban Giám Khảo chấm giải Nhất.

TRĂNG NGHẸN – Hoài Tường Phong

Mẹ sinh tôi vào một đêm rằm mưa gió ngày xưa,
Lúc chào đời đã lỡ hẹn cùng vầng trăng viên mãn.
Vùng tản cư hồi nầy ruộng hoang nhà trống,
Rước được bà mụ vườn, ngoại cực trần thân.
Tôi lớn trong quê mùa như cây tạp vườn hoang,
Bảy tuổi biết leo lưng trâu, không từng ngồi xe đạp.
Không biết lời bải buôi để mua lòng người khác,
Nên thua thiệt cả đời vì không thể dối lừa ai.
Ngơ ngác buổi ra thành, trước cuộc sống đua chen,
Mười năm sau chưa gội rửa cho mình thành dân chợ.
Lớp phèn hết bám chân, nhưng chất chân quê vẫn còn đó,
Tôi tranh thủ những tháng hè, thích về lại thăm quê.
Bè bạn theo đuôi trâu một thời, mơ ước nhìn tôi,
Tưởng tôi thoát kiếp ngài, nhởn nhơ hóa bướm.
Tôi nhìn vẻ hồn nhiên của đám bạn xưa thèm quá,
Cộng một chút phù hoa đâu thêm lớn tâm hồn.
Mỗi lần về quê bè bạn cũ lại vắng hơn,
Gái mười bảy đã lấy chồng, trai hai mươi đòi vợ.
Cô bạn xưa nách con ngang nhà mua chịu rượu,
Đôi mắt ướt một thời bẽn lẽn ngó bàn chân.
Xóm bên sông nhiều cô gái rời quê,
Về thăm nhà xênh xang lụa là hàng hiệu.
Vài căn nhà xây, đổi đời nhờ những đồng tiền báo hiếu,
Khởi sắc một vùng quê sao nghe có chút bùi ngùi.
Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi:
Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất,
Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất,
Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa.
Chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn,
Vầng trăng vừa lên đã bị mây mưa vần vũ.
Tôi chợt nhớ lần lỗi hẹn đầu đời, trăng cũ,
Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê.

hvln

Tác giả ‘Trăng nghẹn’: Nghẹn ngào thương quê

Sáu Nghệ

TP – Báo Tiền Phong nhận được thông tin của bạn đọc về đời sống văn nghệ ở Cần Thơ, trong đó có câu chuyện về cuộc thi thơ gây xôn xao dư luận gần đây.

Được biết, TRĂNG NGHẸN là bài thơ của Hoài Tường Phong vừa được chấm giải Nhất cuộc thi thơ Đồng bằng sông Cửu Long do các Hội Văn học – Nghệ thuật trong khu vực này liên kết tổ chức, tỉnh Cần Thơ đăng cai. Nhưng một sự cố bất ngờ chưa từng có đã xảy ra: Một số cơ quan có thẩm quyền ở thành phố Cần Thơ đã yêu cầu Ban Giám khảo chọn lại bài khác để trao giải Nhất thay cho bài thơ này vì nó u ám quá. “Trăng thì phải sáng, thậm chí rất trong sáng chớ không thể nào nghẹn được”. Tuy nhiên, Ban Giám khảo đã quyết định không chấm lại. Cuối cùng họ quay sang tác giả.

 PHONG
Tác giả Hoài Tường Phong. Ảnh: Sáu Nghệ

Có thông tin cho rằng Chủ tịch Hội Văn nghệ Cần Thơ yêu cầu tác giả làm đơn từ chối giải thưởng với lý do “tác giả không có gởi thơ dự thi”. Tác giả khẳng định rằng “tôi đã gửi dự thi”.

Sau đó vị Chủ tịch Hội Văn nghệ lại yêu cầu tác giả làm đơn xin từ chối giải thưởng với lý do “Bài thơ có nhiều câu chữ không phù hợp với tiêu chí cuộc thi”. Vậy thực hư câu chuyện này ra sao? Trưởng Đại diện báo Tiền Phong tại Đồng bằng sông Cửu Long đã bước đầu tìm hiểu thông tin gửi về tòa soạn.

Tác giả Hoài Tường Phong ở nhà số 94A/17, đường Trần Quang Diệu, phường An Thới (Bình Thủy, Cần Thơ). Căn nhà cấp 4, dáng người thấp nhỏ, ông cười hiền lành, tự giới thiệu nghề nghiệp sinh sống: “Làm răng giả”.

Ông bảo làm thơ là khi có cảm xúc trong lòng, nghĩ sao ông viết vậy. Bài thơ Trăng nghẹncó hai câu mở đầu: Mẹ sinh tôi vào một đêm rằm mưa gió ngày xưa/Lúc chào đời đã lỡ hẹn cùng vầng trăng viên mãn.

Ông nói, ông sinh năm 1945, đúng một đêm mưa gió thật sự nên không thể viết là trăng sáng được, dường như cũng báo hiệu cuộc đời ông sau này vất vả. Nghề làm răng giả chỉ đủ sống tằn tiện qua ngày. Vợ ông bán ăn uống dưới chợ. Ba đứa con thì hai lớn đã ra riêng, còn con gái út ở chung cùng buôn bán lặt vặt.

Hai câu: Cô bạn xưa nách con ngang nhà mua chịu rượu/Đôi mắt ướt một thời bẻn lẻn ngó bàn chân,“phải chăng có mối tình xưa nào ông còn nhớ?”, tôi hỏi. Ông cười, cũng có cô bạn gái bên kia sông, chung xã Mỹ Lương, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Lớn lên, ông đi học tú tài, phải sang tỉnh Vĩnh Long bên cạnh rồi chuyện lỗi hẹn đầu đời thường khó nói mà không thể quên.

Học tới đệ nhị, tương đương lớp 11 bây giờ, ông tham gia phong trào đấu tranh của học sinh, bị bắt bỏ tù hơn một năm. Ra tù, ông lên Sài Gòn kiếm sống. Trong Trăng nghẹn có câu: Ngơ ngác buổi ra thành, trước cuộc sống đua chen/Mười năm sau chưa gội rửa cho mình thành dân chợ là tâm trạng của ông.

Ông tâm sự, ở quê nghèo ra thành phố tưởng sẽ ngon lành lắm nhưng mãi vẫn không bằng ai. Nên Trăng nghẹn mới nghẹn ngào về đồng bằng sông Cửu Long hôm nay: Đồng bằng quê tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi/…/Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa”.Ông lại cười buồn, ông cũng mong thay đổi lắm như mong cuộc đời ông thay đổi.

Được trao giải là nhận

Tôi hỏi chuyện ông xung quanh những đồn thổi từ khi bài thơ được chấm giải nhất, thực hư thế nào. Ông kể, có bốn lần được Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thành phố Cần Thơ Phan Huy gặp.

Lần đầu, ở quán cà phê Thủy Mộc, ông Phan Huy nói, quan điểm của ông Phan Huy là bảo vệ quyết định của ban giám khảo; tuy nhiên nếu có tình huống xấu thì ông Hoài Tường Phong có vui lòng không nhận giải hay không.

Lần thứ hai vẫn ở quán cà phê Thủy Mộc và vẫn nội dung cũ. Lần thứ ba tại trụ sở Liên hiệp các Hội VHNT, ông được đề nghị viết vài lời từ chối nhận giải. Các lần ấy, ông ngại nói thẳng.

Lần thứ tư, qua điện thoại, ông Hoài Tường Phong nói thẳng, nếu được trao giải là ông nhận. Không trao thì thôi, chứ ông không bỏ giải, cũng không thắc mắc.

Chiều 9-3, ông Phan Huy, Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT TP Cần Thơ, cho PV Tiền Phong biết, chưa trao giải vì có nhiều ý kiến trái chiều, chứ hiện nay vẫn chưa quyết định là không trao giải nhất cho bài Trăng nghẹn.Cuộc thi thơ ĐBSCL năm 2009 do Liên hiệp các Hội VHNT TP Cần Thơ đăng cai, từ ngày 1- 2 đến 31- 10- 2009, nhận được 915 bài của 255 tác giả. Kết quả chấm của ban giám khảo, bài Trăng nghẹn của Hoài Tường Phong ở Cần Thơ giải nhất; bài Sương hồ của Lê Thanh My ở An Giang và Đôi bờ của Ngô Thị Thu Vân ở Bến Tre giải nhì. Có 3 giải ba, 5 giải khuyến khích.

Ông kể tiếp, một lần ông được cho xem tờ giấy ghi ý kiến của một nhà thơ ở Hà Nội là bài thơ không có vấn đề gì nhưng nên đề nghị tác giả sửa lại bốn câu cuối hoặc sửa một chữ ở câu cuối. Chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn/Vầng trăng vừa lên đã bị mây mưa vần vũ/Tôi chợt nhớ lần lỗi hẹn đầu đời, trăng cũ/Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê.

Sửa bốn câu thì ông không chịu nhưng sửa một chữ, ông hơi do dự. Đó là chữ “chưa” thành chữ “sẽ” hoặc “chờ”. Lý do sửa là cho êm đẹp. “Tôi không biết êm đẹp cái gì, thấy tùm lum cả. Tôi không đồng ý sửa nữa”, ông Hoài Tường Phong nói.

Ông cho biết, mấy hôm nay, có nhiều người điện thoại, đều ủng hộ quyết định của ông. Ông lại cười hiền lành: “Bài thơ được một vài người nhận xét là có cảm xúc chân thành, chứ không phải xuất sắc gì”. “Nhưng cảm xúc chân thành mà việc trao giải lại chần chừ, ông có buồn không?”, tôi hỏi. Ông trả lời, không buồn, vì thơ là làm cho mình, ai chia sẻ hay không là quyền của người ta.

Vui chuyện, ông kể, hồi mới tập tọng làm thơ. Một lần gửi hai bài thơ cho một tờ báo, bài ưng ý để tên thật, bài không ưng ý để bút danh khác. Cả hai bài được sử dụng, kèm bài bình ngắn, chê bài ông ưng ý là “chẳng khác một đoạn văn xuôi”, khen bài ông chưa ưng ý là cảm xúc thật về “nỗi buồn của người ở quê lên thành phố cảm thấy nhiều thua thiệt”.

Lần khác, trước giải phóng, ông làm bài thơ Tình quê, kể tình cảm của chàng trai ở quê lên thành phố, mỗi lần về quê là “ngậm ngùi thương nhớ quê hương”. Bài thơ có ba câu cuối:Quê hương tôi/Bốn mùa cây cối xanh tươi/Quanh năm nắng đẹp, ngàn đời nở hoa. Lập tức, có người viết lên báo phê phán: “Khắp trên đất nước này, hỏi còn có nơi nào được sống bình an như một thuở mà Hoài Tường Phong đã vẽ lên như thế”. Những bài thơ và bài báo ấy, ông cắt lại cất giữ làm kỷ niệm cho nỗi nghẹn ngào thương quê hương suốt cuộc đời ông.

hvln

Trùng Dương

Những câu thơ thật đơn sơ, mộc mạc, như hương đồng gió nội của đồng bằng sông Cửu Long, song thấm, chậm nhưng chắc, như chất acid:

Mẹ sinh tôi vào một đêm rằm mưa gió ngày xưa,
Lúc chào đời đã lỡ hẹn cùng vầng trăng viên mãn.
Vùng tản cư hồi nầy ruộng hoang nhà trống,
Rước được bà mụ vườn, ngoại cực trần thân.
Tôi lớn trong quê mùa như cây tạp vườn hoang,
Bảy tuổi biết leo lưng trâu, không từng ngồi xe đạp.
Không biết lời bải buôi để mua lòng người khác,
Nên thua thiệt cả đời vì không thể dối lừa ai.
Ngơ ngác buổi ra thành, trước cuộc sống đua chen,
Mười năm sau chưa gội rửa cho mình thành dân chợ.
Lớp phèn hết bám chân, nhưng chất chân quê vẫn còn đó,
Tôi tranh thủ những tháng hè, thích về lại thăm quê.
Bè bạn theo đuôi trâu một thời, mơ ước nhìn tôi,
Tưởng tôi thoát kiếp ngài, nhởn nhơ hóa bướm.
Tôi nhìn vẻ hồn nhiên của đám bạn xưa thèm quá,
Cộng một chút phù hoa đâu thêm lớn tâm hồn.
Mỗi lần về quê bè bạn cũ lại vắng hơn,
Gái mười bảy đã lấy chồng, trai hai mươi đòi vợ.
Cô bạn xưa nách con ngang nhà mua chịu rượu,
Đôi mắt ướt một thời bẽn lẽn ngó bàn chân.
Xóm bên sông nhiều cô gái rời quê,
Về thăm nhà xênh xang lụa là hàng hiệu.
Vài căn nhà xây, đổi đời nhờ những đồng tiền báo hiếu,
Khởi sắc một vùng quê sao nghe có chút bùi ngùi.
Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi:
Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất,
Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất,
Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa.
Chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn,
Vầng trăng vừa lên đã bị mây mưa vần vũ.
Tôi chợt nhớ lần lỗi hẹn đầu đời, trăng cũ,
Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê.

Bên trên là bài thơ “Trăng Nghẹn” của Hoài Tường Phong đã được Liên Chi Hội Nhà Văn Đồng Bằng Sông Cửu Long chọn trao giải nhất cuộc thi thơ của liên hội vào năm ngoái (2009). Tuy nhiên, theo ông Võ Đăc Danh Miền Tây, trong bài Blog trên Web ngày 3 tháng 3 vừa qua, thì “một sự cố lạ lùng chưa từng có đã xảy ra”.

Ông Danh kể tiếp: “Nhà thơ Phạm Sĩ Sáu, trưởng Ban Giám khảo cho hay, một số cơ quan ‘có thẩm quyền’ ở thành phố Cần Thơ (thực chất là không có thẩm quyền) đã yêu cầu Ban Giám khảo chọn lại bài khác để trao giải Nhất, vì bài nầy u ám quá. ‘Trăng thì phải sáng, thậm chí rất trong sáng chớ không thể nào nghẹn được’. Ban Giám khảo đã quyết định không chấm lại, cuối cùng họ quay sang tác giả. Nhà thơ Hoài Tường Phong cho biết, mấy ngày nay chủ tịch Hội Văn nghệ Cần Thơ yêu cầu ông làm đơn từ chối giải thưởng với lý do ‘tôi không có gởi dự thi’. Ông khẳng định rằng ‘tôi đã gởi dự thi’, sau đó vị chủ tịch Hội Văn nghệ lại yêu cầu ông làm đơn xin từ chối giải thưởng với lý do ‘thơ tôi có nhiều câu chữ không phù hợp với tiêu chí cuộc thi’. Ông Phong nói: ‘Đó là việc thẩm định của Ban Giám khảo’.”

Viết đến đây, ông Danh (như thể giơ cả hai tay lên trời vì tình trạng đã hết thuốc chữa, ngoài sức tưởng tượng) hạ bút: “Xin miễn bình luận về sự kiện nầy”, và ông Danh mời độc giả đọc bài thơ “Trăng nghẹn” mà ông đã post nguyên văn, tại http://dacdanhmientay.multiply.com/journal/item/177/177 3/7/2010. Ông Danh nói thêm là ông kể lại câu chuyện “hậu trường” trên trên cái Blog của ông giùm ông Phong vì nhà thơ không dùng e-mail.

Khi viết tới đây, tôi đã cẩn thận, thêm một lần nữa, vào trang Web của Liên Chi Hội Đồng Bằng Sông Cửu Long: vẫn thấy bài thơ được dán trên đó, tạihttp://www.vannghesongcuulong.org.vn/. Như thể không hề có cái chuyện “hậu trường” nọ. (Biết tính chất ảo, nay có mai biến, của thế giới Web, nên tôi đã lưu giữ một bản PDF của trang Web có bài thơ “Trăng Nghẹn”, cũng như bài Blog của ông Danh, vì biết chúng có thể biến mất khỏi Web bất cứ lúc nào).

Tôi đọc lại bài thơ “Trăng nghẹn” rất chân chất đó, lồng trong cái chuyện hậu trường nọ, và không khỏi liên tưởng tới nhà thơ Phùng Quán qua bài “Lời mẹ dặn”, xuất bản trên Nhân Văn Giai Phẩm ở Hà Nội vào năm 1957, với những câu thơ đã trở thành phương châm cho giới cầm bút, “Tôi muốn làm nhà văn chân thật / Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi / Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã / Bút giấy tôi ai cướp giật đi / Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá.” (Bài thơ cũng đã được Hoàng Thanh Tâm phổ nhạc, có thể nghe ca sĩ Diễm Chi hát, tại http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=5DRpBgapqn)

Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, và chúng ta bước vào thế kỷ 21 đã cả 10 năm nay rồi, đã và đang sống trong thời đại Internet mà chỉ trong tích tắc đã nhận được tin tức với đầy đủ hình ảnh từ bên kia quả địa cầu. Và với kỹ thuật Webcam và những dịch vụ như Skype, chúng ta còn được nhìn thấy nhau nữa, với đầy đủ mặt mũi tay chân và động tác. Vậy mà ở Việt Nam, xứ vẫn tự hào là có tới 4000 năm văn hiến ấy, người ta vẫn áp dụng trò áp chế nhau của thời Nhân Văn Giai Phẩm. Một bạn văn hồi âm e-mail của tôi, đã viết: “Thật không thể tưởng tượng được… Đã qua thế kỷ 21 rồi mà sự độc tài còn ngự trị nặng nề ở VN.”

Hồi ấy, 54 năm về trước, Phùng Quán và các bạn văn của ông đã phải trả giá cho lòng yêu chuộng sự thật bằng cả một đời bị treo bút, vùi dập, tù đầy. Chế độ cộng sản Việt Nam mang nợ rất lớn đối với tổ tiên và dân tộc Việt, không chỉ là món nợ vì đã vùi dập bao thế hệ văn nghệ sĩ bằng chính sách kiểm soát điên cuồng, đòi trăm hoa phải nở ra cùng một thứ cúc vạn thọ mùi rất hắc như ở Miền Bắc, mà còn cái tội thiêu hủy cả một nền văn học 20 năm muôn hồng nghìn tía của Miền Nam qua phong trào đốt sách năm 1975 khi họ chiếm được Miền Nam, và đầy ải những văn nghệ sĩ Miền Nam không may bị kẹt lại, hoặc ngây thơ tình nguyện ở lại vì nghĩ cộng sản thì cũng là người Việt với nhau cả. Đấy là tôi mới chỉ nói về phương diện văn học thôi, chưa nói tới phạm vi xã hội, giáo dục, môi sinh này khác, và đặc biệt là chuyện nhượng đảo, đất cho ngoại bang đang diễn ra.

Viết tới đây tôi không khỏi không nhớ tới một người cầm bút trẻ ở quê nhà, sinh ra sau khi Miền Nam đã tan hàng và lớn lên trong lòng chế độ cộng sản. Cậu ta viết cho tôi là cậu ta chỉ thích đọc văn học Miền Nam thôi. Hỏi tại sao, câu ta viết, vỏn vẹn: “Vì ở đó có sự thật.” Câu nói đã xúc động tôi mạnh mẽ, không chỉ vì tôi đã có cái diễm phúc là một thành viên của nền văn học đã bị bức tử — song vẫn sống đó, như “Lời mẹ dặn” của Phùng Quán vẫn sống trong tất cả chúng ta, những người yêu và tin vào sự thật –, mà còn vì còn có những người như cậu ta.

Việc ban giám khảo của cuộc thi thơ vùng đồng bằng sông Cửu Long từ chối không chịu chấm lại để chọn bài khác và loại bỏ bài thơ “Trăng Nghẹn”; việc tác giả bài thơ không chịu “từ chối giải thưởng” vì “đã không gửi bài thơ đi tranh giải” (chắc chắn không phải vì danh giá gì của giải thưởng, mà vì nếu làm như thế là nói dối, không phù hợp với bản chất của người đồng bằng sông Cửu); và việc trang Web của Liên Hội Nhà Văn Đồng Bằng Sông Cửu Long vẫn tiếp tục trưng bài thơ đó trên Internet khi tôi đang viết những giòng này, tất cả cho thấy dù văn nghệ có vẫn bị chỉ huy, người làm văn nghệ có vẫn bị hoạnh hoẹ bởi những người còn sống trong ảo tưởng, hoàn cảnh và nhân sự của Miền Nam nói riêng, và Việt Nam nói chung, ở đầu thế kỷ 21 đã không còn là thời của hơn nửa thế kỷ trước tại Miền Bắc nữa.

(TD, 03/2010)

Vì sao trăng lại nghẹn?

Bích Huyền

Trăng Nghẹn nói lên một sự thật đáng buồn của một vùng quê miền Đồng Bằng Sông Cửu Long

Đời nghẹn vì nghèo phải lấy chồng ngoại quốc 
Trăng nghẹn vì thương những phụ nữ bơ vơ
Thơ nghẹn vì công an văn hóa bắt trăng phải sáng
Độc giả nghẹn vì bất bình cho số phận nhà thơ

Vì sao lại có những câu thơ như thế của Bắc Phong, Bích Huyền mời quý vị và các bạn theo dõi trong câu chuyện Thơ Nhạc hôm nay…
Bài thơ “Trăng Nghẹn” của Hoàng Tường Phong đã được Liên Chi Hội Nhà Văn Đồng Bằng Sông Cửu Long chọn trao giải nhất cuộc thi thơ của liên hội vừa qua. Thế nhưng một số cơ quan ‘có thẩm quyền’ ở thành phố Cần Thơ đã yêu cầu Ban Giám khảo chọn lại bài khác để trao giải Nhất, vì bài này u ám quá! Ban Giám khảo đã quyết định không chấm lại, cuối cùng họ quay sang tác giả, yêu cầu ông làm đơn từ chối giải thưởng. Nhà thơ Hoàng Tường Phong nói: ‘Đó là việc thẩm định của Ban Giám khảo’.”

Sau đây là bài thơ Trăng Nghẹn với những câu thơ thật đơn sơ, mộc mạc, như hương đồng gió nội của đồng bằng sông Cửu Long, thấm chậm nhưng chắc, Bích Huyền mời quý vị và các bạn cùng nghe…

Mẹ sinh tôi vào một đêm rằm mưa gió ngày xưa,
Lúc chào đời đã lỡ hẹn cùng vầng trăng viên mãn.
Vùng tản cư hồi này ruộng hoang nhà trống,
Rước được bà mụ vườn, ngoại cực trần thân.
Tôi lớn trong quê mùa như cây tạp vườn hoang,
Bảy tuổi biết leo lưng trâu, không từng ngồi xe đạp.
Không biết lời bãi buôi để mua lòng người khác,
Nên thua thiệt cả đời vì không thể dối lừa ai.
Ngơ ngác buổi ra thành, trước cuộc sống đua chen,
Mười năm sau chưa gội rửa cho mình thành dân chợ.
Lớp phèn hết bám chân, nhưng chất chân quê vẫn còn đó,
Tôi tranh thủ những tháng hè, thích về lại thăm quê.
Bè bạn theo đuôi trâu một thời, mơ ước nhìn tôi,
Tưởng tôi thoát kiếp ngài, nhởn nhơ hóa bướm.
Tôi nhìn vẻ hồn nhiên của đám bạn xưa/ thèm quá,
Cộng một chút phù hoa đâu thêm lớn tâm hồn.
Mỗi lần về quê bè bạn cũ lại vắng hơn,
Gái mười bảy đã lấy chồng, trai hai mươi đòi vợ.
Cô bạn xưa nách con ngang nhà mua chịu rượu,
Đôi mắt ướt một thời bẽn lẽn ngó bàn chân.
Xóm bên song nhiều cô gái rời quê,
Về thăm nhà xênh xang lụa là hàng hiệu.
Vài căn nhà xây, đổi đời nhờ những đồng tiền báo hiếu,
Khởi sắc một vùng quê sao nghe có chút bùi ngùi.
Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi:
Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất,
Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất,
Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa
Chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn,
Vầng trăng vừa lên đã bị mây mưa vần vũ.
Tôi chợt nhớ lần lỗi hẹn đầu đời, trăng cũ,
Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê

Lời thơ mộc mạc, ý thơ dào dạt, chân thành. Bài thơ là niềm cảm khái, trăn trở trước cuộc sống hối hả, thực dụng; sự phi lý, bất công hiện nay. Sự hối tiếc, oán trách cũng chỉ nhẹ nhàng, êm như dòng Cửu Long lượn dòng phù sa trôi ngang vùng quê nghèo nàn, lam lũ.

Hoàng Tường Phong, một người tự nhận mình là lính ngụy hiện đang sống trong một làng quê xao xác tiếng người. Mỗi ngày nhà thơ trăn trở với sự thay da đổi thịt của làng quê mình và đến khi trăng về, lại âm thầm nhìn trăng trên ruộng đồng héo hắt với ánh sáng ảm đạm xanh xao mà giờ đây lại bệnh tật thêm khi bị kết án: tại sao trăng lại buồn như vậy?
Tại sao giới chức có thẩm quyền lại không dám nhìn thẳng vào vầng trăng u ám đó, vào chính cái nghèo đói tả tơi của cả vùng đồng bằng đang đẩy con người rời bỏ quê hương? Phải chăng căn bệnh dối trá đã thấm vào máu. Cấp dưới đưa lên trung ương những thành tích giả, báo cáo sai, cấp trên phủ dụ cấp dưới bằng những lời hứa ảo… Còn sự thật: dân ở nhiều xã bị đói lả phải ăn cháo thay cơm, thanh niên vay nợ đi làm đầy tớ nước người, các em gái bị ép buộc làm nô lệ tình dục ở các động bên Kampuchia, phụ nữ rời bỏ quê nhà đi làm vợ, làm điếm khắp các nước, bệnh HIV lan rộng, thì họ vẫn trơ tráo che đậy, không cho ai nói.
54 năm về trước, qua vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, các văn nghệ sĩ đã phải trả giá cho lòng yêu chuộng sự thật bằng cả một đời bị treo bút, vùi dập, tù đầy. Chế độ cộng sản Việt Nam mang nợ rất lớn đối với tổ tiên và dân tộc Việt, không chỉ là món nợ vì đã vùi dập bao thế hệ văn nghệ sĩ bằng chính sách kiểm soát điên cuồng, đòi trăm hoa phải nở ra cùng một thứ cúc vạn thọ mùi rất hắc như ở Miền Bắc, mà còn cái tội thiêu hủy cả một nền văn học 20 năm muôn hồng nghìn tía của Miền Nam qua phong trào đốt sách năm 1975 khi họ chiếm được Miền Nam, và đầy ải những văn nghệ sĩ Miền Nam không may bị kẹt lại, hoặc ngây thơ tình nguyện ở lại vì nghĩ cộng sản thì cũng là người Việt với nhau cả. Đấy là mới chỉ nói về phương diện văn học thôi, chưa nói tới phạm vi xã hội, giáo dục, môi sinh này khác, và đặc biệt là chuyện nhượng đảo, đất cho ngoại bang đang diễn ra.

Phản ứng của Ban Giám khảo cho thấy dù văn nghệ có vẫn bị chỉ huy, người làm văn nghệ có vẫn bị hoạnh hoẹ bởi những người còn sống trong ảo tưởng, thì hoàn cảnh và nhân sự của Miền Nam nói riêng, và Việt Nam nói chung, ở đầu thế kỷ 21 đã không còn là thời của hơn nửa thế kỷ trước tại Miền Bắc nữa.
Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi:

Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất,
Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất,
Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa.
Chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn,
Vầng trăng vừa lên đã bị mây mưa vần vũ.
Tôi chợt nhớ lần lỗi hẹn đầu đời, trăng cũ,
Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê.

Bài thơ như một nốt nhạc trầm buồn bã, lơ lửng trong không gian khiến người nghe khó thể cầm lòng.
Nhà thơ hình như đang kể lại một cách lặng lẽ, kể lại trong tư thế hết sức bình thường, như người ta kể một mảnh đời lưu lạc nào đó đầy dẫy trong xã hội. Giọng kể không có chút ý thức nào muốn gây sự đồng cảm. Chỉ kể, như nhu cầu cần nói về những gì đang xảy ra tại khắp các làng quê đồng bằng sông Cửu hiện nay của ông.
Hình ảnh gây ngậm ngùi nhất trong bài thơ khiến nó trở thành ám ảnh là hai câu: “Cô bạn xưa nách con ngang nhà mua chịu rượu, Đôi mắt ướt một thời/bẽn lẽn ngó bàn chân.” thật xót xa, cay đắng. Kể cả khi nói về một hình ảnh như vậy, ngôn ngữ và tốc độ trong bài thơ không hề thay đổi. Vẫn đằm đằm, đều đặn như chuyến xe ngựa thồ trên đường quê khúc khuỷu. Bản thân chuyến xe, bản thân câu chuyện không cho thấy niềm đau nào. Mà chính hành khách, những người đang nghe câu chuyện lại lặng lẽ đau niềm đau nghèo khổ.
Nhà thơ đi qua từng nhịp thở cuộc sống, rồi ngồi xuống nhặt nhạnh mỗi một hình ảnh, ghép lại trên trang giấy với thái độ hết sức dửng dưng của một người yên phận. Không yên phận cũng không được/ khi cuộc sống chung quanh trở thành khốc liệt đến nỗi:

Xóm bên sông nhiều cô gái rời quê,
Về thăm nhà xênh xang lụa là hàng hiệu.
Vài căn nhà xây, đổi đời nhờ những đồng tiền báo hiếu,
Khởi sắc một vùng quê sao nghe có chút bùi ngùi.

Thúy Kiều và số phận của những cô gái đồng hương với nhà thơ có gì khác nhau không khi cả hai đều bán mình, một bên để chuộc cha còn một bên thì chuộc cho một vùng quê nghèo, và cho cả một chính sách mà người ta gọi là khởi sắc.
Có lẽ đây chính là nguyên nhân khiến bài thơ bị soi rọi một cách tỉ mỉ. Trăng Nghẹn nói lên một sự thật đáng buồn của một vùng quê; và cũng chính là của đất nước Việt Nam hôm nay. LS Lê Thị Công Nhân đã nói “Cộng Sản sợ nhất là sự thật.”
Vầng Trăng Nghẹn không chỉ ở Cần Thơ, mà đang ở trên vòm trời của đất nước Việt Nam.

Trong ý tưởng ấy cùng với giọng hát Phan Văn Hưng trong ca khúc Kiểm Tra, Phan Văn Hưng phổ thơ Hà Sĩ Phu, Bích Huyền xin lưu luyến chia tay.
* Bích Huyền xin cảm ơn nhiều tác giả đã có bài trên Net để biên soạn chương trình này theo lời yêu cầu của thính giả.

Bích Huyền

hvln

NHÂN CUỘC THI THƠ ĐBSCL LẦN V  2012 SẮP KẾT THÚC, ĐỌC LẠI BÀI THƠ “TRĂNG NGHẸN’ BỊ TƯỚC GIẢI NHẤT VÀO LẦN IV NĂM 2010

Trần Minh Tạo

    …không ai chối bỏ “ Trăng thì phải sáng”. Nhưng cái gì đang “phải” như thế này, thế nọ, bao giờ cũng thuộc về phạm trù niềm tin, phạm trù khao khát hướng về phía thì tương lai, có khi là một thứ tương lai hun hút dài vô tận nơi trước mắt. Mà khát khao là gì, niềm tin chỉ có hay chỉ có thể có  nơi thì tương lai là gì nếu nó không phải là cái đang còn khiếm khuyết nơi hiện tại. Là một nét buồn, một vùng buồn nhưng lại đẹp nơi thì hiện tại vốn luôn là một trong những hình thức chức năng, một trong những hình thức sức mạnh của nghệ thuật, theo kiểu “tráng âm bổ dương” nơi Đông y nhằm lay động, đánh thức  lòng người, đánh thức sự quan tâm chú ý của nhiều người, khiến phải  cùng nhau  ý thức mạnh mẽ hơn về việc phải làm sao, phải làm như thế nào đó cho vầng trăng  tương lai nơi làng quê của mình được “viên mãn”, tức không còn bị “ nghẹn” nữa nơi hiện thực, lẫn nơi lòng những ai từng yêu thương và quan tâm chú mục đến nó.”

       Năm 2010, cuộc thi thơ ĐBSCL lần IV do Liên hiệp các Hội VHNT Cần Thơ đăng cai từ sự liên kết ủy nhiệm của 13 Hội VHNT khu vực kết thúc . Lại kết thúc trong sự bùng nổ xáo động xôn xao ngơ ngác chưa từng có, lan tràn ra tới  quốc ngoại về nhiều chuyện, trong  đó nổi bật  chuyện bài thơ Trăng Nghẹn của Hoài Tường Phong (HTP) đoạt được giải nhất từ điểm chấm của Ban Chung khảo nhưng liền bị Trưởng Ban Tổ chức tước bỏ kết quả sau nhiều lần động viên không thành công tác giả  sửa lại ít chữ, tiếp theo là làm đơn rút tên khỏi cuộc thi, làm  đơn trả lại giải thưởng…vì xuất hiện người có trách nhiệm từ đâu đó bên ngoài Ban Tổ chức cho rằng “Trăng thì phải sáng, thậm chí rất trong sáng chớ không thể nào nghẹn được”.

      Quả là chuyện“ Tái ông thất mã”. Sau sự kiện này, tuy HTP cùng bài thơ bị loại  ra khỏi bục lãnh giải thưởng cao nhất nơi cuộc thi nhưng lại được nhiều người gần xa biết tiếng, biết tới bài thơ, thậm chí thuộc lòng bài thơ, cùng lúc cả hai được đứng hẳn nơi bục tình cảm thân thương quý mến trong lòng họ. Nếu  không “nhờ” vào  sự “xui xẻo” này, Hoài Tường Phong  sẽ “ẳm”được tiền thưởng kép, vừa từ Ban tổ chức, vừa từ sự tài trợ của  Hội Nhà văn Việt Nam nhưng lại không bao giờ có thể trở thành“người của công chúng”, người của văn học sử cấp ĐBSCL được phát hiện thông qua một cuộc thi thơ. Ngẫm ra, đứng về mặt“phải có danh gì với núi sông” mà nói, HTP  đã đạt được “siêu lợi nhuận”. Mai này,  khi thân xác không còn nữa trên thế gian, tên tuổi của HTP cùng bản thân bài thơ Trăng Nghẹn của ông vẫn  mãi được truyền lưu, nhắc nhớ, không phải để ghét khinh, mà để đồng cảm, chia sẻ, thương yêu, rằng ngày xưa, vào năm đó, tháng đó, có một người làm ra bài Trăng Nghẹn dự thi thơ  đoạt được giải nhất, bất ngờ bị đánh vuột ra khỏi tầm tay vì những bất cập nơi ý hướng tiếp nhận, dẫn kèm theo đó là điểm quy chiếu khi tiếp nhận, hoàn toàn không thuộc, không đứng từ phía góc độ của  văn chương. Nói cách khác, do quen đọc thơ từ tâm thế nhiệm vụ “phát giác” ra “lỗi chính tả” nơi bề mặt văn bản bằng bao thao tác đối sánh,  so đo, xem xét, phán đoán   liên tục  căn cứ vào về những quy củ, lề luật,  tiêu chí, niềm tin  đã được mặc khải sẳn nơi “quyển kinh điển từ vựng” luôn luôn rực sáng duy nhất bên trong trí não  người đọc, nhưng lại đang  nằm bên ngoài  lãnh vực  thẩm mỹ và xúc cảm văn học nơi chính người đọc đó, nên nội dung thông điệp của bài thơ rất dễ bị áp đặt theo những quy kết chủ quan duy lý, mang đầy chất phi tiếp nhận lẫn phi xúc cảm văn học, thường gây cho tác giả bài thơ những điều đáng tiếc .

Mẹ sinh tôi vào một đêm rằm mưa gió ngày xưa,

Lúc chào đời đã lỡ hẹn cùng vầng trăng viên mãn.

Vùng tản cư hồi nầy ruộng hoang nhà trống,

Rước được bà mụ vườn, ngoại cực trần thân.

      Có thể nói rằng, “đêm rằm” nào thì Trăng cũng sáng. Rất phù hợp với  câu thuyết lý lẫn phán quyết nói trên: “Trăng thì phải sáng, thậm chí rất trong sáng…”. Rõ ràng, điều này đã và đang là một chân lý hiển nhiên. Vì sự thật bao đời nay là vậy. Trên phương diện khát khao, lý tưởng đời đời nơi từng nhân sinh một, cũng luôn luôn là vậy, dù đang hiện hữu giữa trần gian hay chỉ đang nằm trong giai đoạn tượng hình nơi bụng mẹ, chưa được sinh ra.

      Nhưng khi chẳng may “trăng rằm” vào đêm “mưa gió” thì sao?  Về mặt lịch học tự nhiên, vầng  trăng kia cũng vẫn là trăng rằm. Không ai có thể gọi đó không phải là trăng rằm , nhất là bảo nó không hề đang sở hữu một lượng  ánh  sáng trong xanh vằng vặt bất tận dễ say đắm lòng người kèm theo. Song, từ đây, khi nâng lên thành vầng trăng nội tâm, vầng trăng khát khao, vầng trăng ẩn dụ nghệ thuật nơi chủ thể sáng tạo thẩm mỹ thì lại khác. Nó không còn là vầng trăng được dệt bằng thứ ngôn từ tả thực đời thường nữa. Cả khái niệm “đêm mưa”  cũng không còn được dệt bằng thứ ngôn từ tả thực đời thường nữa. Nên chúng đã cộng hưởng thành một thứ nghĩa siêu văn bản, “ý tại ngôn ngoại”. Tạo thành sự “lỡ hẹn” của vầng trăng luôn khát khao trạng thái “viên mãn” nơi chính nó. Hay có thể nói chính khát vọng “viên mãn” nơi vầng trăng, cũng là  nơi mọi thực thể nhân sinh, trong đó có chủ thể tự sự trữ tình trong bài thơ  đã gặp sự “lỡ hẹn” vào ngày tác giả vừa được chào đời từ lòng mẹ. Mẹ ở đây vừa là người mẹ cụ thể, có đặc điểm nhân thân riêng, từng đi ra từ ông bà ngoại của chủ thể tự sự trữ tình trong bài thơ, có thể phân  biệt rõ ràng với những người mẹ khác vây quanh. Vừa lại là một người mẹ khái quát cụ tượng, đi ra từ sự ẩn dụ nghệ thuật dựa trên sự tương đồng về đặc tính khi so vào  vùng đất từng sinh nở, dưỡng nuôi chủ thể tự sự trữ tình trong bài thơ. Một bà mẹ quê hương mang tên ĐBSCL có đôi dòng sông Tiền sông Hậu chảy qua cùng một phần biển Đông bao bọc ấp ôm với mênh mông tôm cá và muối mặn. Một bà mẹ từng nghèo, khổ tận cùng vì chiến tranh. Dù là cuộc chiến  chống ngoại xâm đi nữa, nơi cụm khái niệm chính nghĩa này cũng luôn oằn ghánh trên lưng, lẫn trên đôi vai tình cảm và suy tư của  nhân dân các giới cả sức nặng một cuộc vũ trang xâm lược đầy tàn bạo, bất nhân, vô lý  do kẻ thù mang tới. Nên những hình ảnh “ruộng hoang nhà trống”  nơi “vùng tản cư” rất dễ cảm động, rất dễ gây nên tình cảm mủi lòng yêu thương . Cảm động và mủi lòng yêu thương vì khí phách anh hùng của vô số người làng quê vào bấy giờ: Họ đã bỏ cuốc bỏ cày đi theo tiếng gọi chiến đấu bảo vệ quê hương. Do đây là “ vùng tản cư”, là vùng còn lại chút quyền  tự do, độc lập về kinh tế, chính trị và văn hóa của người dân Việt trước mũi súng xâm lược của kẻ thù đang vây quanh, chứ đâu phải là làng xóm quê hương đương thời khi kẻ thù đã bị đánh bại, đã bị buộc rút quân về nước !

 Tôi lớn trong quê mùa như cây tạp vườn hoang,

Bảy tuổi biết leo lưng trâu, không từng ngồi xe đạp.

Không biết lời bải buôi để mua lòng người khác,

Nên thua thiệt cả đời vì không thể dối lừa ai.

Ngơ ngác buổi ra thành, trước cuộc sống đua chen,

Mười năm sau chưa gội rửa cho mình thành dân chợ.

Lớp phèn hết bám chân, nhưng chất chân quê còn đó,

Tôi tranh thủ những tháng hè, thích về lại thăm quê.

     Đành rằng, giữa thời binh đao khói lửa ngày nào, khi tới tuổi trưởng thành đôi chút, chủ thể tự sự trữ tình nơi bài thơ, vì lý do học hành không còn ở lại làng quê trong lúc  vẫn đang tiếp diễn bao người lên đường vào ngày xa xưa ấy chưa về lại cùng ruộng vườn đã trở nên  xơ xác, hoang vu vốn từng là của chính họ. Nghĩa là phải “ra thành”. Mà thành thị lúc ngoại bang đang tiến hành xâm lăng, chiếm đóng và hủy diệt, vào thời nào cũng thế, bao giờ cũng đồng nghĩa với vùng địch tạm chiếm, bao giờ cũng là nơi quy tụ xung quanh rất nhiều  kẻ tay sai hèn mọn, luôn cúi đầu lòn nịnh ton hót xấu xa, tranh ăn tức ở, dối dưới lừa trên, sẳn sàng kèn cựa, triệt hại những người xung quanh  vì lợi ích bản thân thuần túy,  hoàn toàn vô liêm sĩ, mất dần từng phần nhân cách. Là nơi mà truyền thống văn hóa chân thật, đùm bọc, gắn bó thủy chung bền bỉ  của người làng quê ngày nào bị biến dị dưới tác động từ nhiều luồng văn hóa lai căng, độc hại, mang tính đào tạo ra những kẻ quên cội quên nguồn, trong đó có việc quên cả vầng trăng khát khao viên mãn chân chính, tự nhiên  luôn rực rỡ lộng lẫy nơi lòng mọi người vào thưở ban sơ  rời  lòng mẹ. Cho nên, sự “ngơ ngác”, sự “thua thiệt cả đời vì không thể dối lừa ai” được chủ thể tự sự trữ tình viết ra nơi bài thơ không phải là sự  bôi bẩn, sự vu khống “người mình”, văn hóa mình. Mà chính là sự tố cáo, sự trách buồn, sự bất lực, sự não nề chua chát, sự  phản kháng của vầng trăng rằm nơi lòng HTP trước những “mưa gió” hiện thực  đang phủ trùm, đang nhuộm úa  lên số phận, lên cuộc sống văn hóa tinh thần của đồng bào ông nơi vùng thành thị đang bị địch tạm chiếm. Bằng chứng là, chủ thể tự sự trữ tình  nơi bài thơ lâu lâu vẫn “tranh thủ những tháng hè, thích về lại thăm quê”. Vì vẫn tin rằng, vẫn cảm nhận ra rằng,  khu vực thành thị đang bị địch tạm chiếm, dù có văn minh, hiện đại về phương diện tri thức, phương diện vật chất đến đâu, vẫn không phải là nơi có thể neo sáng được vầng trăng viên mãn nơi tâm thức  của con người, nhất là một con người từng “bị”   sinh ra “vào một đêm rằm mưa gió ngày xưa/ Lúc chào đời đã lỡ hẹn cùng vầng trăng viên mãn”,  không những cho thân phận riêng,  mà còn cho cả làng quê thôn xóm của mình dạo còn “ vườn hoang nhà trống” nơi vùng tản cư, nằm sau lưng vùng chiến sự đang ở phía bên ngoài.

  Mỗi lần về quê bè bạn cũ lại vắng hơn,

Gái mười bảy đã lấy chồng, trai hai mươi đòi vợ.

Cô bạn xưa nách con ngang nhà mua chịu rượu,

Đôi mắt ướt một thời bẻn lẻn ngó bàn chân.

Xóm bên sông nhiều cô gái rời quê,

Về thăm nhà xênh xang lụa là hàng hiệu.

Vài căn nhà xây, đổi đời nhờ những đồng tiền báo hiếu,

Khởi sắc một vùng quê sao nghe có chút bùi ngùi.

Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi:

Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất,

Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất,

Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa.

     Rồi cuối cùng, kẻ thù cũng bị đánh tan. Bao người rời khỏi ruộng vườn ngày nào cũng lại trở về, tiếp tục làm cái chuyện muôn đời cho một kiếp người, đó  là sinh con, sinh của, sinh kèm theo những giá trị văn hóa nhằm duy trì, nâng cao mãi trình độ nhân vị của nhau giữa cõi trần gian trên trời dưới đất, vây quanh là đồng loại tha nhân. Cùng lúc đó, nhiều người rời  khỏi làng quê ngày nào  không sao còn về được nữa, trong đó có HTP,  chủ thể tự sự trữ tình trong  bài thơ.

     Nhưng xưa nay, cũng như mãi mãi về sau, chữ “quê” luôn là một giá trị thiêng liêng, vì chính nó đi ra từ chữ “quy”, là chốn mà ai cũng phải nhớ về, cũng phải quay về, không bằng hành vi hiện thực  thì cũng nơi tình cảm; không nằm nơi tầng ý thức sáng rõ, minh bạch, thì cũng chìm mông lung trong cõi  tiềm thức hay lâu lâu xốn xang thầm lặng một niềm hoài vọng mơ hồ khó xác định trong cõi vô thức của con người.

     Và, với HTP, ông cũng không thoát khỏi đạo lý tâm linh này. Nên lại lâu lâu trở về  những nơi mà ông từng rời bỏ trong hiện thực lẫn trong tâm thức vì nhiều  lý do thường gặp trong cuộc sống đời thường. Nhưng trong mắt ông, giờ đây, “mỗi lần về quê bè bạn cũ lại vắng hơn”. Tức vẫn diễn lại cảnh “ vườn hoang nhà trống” trong thời bình, nhưng lần này không phải  lên đường ra  đi “theo tiếng kêu sơn hà nguy biến”. Mà là theo tiếng kêu“nguy biến” về thu nhập hiện thực nơi làng quê, mà báo chí chính thống của nhà nước hiện nay từng cho rằng đang thấp hơn khu vực thành thị đến gần 10 lần. Mà thu nhập kinh tế thấp, đời sống nơi phần thượng tầng kiến trúc nơi làng quê cũng phải thấp theo, đôi khi đang nhập làm  một. Đến độ “Gái mười bảy đã lấy chồng, trai hai mươi đòi vợ”. Ngẫm ra,  vẫn không có gì sai trái về mặt đạo đức, luân lý lẫn pháp luật hiện hành trong cái sự lấy vợ lấy chồng sớm này; đôi khi còn là sự lành lặn, quân bình  về lĩnh vực nhân số học  khi chiến tranh không còn nữa. Tuy nhiên, đứng ở khía cạnh tiến tới sự viên mãn nơi vầng trăng khao khát nằm bên trong mọi người mà nhìn,  đó lại là dấu chỉ vẫn còn lạc hậu, thua kém  về nhiều mặt, trong đó có mặt phát triển trí dục nơi vùng làng quê, vì ở lứa tuổi ấy, giới trẻ vùng thành thị trong nước và nước ngoài vẫn đang còn ngồi học chữ hay học nghề nơi các trường Trung học  và Đại học. Nên hình ảnh “Cô bạn xưa nách con ngang nhà mua chịu rượu/ Đôi mắt ướt một thời bẻn lẻn ngó bàn chân” trong đoạn thơ tự sự trữ tình này của HTP bất ngờ trở nên lóng lánh ấn tượng,  thâm sâu, đa nghĩa  về mặt thông điệp, về mặt diễn đạt nghệ thuật trước một hiện thực từng in dấu vào tâm khảm của ông, từng gây nên trong ông  bao nỗi thương yêu chen lẫn nhiều  chua chát nơi lòng.

       Đành rằng ĐBSCL nói chung, trong khung khổ một làng quê nào đó nơi khu vực ĐBSCL nói riêng, sau gần 40 năm không còn bóng quân xâm lược, dù phải tiếp tục trải liền theo thêm hơn 14 năm tiến hành chiến tranh bảo vệ biên giới ở tuyến Tây Nam và phía Bắc, trong đó có 10 năm làm nghĩa vụ quốc tế bên nước Kampuchia, vẫn đã và đang có nhiều mặt phát triển, thăng tiến, biểu hiện tập trung ở chỗ nhiều nhà tường lộng lẫy mọc lên san sát, tươm tất, rực rỡ hơn rất nhiều khi so lại thời bom đạn đã qua.

       Tuy nhiên, góp phần vào sự khởi sắc hiện có,  đâu chỉ thuần túy nhờ vào “Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất”. Mà còn nhờ vào một phần khá lớn, dẫn đầu cả nước,  từ những cô gái lấy chồng xa, chuyên cung ứng dịch vụ làm vợ  nơi xứ người, nằm xa lắc xa lơ bên ngoài lãnh thổ  vùng ĐBSCL nói riêng,  quốc gia Việt Nam nói chung. Nên khi hay biết điều này, nhờ đến tận nơi quan sát, kết hợp báo đài thỉnh thoảng lại đưa tin, HTP không sao không đau lòng, không sao không “ngậm ngùi” trước sự “khởi sắc” của một vùng quê cụ thể đang có cái  tên như thế nào đó, tọa lạc tại một không gian nào đó  trong hiện thực từng in dấu xúc cảm trong ông , vừa có thể là một vùng quê chỉ nằm trong tâm não, trong  nỗi đau đời riêng nơi  ông, vì nó vẫn có thể “ không rơi vào đâu nhưng ở đâu cũng có”điều này, chỗ đậm, chỗ nhạt   trong khắp phạm vi vùng ĐBSCL. Rồi thì HTP không thể không tự hỏi  Vì sao? như bao người từng hỏi, trừ những kẻ vô tâm, không bao giờ biết quan tâm tới niềm vui nỗi buồn của tha nhân đồng bào lẫn đồng loại vây quanh. Và câu trả lời cũng không khó tìm ra, đó là do “ đầu tư văn hóa thấp nhất” cho một vùng đất đang có “Sản lượng lúa nhiều”, cũng là“vùng cá ba sa lớn nhất” nhưng  trớ trêu lại chính là vùng đang “ khó nghèo nhất”.

 Chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn,

Vầng trăng vừa lên đã bị mây mưa vần vũ.

Tôi chợt nhớ lần lỗi hẹn đầu đời, trăng cũ,

Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê. 

         Có người bảo HTP, vô tình hay cố ý “nói xấu”, gián tiếp điềm chỉ xa gần điều chi đó còn chưa tốt đang tồn tại  khuất tất nơi quê hương mình khi viết ra những dòng thơ trên. Những“ngậm ngùi”, những “chập tối buồn”, những “vầng trăng nghẹn hoài” một sự “tỏa sáng” đầy “viên mãn”  từng được ấp yêu   từ thưở còn nhiều “ruộng hoang nhà trống” nơi vùng “tản cư” chỉ là  sự bôi đen,  sự phủ định hiện thực đang có.  Ngay khi HTP “than” rằng, sống giữa vùng địch tạm chiếm ngày xưa, không quen thứ văn hóa “bãi buôi”, thứ văn hóa “đãi bôi” đầy dối trá từng phát sinh mạnh mẽ giữa một môi trường xã hội đang loạn ly, tan vỡ  các giá trị nhân sinh chân chính cội nguồn cũng bị cho là “bôi bác” mối quan hệ giữa các con người mới giữa xã hội Việt Nam hiện tiền…  Vân vân và vân vân.  Chỉ vì xuất phát từ một lập luận đơn giản: “Trăng thì phải sáng, thậm chí rất trong sáng chớ không thể nào nghẹn được”. 

        Xin thưa, không ai chối bỏ “ Trăng thì phải sáng”. Nhưng cái gì đang  “phải” như thế này, thế nọ, bao giờ cũng thuộc về phạm trù niềm tin, phạm trù khao khát hướng về phía thì tương lai, có khi là một thứ tương lai hun hút dài vô tận nơi trước mắt. Mà khát khao là gì, niềm tin chỉ có hay chỉ có thể có  nơi thì tương lai là gì nếu nó không phải là cái đang còn khiếm khuyết nơi hiện tại. Là một nét buồn, một vùng buồn nhưng lại đẹp nơi thì hiện tại,  vốn luôn là một trong những hình thức chức năng, một trong những hình thức sức mạnh của nghệ thuật, theo kiểu“tráng âm bổ dương” nơi Đông y nhằm lay động, đánh thức  lòng người, đánh thức sự quan tâm chú ý của nhiều người, khiến phải  cùng nhau  ý thức mạnh mẽ hơn về việc phải làm sao, phải làm như thế nào đó cho vầng trăng  tương lai nơi làng quê của mình được “viên mãn”, tức không còn bị “ nghẹn” nữa nơi hiện thực, lẫn nơi lòng những ai từng yêu thương và quan tâm chú mục đến nó.

      Nghe nói, trong cuộc thi thơ ĐBSCL lần V năm 2012  đang vào hồi kết thúc, HTP đã không tham gia dù đang có bài thơ mới sáng tác viết về quê hương ĐBSCL của ông. Vì ông tự thấy vầng trăng hiện thực, lẫn vầng trăng nơi lòng mình  không những đang “nghẹn” mà còn  đầy “gió mưa phủ phàng ” hơn bài thơ năm xưa trước tình trạng nhiều doanh nghiệp khác nhau bị phá sản, gặp khó khăn hàng loạt trong sản xuất và bán mua,  lạm phát đồng tiền đang ngày càng tăng cao, kéo theo mức thu nhập thực tế nơi cuộc sống của riêng ông lẫn nhiều người thành thị quanh ông đang hồi “ siêu nghẹn”, nói gì tới các góc quê nằm nơi chốn sâu và xa khác có thể  đang  vằng vặt sáng trong  hơn ! Nghĩa là, từ sự kiện vừa qua, HTP đã “bị” mắc vào căn bệnh tự biên tập, sau đó là tự giác loại mình ra khỏi cuộc chơi văn chương trong khu vực, vì không thể làm ra được những bài thơ “ sáng trong sáng đẹp” về một vầng trăng hiện thực lẫn trong khát khao vẫn đang bị áp thấp nhiệt đới của lạm phát, của suy thoái kinh tế  hoành hành gió mưa tơi tả nơi cuộc sống của ông lẫn nơi lòng ông: Từ một nha sỹ chuyên nghề làm “răng giả” nhưng nơi thơ thì rất thiệt, ông hiện đang phụ bán hủ tiếu “ bưng chạy sô”  hằng ngày cho vợ ở lứa tuổi đã quá 60.

     Sực nhớ lại khổ thơ cuối  trong bài “Trăng nghẹn” ngày nào của ông mà bâng khuân ray rứt:

Chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn,

Vầng trăng vừa lên đã bị mây mưa vần vũ.

Tôi chợt nhớ lần lỗi hẹn đầu đời, trăng cũ,

Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê. 

                                ĐBSCL ngày 3/10/2012

                                Trần Minh Tạo – Sa Đéc,  Đồng Tháp

hvln

Mắc nghẹn vì “Trăng nghẹn”

THỨ BA, 09 THÁNG 3 2010 16:30

Được giải thưởng ở các cuộc thi thơ, văn trong nước có vui không? Có lẽ với một số người là niềm vinh hạnh. Nhưng tôi tin có người xem đó là tai họa.

Nhà thơ Hoài Tường Phong là một “điển hình” rất mới.

Bài thơ “Trăng nghẹn” của Hoài Tường Phong vừa mới được công bố: đoạt giải Nhất cuộc thi thơ đồng bằng sông Cửu Long do các Hội Văn học Nghệ thuật trong khu vực này liên kết tổ chức, tỉnh Cần Thơ đăng cai, nhà thơ chưa nhận được giải thưởng thì tai họa thình lình giáng xuống. Có “Bàn tay lông lá” của một số cơ quan nào đó tự cho là “có thẩm quyền” thò vào giải thưởng, yêu cầu (hay ra lệnh) ban giám khảo “chọn lại bài khác để trao giải Nhất vì bài thơ Trăng Nghẹn u ám quá! Lý do: “Trăng thì phải sáng, thậm chí rất trong sáng, chớ không thể nào nghẹn được!?”

Có lẽ quí ông ở mấy cơ quan “có thẩm quyền” chưa bao giờ mắc nghẹn khi ăn khi uống, nên tâm hồn trong sáng vằng vặc của họ không bao giờ hiểu nổi thế nào là trăng nghẹn.

Ban giám khảo (trưởng ban là nhà thơ Phạm Sỹ Sáu) quyết định giữ vững lập trường, không chấm lại giải. Tức thì “Bàn tay lông lá” bèn quay hướng thò sang tác giả, yêu cầu (hay ép buộc) nhà thơ phải tự làm đơn từ chối giải thưởng với lý do “tôi không có gửi thơ tham dự cuộc thi”. Hoài Tường Phong giữ vững lập trường, khẳng định: “Tôi đã gởi dự thi.” Sau đó chủ tịch Hội Văn nghệ Cần Thơ lại yêu cầu ông làm đơn xin từ chối giải thưởng với lý do: “Thơ tôi có nhiều câu chữ không phù hợp với tiêu chí cuộc thi.”

Khác nào ức hiếp nhà thơ phải tự trảm bài thơ mình. Hoài Tường Phong vẫn đứng vững: “Đó là việc thẩm định của Ban giám khảo.”

Chiều ngày 3.3.2010, bất chấp sự phản đối của giới văn học trong nước, ban thường vụ Liên hiệp Hội văn học nghệ thuật thành phố Cần Thơ đã họp và chính thức quyết định loại bỏ giải nhất của bài thơ “Trăng nghẹn” của Hoài Tường Phong.

Cần chú ý đây là giải thưởng của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, vậy mà một Hội văn nghệ địa phương đã lộng quyền áp chế cả khu vực.

Thật đáng ghê sợ cho sức mạnh và ghê tởm cho sự thô bỉ của “Bàn tay lông lá”!

Có thể nhà thơ Hoài Tường Phong đang buồn, có thể ban giám khảo cuộc thi đang thất vọng, riêng tôi đang mừng! Vì “Trăng nghẹn” đã làm giới chức có thẩm quyền “mắc nghẹn”, dám cả tuần nay họ còn mất ăn mất ngủ nữa là khác (sợ mất ghế mà). Họ mắc nghẹn vì sao, vì “Trăng nghẹn” đã phơi bày ra sự thật quá đỗi đau đớn, quá sức xót xa của một vùng quê từng vang bóng là vựa lúa của cả nước, hãy đọc hai đoạn thơ của “Trăng nghẹn”:

Xóm bên sông nhiều cô gái rời quê,
Về thăm nhà xênh xang lụa là hàng hiệu.
Vài căn nhà xây, đổi đời nhờ những đồng tiền báo hiếu,
Khởi sắc một vùng quê sao nghe có chút bùi ngùi.

Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi:
Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất,
Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất,
Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa.

Tại sao giới chức có thẩm quyền lại không dám nhìn thẳng vào vầng trăng u ám đó, vào chính cái nghèo đói tả tơi của cả vùng đồng bằng đang đẩy con người rời bỏ quê hương?

Phải chăng căn bệnh dối trá đã thấm vào máu, cấp dưới đưa lên trung ương những thành tích giả, báo cáo láo, cấp trên phủ dụ cấp dưới bằng những lời hứa ảo, mọi người xoa tay hỉ hả với con số tỉ lệ tăng trưởng thần tốc, với giấc mơ phù phiếm biến đất nước thành con rồng nhỏ ở Đông Nam Á!

Còn sự thật: dân ở nhiều xã bị đói rã họng phải ăn cháo thay cơm, thanh niên vay nợ đi làm đầy tớ nước người, các em gái bị ép buộc làm nô lệ tình dục ở các động bên Kampuchia, phụ nữ rời bỏ quê nhà đi làm vợ, làm điếm khắp các nước, bệnh HIV lan rộng, thì họ vẫn trơ tráo che đậy, không cho ai nói lên sự thật. Mà che đậy làm gì, thế giới chẳng lạ lùng gì, còn làm bộ làm tịch, nhảm!

Sự cố bài thơ “Trăng nghẹn” của Hoài Tường Phong năm nay sao giống chuyện xảy ra năm 2006 với “Cánh đồng bất tận” của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Không lẽ bánh xe lịch sử quay đi quay lại hoài vẫn y chang như vậy.

Năm đó ban Tuyên giáo tỉnh ủy Cà Mau cũng bị mắc nghẹn vì cái truyện vừa “Cánh đồng bất tận”, đã đề nghị “kiểm điểm, phê phán một cách nghiêm khắc” với Nguyễn ngọc Tư. Ông Dương Việt Thắng, Trưởng Ban Tuyên giáo nhấn mạnh nhiệm vụ của Hội văn học nghệ thuật tỉnh Cà Mau là phải: “Thường xuyên  định hướng cho người viết, tạo điều kiện cho hội viên (có Nguyễn ngọc Tư) học tập lý luận chính trị, trau dồi đạo đức, nâng cao ý thức trách nhiệm của người cầm bút, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.” (theo báo Tuổi Trẻ)

Rất may, Nguyễn ngọc Tư đã viết “Cánh đồng bất tận” trước khi bị định hướng, nên nhà văn đã rút hết ruột gan mà tả cảnh làng quê miền nam ngày nay, không có “trăng sáng soi liếp dừa” mà là “đĩ dập dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của thợ gặt” khi đến mùa gặt lúa.

“Cánh đồng bất tận” đã được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam dù bị sức ép rất mạnh từ các Bàn tay lông lá.

Cả hai, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư và nhà thơ Hoài Tường Phong đã phải lãnh đủ vì dám viết lên sự thật. Dù sao tôi vẫn khoái chí, và hy vọng Hoài Tường Phong sẽ đổi buồn thay vui vì “Trăng Nghẹn” bây giờ đã tỏa sáng khắp nước, lan ra nước ngoài. Biết đâu, nó sẽ cùng chung số mệnh với “Cánh đồng bất tận”, được giới văn học khu vực Đông nam Á chú ý, được biên soạn thành kịch, thành phim!?

Vậy, hãy cám ơn Bàn tay lông lá!

© 2010 Khánh Minh

hvln

Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần bài thơ đã được ban giám khảo chấm giải nhất cuộc thi thơ đồng bằng sông Cửu Long do các Hội Văn Học Nghệ Thuật trong khu vực này liên kết tổ chức và tỉnh Cần Thơ đăng cai. Thú thật là tôi không thấy có điều gì, cái gì để cho ” một số cơ quan có thẩm quyền ” của tỉnh Cần Thơ yêu cầu Ban Giám Khảo chọn một bài thơ khác để chấm giải nhất với lý do mà họ nêu ra là bài thơ này u ám quá. ” Trăng thì phải sáng, thậm chí rất trong sáng chứ không thể nghẹn được…”

Khi ban giám khảo giữ vững quyết định không chấm lại bài khác thì các cơ quan có thẩm quyền mà đại diện là chủ tịch hội Văn Nghệ Cần Thơ đã yêu cầu tác giả làm đơn từ chối giải thưởng với lý do ” tôi không có gởi bài dự thi ”. Bị tác giả từ chối bằng lời khẳng định ” Tôi có gởi bài dự thi ”; vị chủ tịch hội Văn Nghệ Cần Thơ lại yêu cầu tác giả làm đơn xin từ chối giải thưởng nại lý do ” Thơ của tôi có nhiều câu chữ không phù hợp với tiêu chí cuộc thi ”. Nhà thơ Hoài Tường Phong đã trả lời ” Đó là việc thẩm định của Ban Giám Khảo ”.  Để rồi cuối cùng bất chấp công luận ban tổ chức đã không trao chịu trao giải nhất cho bài thơ Trăng Nghẹn của nhà thơ Hoài Tường Phong.

Sở dĩ tôi mô tả lại từng chi tiết của mọi diễn biến vì nhận thấy sự việc có nhiều điều mờ ám bên trong tạo ra bởi ” các cơ quan hay giới chức có thẩm quyền ” hoặc nói nôm na theo tiếng bình dân của người miền quê là có bàn tay lông lá của những kẻ có chức, có tiền và có quyền nào đó nhúng vào.

Trước hết tôi xin nêu rõ ra đây những sự kiện mờ ám bên trong.

1- Ban giám khảo là những người chấm bài. Họ chịu trách nhiệm việc làm của họ. Khi họ đã chấm giải rồi thì ban tổ chức không có lý do gì lại yêu cầu họ chọn một bài thơ khác. Làm như thế là trái nguyên tắc đồng thời là một sự xúc phạm tới quyền hạn và danh dự của ban giám khảo. Nếu không đồng ý với quyết định của ban giám khảo, ban tổ chức có quyền không trao giải nhất bài thơ Trăng Nghẹn cho tác giả. Tuy nhiên để công minh họ phải giải thích lý do cho công chúng biết. Đây chính là chỗ Nghẹn của bài thơ Trăng Nghẹn. Nó đã làm nghẹn cổ ban tổ chức hay giới chức có thẩm quyền ở Cần Thơ nói riêng và Hà Nội nói chung.

2- Có lý do mà lại không thể giải thích, các cơ quan có thẩm quyền mà đại diện là vị chủ tịch Hội Văn Nghệ Cần Thơ dùng cách khác, mà cách này lại khiến cho hành động của họ càng thêm trơ trẻn và lố bịch. Họ yêu cầu tác giả làm đơn từ chối giải thưởng nại lý do tác giả không có gởi bài dự thi. Hành động này đủ tỏ cho mọi người biết là giới chức của các cơ quan nhiều thẩm quyền có cái óc không có chút chất xám nào. Nói cách khác là vừa ngu dốt, trâng tráo, vô liêm sĩ hơn thằng ma cô hay cô gái bán trôn nuôi miệng. Chưa hết… Bị tác giả từ chối, họ lại dùng cách khác nữa là yêu cầu tác giả làm đơn từ chối giải thưởng nại lý do ” Thơ tôi có nhiều câu chữ không phù hợp tiêu chí của cuộc thi ”. Giới chức có thẩm quyền trong vụ này đúng là đầu óc không những không có chất xám mà có toàn chất màu vàng người ta thải ra mỗi buổi sáng cho nên mới có lời yêu cầu quái đản như trên.

3- Theo tôi nghĩ ban tổ chức biết rõ lý do vì sao họ không thể trao giải nhất cho bài thơ Trăng Nghẹn. Lý do này phải quan trọng lắm do đó họ mới chịu hy sinh cái danh dự và phẩm cách của mình để làm những hành vi trơ trẻn và lố bịch mà công chúng biết được đều chê bai và chế nhạo. Muốn biết lý do gì mà nhà thơ Hoài Tường Phong đã làm giới chức có thẩm quyền trong nước bị nghẹn, tôi mời quý vị đọc lại bài thơ lần nữa.

Bài thơ dài 32 câu. Đọc từ câu thứ nhất tới câu 20 ta nhận thấy cũng bình thường chẳng có gì đáng để cho các cơ quan có thẩm quyền không chịu trao giải nhất cho bài Trăng Nghẹn. Câu thứ 21 thì tác giả nói về một hiện trạng đã đang và sẽ xảy ra thường xuyên trong vùng thôn quê đó là nhiều cô gái rời quê. Phải có cái gì xảy ra thì ” nhiều ” cô gái quê phải bỏ gia đình, ruộng vườn để đi mưu sinh ở phương trời xa. Chữ ” nhiều ” ở đây tỏ cho ta biết không phải là một, ba, năm bảy mà hàng ngàn hay chục ngàn, một số lượng không đếm được. Tại sao họ phải rời quê? Phải chăng chỉ vì nghèo đói nên nhiều cô gái quê phải rời bỏ quê nhà lên tỉnh để hi vọng kiếm được tiền để sống và giúp đỡ cha mẹ. Hiện trạng nhiều cô gái rời quê lên tỉnh để mưu sinh chứng tỏ kẻ cầm quyền từ cấp địa phương lên tới trung ương đã bất lực trong việc đem lại no ấm cho dân chúng. Ngày xưa trong thời chiến tranh, dân quê phải bỏ nhà cửa ruộng nương để lên tỉnh thành tránh nạn. Bây giờ là thời hòa bình, đất nước đã thống nhất dưới sự cai trị của mấy người toàn là đỉnh cao trí tuệ mà nhiều con gái phải rời bỏ làng quê lên tỉnh để mưu sinh là nghĩa làm sao. Chỉ một câu ” Xóm bên sông nhiều cô gái rời quê ” ngắn gọn và đơn giản, tác giả nói lên một thực trang đau lòng của vùng đồng bằng sông Cửu Long và luôn cả đất nước nữa. Miền nam trù phú, đất rộng người thưa mà còn nghèo đói thì miền trung và miền bắc còn đói, nghèo, và khổ sở hơn vạn lần. Nhiều cô gái quê không học thức, không nghề nghiệp đi lên tỉnh bắt buộc phải làm đủ mọi nghề để kiếm tiền từ việc làm trong công xưởng, xí nghiệp cho tới các nghề hạ tiện và xấu xa như bán ba, bia ôm, đỉ điếm miễn là có tiền để ” Về thăm nhà xênh xang lụa là hàng hiệu… Vài căn nhà xây, đổi đời nhờ những đồng tiền báo hiếu… Khởi sắc một vùng quê sao nghe có chút bùi ngùi…
”. Vùng quê của đồng bằng sông Cửu Long đã khởi sắc không do đổi mới, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do quy hoạch đất đai, vốn đầu tư để thiết lập xí nghiệp vì chính những thứ đó lại đẩy các cô gái quê rời làng đi làm ăn xa.
Nó chứng tỏ sự bất lực của kẻ cầm quyền mà nói trắng ra là đảng và nhà nước. 
Như vậy sự khởi sắc đó do chính mồ hôi và nước mắt tủi nhục của các cô gái bỏ quê lên tỉnh chứ không do ở kẻ cầm quyền.

Câu thơ thứ 25 : ” Đồng bằng quê hương tôi có nhiều cái nhất ngậm ngùi...”. Người ta, nếu được nhiều cái nhất thì phải sung sướng, vui mừng và hãnh diện chứ sao lại ngậm ngùi. Phải chăng quê hương của tác giả bài thơ Trăng Nghẹn có nhiều cái nhất mà toàn là cái nhất xấu xa cho nên nhà thơ mới phải ngậm ngùi và cay đắng. Thì đây: ” Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất… Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa…”. Khó nghèo nhất là cái nhất thứ nhất và từ đó sinh ra cái nhất thứ nhì là có nhiều nhất các cô gái lấy chồng xa. Gọi là lấy chồng xa cho đở tủi thân chứ các cô gái này phải bán cái thân mình cho các thằng chồng bất lương ngoại quốc như Tàu, Hàn Quốc, Đài Loan. Hoài Tường Phong ngậm ngùi cũng phải vì ở quê hương ông không những các cô gái phải làm đỉ, phải bán thân vì tiền mà ngay cả ông thủ tướng, ông tổng bí thư, chủ tịch nước cũng bán thân, đợ nhân phẩm và đánh đỉ tâm hồn để có được vài chục triệu nhân dân tệ hay đô la Mẽo. Ngậm ngùi là phải rồi. Cay đắng là phải rồi. Khi mà những ông tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng vui vẻ bán nước cho Tàu thì trách sao được chuyện những cô gái quê lại bán thân của mình cho ngoại bang.  Văn hóa tượng trưng cho cái hồn của dân tộc thế mà giới chức cầm quyền lại đầu tư ít nhất. Tại sao? Ngu dân là chính sách của đảng và nhà nước mà. Đảng sợ dân khôn, sợ dân có học thức sẽ nhìn ra cái dốt, cái dối gian, cái độc ác, cái xảo trá của đảng và nhà nước. Đảng cộng sản VIỆT NAM sợ nhất sự thật mà bài thơ Trăng Nghẹn của Hoài Tường Phong đã nêu ra sự thật, rất thật, thứ sự thật sừng sửng làm mấy ông lớn ở trong nước bị mắc nghẹn. Họ không muốn thấy sự thật, không nhìn nhận sự thật. Họ chỉ muốn mọi người dân trong nước thấy trăng sáng chứ không thấy trăng u ám hay trăng nghẹn.

Ở đây cần vạch ra và nhấn mạnh một điểm nữa. Sở dĩ bài thơ Trăng Nghẹn bị ban tổ chức từ chối trao giải nhất chỉ vì lý do bài thơ u ám quá. ” Trăng thì phải sáng, thậm chí rất trong sáng, chớ không thể nào nghẹn được!?”. Lối giải thích ấu trỉ này khiến cho tôi phì cười. Thi hào Nguyễn Du viết trong truyện Kiều có câu: ” Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ…”. Cảnh vật biến đổi tuỳ theo tâm trạng của người nhìn. Mấy ông của các cơ quan có thẩm quyền sống sung sướng vui vẻ thì nhìn trăng thấy trăng phải sáng, thậm chí rất trong sáng. Còn nhà thơ Hoài Tường Phong buồn cho nên thấy trăng u ám. Tại sao phải bắt người ta giống mình, nhìn trăng là phải thấy trăng sáng. Câu nói ” trăng thì phải sáng, thậm chí rất trong sáng, chớ không thể nào nghẹn được…” lộ ra tính chất độc tài của kẻ cầm quyền. Họ bắt người dân phải theo ý của họ, phải nói giống như họ chứ không được nói sự thật. Nói sự thật là nói sai vì đảng và nhà nước không bao giờ sai lầm.

– Chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn,

Vầng trăng vừa lên đã bị mây mưa vần vũ.

Tôi chợt nhớ lần lỗi hẹn đầu đời, trăng cũ,

Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê.

Đọc bốn câu thơ kết này tôi hiểu được nỗi thất vọng của nhà thơ Hoài Tường Phong nói riêng và những người đã từng hy sinh xương máu vì tin vào đảng, vào cách mạng sẽ đem lại cho họ một đời sống sáng như vầng trăng rằm viên mãn. Tuy nhiên chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn thấy vầng trăng vừa lên đã bị mây ám rồi. Lý thuyết Mác Lê có trong sáng như vầng trăng rằm không thì chưa biết bởi vì có ai thực hiện được đâu; riêng đảng cộng sản VIỆT NAM do Hồ Chí Minh dựng lên đã u ám vì đường lối phản dân tộc và những kẻ thi hành đều sai lầm từ gốc rể. Nó không đem lại tự do, độc lập và no ấm cho nhân dân mà càng khiến cho nước nghèo, dân khổ và đất đai nhỏ hẹp dần dần vì sự ươn hèn của đảng và nhà nước. Nói thẳng ra, vầng trăng hay đảng chưa và không bao giờ toả sáng một vùng đồng bằng sông Cửu mà  đã làm nghẹn con đường tiến hoá của dân tộc đồng thời đưa đất nước tới sự suy vong vào tay ngoại bang. Đó là lý do tại sao bài thơ Trăng Nghẹn của Hoài Tường Phong không được trao giải nhất dù nó rất xứng đáng. Ở trong chế độ độc tài toàn trị của đảng cộng sản VIỆT NAM, tự do, dân chủ và sự thật không được nhà cầm quyền tôn trọng hơn sự dối gian và lừa bịp.

chu sa lan

Ngày 2 tháng 2 năm 2013