13
– Ban Mê Thuột vẫn còn đó…
Báo chí ở Sài Gòn chạy cái tít nóng hổi nơi trang đầu. Dân chúng chụm đầu đọc báo rồi bàn tán về cuộc kịch chiến ở Ban Mê Thuột. Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, tân tư lệnh quân khu 2 được xem như là anh hùng của dân chúng Ban Mê Thuột nói riêng và vùng cao nguyên nói chung. Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa đã chặn đứng bộ đội Bắc Việt không cho chúng làm chủ cao nguyên. Sức chiến đấu can cường trong tình trạng thiếu hụt về quân dụng của Việt Nam Cộng Hòa gây ngạc nhiên và thắc mắc cho các chính trị gia và tướng lãnh của nhiều quốc gia như Mỹ, Anh, Pháp và nhất là Bắc Việt và Nga Tàu. Lệnh từ Hà Nội ban cho tư lệnh Mặt Trận B-3 phải ngưng hoạt động để kiểm điểm và học hỏi sai lầm cũng như điều nghiên chiến trường kỹ lưỡng hơn.
1 giờ sáng. Đường xá trong thủ đô vắng tanh. Đoàn quân xa mười mấy chiếc đang đậu bên hông của ngân hàng Quốc Gia Việt Nam cùng lúc nổ máy xong từ từ chạy theo sau chiếc xe quân cảnh dẫn đường. Chừng nửa tiếng đồng hồ đoàn quân xa chạy vào phi trường Tân Sơn Nhất. Quanh co một hồi nó đậu kế chiếc phi cơ thương mại có phù hiệu AIR FRANCE. Ba chiếc fortlift thay phiên nhau nâng những kiện hàng to tướng và nặng nề lên máy bay.
Ngồi cạnh nhau nơi băng trước của chiếc quân xa Ngọc Thụy quay qua hỏi Đình Anh.
– Chừng nào mình mới nhận được tiền?
– Cậu Viên nói với anh khoảng ba tới bốn tuần lễ. Chính phủ Pháp giúp mình nhưng họ cũng không muốn làm phật lòng chính phủ Mỹ cho nên họ phải làm trong bóng tối. Anh đã tính ra 16 tấn vàng trị giá một trăm hai chục triệu đô la. Tuy số tiền không nhiều nhưng có còn hơn không nhất là trong lúc dân mình, nước mình nghèo tả tơi. Sau vụ này rồi không biết mình còn có cái gì để đem ra bán nữa không?
Ngọc Thụy thở dài.
– Có… Nhưng em nghĩ chắc không được bao nhiêu tiền. Tiền vàng ở trong ngân hàng còn nhiều lắm. Mấy món đồ cổ nằm trong viện bảo tàng. Cái này khó bán hơn vàng vì mình phải kiếm người thích họ mới chịu mua…
Đình Anh cũng thở dài như người yêu.
– Dân chúng và binh lính lên tinh thần lắm sau trận đánh ở Ban Mê Thuột. Quốc lộ 19 và 21 đã được giải tỏa cho nên sinh hoạt cũng trở lại bình thường. Riêng quốc lộ 14 nối liền Ban Mê Thuột – Pleiku có đoạn cần phải hộ tống nhưng tổng quát thời tình hình có vẻ khả quan hơn. Tuy nhiên cậu Viên tiên đoán là Bắc Việt đang chuẩn bị để mở một cuộc tổng tấn công vào năm tới…
– Mình nên trở lại Châu Đốc để tiến hành việc đào kinh Vĩnh Tế. Mình phải hoàn thành chậm nhất là cuối tháng 2…
Bạch và Hải mừng rơi nước mắt khi thấy Ngọc Thụy và Đình Anh bước vào căn lều dùng làm nơi làm việc và chỗ ở của hai đứa. Ngọc Thụy thầm cám ơn hai cộng sự viên tí hon đã giữ chỗ làm việc được sạch sẽ và ngăn nắp. Hai đứa trẻ cám ơn rối rít khi mặc quần áo mới mà Ngọc Thụy đã đặt may ở Sài Gòn. Đại tá Sanh bắt tay Đình Anh thật chặt rồi cười nói với Ngọc Thụy.
– Công việc đào kinh tiến nhanh lắm. Vùng Kiên Lương đã hoàn thành với chiều sâu tám thước và rộng hơn một cây số. Vùng Tịnh Biên và Tri Tôn sẽ hoàn tất trong tuần tới. Riêng vùng Châu Đốc chỉ còn vào khoảng năm cây số mà thôi. Tôi mời thiếu tá và cô Ngọc Thụy đi quan sát…
Ba người lên xe jeep chạy dọc theo con đường đất sát bờ kinh. Ngồi băng trước nhìn con kinh rộng mênh mông và nước chảy mạnh, Đình Anh thở hơi thật dài.
– Thật là một công trình vĩ đại. Sức của trăm ngàn người quả nhiên có thể dời sông lấp biển…
Xe chạy tới đoạn mà dân chúng đang làm thời ngừng lại. Ba người đi bộ một lát xong đại tá Sanh nói thật chậm.
– Ba đoạn nối liền với sông Tà Keo, sông Hậu và sông Tiền khó đào nhất vì nước chảy rất mạnh. Hôm qua có bảy người bị nước cuốn may nhờ có tàu hải quân cứu được…
Đình Anh nhìn mấy chiếc giang đỉnh đang chậm chạp ngược con nước lên ngã ba sông Tà Keo.
– Đại tá nghĩ mình dùng chất nổ phá vỡ đoạn còn lại được không?
Ngọc Thụy hỏi nhỏ.
– Thưa cô tôi cũng nghĩ tới chuyện đó. Khi nào mình đào tới sông Tà Keo cách chừng năm bảy chục thước tôi sẽ trình với tướng Hưng xin người nhái của hải quân đặt chất nổ phá vỡ đoạn cuối cùng này…
Ba ngày sau đại tá Sanh tới mời Đình Anh và Ngọc Thụy theo ông ta đi xem người nhái của hải quân đặt mìn phá vỡ đoạn kinh đào cuối cùng. Dân chúng cũng tò mò đứng xem đông nghẹt. Bắt tay đại tá Sanh vị trung úy trưởng toán tháo gỡ chất nổ cười nói.
– Chúng tôi đã đặt chất nổ xong. Chừng nào đại tá muốn cho nổ?
– Nếu xong xuôi trung úy cứ việc nổ…
Tất cả mọi người đều lùi lại thật xa trừ toán tháo gỡ chất nổ. Hàng chục tiếng ầm ầm vang lên cùng với cột nước khổng lồ vọt lên trời cao ba bốn chục thước. Nguyên cả dãy đất dài hơn cây số và bề ngang năm ba chục thước bị nước cuộn mất tiêu. Dân chúng vỗ tay reo hò khi thấy con kinh Vĩnh Tế bây giờ trở thành con sông rộng mênh mông và nước cuồn cuộn chảy. Hôm đó dân chúng được nghỉ dưỡng sức để ngày mai tàu hải quân đưa họ qua bên Tân Châu khơi nốt phần còn lại của con kinh Vĩnh An.
Quốc, Đình Anh và Ngọc Thụy đứng cạnh nhau bên dòng sông Vĩnh Tế. Gió thổi phần phật.
– Nhiệm vụ của chúng ta đã xong. Việc giữ an ninh ở đây sẽ do hải quân và các tiểu đoàn địa phương quân đảm trách. Ba liên đoàn 4, 5 và 6 được trả về Sài Gòn dưỡng quân một tuần lễ xong ra Nha Trang tăng viện cho lực lượng đặc nhiệm 2…
Ngừng lại nhìn Đình Anh và Ngọc Thụy, Quốc cười hỏi.
– Hai em sẽ làm gì khi về Sài Gòn?
– Em trở lại bộ tổng tham mưu làm việc…
Ngọc Thụy cười thành tiếng nhỏ.
– Em bỏ học để mua bán…
Quốc nhìn cô em gái bé tí ti với chút thắc mắc. Ngay cả Đình Anh cũng nhìn người yêu lom lom.
– Muốn đánh nhau với lính Bắc Việt chính phủ ta cần phải có vũ khí và tiếp liệu. Bởi vậy em bỏ học để hành nghề buôn lậu vũ khí. Chỉ cần trúng mánh là giàu to…
Quốc với Đình Anh cười ha hả vì lời nói đùa của Ngọc Thụy.
– Làm cái nghề buôn lậu nguy hiểm lắm. Anh đề nghị em nên có người hộ vệ…
Quốc đùa. Ngọc Thụy nhìn Đình Anh.
– Anh muốn làm hộ vệ viên cho em không. Em sẽ năn nỉ cậu Viên cho anh theo em học nghề…
Đình Anh cười lớn.
– Anh phải theo hộ vệ em chứ không có người nào bắt cóc em thời mất công anh đeo đuổi…
Quốc bắt tay từ giã hai đứa và hẹn gặp nhau ở Sài Gòn. Trên đường trở lại chỗ làm việc Đình Anh hỏi người yêu.
– Em tính sao về Bạch và Hải?
– Em dẫn tụi nó về nhà cho má em nuôi…
– Má em chịu không?
– Chịu là cái chắc. Má em ở không suốt ngày. Bây giờ có hai đứa nhỏ làm cho bả bận bịu để bả khỏi đi đậu chếnh…
Đình Anh cười khì. Về tới lều đôi tình nhân rất hài lòng khi thấy giấy tờ và sổ sách đã được hai cộng sự viên tí hon xếp vào thùng gọn gàng và thứ tự để sáng mai họ tháp tùng đoàn xe công binh về lại Sài Gòn.
Sau khi nghỉ một tuần dưỡng sức ở Sài Gòn, liên đoàn 6 của trung tá Nguyễn Hữu Hiện được lệnh thay lữ đoàn 1 dù giữ an ninh cho đường 21 từ Ninh Hoà dài lên tới M’ Drắk. Ba tiểu đoàn và bộ chỉ huy liên đoàn phải trải, phải căng tới mức tối đa thành ra lực lượng mỏng như tờ giấy. Thiếu tá Ánh, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 58 phàn nàn.
– Anh sáu… Mình mà trải ra như vầy thời lính của ông Giáp nhai mình như nhai gỏi…
Hiện cười an ủi.
– Thôi ông và anh em ráng gồng đi…
Chỉ có thế. Từ lâu lắm rồi. Từ lúc mà cái hiệp định khốn kiếp Paris được ký kết để cho người lính chiến Hoa Kỳ được trở về nước và bộ đội Bắc Việt ngang nhiên xua quân vào nam, thời lính của Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu gồng mình lãnh nhiệm vụ trấn giữ tiền đồn chống cộng cho thế giới tự do được hưởng hòa bình. Cũng được đi. Tự do của vùng Đông Dương hay Đông Nam Á gắn liền với tự do của Việt Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên người lính chiến nhỏ bé phải gồng mình tới mức tối đa khi chính phủ Hoa Kỳ không giữ lời hứa. Cắt giảm quân viện. Hành động này cũng giống như cắt tay cắt chân người lính chiến đang phải cắn răng, đang phải gồng để chiến đấu trong cô đơn và ngoảnh mặt của những người bạn đồng minh. Bây giờ họ không đếm xác địch mà đếm từng viên đạn M16. Không có đạn là chết. Cái vật vô tri không đáng giá 1 xu teng đó lại chính là sinh mạng của người lính Việt Nam Cộng Hòa. Thê thảm thật.
Lãnh phần giữ từ Buôn Tương lên tới Ea Trang, Ánh chia tiểu đoàn ra bốn vị trí. Đại đội 1 đóng ở Ea Trang. Đại đội 4 và bộ chỉ huy tiểu đoàn đóng ở Buôn Tương. Đại đội 3 giữ cao điểm 677. Đại đội 2 do trung úy Đỗ Tân Uyên làm đại đội trưởng được giao cho một nhiệm vụ bằng vàng y. Trấn đèo Phượng Hoàng. Tên thật đẹp. Tuy nhiên cái tên này lại không đẹp đối với Tân Uyên và người lính của đại đội 2 bởi Phượng Hoàng lại đèo thêm chữ ” đèo ” ở đằng trước.
Ngay khi đặt chân lên đỉnh đèo một người lính thắc mắc:
– Tại sao người ta gọi là đèo hả trung úy?
Vị đại đội trưởng đại đội 2 cười giải nghĩa đùi:
– Đèo là cõng, mang, vác trên lưng… Bởi vậy tụi mình mới phải đèo cái đèo Phượng Hoàng này…
Lính cười khì khi nghe đại đội trưởng giải thích về đèo Phượng Hoàng. Là một vị trí quan trọng nằm trên quốc lộ 21 từ Ban Mê Thuột đi Ninh Hòa, đèo Phượng Hoàng cao 560 mét nhưng so với các cao điểm lân cận thời thấp hơn nhiều. Hướng đông bắc là cao điểm 677 cách đèo Phượng Hoàng không đầy cây số. Xa hơn nữa về hướng bắc độ mươi cây số là Chư Mư cao hơn hai ngàn mét. Hướng tây bắc là Chư Nang cao 820 mét còn hướng tây khoảng sáu bảy cây số là Chư Khơn cao 916 mét.
Hôm nay 30 Tết. Người lính biệt động quân đón giao thừa và chuẩn bị ăn tết bằng cách đào thêm công sự chiến đấu, hầm núp để tránh pháo. Họ không sửa soạn đón xuân mà đón lính già Hồ. Tuy trời chưa tắt nắng mà khí núi bốc ra lạnh căm. Sương mù bay lãng đãng. Tân Uyên cùng với An, người lính mang máy của mình chia nhau món quà hậu phương giản dị và đơn sơ nhưng đậm tình người. Để nhớ ơn người chiến sĩ dân chúng đã gởi cho mỗi người lính một gói quà nhỏ gồm một gói thuốc lá, bịch mứt gừng và chút trà để thưởng xuân.
Nhấp ngụm trà nóng thơm mùi hoa lài Tân Uyên chắt lưỡi.
– Ngon…
Mở gói Ruby người đại đội trưởng rút một điếu xong trao gói thuốc cho An:
– Em giữ đi… Khi nào hết anh hỏi…
– Trung úy ăn mứt gừng trung úy… Cái này tiêu cơm và ấm bụng…
Hơi mỉm cười Tân Uyên cầm lấy miếng mứt gừng đoạn leo ra khỏi hầm. Vừa hít thuốc vừa nhai mứt mừng người đại đội trưởng vừa ngắm cảnh. Bốn bề là rừng. Là núi. Xa xa về hướng nam là núi Chư Pai cao hơn 600 mét. Phía bắc đỉnh Chư Mư sừng sững đầy mây mù. Ba ngọn Chư Nang, Chư Tô và Chư Khơn trông xa như hình cây cung. Từ các cao điểm đó pháo của địch rót vào vị trí của đại đội mỗi ngày. Riết rồi người lính không thèm tránh khi nghe tiếng départ vọng lại. Họ chỉ nhảy xuống hố khi nào nghe tiếng xè xè thật gần. Ngồi trên cục đá lớn Tân Uyên nhìn về hướng nam. Biên Hòa. Khuôn mặt của cô nữ sinh tên Hạnh hiện ra. Má lúm đồng tiền. Chiếc răng khểnh. Đôi mắt đen láy. Nụ cười dễ thương. Tuy không giống như đám cưới trong Màu Tím Hoa Sim của thi sĩ Hữu Loan, nhưng đám cưới của anh với Hạnh cũng nghèo và cũng vội vàng. Hai vợ chồng mới cưới chỉ gần nhau một tuần lễ rồi cường độ chiến tranh đẩy anh càng xa nhà nhiều hơn. Năm tuần lễ trước đây từ Châu Đốc theo liên đoàn trở lại Sài Gòn anh được phép về thăm nhà. Hạnh sắp sanh đứa con đầu lòng. Vừa hết phép liên đoàn được lệnh tăng phái cho Lực Lượng Đặc Nhiệm 2 đóng ở Nha Trang. Từ đó liên đoàn lại khăn gói ra Ninh Hòa thay lữ đoàn 1 Dù giữ đường 21.
– Trung úy… Anh Thư muốn nói chuyện với trung úy…
Anh Thư là danh hiệu truyền tin của Ánh, tiểu đoàn trưởng. Không biết Ánh nói gì chỉ nghe Tân Uyên trả lời.
– Tôi nghe Anh Thư 5/5…
Đưa ống liên hợp cho An xong Tân Uyên nói nhanh.
– Em gọi bốn ông trung đội trưởng tới họp…
Lát sau bốn ông trung đội trưởng có mặt. Mời mỗi người một điếu thuốc, Tân Uyên nói với giọng không bình thường.
– Anh Thư vừa nói cho tôi biết là phòng 2 của quân khu 2 ghi nhận sự chuyển quân của trung đoàn 25 địa phương về vùng Ninh Hòa. Họ đoán cộng quân sẽ tung ra những cuộc tấn công nhỏ để thăm dò sức kháng cự của ta. Bốn ông nên bung các tiểu đội rộng ra hơn. Lính của mình còn bao nhiêu đạn?
Bốn ông trung đội trưởng nhìn nhau rồi thiếu úy Thanh, trung đội trưởng trung đội 1 người có cấp bậc cao nhất lên tiếng.
– Mỗi người có chừng 200 tới ba trăm viên và năm trái lựu đạn. M72 thời mỗi trung đội có ba cây. Chừng nào mình mới có tiếp tế hả Tân Uyên?
– Mùng sáu… Sáng mai mùng một Tết nên anh em được nghỉ. Sáng mùng 2 bốn ông cho lính đi tuần và giữ an ninh khu vực của mình…
– Từ đây tới mùng năm mà tụi nó đánh thời mình kẹt lắm trung úy…
Thượng sĩ Hoành, trung đội trưởng trung đội 4 nói. Tân Uyên cười nhẹ.
– Ông bảo lính ráng gồng đi…
– Tôi bảo họ hoài mà họ nói họ gồng hết nổi rồi trung úy. Bây giờ chỉ còn nước nín thở qua sông thôi…
Tân Uyên và ba ông trung đội trưởng không ai cười khi nghe câu nói rất thực của ông thượng sĩ già tuổi đời lẫn tuổi lính.
– Tôi cũng biết điều đó… Tuy nhiên…
Tân Uyên ngừng lại vì có lẽ cũng không biết nói gì thêm.
– Thôi bốn ông cứ về dặn lính làm được cái gì hay cái đó…
Bốn trung đội trưởng im lặng ra khỏi hầm. Họ giống như con cọp kiệt sức vì đói khát và đang bị bao vây bởi đàn cáo hung dữ.
Ba ngày tết qua đi trong bình yên. Mùng 5. Nắng trưa chói chang dọi xuống con đường tráng nhựa lồi lõm vì pháo của địch. Như những con chuột từ lâu sống chui rúc trong hầm hố, người lính của đại đội 2 hân hoan đón ánh nắng mặt trời. Nó tượng trưng cho sự ấm áp và nhất là sự bình yên của một ngày. Có người cởi bộ trây di cả tuần hay mười ngày chưa giặt ra phơi trên tảng đá. Có người cởi đôi vớ cả tháng chưa giặt đem phơi trên cành cây với hy vọng gió và ánh nắng sẽ làm tan đi cái mùi thum thủm. Đầu đàng kia ba bốn người tụ nhau để binh xập xám. Bộ bài dơ dáy, cũ mèm và nhầu nát nhưng được họ cưng chiều tới độ gói hai lớp giấy ny lông để khỏi bị thấm nước. Hạ sĩ nhất Tấn, tiểu đội trưởng cười nói khi thấy Tân Uyên.
– Trung úy binh không trung úy…
Tân Uyên hỏi.
– Mấy em chơi bài bằng tiền hả?
Bốn người lính cười lớn. Binh nhất Hân đáp.
– Tụi em đâu có tiền trung úy. Tụi em bị mấy con đĩ ở Ninh Hòa lột sạch rồi. Tụi em chơi bằng đạn AK… Chừng nào mình mới lãnh lương trung úy…
Tấn nói với Hân.
– Mày lãnh lương làm gì… Có xài được đâu mà ham lãnh lương…
Cười cười Tân Uyên nói với lính.
– Ngày mai đoàn công voa tiếp tế lên tới đây. Họ sẽ mang lương cho mình…
Hạ sĩ Em cười hỏi.
– Họ có đem nước đá không trung úy?
Tấn thò lõ cặp mắt nhìn Em.
– Nước đá… Mày điên à… Bộ mày thèm nước đá sao mà hỏi kỳ cục vậy?
Em gật đầu.
– Ừ… Tự nhiên tao thèm cục nước đá…
Tân Uyên cười lắc đầu bước đi. Sống trong rừng rú núi non lâu quá người lính thường hay có những ước mơ vụn vặt. Sống xa tiện nghi của thành thị lâu quá người lính tự nhiên thèm muốn những cái thật kỳ cục và buồn cười. Có người thèm lon sữa hộp. Có người thèm cục nước đá. Có người thèm cục kẹo. Có người thèm miếng chanh. Có người thèm miếng bánh. Có người ước được về nhà ở Sài Gòn ngủ cho đã bởi vì nhà tượng trưng cho sự bình yên, không lo âu và sợ hãi. Chiều từ từ xuống. Nắng dọi lên tảng đá xanh thành màu vàng óng ánh. Lính bắt đầu nấu cơm xong ăn thật nhanh. Đi lính nhất là lính tác chiến thời có nhiều cái nhanh lắm. Nấu cơm nhanh. Không ai nấu cơm nhanh bằng lính. Chỉ cần năm mười phút họ đã nấu xong nồi cơm. Ăn nhanh. Chỉ cần năm ba phút họ đã ăn xong bữa cơm. Chết nhanh. Không ai bị chết nhanh hơn lính. Đang ngồi cười đùa nói chuyện rồi bùm một cái là đi đong.
Đang ngủ gà ngủ gật Tân Uyên và lính của đại đội 2 chợt tỉnh dậy khi nghe tiếng súng nổ rền ở cao điểm 677, nơi đóng quân của đại đội 3. Lắng nghe qua máy 25, An thì thầm với đại đội trưởng của mình.
– Trung úy… Tụi nó đang xóc lô tô đại đội 3…
Tân Uyên gật đầu. Không cần An nói anh cũng biết khi nghe tiếng pháo nện đều đều xuống cao điểm 677. Anh cũng biết rõ ý định của địch. Chiếm được cao điểm 677 chúng có thể uy hiếp đèo Phượng Hoàng. Đứng trên đỉnh 677 chúng sẽ thấy rõ vị trí đóng quân của đại đội 2 để điều chỉnh tọa độ cho pháo binh bắn chính xác hơn. Tuy biết như vậy nhưng anh không làm gì hơn là hy vọng đại đội 3 giữ vững vị trí.
Tiếng pháo nổ dồn chừng nửa tiếng xong thưa thớt rồi tiếng súng nổi lên. Đủ mọi loại súng. Đại liên 12 ly 8, 13 ly 8, M60, AK47, M16, B40, B41. Lựu đạn nổ ầm ầm. Tân Uyên và lính của mình không có dịp may xem trận đánh ở cao điểm 677 vì pháo bắt đầu rơi xuống vị trí của họ nơi đèo Phượng Hoàng. Tiếng gào của đại bác 130 ly, 122 ly và hỏa tiển 122 ly lồng lộng trong đêm vắng như tiếng ma kêu quỉ hú. Hàng trăm, hàng ngàn quả đại bác rơi xuống nổ thành thứ âm thanh khủng khiếp. Người lính của đại đội 2, tiểu đoàn 58 biệt động quân co, giật, rút, cuộn, thu hình lại thật nhỏ, nhỏ tới độ họ có thể làm được với hy vọng mong manh là sống sót trong chuỗi âm thanh cuồng nộ và thứ không gian nóng hừng hực hơn lửa ở chung quanh. Nửa giờ đồng hồ mà họ tưởng như dài vô tận. Pháo ngưng. Những người lính còn sống vội ngóc đầu lên để thấy trong ánh lửa bập bùng bộ đội ào ào tiến tới. Tiếng xích sắt của T54 kêu rổn rảng. Ánh đèn pha quét trên mặt đất. Tiếng đạn AK, thượng liên, trung liên, đại liên hòa lẫn trong tiếng la xung phong và tiếng ” hàng sống chống chết “. Lính biệt động quân im lìm chờ đợi. Họ quá quen với chiến thuật tiền pháo hậu xung, biển người của bộ đội Bắc Việt. Lính của Tân Uyên nhắm kỹ.
– Phải bắn cho trúng nghe tụi bây. Mỗi viên đạn là một thằng bộ đội…
Thượng sĩ Hoành nghiến răng.
– Hàng hả… Đéo mẹ mày tới đây ông hàng cho mày trái này…
Tay lựu đạn tay súng người trung đội trưởng sẵn sàng chờ lệnh bắn của Tân Uyên. Năm mươi thước… Bốn mươi thước… Lính thiếu điều xón đái trong lúc Tân Uyên mặt lạnh như tiền. Hai mắt mở lớn nhìn về đằng trước. Ba mươi thước… Hai mươi lăm thước…
– Bắn…
Phát súng lệnh nổ ra. Một trăm ba mươi lăm ngón tay trỏ cùng lượt bóp cò. Một trăm ba mươi lăm viên đạn bay ra. Bộ đội gục xuống như sung rụng. M72 xẹt ra. Năm ba chiếc T54 bốc cháy. Lựu đạn nổ ầm ầm. Đất đá cây cỏ và xương thịt con người văng lên không, đập vào mặt người lính của đại đội 2. M16 nổ rền. Đại liên M60 rống lên từng hồi chát chúa.
– Xung phong…
Lính áo rằn nhào vào đánh xáp là cà với bộ đội. Họ đâm bằng lưỡi lê, đánh bằng báng súng, ôm nhau vật lộn như những kẻ không sợ chết hay bị say khói thuốc súng. Nửa giờ cận chiến ngắn ngủi. Bộ đội già Hồ chém vè quên luôn đồng đội còn nằm lại. Không buồn đếm xác, không buồn tịch thu vũ khí, lính của Tân Uyên ngồi khóc cho những đồng đội kém may mắn hơn họ. Hạ sĩ nhất Tấn ôm lấy xác của Em, người bạn thân đã binh xập xám với mình hồi chiều. An, người lính truyền tin ngồi ôm lấy xác của Tân Uyên. Vị đại đội trưởng đại đội 2, tiểu đoàn 58, liên đoàn 6 biệt động quân chết trước khi thấy mặt đứa con đầu lòng của mình. Lửa cháy nổ tí tách. Trận địa còn nồng khói súng và phảng phất mùi máu tanh đọng thành vũng trên đất.
14
Đình Anh và Ngọc Thụy vui mừng khi gặp lại Quốc, Bảo và Hiện ở Nha Trang.
– Hai em đi đâu vậy?
Quốc hỏi và Ngọc Thụy mau mắn trả lời.
– Tụi em theo cậu Viên ra thăm ba anh. Cậu Viên ra Nha Trang họp với tướng Trưởng, Khang, Hiếu về vụ triệt thoái khỏi cao nguyên…
Đình Anh nhìn ba ông liên đoàn trưởng biệt động quân rồi cất giọng khàn và trầm.
– Bộ tổng tham mưu đã thảo một kế hoạch lui binh tổng quát như sau. Tháng 11 năm 1974 là giai đoạn rút khỏi quân khu 1. Đem toàn bộ lực lượng của tướng Trưởng về đóng ở Quy Nhơn lập phòng tuyến mới để cùng với tướng Hiếu giữ vững cao nguyên. Cũng nhờ lực lượng của quân khu 1 mà tướng Hiếu mới có đủ sức mở ra mặt trận Ban Mê Thuột gây thiệt hại nặng nề cho các sư đoàn Bắc Việt. Mùa xuân năm 1976 sẽ là giai đoạn 2, giai đoạn triệt thoái khỏi cao nguyên. Đây là giai đoạn quan trọng và khó khăn nhất. Chúng ta phải rút lui về bảo vệ vùng 3 đồng thời ngăn chận không cho địch tấn công Sài Gòn. Ta sẽ bỏ Sài Gòn theo kế hoạch và thời điểm mà ta muốn chứ không phải vì thua trận. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn bỏ vùng 3 để lui về vùng 4. Ta sẽ cố giữ vùng 4. Nếu không giữ miền tây được ta mới tính tới chuyện rút ra Phú Quốc…
Ba liên đoàn trưởng 4, 6 và 7 biệt động quân nhìn nhau chưa kịp nói gì, Ngọc Thụy đỡ lời của Đình Anh.
– Tụi em đã trình bày với cậu Viên ý kiến rút về Phú Quốc. Toàn bộ quân lực và dân chúng, những ai không muốn sống với cộng sản sẽ được di tản ra Phú Quốc. Đây là thành trì cuối cùng của chúng ta giống như Tưởng Giới Thạch chạy ra Đài Loan sau khi Mao Trạch Đông chiếm được lục địa…
Quốc, Bảo và Hiện nhìn nhau. Dù Ngọc Thụy chỉ nói sơ lược nhưng cả ba đều hiểu ý của nàng. Tiếp liệu sẽ cạn dần khiến cho quân lực không còn giữ được vùng cao nguyên. Triệt thoái khỏi cao nguyên sẽ kéo theo sự xụp đổ của vùng 3 và Sài Gòn. Miền tây dù có cái thế sông sâu hào rộng cũng không cản được bước tiến của cộng sản khi tiếp liệu đã cạn. Thế sống còn của những người Việt Nam yêu tự do chính là đảo Phú Quốc. Nhờ biển cả bao la và một hạm đội khá hùng mạnh họ dễ dàng cố thủ hơn là trong đất liền. Với diện tích 956 cây số vuông, Phú Quốc có đủ chỗ cho họ mưu sinh và chờ đợi ngày trở lại đất liền giải phóng đất nước và dân tộc ra khỏi gông cùm của cộng sản.
Mỉm cười Ngọc Thụy nói với ba người đang đứng trước mặt mình bằng giọng vui vẻ.
– Cần Thơ sẽ là Sài Gòn, một Sài Gòn Nhỏ của chúng ta cũng như miền tây sẽ trở thành Việt Nam Cộng Hòa của những người Việt Nam yêu chuộng tự do… Ba anh có ra Phú Quốc chưa?
– Chưa… Còn em?
Bảo hỏi Ngọc Thụy. Đình Anh xen vào.
– Hay là tụi mình đi Phú Quốc. Thụy xin với cậu Viên cho máy bay chở mình ra Phú Quốc quan sát…
Nhìn đồng hồ Đình Anh cười tiếp.
– Bây giờ mới 10 giờ sáng. Mình đi tới ba giờ chiều về cũng còn kịp…
Ngẫm nghĩ giây lát Ngọc Thụy nói nhỏ.
– Cậu Viên đang họp nên em không muốn làm phiền cậu. Để em kiếm trung úy Bằng nhờ ông ta gọi qua bên không quân xin máy bay…
Ngọc Thụy bỏ đi chừng mười lăm phút xong trở lại.
– Đi… Máy bay đang chờ mình…
Năm người lên hai chiếc jeep chạy qua căn cứ không quân. Một chiếc Caribou đang chờ họ. Ngồi trong lòng phi cơ năm người im lặng không trò chuyện dường như mỗi người đang theo đuổi ý nghĩ riêng tư của mình. Thật lâu Ngọc Thụy lên tiếng trước bằng cách cười nói với Quốc.
– Ba anh biết tin gì chưa. Tụi này đã bán các món đồ cổ trong bảo tàng viện của mình cũng như các tiền vàng cổ xưa của nước ta. Thật ra em không muốn bán nhưng nghĩ lại nếu mình không bán thời lính miền bắc họ cũng lấy hết…
– Em bán được bao nhiêu tiền?
Liếc Đình Anh, Ngọc Thụy cười vui vẻ trả lời Bảo.
– Ba mươi triệu đô la… Có một ông tỉ phú người Ả Rập mua viên trân châu của Ngọc Hân công chúa với giá nửa triệu đô la…
Nói tới đó Ngọc Thụy nhìn người yêu cười rũ rượi. Đình Anh cũng cười nói với Bảo, Quốc và Hiện.
– Thấy một ông già đang mân mê viên ngọc trai em mới tới bắt chuyện với ổng. Nghe ông nói là đang tìm mua một món gì để làm quà sinh nhật đồng thời cũng kỷ niệm hai mươi lăm năm hai vợ chồng cưới nhau em mới nãy ra ý nghĩ. Em giải thích cho ổng biết viên ngọc trai này là sính lễ của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đi cưới Ngọc Hân công chúa. Nó có một giá trị đặc biệt về lịch sử và cho các cặp vợ chồng lấy nhau…
– Chuyện đó có thật hay là mày xạo?
Hiện hỏi và Đình Anh cười lớn.
– Dĩ nhiên là xạo. Không biết lúc đó có phải vong linh của ông bà tổ tiên mình nhập vào không mà tao tự dưng nãy ra ý nghĩ chuyện ông Nguyễn Huệ đưa sính lễ đi cưới công chúa Ngọc Hân. Nhưng ông tỉ phú nghe bùi tai nên bằng lòng mua viên ngọc với giá nửa triệu đô…
Bảo và Quốc cười ha hả vì câu chuyện lịch sử của Đình Anh.
– Em đã bán 16 tấn vàng xong rồi với giá 120 triệu cộng thêm 30 triệu tiền cổ thành ra tổng cộng mình có 150 triệu đô la… Ngoài ra trong ngân hàng quốc gia còn có một số tiền tồn trữ khổng lồ…
Hiện hỏi nhanh:
– Bao nhiêu?
Ngọc Thụy trả lời thật gọn:
– Một ngàn tỉ đồng…
Bảo kêu lên:
– Một ngàn tỉ đồng… Em làm gì với số tiền đó. Mua vũ khí hả?
Ngọc Thụy nhẹ lắc đầu nói với giọng ngậm ngùi và chua chát.
– Số tiền giấy đó trở nên vô giá trị đối với nước ngoài. Nó chỉ còn có giá trị trong nước mình mà thôi. Cho nên em định lấy số tiền đó ra mua tất cả mọi thứ cần thiết để đem về dự trữ ở Cần Thơ…
Ngọc Thụy thấp giọng thì thầm như sợ có người nghe lén.
– Mình sẽ tìm môi giới mua của các chú ba trong Chợ Lớn. Mình mua giá cao và trả bằng tiền mặt thời họ bán liền. Sau này họ có biết cũng đã muộn rồi…
– Em định gạt họ hả?
Quốc thì thầm và Ngọc Thụy gật đầu.
– Từ lâu họ chuyên môn đầu cơ tích trữ hay lũng đoạn kinh tế của nước mình thời bây giờ họ có bị thiệt một chút cũng không sao…
Bảo gật gù cười.
– Em tính như vậy cũng được…
Ngọc Thụy cười chúm chiếm.
– Số tiền 150 triệu đô la sẽ được để dành cho tương lai…
Chiếc phi cơ đáp xuống một phi trường quân sự nhỏ bên cạnh căn cứ hải quân ở An Thới. Chui ra khỏi máy bay năm người đứng nơi phi trường nhìn bao quát khung cảnh. Bên tay mặt của họ là doi đất dài nhô ra biển với Giếng Vua và cuối cùng là Mũi Ông Đội. Xa xa trên biển xanh có ba hòn đảo nhô lên cao khỏi mặt biển chừng trăm mét. Đó là hòn Dừa, hòn Thơm và hòn Rôi nằm thành một hàng dài che chở vụng An Thới mỗi khi có giông bão. Bên tay trái chỗ năm người đứng là rừng xanh chạy dài lên tới Dương Đông.
Đình Anh nói với Quốc.
– Em với anh lội bộ vào căn cứ hải quân mượn xe xong ra đây đón mọi người…
Khoảng mười lăm phút sau Đình Anh lái xe ra phi trường. Năm người chất lên chiếc xe jeep. Theo lời chỉ dẫn của lính trong căn cứ hải quân, Đình Anh lái xe chầm chậm trên con đường đất đỏ đi trại tù. Đây là chỗ mà quân lực Hoa Kỳ đã thiết lập để giam giữ mấy trăm ngàn tù binh Bắc Việt. Sau năm 73 tù binh được trả về bắc và trại tù bị bỏ hoang. Vì tình trạng an ninh nên họ không đi xa hơn nữa. Đứng nhìn trại tù khổng lồ Ngọc Thụy cười nói.
– Đây là vị trí rất tốt để ta có thể đưa đồng bào tị nạn miền trung đang ở Châu Đốc ra định cư ở đây. Rồi sau đó ta sẽ chở đồng bào tị nạn ở cao nguyên ra đây luôn. Sẵn nhà ở, sẵn đất đai màu mỡ họ sẽ khai rừng phá núi hay đánh cá để tự mưu sinh…
Quốc cười gật đầu.
– Anh đồng ý với ý kiến của em. Sau khi mình rút về miền tây thời tỉnh Châu Đốc sẽ trở thành vùng hỏa tuyến. Do đó dân tị nạn miền trung phải được đưa tới chỗ an toàn hơn…
Đình Anh phụ họa.
– Phải rồi… Tàu hải quân có thể theo dòng kinh Vĩnh Tế ra Hà Tiên rồi tới Phú Quốc chỉ trong ngày…
Quan sát địa thế chừng nửa tiếng đồng hồ, Đình Anh lái xe đưa mọi người ra phi trường rồi trở qua căn cứ hải quân trả xe xong năm người lên máy bay về lại Nha Trang.
Ngồi trong câu lạc bộ không quân để ăn bữa cơm chiều, Ngọc Thụy cười nói với bốn ông lính.
– Em bao mấy anh nghe… Trong lúc ăn em sẽ nói cho ba anh nghe về vụ di tản ra Phú Quốc nếu quân lực mình không giữ được miền Hậu Giang…
Đón lấy dĩa cơm sườn Bảo cười hỏi.
– Em đã nói vụ này cho Đình Anh nghe chưa?
Ngọc Thụy cười chúm chiếm liếc người yêu.
– Đây là ý kiến của Anh cổ cò. Em chỉ chiên xào nêm nếm cho ngon hơn thôi…
Bốn người lính bật cười vì lời nói đùa của cô gái. Hớp ngụm nước đá chanh Ngọc Thụy cười tiếp.
– Diện tích của đảo Phú Quốc chừng 500 cây số vuông cho nên mình không thể di tản hết dân của Việt Nam Cộng Hòa ra đó được. Do đó ta phải chọn lọc và đặt ưu tiên cho người được di tản. Thứ nhất là quân nhân. Thứ nhì là nhân viên chánh phủ. Thứ ba là thành phần dân sự chống cộng sản. Ba thành phần này sẽ bị nguy hiểm tới tánh mạng hay bị hành hạ và ngược đãi dưới sự cai trị của cộng sản. Quân lực của ta tuy mang tiếng là có tới một triệu người nhưng thực ra chỉ có ba bốn trăm ngàn người sẽ bị nguy hiểm tánh mạng hoặc bị ngược đãi. Cộng thêm gia đình của họ nhân số có thể lên tới một triệu người. Một triệu người còn lại là nhân viên chánh phủ, giới trí thức và văn nghệ sĩ. Phần dân chúng sẽ có rất nhiều người sẽ không chịu di tản vì lý do như họ không hiểu và không tin cộng sản sẽ đối xử tàn tệ với họ. Có những người ở lại vì có của cải, đất đai hay nhà cửa. Em đoán đa số dân quê ở miền nam sẽ ở lại. Nói tóm lại là thành phần ưu tiên 1, 2 và 3 sẽ nằm trong danh sách di tản. Thành phần còn lại ta sẽ di tản họ nếu có điều kiện…
Ăn uống xong Quốc, Bảo và Hiện từ giã Đình Anh và Ngọc Thụy để trở về đơn vị trong lúc đôi tình nhân vào bộ tư lệnh sư đoàn 2 không quân chờ tướng Viên hội họp tới chiều mới lên máy bay trở lại Sài Gòn.
Dân chúng cư ngụ nơi đảo Phú Quốc nhất là vùng như Dương Đông, An Thới, Cây Dừa lấy làm ngạc nhiên khi thấy vô số tàu hải quân lớp cặp cầu lớp ủi vào các bãi biển từ căn cứ hải quân An Thới dài lên tới Dương Đông. Một cuộc hành quân lớn được mở ra với sự tham dự của hai trung đoàn bộ binh. Sau khi bắt sống hoặc giết chết các du kích cộng sản xong đội xe cơ giới của công binh và công chánh bắt đầu hoạt động. Đầu tiên họ làm một con đường nối liền An Thới với Dương Đông. Ngày xưa Mỹ đã thiết lập một trại tù khổng lồ để giam giữ tù binh Bắc Việt. Sau hiệp định Paris tù binh chiến tranh được trả về bắc và trại tù bị bỏ hoang. Tuy nhiên các trại tù vẫn còn trong tình trạng có thể xử dụng được. Sau một tháng làm ngày làm đêm con đường bề ngang mười thước không được tráng nhựa nhưng có thể để cho xe cộ lưu thông dễ dàng được hoàn thành. Tại Dương Đông, công binh bắt đầu nới rộng phi trường để cho các phi cơ của không quân cũng như phi cơ thương mại loại trung bình có thể lên xuống một cách dễ dàng. Song song với việc đó hải quân cũng bắt đầu thiết lập một hải quân công xưởng tại An Thới. Dưới sự chỉ huy và điều động của bộ tư lệnh, các nhân viên dân sự và lính hải quân khởi đầu tháo các cơ phận của các thủy xưởng ở Quy Nhơn, Nha Trang, Cát Lỡ đem ra Phú Quốc ráp lại thành một công xưởng to lớn. Sau đó Hải Quân Công Xưởng hay còn gọi là Sở Ba Son cũng đang chuẩn bị dời về Phú Quốc.
Đình Anh và Ngọc Thụy đứng trên bờ chứng kiến cảnh tàu hải quân xuôi dòng kinh Vĩnh Tế từ Châu Đốc về Hà Tiên mang theo hai trăm ngàn dân tị nạn cộng sản miền trung ra định cư tại đảo Phú Quốc. Với chiều sâu bảy tám thước nên tàu hải quân có thể dùng thủy lộ này thay vì phải dùng sông Hậu ra biển rồi từ đó đi An Thới. Hơn một ngày sau dân tị nạn miền trung đặt chân lên đảo Phú Quốc để bắt đầu một cuộc sống mới. Họ tạm thời trú ngụ trong các khu nhà của trại tù. Vốn là người dân cần cù và chịu khó chẳng mấy chốc, dưới sự chỉ huy của công binh họ đốn cây cất nhà, làm rẫy và nuôi gia súc. Một số dân chài lưới đóng ghe thuyền để ra khơi đánh cá.
Mặc dù chiến thắng ở Ban Mê Thuột khiến cho mọi người tin tưởng là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ đứng vững để bảo vệ phần lãnh thổ còn lại nhưng các quốc gia trên thế giới tuần tự cắt đứt liên hệ ngoại giao với Việt Nam Cộng Hòa. Chỉ có các nước không bị ảnh hưởng nặng của Hoa Kỳ như Pháp, Anh, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Mã Lai Á và Nam Dương là còn tòa đại sứ tại Sài Gòn.
1.1976.
Hôm nay là ngày 20 tết. Trong lúc dân chúng sửa soạn chào mừng năm mới toàn thể binh sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và bộ đội Bắc Việt tại quân khu 2 cũng chuẩn bị không phải để ăn tết mà để đánh nhau. Sau mấy tháng im hơi lặng tiếng, các sư đoàn chánh quy của Bắc Việt bắt đầu hoạt động trở lại trong kế hoạch chiếm cao nguyên làm bàn đạp tiến xuống vùng duyên hải miền trung và Sài Gòn.
Buổi họp tại bộ tư lệnh quân khu 2 có tám người tham dự là thiếu tướng Hiếu, thiếu tướng Giai, chuẩn tướng Cẩm và Thân cùng với chuẩn tướng Hậu, tư lệnh sư đoàn 23, tướng Niệm, tư lệnh sư đoàn 22, hai đại tá Lý và Tiếu.
– Bộ tổng tham mưu vừa bật đèn xanh cho cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên của quân khu 2. Tôi được toàn quyền ấn định ngày giờ và kế hoạch triệt thoái…
Ngừng lại nhìn bảy người đang im lặng vị tư lệnh quân khu 2 nói tiếp.
– Ngày khởi đầu cho cuộc triệt thoái sẽ là ngày 30-4-1976. Cuộc triệt thoái sẽ chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là ta sẽ di tản dân chúng trước… Dân ở Pleiku sẽ dùng quốc lộ 19 về Qui Nhơn còn Ban Mê Thuột dùng đường 21 về Nha Trang rồi tàu hải quân sẽ chở họ ra Phú Quốc tạm trú. Sau đó là giai đoạn thứ nhì. Bộ tư lệnh quân khu và các đơn vị không chiến đấu như quân y, tiếp liệu, quân vận, quân nhu, truyền tin sẽ di tản. Giai đoạn thứ ba là của hai sư đoàn 23, sư đoàn 22 với biệt động quân và thiết giáp. Hai sư đoàn bộ chiến và biệt động quân có thiết giáp yểm trợ sẽ rút theo quốc lộ 14. Sư đoàn 23 sẽ lui về Gia Nghĩa còn sư đoàn 22 sẽ đóng tại Chơn Thành. Các anh có ý kiến gì không?
Thiếu tướng Phan Đình Niệm lên tiếng trước nhất.
– Tôi đồng ý với kế hoạch lui binh này nhưng tôi có thêm một đề nghị. Trước khi cuộc triệt thoái bắt đầu ta nên vô hiệu hóa sự tấn công của địch vào đoàn quân di tản bằng cách mở cuộc hành quân tảo thanh và càn quét các đơn vị của địch phải chạy qua bên kia biên giới…
Hơi mỉm cười tướng Giai bàn thêm.
– Tôi tán thành đề nghị của anh Niệm. Vừa đông quân số lại thêm súng đạn đầy đủ tại sao ta không mở một phản công trước khu rút lui. Làm như thế có hai điều lợi là gây tổn thất cho ba bốn sư đoàn của địch để họ không thể truy kích đồng thời làm chậm đi sức tiến quân của chúng…
Tướng Hiếu gật gù cười lên tiếng.
– Tôi cũng nghĩ như hai anh. Ta có hai sư đoàn bộ chiến cộng thêm bốn mươi lăm tiểu đoàn biệt động quân, như vậy đủ cho ta mở một cuộc tổng phản công tiêu diệt bốn sư đoàn của địch đang hoạt động tại cao nguyên…
Suốt ngày hôm đó vị tư lệnh quân khu 2 cùng các các tướng lãnh bàn thảo một cuộc tổng phản công trước khi triệt thoái khỏi vùng cao nguyên.
Không khí yên bình của ngày mồng bốn tết bỗng nhiên được hâm nóng bằng lửa. Lửa chiến chinh. Lửa cháy hừng hực nơi đèo An Khê. Đèo Mang Giang. Đèo Phượng Hoàng. Khánh Dương. Đức Lập. Kiến Đức. Khiêm Đức. Phước An. Thanh An. Phú Túc. Phú Bổn. Thuần Mẫn. Buôn Hồ. Lạc Thiện. Chu Pao. Bốn sư đoàn chủ lực của cộng sản Bắc Việt là sư đoàn 316, sư đoàn F10, sư đoàn 3 sao vàng và sư đoàn 968 liên tiếp bị sư đoàn 22, 23 và 17 liên đoàn biệt động quân thay phiên nhau nựng sưng mặt, dủa tà mỏ và nhồi cho ngất ngư con tàu đi. Dưới sự hộ tống của đại đội cận vệ Văn Tiến Dũng chạy qua biên giới không kịp mang giày. Hoàng Minh Thảo trốn chui trốn nhủi ở vùng tam biên mà còn sợ đổ mồ hôi. Mặt Trận B3 của cộng sản Bắc Việt giờ đây trở thành Mặt Trận Bò Lê, Bò Lết, Bò Càng. Chưa bao giờ các đơn vị của Giáp lại lâm vào thế bị động, phải chém vè, phải phân tán mỏng, phải lòn, phải lủi, phải rút qua biên giới dưới sự oanh kích của máy bay và sự truy đuổi ráo tiết của những người lính mà họ nghĩ là sẽ buông súng đầu hàng vì không có viện trợ của Mỹ. Lính của sư đoàn F10 giật mình khi nghe tiếng ho của lính trung đoàn 44. Bộ đội của sư đoàn 3 sao vàng xanh mét mặt mày khi đụng với lính của sư đoàn 22. Bộ đội của Giáp sợ lính biệt động quân còn hơn sợ bác và đảng. Bác đảng đưa họ vào nam nhưng vào nam không có nghĩa là chết; song xui xẻo đụng nhằm lính biệt động là chết không kịp ngáp. Những trận đụng độ ác liệt và đẫm máu kéo dài từ đầu năm cho tới hạ tuần tháng ba mới chấm dứt khi đám tàn binh cuối cùng của già Hồ trốn sang bên kia biên giới.
30- 4- 76. Hàng ngàn dân chúng của thành phố Ban Mê Thuột và Pleiku thong thả rời cao nguyên xuôi về duyên hải miền trung. Ngay cả khi các tiểu đoàn cuối cùng của biệt động quân rời quân khu 2, những đơn vị của bắc việt vẫn không dám vượt qua biên giới để truy đuổi. Chân bên này, chân bên kia biên giới, Văn Tiến Dũng thở phào nhẹ nhỏm. Tuy nhiên hơn tuần lễ sau hắn mới dám rón rén vào thị xã Ban Mê Thuột vì e ngại lọt vào cái kế không thành của tướng Hiếu.
Dân chúng và báo chí trong nước lẫn ngoại quốc đều kinh ngạc tự hỏi tại sao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lại triệt thoái sau khi thắng lớn ở vùng 2. Ngay cả Hà Nội cũng thắc mắc. Quân lực đông đảo, súng đạn có thừa thế mà vì lý do gì địch lại rút lui? Phải có gì bí ẩn bên trong? Phải chăng đây là thế một bước lùi hai bước tiến?
Toàn thể lực lượng của quân khu 2 với lực lượng đặc nhiệm 1 và 2 lập một phòng tuyến vững chắc từ Phan Rang dài lên tới biên giới Việt Miên. Với ý định cắt đứt con đường xâm nhập người và vật liệu từ ngoài bắc vào cho Mặt Trận Nam Bộ hay là Mặt Trận B2, bộ tổng tham mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã phối trí các đại đơn vị thành một đường ranh giới hổ trợ cho hai mặt kinh tế lẫn quân sự. Bộ tư lệnh sư đoàn 23 bộ binh của chuẩn tướng Hồ Trung Hậu cùng với trung đoàn 44 đóng tại Gia Nghĩa, tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Đức. Trung đoàn 45 đóng ở Kiến Đức, giao điểm của đường 14 với tỉnh lộ 344, còn trung đoàn 53 đóng ở Đức Phong, một vị trí nằm trên quốc lộ 14, giữa đường của Gia Nghĩa và Đồng Xoài. Sư đoàn 22 bộ binh của tướng Niệm đặt căn cứ tại Đồng Xoài. Sau nhiều trận đánh đẫm máu các đơn vị của Mặt Trận B2 phải tạm thời rút về vùng Bù Gia Mập. Khai thông xong hai quốc lộ 13 và 14, tướng Niệm cho trung đoàn 40 đóng ở Lộc Ninh; trung đoàn 41 đóng ở An Lộc; trung đoàn 42 giữ Chơn Thành trong khi trung đoàn 47 đóng ở Đồng Xoài. Để yểm trợ tối đa cho hai sư đoàn 22 và 23, bộ tổng tham mưu còn tăng cường thêm năm liên đoàn 21, 22, 23, 24 và 25 biệt động quân. Tất cả lực lượng này được đặt dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu mà bộ tư lệnh đóng tại Chơn Thành. Sau khi tướng Hiếu đã bố trí đơn vị xong, bộ tổng tham mưu rút hết các đơn vị của sư đoàn 5 bộ binh về hoạt động trong hai tỉnh Bình Dương và Biên Hòa.
Lực lượng thuộc quyền chỉ huy của tướng Trưởng với ba sư đoàn 1, 2 và 3 lãnh nhiệm vụ án ngữ đường ranh giới từ Phan Rang xuyên qua thị trấn Đà Lạt và tiếp giáp với Gia Nghĩa. Ba sư đoàn 1, 2 và 3 chịu trách nhiệm hai tỉnh Tuyên Đức và Ninh Thuận gồm bảy quận Đơn Dương, Đức Trọng, Lạc Dương, An Phước, Bỉm Sơn, Du Long và Thanh Hải. Ba sư đoàn rường cột của tướng Trưởng phải đối đầu với bốn sư đoàn chánh quy của cộng sản bắc Việt là 304, 312, 320B và 325 cùng hai trung đoàn độc lập 27 và 31 của Mặt Trận B- 5. Để quân bình cán cân quân số, bộ tổng tham mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tăng cường cho tướng Trưởng hai sư đoàn tổng trừ bị là thủy quân lục chiến với nhảy dù. Lực Lượng của tướng Lân đóng ở Phan Rang còn tướng Lưỡng đặt bộ tư lệnh tại Xuân Lộc. Mười hai liên đoàn 4, 6, 7, 8, 9, 11, 12, 14, 15, 31, 32 và 33 biệt động quân với quân số hơn mười lăm ngàn binh sĩ thiện chiến trở thành lực lượng tổng trừ bị sẵn sàng được ném vào mặt trận nào nặng nhất. Tuy nhiên dù đối mặt với nhau hai bên không bên nào tấn công trước, ngoài những trận đánh nhỏ cấp tiểu đoàn dùng để thăm dò phản ứng cũng như tìm kiếm yếu điểm của địch quân trước khi mở các mặt trận lớn hơn để giải quyết chiến trường. Mọi người đều biết bên trong sự yên tịnh đó đang chứa đựng thứ lửa, lửa chiến tranh tàn khốc quyết định vận mệnh của Việt Nam Cộng Hòa.
15
Chiếc C130 từ từ dừng lại. Ngọc Thụy bước ra. Chiếc Lam trờ tới. Đình Anh cười nói.
– Em mệt không?
Leo lên xe Ngọc Thụy cười nói với người yêu.
– Mệt ít mà nhớ anh nhiều hơn… Tình hình có gì khả quan không?
Đình Anh thở dài lắc đầu.
– Khẩn trương lắm… Hôm qua cậu Viên có nói với anh là Bắc Việt bắt đầu mở cuộc tổng tấn công toàn diện để dứt điểm ta. Chúng đánh Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Lộc Ninh, An Lộc, Đồng Xoài, Chơn Thành, Gia Nghĩa…
Ngọc Thụy thở dài sườn sượt. Xe ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhất.
– Em về nhà hay ghé qua thăm cậu Viện?
– Em muốn về nhà để tẩy sạch bụi phong trần. Hơn nửa tháng đi giang hồ người em hôi như chuột…
Ngọc Thụy cười đùa trong lúc vòng tay ôm hông người yêu. Đình Anh cũng đùa lại.
– Ừ… Em về nhà tẩy sạch bụi giang hồ và diện cho đẹp xong anh chở em đi ăn phở Pasteur. Nửa tháng nay anh nhớ chiếc áo dài màu tím hoa ô môi của em muốn chết…
Dụi đầu vào lưng Đình Anh, Ngọc Thụy hỏi.
– Anh nhớ màu tím hoa ô môi chứ anh không có nhớ em hả?
– Nhớ em còn đậm hơn nữa…
Xe chạy qua chợ Bà Chiểu. Dù tình hình sôi động nhưng người ta vẫn ăn chơi như thường lệ. Đèn sáng trưng. Hàng quán dập dìu người ra vào.
– Anh có gặp anh Quốc không?
– Không… Hình như ảnh đang ở Lai Khê hay Chơn Thành. Liên đoàn của ảnh được tăng viện cho sư đoàn 22…
Bạch và Hải reo hò khi thấy Ngọc Thụy trở về.
– Ủa má không đi chơi sao má?
Má Ngọc Thụy cười nói.
– Tình hình lộn xộn lắm nên mấy bà bạn của má dẹp cái vụ đậu chếnh rồi…
Nhìn Đình Anh bà cười hỏi.
– Cháu có gặp cậu Viên không?
– Dạ có… Cháu mới gặp cậu hôm qua. Lúc này cậu bận lắm. Có khi tám chín giờ tối mà cậu cũng chưa về nhà…
Nhìn con gái và Đình Anh, bà Bình An thấp giọng.
– Má nghe đồn chánh phủ của mình sẽ bỏ Sài Gòn. Hai đứa con có biết không?
Ngọc Thụy liếc nhanh Đình Anh rồi cười hỏi lảng sang chuyện khác
– Má chịu về Cần Thơ ở không má?
– Chịu chứ… Ở Sài Gòn đâu có vui bằng Cần Thơ… Về Cần Thơ là mình ở gần chị hai của con. Má sẽ đi thăm con Hồng hoài…
– Vậy gần cuối năm mình dọn về Cần Thơ… Hai đứa con sẽ về Cần Thơ sửa soạn trước rồi lên đón má và hai em về…
– Con tính vậy cũng được… Hay để má về trước…
Khẽ gật đầu Ngọc Thụy nói.
– Má muốn về trước cũng được. Bây giờ mới tháng năm nên chừng tháng chín mình dọn về cũng được…
Ngọc Thụy bỏ vào phòng sửa soạn trong lúc Đình Anh ngồi trò chuyện với má của Ngọc Thụy. Ăn phở xong Đình Anh hỏi người yêu trong lúc hai đứa đứng trên lề đường Pasteur.
– Em muốn đi đâu?
Ngồi lên yên xe, vòng tay ôm eo ếch, đầu tựa vào vai Ngọc Thụy nói nhỏ.
– Về nhà anh. Em sẽ kể cho anh nghe chuyến công tác Cần Thơ và Phú Quốc…
– Ừ… Về nhà anh mình sẽ uống trà thưởng trăng. Anh cũng nóng lòng muốn biết chánh phủ đã chuẩn bị tới đâu rồi…
Xe chạy trên đường Hồng Thập Tự. Sở thú ban đêm đìu hiu. Cầu Thị Nghè nước lặng lờ chảy. Đình Anh dựng xe trước cửa. Ngọc Thụy lặng lẽ leo lên cầu thang trong lúc Đình Anh vào gặp chủ nhà xin nước pha trà. Đứng trên lan can nàng nhìn phong cảnh ban đêm của thành phố rồi tự dưng thở dài buồn bã. Nàng không muốn mất Sài Gòn, nơi chốn mà nàng cảm thấy gắn bó, gần gụi và thân thiết. Sài Gòn với nàng như một người bạn của tuổi ấu thơ, tuổi học trò và gần đây nhất tuổi của tình yêu. Nhờ có Sài Gòn nàng mới gặp Đình Anh rồi dắt tay nhau không phải để đi vào thế giới diễm ảo của tình yêu mà tham dự vào những biến động làm thay đổi lịch sử. Nàng biết rồi đây Sài Gòn sẽ mất. Sài Gòn sẽ bị cưỡng chiếm bởi những kẻ lưu manh, xảo trá, ăn gian nói dối. Sài Gòn sẽ bị nhiểm độc. Sài Gòn sẽ bị cấm cười, nói, yêu thương, suy tư cũng như mộng mơ. Người dân Sài Gòn sẽ trực diện với những người cùng chủng tộc, màu da nhưng không cùng tôn giáo và tư duy. Thiếu nữ của Sài Gòn sẽ phải chung đụng với người rừng, những kẻ dốt nát nhưng lếu láo xưng là đỉnh cao trí tuệ của loài người để che đậy cái mặc cảm thấp kém và lạc hậu.
Ngọc Thụy quay nhìn khi nghe tiếng động vang lên nơi cầu thang. Đình Anh bưng một cái khay có bình trà với hai cái tách và một cái dĩa nhỏ.
– Anh đãi em hai thứ quí hơn vàng là trà Bảo Lộc và kẹo mè xửng…
Đón lấy tách trà nóng Ngọc Thụy hít hơi thật dài như muốn hít mùi trà thơm vào tận trong phổi của mình.
– Làm sao anh mua được kẹo mè xửng?
– Của những người từ miền trung mang vào. Không sống nổi với cộng sản một ít dân đánh cá liều mạng vượt biên vào nam…
Đình Anh khe khẽ thở dài.
– Họ kể nhiều chuyện buồn và khủng khiếp lắm. Họ bảo miền trung bây giờ là địa ngục trần gian. Nhà tù nhiều hơn trường học. Bộ đội, công an nhiều hơn dân. Họ bảo tất cả những ai có liên hệ với Mỹ và chính quyền Sài Gòn đều bị đi tù, bị đày lên núi…
Ngọc Thụy ứa nước mắt. Nàng không muốn khóc nhưng tự dưng nước mắt cứ ứa ra. Giọng nói hơi khàn và trầm của người yêu vang đều bên tai.
– Sài Gòn và toàn thể nước ta rồi cũng vậy. Dân chúng sẽ bị bịt miệng, bịt mắt, trói tay, xiềng chân, phải ngồi im nghe lời giảng dạy của những người mà họ biết chỉ giỏi hơn họ về sự gian dối, xảo trá…
– Em sẽ nói với cậu Viên cố gắng giữ Sài Gòn lâu hơn…
– Anh và cậu có bàn về chuyện này hôm kia. Cậu bảo cậu không muốn bỏ thủ đô nhưng lực bất tòng tâm. Quân dụng mà Hoa Kỳ trao cho mình chỉ còn đủ dùng hai năm nữa thôi. Vả lại mình phải giữ lại nhiều súng đạn để cố thủ ở miền tây. Bắc Việt cũng biết điều đó nên đã mở những cuộc tổng tấn công trên các mặt trận. Ba ngày trước tụi nó pháo kích và tấn công vào Gia Nghĩa, nơi đóng quân của bộ tư lệnh sư đoàn 23 bộ binh. Hai bên đánh nhau cả ngày. Số người chết lên tới cả ngàn. Bắc Việt hơn hẳn mình về vũ khí tối tân mà hỏa lực cũng nhiều hơn năm bảy lần…
Ngọc Thụy cảm thấy có cái gì nghèn nghẹn nơi cổ khiến cho nàng phải uống một ngụm nước trà.
– Cậu Viên nói với anh là sau một buổi họp kín, Hội Đồng Dân Quân Cách Mạng cho biết các cơ quan của chính phủ dân sự và quân đội đã hoàn tất giai đoạn 1 trong việc rút bỏ vùng 3 và Sài Gòn. Các nhu yếu phẩm như xăng dầu, thực phẩm khô đã được di chuyển cũng như một số dinh trại của quân đội đã được tháo dỡ xong chở về miền tây và Phú Quốc. Tất cả nhừng gì cần thiết cho một cuộc định cư lâu dài ở miền tây và Phú Quốc đã được đem đi hết rồi. Giai đoạn 2 là di tản dân chúng. Đây là giai đoạn phức tạp và khó khăn nhất vì sẽ gây ra rất nhiều xáo trộn về mặt tâm lý, kinh tế và quân sự đồng thời ảnh hưởng tới tinh thần chiến đấu của binh sĩ nơi mặt trận. Để giữ vững tinh thần chiến đấu của binh sĩ, bộ tổng tham mưu đã ra lệnh cho sĩ quan từ cấp tư lệnh sư đoàn trở xuống phải hội họp để giải thích cho binh sĩ biết là vợ con, cha mẹ, anh chị em của họ sẽ được chánh phủ dành ưu tiên một trong vấn đề di tản về miền tây…
– Khi nào giai đoạn 2 mới bắt đầu…?
Ngọc Thụy hỏi nhỏ. Đình Anh hớp ngụm nhỏ nước trà còn âm ấm. Kẹo mè xửng ngọt nhưng anh cảm thấy có vị đăng đắng.
– Nó đã bắt đầu trong vòng kín đáo từ hồi sau tết tức là sau khi mình rút khỏi cao nguyên. Một số viên chức trong vài cơ quan liên hệ tới chuyện di tản của chính phủ đã được gởi xuống Cần Thơ để nghiên cứu và chỉ huy việc thiết lập mọi công sở, dinh trại, nhà cửa cho quân dân cán chính cư ngụ. Theo như anh biết một số dân chúng của vùng 3 và Sài Gòn cũng như binh sĩ sẽ rút về miền tây để tiếp tục chiến đấu cho tới khi nào mình bắt buộc phải bỏ miền tây…
Ngọc Thụy lại hỏi.
– Có cách nào để mình giữ miền tây được không?
– Có… Mình chỉ đủ súng đạn đánh nhau chừng hai ba năm nữa mà thôi. Còn đi vay thời không có nước nào dám bỏ tiền cho mình vay. Họ sợ mình giựt vả lại tình thế của nước mình chông chênh sắp lật nên thiên hạ sợ…
Ngọc Thụy cười buồn. Cái khó nó bó cái khôn. Chiến tranh đã tàn phá, khiến cho Việt Nam Cộng Hòa, mười mấy năm trước là một quốc gia sản xuất nhiều lúa gạo mà bây giờ phải nhập cảng gạo để nuôi dân. Kho tàng trống không, tiền bạc thiếu hụt, chánh phủ lấy gì để tự túc tự cường, để mua súng đạn đánh nhau với cộng sản. Dù đã đoán trước nhưng viễn ảnh toàn Việt Nam Cộng Hòa bị cai trị bởi cộng sản khiến cho Ngọc Thụy buồn rầu. Giọng nói trầm và khàn đục của Đình Anh vang lên.
– Mình đã làm những gì mình có thể làm để kéo dài cuộc chiến tranh với hy vọng chuyển xoay được thời cuộc. Tuy nhiên…
Ngọc Thụy lại thở dài.
– Theo anh thời mình giữ miền tây được bao lâu?
Trầm ngâm giây lát Đình Anh mới trả lời.
– Cậu Viên nói từ ba tới bốn năm thôi… Cậu Viên nói nhờ dựa vào phòng tuyến thiên nhiên là sông Vĩnh Tế với sông Tiền nên mình không phải tốn nhiều súng đạn để tử thủ. Vả lại sau khi rút về miền tây thời toàn bộ lính địa phương quân và nghĩa quân sẽ được giải ngũ về nhà để tăng gia sản xuất. Mình chỉ giữ lại các sư đoàn bộ chiến và lực lượng tổng trừ bị. Theo tính toán của bộ tổng tham mưu thời sau khi rút về miền tây quân lực của ta chỉ còn có các sư đoàn 1, 2, 3, 5, 7, 9, 18, 22, 23 và 25. Phần lực lượng tổng trừ bị có hai sư đoàn thủy quân lục chiến, dù và 15 liên đoàn biệt động quân…
Quay nhìn Ngọc Thụy, Đình Anh nói với giọng vui vẻ và thích thú.
– Cậu Viên nói với anh là cậu chỉ thị cho tướng Giai gom hết 45 tiểu đoàn để lập ra ba sư đoàn cho dễ chỉ huy. Anh Quốc sẽ được vinh thăng đại tá và làm tư lệnh sư đoàn 101. Đại tá Kiếm sẽ chỉ huy sư đoàn 106, anh Bảo cũng được lên đại tá và coi sư đoàn 102 biệt động quân. Cậu Viên…
Cười thành tiếng Ngọc Thụy ngắt lời người yêu.
– Chà lúc này em coi bộ anh gần cậu Viên hơn em rồi. Anh tính giựt cậu Viên của em hả?
Đình Anh cười hả hả khi nghe Ngọc Thụy nói đùa.
– Anh cần núp bóng cậu Viên để em khỏi ăn hiếp anh. Có gần gũi cậu Viên mới biết cậu là một người lính tận tụy với chức vụ và yêu nước. Cậu làm việc quên ăn bỏ ngủ. Tám chín giờ tối mới về nhà mà bảy giờ sáng đã có mặt ở văn phòng rồi…
Bỏ dở câu nói Đình Anh rót thêm trà vào tách cho người yêu xong thì thầm.
– Anh nhớ em…
– Em cũng nhớ anh…
Đình Anh hôn nhẹ lên môi người yêu. Ngọc Thụy cười nói với giọng nhỏng nhẽo.
– Anh hôn có chút xíu hà… Anh phải hôn nhiều hơn em mới chịu…
Cười lặng lẽ Đình Anh vòng tay kéo người yêu vào lòng. Hai người đứng bên nhau nhìn bóng tối mênh mông. Không có gì hết ngoài tiếng thở dài. Không gian yên lặng.
Đang ngồi nói chuyện với Ngọc Thụy và Đình Anh, Mai ngạc nhiên khi thấy Thạnh, chồng của mình bước vào cửa.
– Anh về sớm…
Gật đầu chào Đình Anh và Ngọc Thụy xong Thạnh quay qua cười nói với vợ.
– Anh phải đi công tác khẩn cấp… Anh phải chỉ huy đoàn xe quân vận chở đạn lên tiếp tế cho sư đoàn 22 đóng ở Chơn Thành…
Đình Anh xen vào.
– Em nghe nói trên đó đánh lớn lắm…
Thạnh gật đầu cười.
– Bởi vậy anh phải dẫn đoàn xe lên tiếp tế cho họ. Anh nghe tin là Bắc Việt chuẩn bị đánh lớn vì vậy cục tiếp vận mới phải tiếp tế tối đa cho mặt trận của tướng Hiếu…
Biết chồng phải đi xa thời gian lâu nên Mai nói.
– Em dọn cơm cho anh ăn rồi em sửa soạn quần áo cho anh…
Ngồi vào bàn ăn cơm Thạnh dặn vợ.
– Em soạn cho anh chừng ba bốn bộ quần áo thôi. Chắc đi không lâu đâu…
Đang lui cui soạn quần áo cho chồng, Mai hỏi khi thấy Ngọc Thụy và em trai đứng lên.
– Hai đứa về hả?
– Dạ tụi em về…
Bắt tay anh rể Đình Anh cười nói.
– Anh cẩn thận… Tụi này gặp lại anh sau…
Vừa tới Chơn Thành được hai ngày liên đoàn 4 của Quốc được lệnh hành quân giữ an ninh tối đa quốc lộ 13 từ Chơn Thành đi An Lộc để đoàn công voa của tiếp vận sẽ chở súng đạn lên cho hai trung đoàn 40 và 41 đóng ở Lộc Ninh và An Lộc. Quốc họp với Trang và ba tiểu đoàn trưởng là Tráng, Hạnh và Thiều.
– Quân xa sẽ thả ba tiểu đoàn dài từ Chơn Thành tới An Lộc. Ba ông nên cho lính bung ra kiểm soát cũng như tìm kiếm mìn của địch. Mặc dù đoạn đường này đã được giải tỏa nhưng vẫn bị tụi du kích bắn sẻ và đặt mìn…
Nhìn ba tiểu đoàn trưởng Quốc nghiêm giọng.
– Hai trung đoàn 40 và 41 đều thiếu thốn quân dụng cho nên việc tiếp tế của họ được đặt lên ưu tiên một. Ba ông phải làm sao đừng để mình mất mặt với ông Hiếu và ông Niệm…
Tráng cười đùa.
– Anh đừng lo… Tôi biết con đường này rành lắm. Để tôi đi đầu cho…
Trời tờ mờ sáng. Tuy chưa tới giờ khởi hành nhưng Thạnh đã ra lệnh cho các toán trưởng sẵn sàng. Năm mươi chiếc quân xa đều nổ máy. Mọi thứ quân dụng chất đầy trong lòng xe. Sáu giờ sáng. Lệnh di chuyển ban ra. Đoàn công voa từ từ lăn bánh trên con đường đầy ổ gà vì mìn và lâu ngày không được tu bổ. Con lộ bề ngang bảy tám thước chạy lọt giữa rừng cao su ngút ngàn. Cây cối xác xơ. Phong cảnh tiêu điều và hoang vắng. Không có người ở đã đành mà ngay cả hoang thú cũng vắng bóng. Sau ngày ngưng bắn con đường mang số 13 này lọt vào vòng kiểm soát của cộng quân. Với mục đích cô lập An Lộc, Mặt Trận B- 2 đã cho bộ đội đóng chốt tử thủ đoạn đường này. Hai trung đoàn 40 và 41 của sư đoàn 22 phải tốn nhiều xương máu mới giải tỏa được con đường mang số xui xẻo. Tuy nhiên đám du kích vẫn mò ra bắn sẻ hoặc đặt mìn cố gắng làm ứ đọng sự tiếp tế cho An Lộc.
Ngồi băng trước với tài xế Thạnh quan sát cảnh vật hai bên đường. Hơn mười năm đi lính đây là lần đầu tiên anh mới bị cấp trên phái đi xa. Cảnh vật hoang vu và không khí im vắng khiến cho vị đại úy quân vận cảm thấy hồi hộp và lo âu. Trông thấy thái độ của cấp chỉ huy người lính tài xế cười trấn an.
– Đại úy an tâm… Con đường này cách đây mấy tháng bị tụi nó chiếm đóng nhưng bây giờ thời yên rồi. Tôi dọ được tin là biệt động quân đang giữ an ninh cho đoàn xe của mình từ Chơn Thành tới An Lộc. Biệt động giữ an ninh là mình khỏe re. Bộ đội chọc ai chứ không dám chọc mấy ông ba mươi đâu…
– Tụi nó có pháo kích hay bắn sẻ không?
– Cái đó thời ở đâu cũng có… Pháo kích hay bắn sẻ thời hơi sức đâu mà mình lo đại úy…
Dù người tài xế nói như vậy mà Thạnh vẫn thầm lo âu. Tuy nhiên anh dần dần cảm thấy yên tâm hơn khi thấy mấy người lính áo rằn đứng giơ tay vẩy vẩy đoàn công voa. Chỉ bóng lính biệt động quân thấp thoáng trong bìa rừng người tài xế cười nói.
– Họ tuần tiễu như vầy là mình không sợ bị phục kích…
Xe chạy tới trưa Thạnh thấy một toán lính biệt động quân đứng giữa đường. Một người giơ tay ra hiệu cho xe dừng lại
– Có chuyện gì vậy?
Thạnh hỏi tài xế.
– Chắc có chuyện lộn xộn. Tôi thấy hình như có người chết nằm trên đường…
Một người lính áo rằn đi tới chiếc xe dẫn đầu đoàn công voa. Thấy Thạnh mang cấp bậc đại úy người lính cười.
– Đại úy là trưởng toán đoàn công voa?
– Chính tôi… Có chuyện gì vậy anh?
Nhìn kỹ thấy người lính mang trên cổ áo hai bông mai bạc, Thạnh cười tiếp.
– Xin lỗi trung tá… Tôi là đại úy Thạnh, trưởng toán đoàn xe quân vận…
Vị trung tá cười nói vui vẻ.
– Tôi là trung tá Quốc, liên đoàn trưởng liên đoàn 4 biệt động quân. Hân hạnh được gặp đại úy…
Quốc đưa tay ra. Thạnh bắt tay vị sĩ quan biệt động xong cười hỏi.
– Có chuyện gì vậy thưa trung tá?
– Lính của tôi vừa bắn chết ba tên du kích định mò ra đặt mìn. Lính đang kiểm soát để xem có mìn trên đường không. Chắc cũng phải mất chừng mười lăm phút…
Thạnh mở cửa bước xuống đường. Quốc rút thuốc mời vị sĩ quan quân vận.
– Con đường này chắc an ninh thưa trung tá?
Hiểu ý của người hỏi Quốc cười nhẹ.
– An ninh thời có nhưng nếu nói là 100/100 thời tôi không dám nói. Lính của tôi đã tuần tiễu và lục xoát khắp nơi cho nên đoàn công voa của đại úy chắc chắn sẽ không bị phục kích trên đường đi. Tuy nhiên chuyện bắn sẻ và đặt mìn có thể xảy ra…
Hít hơi thuốc, từ từ nhả khói Thạnh gợi chuyện.
– Chắc trung tá ở Sài Gòn?
Quốc gật đầu đáp.
– Tôi ở Tân Định. Còn đại úy?
– Nhà tôi ở Gia Định… Trung tá chắc đã có gia đình?
Thạnh không thấy được nét thoáng buồn trên khuôn mặt của người lính biệt động.
– Tôi còn độc thân… Đại úy được mấy cháu?
– Ba… Đứa con gái lớn nhất và hai đứa con trai…
Thạnh ngưng nói khi thấy một thiếu tá bước tới nói với Quốc.
– Anh Năm…Lính báo cáo không thấy có gì khả nghi trên đường…
Gật đầu Quốc cười nói với Thạnh.
– Xong rồi… Đoàn xe có thể lên đường… Tôi chúc đại úy đi đường bình an…
Nói xong Quốc bước theo lính của mình. Vì hút chưa xong điếu thuốc nên Thạnh vẫn còn đứng trên đường. Cắc… Bùm… Tiếng nổ đột ngột vang lên khiến cho Quốc giật mình quay lại. Anh thấy vị đại úy quân vận loạng choạng một bước rồi ngã lăn ra đất. Chạy nhanh tới chỗ Thạnh đang nằm ngửa mặt lên trời Quốc lắc đầu thở dài. Cú bắn sẻ của tên du kích nào đó thật độc địa. Nơi ngực trái của Thạnh có một lỗ sâu hun hút. Máu từ đó phun ra đỏ lòm. Thạnh phều phào.
– Trung tá…
Bàn tay run run của Thạnh đưa tay lên cố gắng mở nút áo nhưng không được. Hiểu ý Quốc mở nút áo lấy ra cái bóp đưa cho Thạnh. Vị đại úy quân vận đặt nó vào tay Quốc xong thều thào.
– Trung tá… đưa cái này… cho vợ… vợ tôi…
Thạnh thở hắt hơi dài rồi ngọeo đầu sang bên. Quốc ứa nước mắt. Gần hai chục năm ở lính nhất là lính biệt động anh đã từng thấy lính chết. Chết đủ kiểu. Nằm. Ngồi. Đứng. Chết hai ba lần. Chết cụt đầu. Đứt nửa người. Chết đột ngột nhanh tới độ không ngờ mình bị chết. Tuy nhiên anh cảm thấy buồn vì cái chết bất ngờ của Thạnh. Nhét cái bóp vào túi áo của mình xong xốc lấy xác của Thạnh đặt lên băng sau anh lái chiếc jeep chạy ngược về hướng Chơn Thành.
Đoàn công voa tới An Lộc và Lộc Ninh tiếp tế quân dụng cho hai trung đoàn 40 và 41 rồi về lại Chơn Thành bình yên không có chuyện gì xảy ra ngoại trừ cái chết của đại úy Thạnh, sĩ quan trưởng toán.
Ngồi im trên một lô cốt đắp bằng bao cát Quốc nhìn đăm đăm ra khu rừng trước mặt. Trời xanh và trong. Nắng trưa chói chang. Cây cỏ vàng úa vì ảnh hưởng của thuốc khai quang. Đưa tay lên túi áo rút gói thuốc vô tình anh chạm vào cái bóp của Thạnh. Cũng vì lời trăn trối nên anh đã giữ lại cái bóp để có ngày trao lại cho gia đình người chết. Mân mê cái bóp cũ mèm giây lát Quốc từ từ mở ra. Cái bóp có ba ngăn. Ngăn thứ nhất đựng hai tờ giấy năm trăm còn mới. Ngăn thứ nhì là hình ba đứa trẻ. Mở ngăn thứ ba Quốc nhìn trân trân bức ảnh bán thân của người đàn bà mà anh đoán là vợ của Thạnh. Anh cảm thấy có bàn tay nào đó bóp lấy trái tim mình. Người đàn bà trong hình là Mai. Người mà anh yêu thương suốt đời. Người mà anh mơ hằng đêm. Người mà anh gọi tên trong những lúc cô đơn và buồn rầu. Mai hiện ra rực rỡ. Mai yêu kiều với nụ cười làm ấm lòng người lính chiến. Có thể nào Mai lại là vợ của Thạnh. Quốc bàng hoàng. Chết lịm. Ngơ ngẩn. Anh quên luôn điếu thuốc đang cháy trên tay mình. Ngồi im lìm suy nghĩ giây lát Quốc đi về phía bộ tư lệnh của tướng Hiếu. Phải chờ đợi chừng mười phút anh mới nghe được giọng nói của Đình Anh. Quốc từ từ kể cho Đình Anh nghe về cái chết của Thạnh.
Đám tang của Thạnh không có nhiều người tham dự trừ mấy người lính trong đơn vị. Ba đứa trẻ mếu máo khi người ta hạ huyệt. Chúng nó còn quá trẻ để hiểu được sự mất mát. Chỉ có Mai mới biết là cái chết của Thạnh sẽ gây cho nàng nhiều đớn đau và khổ sở về tinh thần lẫn vật chất. Nàng sẽ phải vô cùng vất vả mới có thể tạm nuôi ba đứa con còn nhỏ dại trong thời buổi kinh tế khó khăn và tình hình chiến tranh càng ngày càng thêm nặng độ.
Quốc đứng tần ngần trước ngôi nhà nhỏ trong khu Lò Heo thật lâu mới giơ tay gõ cửa. Có tiếng chân bước nhẹ rồi cánh cửa mở ra. Mai mở lớn mắt nhìn người lính biệt động đang đứng trước mặt mình. Trời ơi… Quốc của nàng… Quốc của một thời xa xưa. Quốc của mười mấy năm không gặp. Ánh mắt buồn u uẩn nhưng thấp thoáng nụ cười. Khuôn mặt xương xương gầy gò. Làn da xạm đen vì nắng lửa chiến trường.
– Anh Quốc…
Mai chỉ nói được hai chữ. Hai chữ thôi nhưng vô vàn ý nghĩa.
– Mai không muốn mời anh vào nhà?
Quốc hỏi với chút bông đùa. Mai gượng cười lùi lại.
– Mai xin lỗi… Mời anh vào…
Nhà vắng vì ba đứa nhỏ đi học. Quốc liếc nhanh ngôi nhà. Tất cả đều tỏ cho anh biết sự nghèo nàn của gia đình một mẹ ba con có chồng vừa chết trận. Một năm lương chẳng thấm vào đâu so với tình trạng vật giá leo thang.
– Anh Quốc về lâu chưa?
– Anh mới về hồi trưa. Gặp Đình Anh mới biết nhà của Mai…
Hai người, từng một thời yêu nhau thắm thiết, ngồi cách nhau cái bàn, nhìn nhau giây phút rồi quay đi chỗ khác. Im lặng. Họ có nhiều điều muốn nói nhưng dường như có điều gì đó làm cho họ ngại ngùng khó mở lời. Cuối cùng tằng hắng tiếng nhỏ Quốc lên tiếng.
– Thạnh đã chết trên tay của anh… Trước khi nhắm mắt Thạnh có nhờ anh trao lại vật này cho Mai…
Quốc đặt cái bóp lên bàn. Mai ứa nước mắt. Đó là vật mà nàng đã mua tặng cho chồng vào dịp tết cách đây năm năm. Tuy nó cũ và sờn rách nhiều chỗ nhưng Thạnh không chịu bỏ vì đó là vật kỷ niệm của người vợ thân yêu.
– Anh chỉ gặp Thạnh có một lần, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng…
Như không ngăn được cảm xúc Mai bật khóc.
– Anh thành thật chia buồn với Mai…
– Cám ơn anh…
Nhìn Mai đang gục đầu Quốc thở dài.
– Nếu em cần gì hãy cho anh biết. Anh sẵn sàng giúp em những gì anh làm được. Ngay cả những gì không làm được anh cũng làm…
Mai ngước lên nhìn người mà mình đã từng yêu thương trong quá khứ.
– Cám ơn anh… Em không biết em cần gì nữa…
– Em đừng bi lụy nhiều quá không tốt. Em nên nhớ em còn ba đứa con…
Ngừng lại giây lát Quốc nói với giọng nghẹn ngào.
– Em còn có ba đứa con phải nuôi dưỡng và có anh, người vẫn đi bên cạnh cuộc đời của em…
Quốc thở dài hắt hiu.
– Mười mấy năm đã qua anh vẫn còn yêu em như ngày xưa…
Dường như không muốn nghe Quốc nói tới tình yêu và dĩ vãng, Mai lảng sang chuyện khác bằng một câu hỏi.
– Ba má anh vẫn còn ở chỗ cũ?
Quốc cười buồn.
– Ba anh chết năm 70 còn má anh chết năm 72…
Quốc đứng lên.
– Anh phải đi…
Mai theo Quốc ra tới cửa. Dừng lại nơi cửa Quốc nói trong lúc nhìn vào mắt của Mai.
– Anh xin phép thỉnh thoảng tới thăm em…
Mai cười. Đây là lần đầu tiên nàng cười khi hai người gặp nhau.
– Anh cứ tới thăm nếu anh muốn…
– Anh sẽ đến…
Quốc bước nhanh ra cửa. Mai đứng nhìn theo dáng đi của người lính chiến mà nàng đã yêu cách đây mười mấy năm. Tự dưng nàng thở dài.
16
Ngay cả dân chúng là những người kém hiểu biết về chính trị và quân sự cũng nhận ra những biến chuyển của thủ đô Sài Gòn. Từng đoàn công voa bít bùng chạy ra hướng xa cảng Phú Lâm để về miền lục tỉnh. Tàu chiến của hải quân lớp neo trên sông, lớp cặp cầu dọc theo sông Sài Gòn từ Cát Lái dài tới Nhà Bè. Nguồn tin là Sài Gòn sẽ bị bỏ khiến cho dân chúng bàng hoàng và sợ sệt. Tuy nhiên rất ít người chịu mất gia sản để di tản về vùng hậu giang. Những người rời Sài Gòn đa số là gia đình binh sĩ, viên chức của các cơ quan công quyền và một số gia đình giàu sang có sẵn phương tiện để di tản.
1- 1- 1977
Hàng trăm phóng viên chiến trường trong nước và ngoại quốc có mặt ở Lai Khê hay Phan Rang để thu lượm tin tức về sự biến chuyển trong mặt trận của hai vị tướng đang ở tuyến đầu đất nước. Dù thiếu sự yểm trợ của phi cơ và pháo binh, chuẩn tướng Hồ Trung Hậu cũng về tới Chơn Thành. Sư đoàn 23 của ông đã triệt thoái dưới cơn mưa đạn của bộ đội cộng sản Bắc Việt. Ba ngày sau hai trung đoàn 40 và 41 của sư đoàn 22 bộ binh đóng ở Lộc Ninh và An Lộc cũng rút lui vì thiếu hụt đạn dược. Tuần lễ sau tướng Hiếu dời bộ tư lệnh của mình về Lai Khê còn tướng Niệm rút về đóng ở Bầu Bàng. Mặt trận của tướng Trưởng cũng không khá hơn. Các đơn vị của ba sư đoàn 1, 2, 3, dù và thủy quân lục chiến đã rút về đường ranh mới từ Phan Thiết dài lên tới Định Quán và Đồng Xoài. Mười mấy sư đoàn của cộng sản Bắc Việt được yểm trợ bởi hàng chục trung đoàn pháo, tăng và đặc công từ từ xiết chặt vòng vây. Sự sống còn của Việt Nam Cộng Hòa được đếm từng giờ. Ngày chết của Sài gòn sắp tới.
10- 3 – 1977
Tướng Hiếu và toàn bộ các đơn vị dưới quyền chỉ huy của ông lại rút lui sau những trận đánh đẫm máu với sư đoàn 7, 5, 3 sao vàng và 316 của cộng sản Bắc Việt. Tướng Hậu rút về Lai Khê. Tướng Niệm rút về Thủ Dầu Một còn tướng Hiếu rút về Lái Thiêu. Bên đông tướng Trưởng và tướng Khang bỏ Phan Rang về Vũng Tàu. Bộ tổng tham mưu ra lệnh cho sư đoàn 1 và sư đoàn thủy quân lục chiến lên tàu về Cần Thơ. Thừa thắng xông lên Bắc Việt đồng loạt tấn công. Sư đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo, sư đoàn 2 của tướng Hinh, sư đoàn 3 của tướng Nhựt, sư đoàn nhảy dù của tướng Lưỡng, sư đoàn 22 của tướng Niệm, sư đoàn 23 của tướng Hậu, sư đoàn 25 của tướng Lý Tòng Bá và các liên đoàn biệt động quân của tướng Giai đụng lia lịa với các sư đoàn cộng sản trang bị vũ khí tối tân nhất của Nga Tàu. Người lính can trường của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải dè xẻn từng viên đạn. Thiếu pháo binh, thiếu phi cơ yểm trợ họ phải đem chính thân xác cũng như lòng hy sinh của mình ra cản bước xâm lăng của bộ đội già Hồ.
30- 4- 1977
Khi người lính cuối cùng của nhảy dù bước qua bên kia cầu Bến Lức bộ đội của Giáp mới dám rón rén đi vào Ngã Ba Hàng Xanh. Họ nhìn ngắm người và cảnh của thành phố với vẻ ngơ ngác và ngạc nhiên. Thứ nhất là sự huy hoàng và tráng lệ của Sài Gòn. Thứ nhì là thái độ của dân-Sài-Gòn. Thay vì hoan hô hay chào mừng, dân-Sài-Gòn nhìn họ như nhìn những người thời cổ sử. Người-Sài-Gòn đón kẻ chiến thắng bằng thái độ dè dặt và thụ động. Nhiều người nhủ thầm là tại sao ” lũ cốt đột “ này lại có thể đánh bại Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Bây giờ họ mới thấu hiểu là đất nước thân yêu của họ đã bị bức tử bởi sự thỏa thuận giữa các siêu cường. Sài Gòn đã chết. Một trang sử đã được lật qua. Tuy nhiên người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chưa chết. Là những người lính bất khuất họ chưa chịu bỏ cuộc. Họ vẫn hiên ngang sống để viết thêm một trang sách mới hào hùng trong quyển tranh đấu sử của dân tộc.
Sau khi rút về miền tây bộ tổng tham mưu bố trí các đơn vị như sau. Sư đoàn 7 của chuẩn tướng Trần Văn Hai chịu trách nhiệm một phần của tỉnh Kiến Hòa, tức là phần đất nằm lọt giữa hai con sông Mỹ Tho và sông Hàm Luông gồm bốn quận Trúc Giang, Bình Đại, Giồng Trôm và Ba Tri. Ngồi chưa nóng ghế tướng Hai liên tiếp mở ra nhiều cuộc hành quân tảo thanh và càn quét. Chỉ trong vòng ba tháng có một ngàn quân du kích ra chiêu hồi, ba ngàn quân chủ lực miền bị giết. Dân tỉnh Kiến Hòa vui hưởng hòa bình và an ninh mà họ chưa bao giờ có. Sư đoàn 18 với sư đoàn 23 và sư đoàn 25 giữ an ninh vùng Chợ Mới, tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long và Trà Vinh với ba quận của tỉnh Bến Tre là Thạnh Phú, Mỏ Cày và Chợ Lách. Nhằm mục đích quét sạch các đơn vị của cộng sản vẫn còn hoạt động ở miền tây, bộ tổng tham mưu sử dụng sư đoàn 9, 21, nhảy dù và thủy quân lục chiến càn quét cũng như tiêu diệt hết các đơn vị du kích cùng chủ lực của cộng sản ở các tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá, Chương Thiện. Phần đất cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa không còn bóng dáng tên lính nào của cộng sản Bắc Việt hay Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Song song với chương trình bình định nông thôn, tướng Viên và bộ tổng tham mưu xúc tiến mạnh mẽ việc phòng ngự ranh giới. Mặt trận của vùng biên giới Miên Việt là mặt nặng nhất do đó tướng Viên và bộ tham mưu đã giao cho thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Mặt Trận Việt Miên.
Ngay sau khi được Hội Đồng Dân Quân Cách Mạng phong chức Tư Lệnh Mặt Trận Việt Miên, tướng Nam di chuyển bộ tham mưu của ông tới Long Xuyên. Một ngày sau khi tới nơi ông cùng với tướng Hưng thị sát mặt trận xong giao cho sư đoàn 1 trấn giữ quận Tân Châu. Sư đoàn 2 lãnh quận châu thành trong đó có thị xã Châu Đốc. Sư đoàn 3 coi quận Tịnh Biên. Sư đoàn 5 án ngữ quận Kiên Lương thuộc tỉnh Kiên Giang còn sư đoàn 22 đóng ở quận Tri Tôn. Hạm đội của phó đô đốc Cang giữ một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tuần tiễu cũng như ngăn chận các cuộc đột kích của địch. Con sông Tiền bao la quả nhiên là hàng rào ngăn địch hữu hiệu và ít tốn hao nhất. Không vượt qua được Tiền Giang cộng sản Bắc Việt phải chuyển về hướng tây dọc theo biên giới Miên Việt. Đến đây người ta mới thấy được cái lợi ích của chương trình khơi dòng kinh Vĩnh Tế. Vượt trường sơn vào nam bằng chân trần cuối cùng bộ đội của Giáp phải dừng lại nơi bờ sông Vĩnh Tế. Con sông đào dài trăm cây số, sâu tám mét rộng một cây số này là chướng ngại lớn nhất của bộ đội. Sau mấy tháng ăn chơi phè phởn, hưởng thụ tiện nghi của tư bản, Văn Tiến Dũng dàn mười mấy sư đoàn chủ lực, chục trung đoàn pháo, tăng, đặc công dọc theo sông Vĩnh Tế. Ở đây người đối mặt người vì không có rừng rú núi non để ẩn trốn hoặc phục kích. Ở đây lính đội nón tai bèo, mang giép râu trực diện với người lính anh dũng của miền tây bất khuất. Ở đây Văn Tiến Dũng đã gặp thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam.
Từ bờ sông vào sâu hơn mười cây số công binh chiến đấu đã xây vô số hầm trú ẩn, công sự chiến đấu bằng đất hoặc bê tông cốt sắt có thể chống lại đạn đại pháo của địch. Những ngọn núi đất cao năm ba chục thước được dùng làm đài quan sát hay thiết trí đại bác bắn lại địch. Giao thông hào chạy chằng chịt khắp nơi. Đường biên giới dài hun hút chằng chịt kẽm gai và vắng ngắt không bóng người. Vì đại bác và hỏa tiễn của địch có thể bắn xa hai ba chục cây số nên tiểu khu Châu Đốc đã di tản dân chúng ra khỏi vùng chiến trận từ lâu biến tỉnh lỵ thành ra một thành phố của lính nhảy dù, thủy quân lục chiến, biệt động và bộ binh.
Mai và ba con theo Đình Anh di tản xuống Cần Thơ. Ngọc Thụy và má của nàng cũng có mặt. Đại gia đình chín người chung đụng trong ngôi nhà khá rộng. Biến động của đất nước khiến cho Mai tạm quên đi cái chết của chồng để hòa nhập vào sinh hoạt mới. Nhờ sự vận động của Ngọc Thụy nàng xin được chân thư ký ở trường tiểu học. Dù lương không có bao nhiêu nhưng cũng đủ cho nàng với ba đứa con nhỏ có cơm ngày hai bữa. Từ khi gặp Quốc nàng vẫn âm thầm chờ đợi người xưa trở lại. Nhưng người lính biệt động quân đó đang ở tuyến đầu của đất nước nên chưa có dịp nào về thăm nàng như lời anh đã hứa. Hôm qua hỏi dò tin Quốc thời Đình Anh cho biết Quốc được thăng cấp đại tá chỉ huy sư đoàn 101 biệt động đang đóng ở Tri Tôn.
Thông cảm cho tâm tình của chị ruột, Đình Anh cười nói.
– Chị muốn đi thăm anh Quốc không em chở chị đi…
– Có tiện không?
Đình Anh cười vui vẻ.
– Tri Tôn cũng không xa lắm đâu. Sáng mai thứ bảy mình đi rồi chiều chủ nhật là về tới đây. Chị nhờ má Ngọc Thụy trông chừng ba đứa nhỏ…
Đình Anh rủ Ngọc Thụy và nàng ưng thuận liền. Tờ mờ sáng hôm sau ba người lái hai chiếc xe đi Long Xuyên. Mười giờ họ dừng lại ở An Châu uống nước xong đi Tri Tôn. Dọ hỏi mấy người lính biệt động quân họ mới biết bộ tư lệnh của Quốc đóng ở Ba Chúc.
Lái xe song song với Đình Anh, Ngọc Thụy cười nói với Mai.
– Anh Quốc mà thấy chị là ảnh mừng lắm. Không chừng ảnh xỉu…
Mai cười đùa.
– Biết đâu tới đó lại gặp ảnh đang có cô nào thời quê lắm…
Ngọc Thụy lắc đầu.
– Em không tin như vậy…
Xe tới Ba Chúc. Lại một màn hỏi thăm rồi cuối cùng ba người tới khu dinh trại mới cất. Quốc ngạc nhiên và vui sướng tới độ không nói thành lời khi thấy Mai. Thật lâu anh mới cười nói nhỏ.
– Cám ơn em đã tới thăm…
– Đợi anh hoài mà không thấy anh về thăm. Hỏi Đình Anh mới biết anh ở đây…
– Sao em không báo trước để anh ra đón…
Ngọc Thụy cười xen vào.
– Tụi này muốn làm anh ngạc nhiên chơi. Chị Mai tính ra đây bất ngờ để xem anh có bồ với cô nào chưa…
Quốc nhìn Mai với cái nhìn thật dịu dàng và đằm thắm.
– Mười mấy năm rồi anh sống với một cô bồ. Đó là hình ảnh của em…
Biết hai người cần tâm tình nên Ngọc Thụy khều Đình Anh.
– Hai đứa mình đi xem con sông đào Vĩnh Tế…
Quốc và Mai tản bộ trên con đường đất đỏ. Phía sau lưng họ xa xa là đỉnh núi sừng sững. Rừng cây xanh um
– Núi đó là núi gì vậy anh?
Mai chỉ vào ngọn núi xa xa.
– Đó là núi Cấm, ngọn núi cao nhất của Thất Sơn….
Mai cười nhìn Quốc.
– Anh khác hơn lần trước anh tới thăm Mai ở Sài Gòn…
Quốc cười gật đầu.
– Em nhận xét đúng lắm… Anh đang sống với hy vọng…
– Hy vọng gì?
Mai hỏi nhỏ. Quốc trầm ngâm thật lâu mới chầm chậm lên tiếng.
– Anh vì chữ hiếu nên để lỡ cuộc tình. Mười mấy năm qua anh khổ đau vì tình yêu dang dở của chúng mình. Hôm nay anh hy vọng sẽ chắp nối lại cuộc tình dù muộn màng. Em có cho anh cái hy vọng đó không?
Quốc quay nhìn vào mặt người tình xưa. Mai thở dài.
– Em già nua, xấu xí lại thêm có ba đứa con nữa. Em cảm thấy không xứng đáng với anh…
– Với anh em vẫn là người của mười mấy năm về trước. Em già anh vẫn yêu em. Em xấu anh cũng yêu em. Em có ba con anh vẫn yêu em…
Mai cười thành tiếng vui vẻ.
– Anh chứng nào tật nấy không khác hơn ngày xưa. Anh không cho em được suy nghĩ…
– Không…
Quốc nói gọn một chữ trong lúc vòng tay ôm vai người tình xưa.
– Anh không cho em có một chọn lựa?
– Không… Anh đã bỏ rất nhiều thời giờ quý báu rồi cho nên anh sẽ không cho em suy nghĩ hay chọn lựa. Anh bắt em phải lấy anh…
Mai quay nhìn người tình xưa với tia nhìn âu yếm và đằm thắm. Quốc cũng nhìn người yêu giây lát xong mới cất giọng nghiêm trang.
– Anh chỉ cần biết một điều là em có muốn trở thành vợ của anh không?
Mai cất giọng buồn buồn.
– Anh biết là em mãi mãi yêu anh cũng như mong ước được sống với anh. Tuy nhiên em đang mang tang chồng…
Đưa tay chỉ vào vùng đồng không mông quạnh Quốc cười buồn.
– Bên kia con sông Vĩnh Tế Văn Tiến Dũng đang dàn mười mấy sư đoàn đủ cả xe tăng và đại pháo. Có thể ngày mai, ngày mốt họ sẽ tấn công. Hai bên sẽ đánh nhau và người chết nhiều lắm…
Mai hiểu Quốc muốn nói điều gì. Là một người lính nhất là người lính nơi tuyến đầu lửa đạn, Quốc có thể chết bất cứ lúc nào do đó anh không thể ngồi chờ hạnh phúc đến mà phải đi săn, đi tìm để nắm lấy hạnh phúc trong tay của mình. Liếc nhanh người tình xưa đang đi bên cạnh Mai thở hắt hơi dài. Làn da xạm đen vì nắng mưa và lửa khói, nếp nhăn trên trán, ánh mắt sáng ngời, Quốc của nàng đổi khác nhiều. Hình ảnh trong ký ức tưởng mờ phai chợt bừng bừng sống dậy. Tình yêu tưởng đã ngủ quên trong hóc hẻm nào đó của tâm hồn bỗng bàng hoàng thức giấc. Bây giờ nàng còn gì đâu bên cạnh biến động lớn lao của lịch sử. Nàng mất chồng nhưng làm sao sánh được với mất mát vĩ đại của đất nước, của trăm ngàn người khác. Nàng còn gì đâu mà gìn giữ. Nàng còn gì đâu họa chăng là tình yêu trong đời người bọt bèo đang bị bao trùm bởi biến cố. Hãy yêu đi. Hãy sống cho hết một đời. Để rồi ngày mai có thành quả phụ lần nữa cũng đành thôi.
Đang đi Mai chợt dừng lại. Quốc cũng dừng bước. Anh cảm thấy rẩy run và xao xuyến khi nhìn vào ánh mắt của người đàn bà mà cách đây mười mấy năm đã cùng mình yêu nhau say đắm.
– Anh biết không… Có nhiều khi em ước ao được nhìn thấy anh. Được nghe anh cười. Được nghe anh nói. Được nắm tay anh đi trên con đường mà chúng mình đã đi qua nhiều lần…
Mai ứa nước mắt và qua màn lệ nàng cũng thấy được người tình xưa đang rưng rưng lệ vì hồi tưởng lại giây phút êm đềm của ngày xa xưa.
– Mình đã làm lở tình duyên cho nên bây giờ em không muốn nó vụt bay nữa. Em bằng lòng làm vợ anh. Giả sử như anh có chết em cũng hãnh diện vì chồng của mình đã hy sinh cho tự do của đất nước và dân tộc…
Quốc ôm người yêu vào lòng. Anh hôn lên mái tóc huyền thơm mùi bông bưởi rồi thì thầm.
– Anh cám ơn em… Cám ơn tình yêu của em…
Mai cười dụi đầu vào ngực người yêu.
– Anh phải cám ơn anh mới đúng. Nếu anh không ở vậy chờ em thời hôm nay mình đâu có phút giây xum hợp này…
Bum… Bum… Bum… Âm thanh vọng lên xa xa. Dường như từ bên kia sông vọng lại. Đó là âm thanh của tai ương. Âm thanh gắn liền với sự chết.
– Pháo… pháo… pháo kích…
Những người lính biệt động quân la ầm ỉ. Không suy nghĩ Quốc kéo người yêu chạy ào vào hầm núp. Hàng trăm. Hàng ngàn tiếng nổ ì ầm khắp nơi.
Đứng trong chiếc hầm núp kiên cố được xây bằng xi măng Đình Anh và Ngọc Thụy im lặng nhìn cảnh tượng chiến tranh thật đang diễn ra trước mắt họ. Tiếng đại bác nổ thật gần làm ù tai. Bùn đất văng tung tóe.
– Họ có vượt qua sông lần nào chưa thiếu tá?
Đình Anh hỏi vị tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn 40 của sư đoàn 22.
– Họ có thử qua sông mấy lần nhưng lần nào cũng bị ta phát giác. Sông lớn quá lội không nổi mà dùng thuyền thời bị tàu bắn…
Đình Anh nhìn Ngọc Thụy. Anh thấy người yêu nhìn ra quãng đồng trống hiu quạnh với ánh mắt đăm chiêu.
– Thiếu tá biết tướng Nam đang ở đâu không?
Nghe cô gái trẻ tuổi hỏi, vị tiểu đoàn trưởng ngạc nhiên quay nhìn giây lát rồi tươi cười trả lời.
– Tôi nghe nói ông ta ở Long Xuyên. Ở Tri Tôn có thiếu tướng tư lệnh của tôi…
Ngọc Thụy cười nhẹ.
– Thiếu tướng Niệm… Mình đi gặp ông ta…
Ngọc Thụy cười nói với Đình Anh.
– Em có ý kiến gì vậy?
Cô cháu gái của tướng Viên cười cười.
– Mình đi gặp anh Quốc… Em sẽ nói cho ảnh nghe một ý kiến tiêu diệt hai ba sư đoàn của địch mà mình chỉ tốn chừng năm ba trăm ngàn đồng…
Đình Anh nhíu mày cố nặn óc để nghĩ ra xem Ngọc Thụy có cách gì tiêu diệt hai ba sư đoàn của địch. Tiếng đại bác thưa dần rồi im hẳn. Lính lục tục kéo ra ngoài quan sát sự hư hại để sửa chữa. Bắt tay từ giã vị thiếu tá, Đình Anh và Ngọc Thụy trở lại chỗ đóng quân của Quốc. Nhìn thấy vẻ mặt tươi vui của hai người, Ngọc Thụy cười hỏi chị Mai.
– Chị bằng lòng làm vợ ảnh rồi phải không?
Mai hỏi với giọng ngạc nhiên.
– Sao em biết…?
– Nhìn nét mặt tươi rói của anh Quốc em đoán ra liền…
Quốc cười ha hả.
– Em mà làm thầy bói chắc đông khách lắm…
Thấy người yêu vừa định nói Đình Anh mở lời trước.
– Ngọc Thụy có ý kiến tiêu diệt hai ba sư đoàn Bắc Việt mà không tốn đồng xu. Anh có muốn nghe không?
Vốn biết trí óc phi thường của cô em bé tí ti, Quốc nói liền.
– Nghe… Em mà làm được anh sẽ đãi em ăn hủ tiếu Cần Thơ một tuần lễ…
Ngọc Thụy cười thánh thót nhìn chị Mai.
– Đây là quà cưới của em cho anh với chị Mai. Sau trận đánh này anh có thể yên tâm làm đám cưới và hưởng tuần trăng mật…
Quốc cười sung sướng còn Mai đỏ mặt vì mắc cỡ.
– Đi… Mình đi Tri Tôn gặp tướng Niệm…
Quốc lấy xe jeep chở bốn người đi Tri Tôn. Xế chiều họ vào tới bộ tư lệnh tiền phương của sư đoàn 22. Lính ngạc nhiên khi nghe hai quân nhân cấp tá đi với hai cô gái xin vào gặp tư lệnh của họ. Nghe lính báo cáo có một cô gái tên Ngọc Thụy gọi đại tướng tổng tham mưu trưởng bằng cậu muốn gặp mình, tướng Niệm ngạc nhiên bước ra đón tiếp.
– Cháu kính chào thiếu tướng…
Ngọc Thụy lên tiếng. Tướng Niệm tươi cười khi gặp Quốc.
– Mấy em muốn gặp tôi có chuyện gì?
– Cháu muốn bàn với thiếu tướng một cách có thể tiêu diệt một hai sư đoàn của địch dễ dàng mà không thiệt mạng một người lính nào…
Tướng Niệm nhìn Ngọc Thụy giây lát rồi ôn tồn thốt.
– Tướng Nam có kể cho tôi nghe ý kiến của cháu về chuyện đào con sông Vĩnh Tế. Ý kiến đó đã cứu được mạng sống của trăm ngàn lính của quân lực ta. Mời mọi người vào phòng làm việc của tôi…
Năm người ngồi đứng trong gian phòng nhỏ. Dường như sợ ý kiến của mình bị tiết lộ Ngọc Thụy thì thầm đủ cho sáu người trong phòng nghe. Nét mặt của vị tư lệnh sư đoàn 22 rạng rỡ lên.
– Nếu cách này thành công thời lính của mình có thể nghỉ xả hơi thời gian mà không sợ bị địch tấn công… Tôi sẽ đích thân gặp tướng Nam để trình bày kế hoạch này…
Bắt tay mọi người tướng Niệm thân đưa Ngọc Thụy ra tận cửa. Quốc cười nói trong lúc mở cửa cho Mai lên xe jeep.
– Mình ra chợ quận ăn cơm chiều… Ba em có muốn đi đâu không?
Ngồi nơi băng sau Ngọc Thụy nhanh nhẩu trả lời.
– Tụi này đâu có muốn đi đâu. Tụi này đem chị Mai xuống giao cho anh mà… Chừng nào anh chị định làm đám cưới…
Quốc liếc người yêu.
– Tối nay anh chị sẽ bàn về chuyện đó…
Mai quay lại nhìn Ngọc Thụy.
– Hay là Đình Anh với em cũng làm đám cưới đi. Bốn anh chị em mình làm đám cưới một lượt cho vui…
Mặt hồng lên vì thẹn thùng lẫn sung sướng, Ngọc Thụy quay nhìn người yêu.
– Anh có chịu cưới em không…
Đình Anh cười đùa.
– Phải hỏi là em có chịu cho anh cưới em không…
– Chịu…
Ngọc Thụy cười thánh thót. Mai gật đầu.
– Được rồi để về Cần Thơ mình sẽ bàn chuyện đám cưới…
Chiều hôm đó lính của sư đoàn 101 biệt động quân hò reo khi biết tin vị tư lệnh của mình sắp cưới vợ. Năm liên đoàn trưởng tới chúc mừng đồng thời cũng để xem mặt giai nhân của tư lệnh. Đại tá Bảo, tư lệnh sư đoàn 102 biệt động cũng gọi điện thoại chúc mừng người bạn thân tình nguyện bước vào ngôi nhà tù êm ái để ở tù chung thân.
Vì lý do thiếu hụt nhiên liệu và đạn dược nên phó đô đốc Cang phải ra lệnh cho các giang đỉnh rút khỏi sông đào Vĩnh Tế. Điều này gây hoang mang và lo âu cho dân chúng lẫn binh sĩ đang trấn đóng nơi tuyến đầu. Họ được lệnh canh gác cẩn thận hơn đề phòng địch lén lút vượt sông. Tuy nhiên sau khi các chiến đỉnh ngưng hoạt động hơn một tháng vẫn không có gì xảy ra. Địch cũng thôi không pháo nữa.
Chạy từ bắc xuống nam con sông Vĩnh Tế tựa một vệt nước bao la màu trắng bạc trong đêm tối mông lung của một ngày không trăng. Sao sáng lấp lánh giống như những hạt kim cương đính trên nền trời mờ cao. Dọc theo bờ bên đông của sông Vĩnh Tế là dãy đồng trống mênh mông vắng ngắt không bóng người. Kẽm gai giăng mắc khắp nơi. Thỉnh thoảng mới có ánh đèn pin lóe lên nơi các lô cốt, hầm trú ẩn hay giao thông hào của binh sĩ. Quận Tri Tôn nằm cách sông Vĩnh Tế khoảng 17, 18 cây số tính theo đường chim bay. Tuy vẫn nằm trong vòng ảnh hưởng của đại pháo nhưng ít khi địch pháo vào Tri Tôn. Đài quan sát đặt trên các ngọn núi đất cao thường xuyên dùng starlight scope để quan sát hầu khám phá ra địch quân vượt qua sông.
Tiệc cưới của Quốc với Mai và Đình Anh với Ngọc Thụy, đúng là đám cưới của lính ngay vào thời kỳ sôi động nhất của chiến tranh. Đa số người tham dự là lính. Ngoài thân nhân của hai họ cô dâu và chú rể người ta thấy có sự tham dự của hầu hết các vị tướng lãnh hay tư lệnh của các sư đoàn đang trấn đóng ở miền tây. Vì hai bên cô dâu và chú rể không có cha mẹ nên đại tướng Viên và bà Bình An, má của Ngọc Thụy được hân hạnh đại diện cho hai bên trai gái đứng chủ hôn. Gặp thời buổi kinh tế khó khăn mà gia đình hai họ cũng nghèo hoặc giàu nhưng lại bị phá sản vì chiến tranh, do đó khách tham dự mỗi người được một chai bia hay nước ngọt còn thức ăn thời cũng đơn sơ và giản dị. Nhưng không vì thế mà buổi tiệc mất đi sự long trọng và vui vẻ.
– Kính thưa quý vị,
Đang trò chuyện cười đùa với nhau mọi người vội im lặng khi nghe vị tổng tham mưu trưởng lên tiếng.
– Mọi người trong chúng ta chắc không ai xa lạ gì với cháu Ngọc Thụy của tôi. Mặc dù còn trẻ và không phải là lính, nhưng cháu là người có công trạng nhiều nhất trong nỗ lực kéo dài cuộc chiến đấu chống cộng sản xâm lược của chúng ta cho tới ngày hôm nay. Để tưởng thưởng chiến công này và cũng để làm quà cưới cho cô dâu, nhân danh tổng tham mưu trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tôi đặc cách cho cháu chức đại úy bốn mai… Cấp bậc đại úy bốn bông mai này tương đương với cấp bậc thiếu tá, do đó cháu sẽ không sợ người chồng thân yêu là thiếu tá Nguyễn Đình Anh ăn hiếp…
Mọi người cười lớn vì lời nói đùa của tướng Viên. Ngọc Thụy bước ra để cho vị tổng tham mưu trưởng gắn bốn bông mai vào cổ áo dài màu tím hoa ô môi của mình. Khi nàng về tới chỗ ngồi Đình Anh cười đùa.
– Chà… Lúc này em bảnh nghe… Vừa có chồng mà lại được thêm chức tước nữa…
Nháy mắt với chị Mai, Ngọc Thụy chỉnh ông chồng liền.
– Đại úy chứ không phải em à nghe… Anh phải gọi em bằng đại úy bốn bông mai nghe chưa…
Quốc, Bảo, Hiện, Hùng, Ánh, Kiếm, Minh và Dân ngồi gần không nhịn được phải bật cười. Giữ lời hứa Ngọc Thụy đã mời trung úy Bằng, sĩ quan tùy viên của tướng Viên tham dự đám cưới của mình với Đình Anh. Đang trò chuyện thiếu tướng Niệm hơi nhỏm dậy khi thấy vị trung tá trưởng phòng hành quân của mình bước vào với dáng điệu hấp tấp. Giơ tay chào thượng cấp vị trung tá thì thầm. Tuy ông ta nói nhỏ nhưng vì im lặng nên ai ai cũng nghe được câu nói của ông ta.
– Trình tư lệnh… Các đài quan sát trong vùng trách nhiệm của sư đoàn báo cáo họ phát hiện địch vượt sông nhiều lắm…
Mọi người còn đang xôn xao thời chuẩn tướng Hưng bước vào nói.
– Các đơn vị của sư đoàn 1, 2, 3, 5 và 22 đều phát hiện địch vượt sông. Họ thấy thuyền bè đầy trên sông…
Thái độ vẫn ung dung và bình tịnh, tướng Nam cười nói với Ngọc Thụy.
– Thử xem cái kế dụ địch và trận xích bích của cháu hiệu quả như thế nào…
Nhìn mọi người tướng Nam nói lớn.
– Quý vị đừng lo âu… Địch vượt sông là lọt vào kế của ta. Nhờ ý kiến của cháu Ngọc Thụy, tôi đã bàn kế hoạch với phó đô đốc Cang rút hết tàu chiến trên sông Vĩnh Tế xong xả dầu cặn đầy trên sông. Địch mà vượt sông là ta sẽ nổi lửa thiêu chúng. Tôi mời quý vị ra ngoài chứng kiến quân lực ta mở trận sông lửa đốt bộ đội của tướng Giáp…
Mọi người theo chân vị tư lệnh biên giới Việt Miên bước ra sân. Tướng Nam bình tỉnh nghe báo cáo từ các đơn vị tới tấp gởi về.
– Trình tư lệnh… Sư đoàn 2 báo cáo thuyền của địch đã quá nửa sông. Sư đoàn 3 cho biết xuồng ba lá, tam bản, bè cây của địch đầy trên sông. Sư đoàn 5 và 22 cũng báo cáo tương tự. Nguyên con sông Vĩnh Tế và Vĩnh An dài trăm cây số đều có quân địch…
Khẽ gật đầu vị tư lệnh biên giới Việt Miên lên tiếng.
– Cứ chờ…
Mọi người nín thở hồi hộp theo dõi tin tức đưa về. Tình thế càng lúc càng khẩn trương.
– Trình tư lệnh… Sư đoàn 2 ở thị xã Châu Đốc báo cáo thuyền địch còn cách bờ ba trăm thước…
Tướng Nam nhìn phó đô đốc Cang xong nói gọn.
– Cứ chờ chút nữa…
Mười phút sau lại có báo cáo.
– Trình tư lệnh sư đoàn 22 cho biết thuyền địch chỉ còn cách bờ chừng trăm mét…
Tướng Nam nhìn vị tư lệnh hải quân như hỏi ý. Phó đô đốc Cang cười nhẹ.
– Tới lúc rồi anh…
Tướng Nam gật đầu cười.
– Mời anh châm ngòi lửa…
Phó đô đốc Cang nhấc điện thoại. Vài phút sau mọi người thấy xa xa một đường dài đỏ rực hiện lên giữa ban đêm. Lửa… Lửa… Lửa… Ở đâu cũng có lửa. Lửa réo như sấm. Lửa hú ầm ầm. Lửa sáng một góc trời. Lửa cháy hừng hực. Lửa đỏ ngầu. Lửa cháy ngất trời trên dòng sông Vĩnh Tế, Vĩnh An dài hơn trăm cây số, rộng một cây số và cao năm ba chục thước. Khói đen mù mịt bay theo gió. Dù đứng xa mười mấy cây số, người ta có cảm tưởng như lửa táp vào mặt nóng rát rạt. Có tiếng người la. Tiếng người hét. Tiếng người khóc. Tiếng người than. Tiếng người rên. Tiếng than van. Tiếng rên rỉ hòa với tiếng lửa hú, lửa réo và tiếng đạn nổ vì bị lửa nung nóng tạo thành thứ âm thanh dị kỳ tựa như ma kêu quỉ hú dưới âm ty địa ngục. Mọi người đứng chết sững, mở lớn mắt nhìn con sông lửa đỏ rực vắt một vệt dài lê thê từ bắc xuống nam. Mùi thịt người bị lửa đốt cháy khét nghẹt theo cơn gió đưa xuống khiến cho nhiều người nhất là mấy bà và mấy cô phải bịt mũi hay ụa mửa.
Thở hắt hơi dài tướng Niệm lên tiếng.
– Tôi không biết ngày xưa trận xích bích nóng thế nào nhưng chắc cũng không nóng bằng con sông lửa này…
Đình Anh thấy nước mắt chảy thành dòng trên khuôn mặt người vợ thương yêu của mình.
– Tội nghiệp họ… Họ chết vì tham vọng cuồng điên của các lãnh tụ miền bắc…
Vòng tay ôm vợ vào lòng Đình Anh vỗ về.
– Không phải lỗi của em. Nếu mình không giết họ thời họ cũng giết mình…
Dụi đầu vào ngực chồng Ngọc Thụy nhìn thấy chị Mai đang nắm chặt tay Quốc có lẽ vì sợ hãi khi chứng kiến cảnh hàng chục ngàn người la khóc than van vì bị lửa đốt. Hơn nửa tiếng đồng hồ ngọn lửa mới bắt đầu tàn. Bóng tối đổ xuống và cảnh vật trở lại yên tịnh.
17
Đêm mịt mùng. Sấm nổ đì đùng. Chớp lòe sáng rực. Gió thổi phần phật. Mưa rơi trắng xóa trên mặt sông Tiền bát ngát. Triệu triệu hạt nước từ trên trời cao rớt xuống tạo thành một màn mưa dày đặc che kín cảnh vật.
Hạ sĩ nhất Tăng, thuyền trưởng của chiếc Alpha 10 thuộc giang đoàn 72 thủy bộ đứng tựa vào ổ đại liên 50 trước mũi tàu như muốn tránh những giọt nước mưa hắt vào mặt mình rát rạt. Đưa tay vuốt nước mưa chảy thành dòng trên mặt, anh cố mở lớn mắt nhìn vào màn đêm đen kịt đan lẫn với màn mưa trắng xóa thành một tấm màn đen làm nhòa thị tuyến của mình. Chớp lòe sáng rực. Tiếng sấm gầm vang dội mặt sông mênh mông. Tăng dụi mắt. Ánh sáng chớp lên rồi tắt ngay nhưng cũng đủ cho anh thấy bóng ba chiếc tàu đang chạy trên sông.
– Tàu Bắc Việt…
Bật la lớn Tăng nhảy tọt lên mui ngay chỗ phòng lái. Chụp lấy ống nói của máy truyền tin anh báo cáo.
– Bravo… Bravo… Đây Alpha 10… Nghe rõ trả lời…
– Bravo nghe Alpha 10…
Tăng thì thầm vào ống nói.
– Tàu… Tàu chiến Bắc Việt… Đông Bắc 45 độ…
– Bravo tôi nghe Alpha 10…
Bỏ ống nói xuống Tăng ra lệnh cho nhân viên vào nhiệm sở tác chiến. Bravo là danh hiệu truyền tin của trung úy Bảo, trưởng toán đoàn tàu thuộc giang đoàn 72 thủy bộ đang tuần tiễu khu vực cách tỉnh lỵ Vĩnh Long chừng hai mươi cây số về hướng đông. Đưa ống dòm lên quan sát Bảo thấy lờ mờ trong màn mưa ba chấm đen di động càng ngày càng rõ và lớn dần lên. Biết tàu địch lén lút xâm nhập, Bảo tức tốc báo cáo về bộ chỉ huy giang đoàn đồng thời ra lịnh cho sáu giang đỉnh dưới quyền chỉ huy của mình sẵn sàng tác xạ. Năm trăm mét. Ba trăm mét. Hình dáng ba chiếc tàu hiện rõ trong màn mưa bay trắng xóa. Hai trăm mét. Toàn thể thủy thủ của sáu giang đỉnh ghìm súng chờ đợi. Một trăm mét. Vẫn chưa có lịnh khai hỏa. Mấy chục họng đại liên 50, đại bác 20 ly, 40 ly, và đại liên M60 tập trung vào ba chiếc tàu địch đang im lìm tiến tới. Năm mươi mét.
– Bắn…
Đạn lửa của đại liên phòng không 12 ly 7 vẽ thành đường dài trong đêm tối. Đại bác 20 ly tự hủy lòe chớp. Đại bác 40 gầm rống thành chuỗi âm thanh kỳ dị lan dài trên mặt sông đánh thức lính với dân chúng đang ngủ. Họ túa ra ra bờ sông đứng mục kích cuộc thủy chiến đầu tiên kể từ khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa rút về miền tây. Một chiếc tàu địch bốc cháy sáng rực trong đêm tối. Tiếng súng của hai bên nổ càng lúc càng thêm dồn dập. Lại thêm một chiếc tàu của địch bốc cháy. Nhờ lửa sáng người ta mới thấy chiếc tàu thứ ba rút chạy vào màn mưa trắng xóa. Tiếng súng nổ rời rạc rồi im hẳn.
29 Tết. 1978.
Dân chúng ở miền tây hay nói đúng hơn dân chúng của Việt Nam Cộng Hòa đón một cái tết bình yên và tự do nhất trong suốt hai mươi bốn năm chiến tranh chống cộng sản. Cờ vàng ba sọc đỏ bay khắp nơi trong nước. Người người lũ lượt đi sắm tết dù là cái tết nghèo của thời hậu chiến. Vì không có những tiếp xúc với thế giới bên ngoài cho nên mọi thứ cần dùng hầu như bị thiếu hụt. Người dân miền tây có thừa lúa gạo, thịt cá nhưng lại thiếu xăng dầu, đường sữa và các loại máy móc hoặc dụng cụ để sửa chữa. Đó là những thứ họ không thể sản xuất được. Đó cũng là ưu tư hàng đầu của chánh phủ. Các nhân vật cao cấp của quân và dân sự xuyên qua các phóng viên báo chí ngoại quốc đã kêu gọi sự giúp đỡ của các nước tự do. Tuy nhiên lời khẩn cầu của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa bị thế giới làm ngơ. Đối với họ, Việt Nam Cộng Hòa đã chết dù chín triệu dân ở miền tây vẫn hiên ngang chống lại cộng sản. Đối với họ, nước Việt Nam đã được thống nhất dù ở phần đất cuối cùng vẫn có triệu triệu người đang âm thầm theo đuổi cuộc chiến tranh kháng cộng trong nỗi cô đơn, niềm kiêu hãnh của những người sống chết vì hai chữ tự do.
Xoa hai bàn tay dính mỡ bò Đình Anh nhìn chiếc xe đạp cũ với nhiều thích thú và hãnh diện. Anh phải mất hơn một tuần lễ mới làm cho chiếc xe đạp bỏ góc nhà của Ngọc Thụy di chuyển được. Từ nay anh sẽ dùng nó để đi làm. Thấy Ngọc Thụy bước ra anh cười khoe.
– Xong rồi… Ba mươi tết này anh sẽ chở em đi Tri Tôn thăm chị Mai với anh Quốc…
– Anh đạp nổi không. Từ đây tới Tri Tôn xa lắm đó… Hơn nữa anh phải chở tới ba người à nghe…
Đình Anh ngạc nhiên nhìn vợ. Thấy Ngọc Thụy chỉ tay vào bụng anh cười ha hả.
– Em có thai… Em có thai phải không?
Ngọc Thụy cười sung sướng gật đầu thay cho câu trả lời. Ôm chầm lấy vợ Đình Anh hôn lên mặt, lên tóc, lên môi.
– Anh yêu em… Anh cám ơn em… Má biết chưa?
– Biết rồi… Má vui lắm… Má nói em sanh xong để má nuôi cháu ngoại cho em đi dạy học lại…
Hôn trả vào mặt chồng mấy cái Ngọc Thụy cười thốt.
– Anh rửa tay rồi mình ăn cơm… Sắp tối rồi…
Gật đầu Đình Anh bỏ ra sau nhà rửa tay để Ngọc Thụy đứng im giữa khoảnh sân rộng. Thời gian không đầy một năm mà quá nhiều đổi thay. Hai người anh của nàng một mất tích, một tử trận trong lúc theo đơn vị rút khỏi Xuân Lộc. Điều đó khiến cho má của nàng buồn và sức khỏe suy giảm. Cũng may nhờ có nàng và Đình Anh thay phiên nhau an ủi và chăm sóc cho nên bà sớm bình phục và vui vẻ sống với đứa con gái út của mình. Sau thời gian khổ công tìm kiếm nàng đã tìm ra ba má của Bạch và Hải ở Phú Quốc. Chị Mai và ba đứa con theo chồng về sống ở quận Tri Tôn. Đình Anh vẫn làm việc ở bộ tổng tham mưu còn nàng trở thành cô giáo của trường trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ. Không con cái lại thêm có sẵn nhà cửa nên hai vợ chồng tạm đủ sống với đồng lương eo hẹp trong thời buổi kinh tế khó khăn và vật giá leo thang hằng ngày. Những gia đình giàu có ở Sài Gòn di tản xuống Cần Thơ hoặc các người ở miền tây bắt đầu bỏ nước ra đi. Không chịu nổi sự thiếu thốn về vật chất nhất là viễn ảnh đen tối của đất nước, họ bỏ tiền ra mua ghe thuyền vượt biển tìm tự do ở ngoại quốc. Chánh phủ không những không ngăn cấm mà còn giúp đỡ họ bằng cách ra lệnh cho tàu hải quân hộ tống hay chỉ đường cho họ tới các quốc gia lân cận như Thái Lan, Tân Gia Ba, Mã Lai Á hoặc Nam Dương. Tuy nhiên người đi nhiều thời người đến cũng nhiều. Sau hơn một năm sống dưới chế độ cộng sản người dân ở miền Trung, Vũng Tàu, Sài Gòn vượt biên tìm tự do càng lúc càng thêm đông đảo. Có người ở tận ngoài Huế, Đà Nẳng dùng ghe đánh cá vượt ngàn cây số vào tận Cà Mau hay Bến Tre. Có người ở Cái Bè đã dùng xuồng ba lá vượt qua sông Tiền để trốn sang Vĩnh Long. Thậm chí có nguyên gia đình dùng bè thả trôi trên sông Tiền. Họ may mắn được tàu hải quân cứu vớt.
– Em nghĩ gì vậy?
Nghe chồng hỏi Ngọc Thụy cười buồn.
– Em nhớ lại hồi còn đi học… Nhớ lúc mới gặp anh…
Đình Anh hôn vào trán người vợ thương yêu của mình. Ngọc Thụy vẫn còn vóc dáng mảnh mai với mái tóc dài, tiếng cười thanh thanh và ánh mắt long lanh; nhưng Đình Anh biết đằng sau những cái đó là nỗi ưu tư thời cuộc, lo lắng cho đời sống và nhất là viễn ảnh càng ngày càng thêm đen tối của đất nước.
– Mình vào ăn cơm đi anh…
– Má đi thăm chị hai ở Bạc Liêu chừng nào mới về?
– Chắc cả tuần lễ…
Ngọc Thụy nắm tay chồng đi vào nhà. Đình Anh không thấy được nước mắt của vợ mình ứa ra. Như mọi ngày bữa cơm thật đạm bạc. Một nồi cơm nhỏ, một dĩa đọt lang luộc và dĩa cá kho với hai ba con cá nhỏ bằng ngón tay. Tuy nhiên hai vợ chồng vẫn vui vẻ và hạnh phúc. Họ không có điện, không có đèn dầu nhưng bù lại họ có vầng trăng. Họ không có tivi, radio hay các tiện nghi vật chất nhưng bù lại họ có tự do. Tự do đi lại, tự do phát biểu và ăn nói. Tự do suy nghĩ và tự do yêu. Tình yêu và tự do là hai thứ mà họ cần hơn mọi thứ khác.
Có lẽ đói bụng nên Đình Anh ăn hai chén cơm mà vẫn chưa no.
– Anh ăn thêm đi. Có cơm cháy…
Đình Anh gật đầu cười.
– Hồi còn nhỏ anh thích nhất là cơm cháy với mỡ hành… Bây giờ ăn cơm cháy với nước cá kho của em nấu chắc phải ngon hơn nhiều…
Cười thánh thót Ngọc Thụy âu yếm nhìn chồng.
– Anh mưu tính gì đây mà nịnh em…
Đình Anh cười cười.
– Đâu có… Tối nay mình làm gì?
– Mình nấu bánh tét mang xuống cho gia đình chị Mai. Ở trong khu gia binh em nghĩ chắc chỉ không nấu được… Em đã kho thịt và làm dưa giá rồi…
Đình Anh trợn mắt.
– Em làm hồi nào mà anh không biết. Sao em không nói để anh giúp em…
– Trường đóng cửa ăn tết từ hăm lăm nên em có thời giờ mua thịt heo và đi câu… Cái ao sau nhà mình cá nhiều lắm…
Đình Anh đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác khi nghe vợ mình đi câu.
– Đi câu… Em biết câu cá?
Ngọc Thụy cười giòn tan.
– Biết… Dễ ợt…
Đình Anh cười đùa.
– Anh biết rồi… Tại em đẹp và dễ thương nên mấy chú cá mê em…
Nói xong Đình Anh buông đũa. Trong lúc vợ dọn dẹp anh lo sửa soạn đốt lửa nấu bánh tét ở sân sau. Đổ nước vào cái nồi làm bằng thùng phi cắt ra phân nửa, anh cặm cụi nhóm lửa rồi bỏ mười đòn bánh tét vào. Ngọc Thụy trải chiếu kế bên bếp lửa. Trời chạng vạng tối. Gió nhè nhẹ. Tiếng côn trùng rỉ rả. Tiếng ễnh ương kêu vang vang. Nằm gối đầu lên đùi chồng Ngọc Thụy nhìn bầu trời lấm tấm sao. Vài tiếng pháo nổ rời rạc và buồn bã. Dân chúng không có tiền mua pháo đốt mừng xuân cho nên không khí của những ngày cận tết như thiếu một cái gì mà mọi người dù không nói ra đều cảm thấy được. Đó là tiếng pháo nổ. Âm thanh đó như là tiếng báo hiệu và lời chào đón đặc biệt không thể thiếu của ngày tết.
– Anh uống trà và ăn mứt gừng không?
– Ở đâu mà em có?
– Hôm qua em ghé thăm cậu Viên được cậu lì xì cho một gói trà và gói mứt gừng…
– Thôi để dành đem xuống Tri Tôn mời anh Quốc và chị Mai… Cậu Viên có nói gì không?
Đình Anh thở dài sau câu hỏi. Ngọc Thụy trả lời với giọng buồn buồn.
– Cậu nói vấn đề sinh tử của nước mình bây giờ không những là quân sự mà còn kinh tế nữa…
Ngước mặt lên nhìn chồng Ngọc Thụy cười trong bóng tối.
– Cậu nói nhờ có con sông Vĩnh Tế nhất là sau trận sông lửa thời tình hình an ninh rất khả quan. Từ hơn sáu tháng nay lính không bắn một viên đạn nào mà vẫn bảo vệ phần lãnh thổ còn lại. Do đó súng đạn của mình còn đủ xài năm năm nữa. Tuy nhiên mình lại lâm vào tình thế ngặt nghèo hơn. Mình không đủ thuốc men để chữa bệnh cho lính và dân chúng. Các vật dụng bảo trì, sửa chữa hoặc thay thế đều thiếu hụt. Dân chúng không đủ xăng dầu để dùng thành ra chuyện đi lại bị hạn chế. Xe hơi bị bỏ xó nhà. Khoảng giữa năm tới mình sẽ không còn đủ xăng để chạy xe gắn máy. Tàu của hải quân nằm ụ khá nhiều vì hư hỏng mà không sửa chữa được… Mình dư thừa lúa gạo, tôm cá mà không xuất cảng được, không bán được cho các nước ở vùng Đông Nam Á để lấy tiền mua các thứ mình cần…
Ngọc Thụy thở dài sườn sượt. Đình Anh khom người hôn vào trán vợ như muốn chia xẻ nỗi buồn rầu và lo âu. Tằng hắng tiếng nhỏ anh lên tiếng.
– Sau khi ăn tết xong Hội Đồng Dân Quân Cách Mạng sẽ hội họp để tìm kiếm một giải pháp cho tình trạng nguy kịch của đất nước. Tuy cậu Viên không nói rõ nhưng anh đoán họ sẽ quyết định giữ hay bỏ miền tây để rút về Phú Quốc. Sau khi ăn tết xong anh được lịnh soạn thảo một bản phúc trình về tình hình của đất nước và đem trình trước Hội Đồng Dân Quân Cách Mạng. Có thể những thành viên của hội đồng sẽ căn cứ vào bản phúc trình này để quyết định giữ hay rút bỏ miền tây…
Ngọc Thụy im lặng không nói thêm. Đưa tay sờ soạng Đình Anh khóc thầm vì thấy nước mắt đầm đìa trên khuôn mặt của người vợ thương yêu. Lửa nổ tí tách soi mờ mờ hình bóng đôi vợ chồng trẻ nằm ngồi im lìm trong bóng tối.
Quốc bắt tay em vợ thật chặt trong lúc Mai ôm chầm lấy Ngọc Thụy vì mừng rỡ và sung sướng. Ba đứa con của nàng cũng vui vẻ khi gặp lại cậu mợ.
– Hồng lúc này trổ mã đẹp ra…
Mai cười đùa.
– Nó sắp làm đám hỏi rồi đó Ngọc Thụy…
Hồng mắc cỡ đỏ mặt cười sung sướng.
– Chừng nào cưới. Cháu phải cho mợ biết trước để sửa soạn nghe… Chồng của cháu ở đâu?
Hồng đáp nhanh.
– Dạ… Ảnh tên Chương. Nhà ba má ảnh cũng ở Cần Thơ. Mợ út biết Phụng Hiệp không?
Ngọc Thụy cười.
– Biết chứ… Vậy là có xa xôi gì đâu…
Mai cười nói với Ngọc Thụy.
– Chương là lính dưới quyền của anh Bảo…
Quốc xen vào câu chuyện bằng cách hỏi Đình Anh.
– Tình hình ở Cần Thơ ra sao?
Hiểu được nỗi ưu tư của người anh rể, Đình Anh đáp nhỏ.
– An ninh thời như anh biết rất tốt…
Vì sự có mặt của ba đứa cháu nên Đình Anh phải nói tránh đi.
– Theo em thời tình hình của nước mình cũng không có gì thay đổi. Mình phải tự túc tự cường và thắt lưng buộc bụng…
Dường như không muốn cho ba đứa con nghe về tình hình của đất nước, Mai lên tiếng.
– Thôi dẹp chuyện đó lại… Mình phải chuẩn bị bữa cơm chiều ba mươi tết…
Đang đói bụng nên mọi người đều đồng ý nhất là Đình Anh vì đã đạp xe đạp một quãng đường dài. Ngửi mùi khói thơm thơm của cây nhang cắm trên bàn thờ ông bà tổ tiên anh nao nao trong lòng. Người dân của nước Việt Nam Cộng Hòa lại ăn một cái tết nghèo và túng thiếu. Tuy nhiên không vì vậy mà tết lại thiếu ý nghĩa. Người ta vẫn đón mừng năm mới bằng tất cả sự trang trọng và thành kính. Vẫn mâm cơm tươm tất trên bàn thờ gia tiên, vẫn có nén hương tưởng niệm ông bà và tổ tiên đồng thời ân cần mời gọi người đã chết trở về chung hưởng một mùa xuân hy vọng. Sự cảm thông giữa người chết và người sống trong giây phút nào đó trở thành một cần thiết tinh thần không thể thiếu của tết.
Mươi phút sau thức ăn trên bàn thờ gia tiên được bày ra trên chiếc bàn đóng bằng cây sơ sài. Thức ăn cũng thường. Cơm trắng. Thịt cá kho mà cá nhiều hơn thịt. Gọi là thịt nhưng mỡ lại nhiều hơn thịt. Dưa giá. Dưa cải. Bánh tét. Tuy nhiên bảy người ăn uống trò chuyện vui vẻ. Tuấn, đứa con trai nhỏ nhất của Mai nói với Đình Anh.
– Út biết không con sắp có em rồi…
Nghe Tuấn nói Ngọc Thụy nhìn Mai.
– Thiệt hả chị?
Mai cười sung sướng.
– Ba tháng rồi. Nó hành nó vật chị quá trời. Bởi vậy anh Quốc lúc này cực lắm. Ông tư lệnh sư đoàn mà đi làm về là chui vào bếp phụ nấu cơm với con Hồng…
Quốc cười khì nói với Ngọc Thụy và Đình Anh.
– Mười mấy năm đi lính anh đâu có biết nấu cơm. Lính nấu cho mình ăn mà. Bây giờ đôi khi phải nấu cơm rửa chén thành ra cực. Nhưng riết rồi cũng quen…
Hồng cười đùa.
– Cậu mợ biết không… Ba con nấu cơm mà đôi khi quên đổ nước nên tụi này ăn cơm khét hoài hà…
Quốc cười ha hả còn Đình Anh và Ngọc Thụy cũng bật cười.
– Anh chị muốn mấy đứa nữa?
Quốc cười nhìn vợ.
– Bao nhiêu cũng được. Ông bà mình nói con là phúc mà… Vả lại ở cái quận Tri Tôn này không có việc gì làm ban đêm cả. Tám chín giờ đã chui vào mùng rồi thành ra có bầu lia lịa. Không phải riêng anh mà hầu như lính đóng dọc theo con sông Vĩnh Tế đều có chung tình cảnh giống nhau. Con chưa biết lật là vợ đã cấn thai… Riết rồi họ nói đùa với nhau là bị pháo kích cũng như vợ có bầu. Trời kêu ai nấy dạ…
Ngọc Thụy cười thánh thót. Mai cũng cười hỏi em trai của mình.
– Hai em định chừng nào có con…?
Ngọc Thụy đáp thay chồng.
– Tụi này có rồi. Em có thai được hơn hai tháng…
Nhìn Quốc, Ngọc Thụy nói tiếp.
– Em muốn đi thăm sông Vĩnh Tế… Mai mốt con cái đùm đề chắc khó đi xa lắm…
Hiểu ý Ngọc Thụy, Quốc gật đầu.
– Trưa mai anh sẽ dẫn hai em đi thăm con sông đào Vĩnh Tế. Lúc này nó đổi khác nhiều lắm…
Ăn cơm xong trời cũng bắt đầu tối. Bốn người lớn trải chiếu ngoài sân uống trà, ăn mứt gừng và chuyện trò với nhau. Mai đốt đống lửa nhỏ để un muỗi. Quốc mở đầu bằng câu hỏi.
– Hai em ở Cần Thơ chắc có nhiều tin tức mới và lạ?
Liếc nhanh vợ, Đình Anh nói nhỏ.
– Cũng không có chuyện gì mới lạ và quan trọng. Tình trạng của nước mình có tiến về mặt này thời lại lùi về mặt kia… Quân sự thời ổn định. Kinh tế cũng phát triển nhanh nhưng mặt chính trị thời tuột dốc… Tất cả các nước đều cắt đứt liên lạc với mình ngoại trừ nước Pháp có một tòa lãnh sự ở Cần Thơ. Tuy nhiên họ cũng không giúp được mình bao nhiêu. Em có nói chuyện với một ký giả của tờ Le Monde, thời họ cho biết là chánh phủ Pháp đang chờ xem tình hình biến chuyển như thế nào…
Đình Anh dừng lại. Quốc thở dài buồn bã khi nghe tin tức không sáng sủa của đất nước.
– Em đang vận động ráo riết với tòa lãnh sự Pháp để nhờ họ kêu gọi các nước tự do trên thế giới viện trợ nhân đạo cho mình. Viện trợ này bao gồm các viện trợ như y tế, giáo dục hay các thứ nhu yếu phẩm cần thiết cho trẻ em…
Ngập ngừng giây lát Mai mới lên tiếng hỏi.
– Theo hai em thời ta nên rút ra Phú Quốc hay là vẫn giữ y nguyên tình trạng như thế này…
Đình Anh liếc nhanh Ngọc Thụy. Thấy vợ vẫn im lặng anh mới từ từ trả lời câu hỏi của chị mình.
– Theo em thời ta không nên bỏ miền tây trừ khi nào tình thế bắt buộc…
– Em muốn ám chỉ tới sự tấn công của Bắc Việt bằng quân sự?
Quốc xen vào bằng câu hỏi trên và Đình Anh chậm chạp gật đầu thay cho câu trả lời. Hớp một ngụm nước trà nóng Đình Anh nhìn anh rể của mình.
– Mười mấy sư đoàn của địch đã bị ta chận lại không vượt qua sông Vĩnh Tế cũng như sông Tiền. Như vậy tạm thời ta không lo ngại bị địch hăm dọa tới nền an ninh. So với Phú Quốc thời miền tây có lợi thế hơn nhiều nhất là về kinh tế. Đất rộng thêm màu mỡ lại đông dân do đó tiềm năng về kinh tế của miền tây sẽ lớn hơn đảo Phú Quốc mà diện tích chỉ có năm trăm cây số vuông. Giữ miền tây ít ra ta không sợ đói vì thực phẩm có thừa…
Quốc nhìn Ngọc Thụy như hỏi ý. Mỉm cười cô gái bé tí ti nói nhỏ.
– Em đồng ý với Anh cổ cò. Miền tây dù sao cũng có cái thế và lực hơn hẳn Phú Quốc. Cái thế của mình sẽ vững vàng hơn nếu giữ cả miền tây và Phú Quốc…
Quốc gật gù cười.
– Giữ Phú Quốc là mình kiểm soát vùng Vịnh Thái Lan bao la với nhiều tôm cá. Hy vọng mình sẽ xuất cảng nó ra nước ngoài…
Bỏ vào miệng miếng mứt gừng Đình Anh góp lời trong lúc nhai.
– Anh nói đúng… Việt Nam Cộng Hòa của mình bây giờ là miền lục tỉnh với nguồn sản xuất chính là lúa gạo và tôm cá… Nếu tìm được thị trường tiêu thụ thời nước mình mới có thể vượt qua giai đoạn khó khăn mà chúng ta đang gặp…
– 150 triệu đô la của mình đang ở đâu. Tại sao mình không dùng tới số tiền đó…?
Ngọc Thụy liếc nhanh chồng rồi cười đáp câu hỏi của Quốc.
– Nó vẫn còn được niêm phong trong kho vì chánh phủ chưa muốn dùng tới số tiền cấp cứu này. Vả lại mình có tiền mua nhưng không có ai chịu bán cho mình…
Thấy Mai đứng dậy Quốc cười hỏi.
– Em đi đâu vậy?
– Em vào sửa soạn mùng mền cho Đình Anh với Ngọc Thụy…
Quốc im lặng. Còn hai vợ chồng của Đình Anh cũng không nói gì thêm. Đêm ba mươi tết thật yên tịnh ngoại trừ tiếng pháo nổ rời rạc.
18
Ngồi trên một cái bục gỗ Ngọc Thụy im lặng nhìn ra dòng sông Hậu trước mặt. Nước lấp lánh sáng dưới ánh mặt trời của một buổi xế chiều vào tháng tư. Những dề lục bình nở bông tim tím dạt theo con nước xuôi ra biển. Khung cảnh thật vắng lặng. Ngày xưa bến bắc Cần Thơ là một nơi sầm uất và tấp nập. Bây giờ vì không còn người qua lại nhiều nên hàng quán lưa thưa. Bỗng dưng nàng thở dài ứa nước mắt khi cúi nhìn đứa con trai đang ngủ say trong lòng của mình. Tuy đã được bảy tám tháng mà thằng bé xanh xao và yếu đuối vì bệnh hoạn. Các bác sĩ ở Cần Thơ, dân sự lẫn quân y đều bó tay vì không tìm ra bệnh trạng của thằng bé. Họ không đủ dụng cụ và nhất là máy móc để định bệnh. Đứa nhỏ càng ngày càng xanh xao, gầy guộc và chờ đợi cái chết đến từ từ. Thương con nhưng nàng với Đình Anh bất lực trước hoàn cảnh.
– Thưa bà…
Nghe có tiếng người nói Ngọc Thụy quay nhìn sang bên tay trái. Nàng thấy một người đàn ông ngoại quốc đang nhìn mình mỉm cười. Hơi cau mày vì bị quấy rầy nhưng nàng cũng lễ độ hỏi.
– Thưa ông… Tôi có thể giúp ông điều gì không?
– Thưa bà… Tôi tên là Charles Merillion, phóng viên cho tờ báo Le Monde của nước Pháp…
Ngọc Thụy mỉm cười vì giọng nói tiếng Việt lơ lớ của người phóng viên báo chí.
– Ạ… Ông là người Pháp… Rất hân hạnh được biết ông…
Charles Merillion ngạc nhiên lẫn mừng rỡ khi nghe người đàn bà Việt Nam nói tiếng Pháp lưu loát.
– Ồ… Tôi không ngờ bà nói tiếng Pháp còn giỏi hơn tôi nữa…
Ngọc Thụy bật cười vì lời khen của Charles.
– Cám ơn ông quá khen… Tên của tôi là Ngọc Thụy… Lâu lắm rồi tôi mới có dịp được nói ngôn ngữ của quý quốc… Thưa ông, tôi có thể giúp gì cho ông?
– Thưa bà hơn nửa năm nay tôi đã đi khắp nơi trong phần đất còn lại của Việt Nam Cộng Hòa để tìm chất liệu viết một thiên phóng sự về những người dân và người lính anh hùng của miền tây. Tôi muốn cho thế giới biết là nước Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đó cũng như dân chúng vẫn còn tiếp tục cuộc chiến chống cộng sản trong sự nghèo khổ, thiếu thốn và lãng quên của mọi người…
Charles ngừng nói khi bắt gặp nụ cười buồn của người đàn bà đang ôm đứa con say ngủ.
– Theo bà động lực nào đã thúc đẩy khiến cho bảy tám triệu quân dân của miền tây vẫn tiếp tục cuộc chiến tranh chống cộng sản?
– Tự do thưa ông… Chúng tôi yêu tự do… Chúng tôi muốn được sống tự do. Tự do tín ngưỡng. Tự do ăn nói. Tự do suy tư. Tự do phát biểu cảm tưởng của mình. Tự do hoan hô và đả đảo…
Cúi nhìn đứa con trai thương yêu đang ngủ trong lòng mình Ngọc Thụy nói tiếp bằng giọng bùi ngùi.
– Không những tôi yêu tự do mà tôi muốn con tôi được hưởng tự do như tôi mặc dù tôi biết nó không còn sống bao lâu nữa…
Charles nhìn đứa bé đang ngủ với chút thắc mắc.
– Con của tôi bị bệnh mà bác sĩ ở đây không tìm ra nó bị bệnh gì. Vả lại dù có tìm ra họ cũng không chữa trị được vì thiếu thuốc men và máy móc…
Nói xong dường như không cầm lòng được Ngọc Thụy bật khóc. Có ánh sáng nhấp nháy. Biết người phóng viên đã chụp hình mình nhưng nàng không màng tới. Ngay cả khi ông ta nói lời từ biệt nàng cũng chỉ gật đầu. Đứa bé vẫn ngủ say. Dòng sông Hậu vẫn im chảy. Không gian vắng lặng ngoại trừ tiếng nức nở âm thầm của Ngọc Thụy.
Dân chúng ở Cần Thơ và các làng xã lân cận ới nhau, rủ nhau ra bến bắc để xem, đón tiếp hay chào mừng chiếc tàu lạ vừa cặp bến. Chiếc tàu sơn màu trắng vẽ hình chữ thập màu đỏ. Đây là chiếc tàu của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế lần đầu tiên tới miền tây với công tác từ thiện là chữa bệnh và cấp phát thuốc men cho dân chúng. Ngoài ra chiếc tàu còn chở theo một số thực phẩm cần thiết như đường và sữa để phát cho các gia đình có con nhỏ từ năm tuổi trở xuống.
Đình Anh và Ngọc Thụy là hai người cầm đầu phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa chào mừng và đón tiếp nhân viên của hội hồng thập tự quốc tế. Nhờ tòa Lãnh Sự của Pháp thông báo trước nên chánh phủ đã cho dân chúng biết bất cứ ai có bệnh sẽ được chữa trị ngoài ra còn được chủng ngừa và lãnh thuốc uống miễn phí.
– Chào bà…
Ngọc Thụy ngạc nhiên khi thấy Charles Merillion xuất hiện.
– Chào ông… Tôi rất hân hạnh được tái ngộ ông…
– Thưa bà tôi cũng vậy. Tôi trở lại Cần Thơ là để cám ơn bà…
– Cám ơn tôi…
Charles đưa cho Ngọc Thụy tờ báo Le Monde. Nơi trang bìa in hình một người đàn bà ôm đứa trẻ sơ sinh đang nằm ngủ trong lòng của bà ta. Ngọc Thụy ứa nước mắt. Bệnh hoạn. Gầy gò. Xanh xao. Ốm còn xương với da. Đứa trẻ sơ sinh tượng trưng cho sự nghèo đói và bệnh hoạn. Đôi mắt ngây thơ vô tội của nó như nói lên một khẩn cầu, van xin sự giúp đỡ của lương tâm nhân loại. Vài giọt lệ, ánh mắt sầu thảm, đôi mắt buồn rầu, gương mặt của người đàn bà biểu lộ niềm tuyệt vọng, nỗi đau khổ cùng cực…
– Ông chụp hình đẹp lắm…
Ngọc Thụy nói với Charles Merillion, ký giả của tờ báo Le Monde.
– Thưa bà… Bức ảnh của bà và cháu bé cộng thêm những gì tôi viết về thực trạng của Việt Nam Cộng Hòa đã đánh thức lương tâm của thế giới. Chiếc tàu chữa bệnh của Hội Hồng Thập Tự Thế Giới chỉ là bước khởi đầu… Thưa bà tôi không thấy cháu bé…
Ngọc Thụy mỉm cười trả lời bằng giọng nghẹn ngào.
– Thưa ông… Cháu bất hạnh nên không thể gặp mặt ông để nói lời cám ơn…
Người phóng viên báo chí thở dài.
– Tôi xin chia buồn cùng bà… Tôi đến chậm…
Ngọc Thụy cười nhẹ.
– Thưa ông… Ông không đến chậm đâu… Tôi còn hàng ngàn, hàng triệu đứa con đang chờ đợi sự giúp đỡ của ông và thế giới…
Quay sang Đình Anh, Ngọc Thụy tươi cười thốt.
– Xin giới thiệu với ông đây là chồng của tôi…
Hai người đàn ông bắt tay nhau rồi xưng danh tánh. Nghe Đình Anh nói tiếng mẹ đẻ của mình một cách lưu loát Charles Merillion mừng rỡ và vui vẻ trò chuyện.
Sau khi hoàn tất mọi thủ tục ngoại giao và lễ nghi phiền phức nhân viên trên tàu mới bắt đầu làm việc. Các sinh viên của Viện Đại Học Sài Gòn và Cần Thơ tích cực tham gia vào việc giữ trật tự, hướng dẫn cách thức điền giấy tờ cần thiết cũng như làm thông dịch viên cho dân chúng.
Nhìn một hàng dài dân quê đang đứng ngồi nơi bến bắc Đình Anh nói với vợ.
– Mình đi về… Anh phải trở lại bộ tổng tham mưu để hoàn thành bản phúc trình đưa cho cậu Viên. Thứ hai tuần tới là ngày bắt đầu phiên họp của Hội Đồng Dân Quân Cách Mạng…
Vừa đi Ngọc Thụy vừa nói với chồng.
– Anh phải ghi thêm chuyện chiếc tàu chữa bệnh này vào phúc trình…
Đình Anh vui vẻ nói với vợ.
– Anh không ghi thời mọi người cũng biết. Đây là một sự kiện lớn mà em. Nó sẽ làm cho thế giới biết tới mình nhiều hơn. Từ đó mình sẽ có nhiều liên lạc và đưa dẫn tới chuyện nối lại bang giao và mua bán với các nước láng giềng như Thái Lan, Mã Lai và Tân Gia Ba… Có ngoại tệ là mình sẽ có cơ sản xuất nhiều hơn…
Ngọc Thụy nhìn chồng với cái nhìn âu yếm và tình tứ.
– Vậy hả… Tối nay em cần anh giúp em sản xuất một thằng cu tí cho bà ngoại của nó vui lên… Anh chịu hông?
Cười ha hả Đình Anh hôn lên tóc vợ.
– Gì chứ sản xuất cu tí thời anh hoan hô cả hai tay hai chân…
Ngoái nhìn chiếc tàu có chữ thập đỏ Ngọc Thụy cảm thấy một hy vọng vừa lóe lên sau những ngày buồn thảm.
*****
Mấy chiếc tàu tuần tiễu chạy chầm chậm trên sông. Lá cờ vàng ba sọc đỏ bay phất phới. Từ khi rút về miền tây hải quân đã giữ một vai trò quan trọng trong việc ngăn chận bộ đội vượt qua ranh giới. Phó đề đốc Chung Tấn Cang đã tuyên bố ” Ngày nào còn súng đạn và nhiên liệu cho tàu hải quân thời không có thằng Việt Cộng nào dám lội qua sông Tiền “. Ông và lính dưới quyền đã làm đúng như vậy. Vượt trường sơn, qua đèo bạt núi, cuối cùng bộ đội của Giáp phải dừng lại khi họ đối mặt với hai con sông Tiền và sông Vĩnh Tế. Hai chướng ngại vật này, một do thiên nhiên và một do sức người trở thành một thách đố lớn lao đối với bác và đảng.
Chiếc PCF chạy chầm chậm trên dòng Tiền Giang từ Mỹ Tho ra tới cửa Đại. Dòng sông bao la, nước chảy phăng phăng cuốn theo từng dề lục bình lớn ra biển. Bốn người lính mặc quân phục màu xanh nước biển, đội mũ lưỡi trai, mang giày đen đứng trước mũi chiếc duyên tốc đỉnh. Bốn người lính đó là phó đô đốc Chung Tấn Cang, tư lệnh hải quân. Người đứng đối diện với ông ta là phó đề đốc Diệp Quang Thủy, tham mưu trưởng. Đứng bên trái là phó đề đốc Đinh Mạnh Hùng, tư lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm Miền Tây; còn bên trái là tư lệnh Hạm Đội Đông Hải, phó đề đốc Nguyễn Hữu Chí. Đây là bốn vị tướng quan trọng nhất của hải quân. Sau khi rút về miền tây tất cả lực lượng của ba vùng 1, 2 và 3 duyên hải đều được sát nhập vào vùng 4 duyên hải ở Phú Quốc và vùng 5 duyên hải đóng ở Năm Căn. Do ở tình trạng thiếu hụt nhiên liệu cộng thêm tàu bè nằm ụ vì không có tiếp liệu để sửa chữa, bộ tư lệnh hải quân đã cho giải ngũ phân nửa quân số. Các duyên đoàn của năm vùng duyên hải bị giải tán đồng thời tàu bè cũng được biến thành ghe đánh cá để cấp phát cho lính giải ngũ làm kế sinh nhai. Để giảm thiểu nhân sự và hệ thống giấy tờ, ba Lực Lượng Đặc Nhiệm Trung Ương, Thủy Bộ và Tuần Thám được gom lại thành Lực Lượng Đặc Nhiệm Miền Tây dưới quyền chỉ huy của phó đề đốc Hùng. Còn ba hải đội 1, 2 3 và 4 được gom lại thành Hạm Đội Đông Hải dưới sự điều động của phó đề đốc Chí.
Chiếc PCF chạy từ từ ra tới cửa biển xong quay lại. Đưa tay chỉ vào hai cái cù lao nằm nối tiếp nhau phó đề đốc Hùng nói với trung sĩ Thắng, thuyền trưởng.
– Anh chạy sát vào hai cái cồn đó để tôi xem thử…
Tuân lệnh Thắng cho nhân viên của mình lái sát vào hai cù lao khá lớn. Lật bản đồ chăm chú nhìn giây lát xong phó đề đốc Hùng lẩm bẩm.
– Tàu từ biển theo cửa Đại vào Mỹ Tho phải đi qua chỗ này…
Chỉ ngay khoảng giữa hai cái cù lao ông ta hỏi Thắng.
– Anh biết tên hai cái cù lao này không?
Do dự giây lát trung sĩ Thắng mới trả lời.
– Thưa tư lệnh tôi nghe dân chúng gọi là cù lao Tấu và cù lao Tân Hiệp. Cù lao Tấu nhỏ thuộc tỉnh Bến Tre còn cù lao Tân Hiệp lớn hơn thuộc tỉnh Mỹ Tho. Cả hai đều có dân đánh cá ở…
– Tàu lớn đi đường nào anh biết không?
– Thưa tư lệnh tôi thấy tàu thuyền của dân từ cửa biển đi vào chạy vòng theo đường nước lọt giữa hai cù lao. Dường như ngã sông lớn bị cạn hay sao đó mà họ không đi…
Gật gù mỉm cười vị phụ tá tư lệnh hành quân sông nói nhỏ.
– Mình dàn trận ngay chỗ này… Dùng toàn tàu nhỏ và ngụy trang kỹ…
Bốn vị tướng lãnh của hải quân chụm đầu bàn tán thật lâu mới quay trở về căn cứ ở Cần Thơ.
Đoàn tàu năm mươi chiếc sơn màu đen rẽ sóng trên mặt nước xanh ở vào vùng biển thuộc cửa Soài Rạp. Lá cờ đỏ ngôi sao vàng bay phất phới trên các chiến hạm. Xa xa ngoài biển khơi cách chừng hải lý có chiếc thuyền đánh cá. Trên thuyền chất đầy lưới với lưỡi câu nhưng thuyền trưởng và nhân viên dường như không màng tới chuyện đánh cá. Thuyền trưởng là một người đàn ông ngoài bốn mươi. Ông ta đội chiếc nón lá xùm xụp.
– Trung úy có thấy gì không trung úy?
– Thấy… Bình báo cáo về bộ tư lệnh là hạm đội của hải quân Bắc Việt đang vượt qua cửa Soài Rạp…
Người được gọi là trung úy chính là trung úy Thạch, trưởng toán thám báo biển thuộc Hạm Đội Đông Hải. Đưa ống dòm lên quan sát lần nữa Thạch nói nhỏ.
– Mình chuẩn bị theo đuôi nó… Tuy nhiên đừng theo sát quá để nó nghi ngờ… Nó mà nghi ngờ là hỏng hết mọi chuyện và tụi mình khó chạy thoát lắm…
Hạ sĩ nhất Bình cười nhỏ.
– Trung úy đừng lo… Em là dân Gò Công mà… Vùng này nhắm mắt em cũng biết tụi nó đi đường nào…
Bật chiếc zippo đốt điếu thuốc Bastos xanh xong Bình lục dưới hầm lôi ra chiếc máy truyền tin. Mở máy anh đưa ống nói cho Thạch.
– Long Vương… Long Vương đây Thủy Thần … nghe rõ trả lời…
Tiếng xè xè vang lên rồi có tiếng nói phát ra.
– Long Vương nghe Thủy Thần …
– Thủy Thần thấy Cá Bắc lội qua Soài Rạp… nghe rõ trả lời…
– Long Vương nghe Thủy Thần… Anh ráng xem Cá Bắc lội về đâu… nghe rõ trả lời…
– Thủy Thần nghe Long Vương 5/5…
Tắt máy Thạch đặt chiếc máy truyền tin vào chỗ cũ rồi đứng dậy. Nhìn đoàn chiến hạm trương cờ đỏ sao vàng đang chạy trước thuyền đánh cá của mình chừng ba bốn hải lý, Bình cười nói với Thạch.
– Bây giờ là 12h00. Khoảng 16h00 tụi nó tới cửa Đại. Em đoán tụi nó không biết đường cho nên phải chờ thủy triều lên mới dám đi vào vì sợ mắc cạn. Như vậy phải hơn 17h00 tụi nó mới bắt đầu đi vào cửa Đại. Từ cửa Đại vào tới cù lao Tấu khoảng ba mươi cây số. Em nghĩ, phải mất ít nhất hai ba tiếng đồng hồ tức khoảng 19h30 hoặc 20h00, tụi nó mới tới chỗ mình dàn quân…
Thạch gật gù.
– Tụi nó đi đêm thời có lợi cho mình hơn vì mình thấy nó mà nó không thấy mình…
16h00. Thạch lại mở máy truyền tin gọi về bộ tư lệnh báo cáo là đoàn tàu chiến của Bắc Việt đang chờ nước lớn để vào cửa Đại. Năm giờ rưởi chiều anh báo cáo tàu địch bắt đầu di chuyển. Chiếc thuyền đánh cá của Thạch tấp vào hàng đáy. Liền theo đó lại có một chiếc ghe đánh cá khác lặng lẽ theo sau đoàn tàu chiến của Bắc Việt một quãng xa xa.
Đoàn tàu chiến của hải quân Bắc Việt âm thầm giang hành trong bóng tối chập choạng. Hàng cây trong bờ đen thẳm. Hai bên sông đèn thắp lờ mờ. Đèn câu dật dờ. Thủy triều lên mang theo nước và gió. Mặt sông rộng mênh mông. Sóng vổ vào mạn tàu ì ầm.
Mặc áo giáp, đội nón sắt, ngồi trong đài chỉ huy của chiếc soái đỉnh thuộc giang đoàn 44 ngăn chặn, phó đề đốc Đinh Mạnh Hùng lắng nghe các báo cáo về hành trình của đoàn chiến hạm địch một cách chi tiết kể từ khi nó bắt đầu đi vào cửa Đại. Tất cả nhân viên trên chiếc soái đỉnh đều tỏ ra kích thích và khẩn trương vô cùng vì đây là lần lầu tiên họ được tham dự một cuộc thủy chiến với hải quân Bắc Việt. Toàn thể thủy thủ tham dự cuộc phục kích đều hồi họp khi lắng nghe báo cáo đoàn chiến hạm mang cờ đỏ sao vàng đang sắp tới cù lao Tân Hiệp.
Ngồi trên mui kế bên phòng lái, hạ sĩ nhất Bang, thuyền trưởng Alpha 11 mở mắt thật lớn nhìn chăm chú vào chiếc tàu sơn đen lù lù trước mặt mình cách chừng năm mươi mét. Tuy đèn trên tàu chỉ nhấp nháy nhưng nhờ mặt sông sáng cộng thêm ánh sao đêm cho nên anh thấy rõ pháo tháp đen ngòm và đài chỉ huy sáng mờ mờ.
– Kỷ… Mày nhớ phải phóng rocket trước rồi mới bắn sau nghe chưa. Mày mà hụt là nó bắn mình banh càng luôn…
– Tôi biết mà anh… Chiếc tàu bự chồ vồ như vậy làm sao trật được anh…
Mỗi chiếc Alpha có một ụ súng đại liên 12 ly 7 gắn trước mũi. Ngoài hai khẩu đại liên phòng không ụ súng còn được gắn thêm hai dàn hỏa tiễn có 8 trái ở bên hông. Từ nào tới giờ tàu ít khi dùng đến loại hỏa tiễn này. Đây là lần đầu tiên nên ai ai cũng nghi ngờ sợ nó không nổ. Tuy nhiên họ cũng không có cách nào hơn cứ bắn thử.
Hàng trăm chiến đỉnh của các giang đoàn thủy bộ, ngăn chận và xung phong được che phủ bởi lá dừa nước nằm sát bờ sẵn sàng khai hỏa khi được lệnh. Khi chiếc chiến hạm cuối cùng vừa lọt vào khoảng sông ngăn đôi hai cù lao, phó đề đốc Hùng nói nhỏ trong máy.
– Tất cả khai hỏa…
Nhận được lệnh Bang hét lớn.
– Bắn…
Kỷ bấm nút dàn phóng hỏa tiễn. Ào… Ào… Ào… Ào… Với cái đuôi lửa dài lê thê phía sau tám trái hỏa tiển tựa mũi tên lửa khổng lồ lao vào mục tiêu với vận tốc mấy trăm cây số một giờ. Ngồi trên mui tàu Bang thấy vô số mũi tên lửa bay trong bóng đêm. Ầm… Ầm… Ầm… Hàng trăm tiếng nổ rung rinh mặt sông Tiền. Bang nghe được tiếng còi ré lên từng chập nơi các chiến hạm của địch. Lửa bắt đầu phựt cháy. Bóng người chạy loáng thoáng.
– Bắn…
Liền theo khẩu lệnh tiếng súng chợt nổ rền trong đêm vắng. Đại bác 40 ly gầm rống. Đại bác 20 gào hú thành âm thanh kinh dị. Đại liên 12 ly 7 vẽ thành đường lửa đỏ rực trong bóng đêm thâm u. Hơn trăm giang đỉnh gồm các alpha, monitor, tango đều tập trung hỏa lực bắn vào các mục tiêu quan trọng là đài chỉ huy hay các ổ súng cộng đồng. Riêng các monitor hay zippo còn xử dụng cả súng phun lửa như muốn đốt cháy các chiến hạm của địch. Dù bị phục kích một cách bất ngờ tàu địch cũng phản pháo ngay tức khắc. Đạn lửa bay đầy trời. Vài giang đỉnh của hải quân bị trúng đạn bốc cháy. Tuy nhiên để tránh bị lửa phun trúng từ các chiếc zippo đoàn chiến hạm của địch phải dạt về phía bờ sông bên kia. Chúng không ngờ và cũng không biết mình sẽ lọt vào trận địa phục kích đã dàn sẵn.
– Xung phong…
Phó đề đốc Hùng hét trong ống nói của máy truyền tin khi thấy đoàn tàu chiến sơn đen chỉ còn cách bờ phía bên kia chừng ba bốn chục mét. Hạ sĩ nhất trọng pháo Gia, thuyền trưởng chiếc PBR thuộc giang đoàn 53 tuần thám nhấn mạnh vào hai chiếc nút đề máy tàu. Bum… Bum… Tiếng máy tàu vang ròn rã. Gia đẩy mạnh hai cần điều khiển tới trước cùng một lúc. Ào… Chiếc khinh tốc đỉnh vọt tới bằng sức đẩy của hai máy tàu mấy trăm mã lực. Mũi ngóc lên cao khỏi mặt nước nó bay tới chỗ chiếc tàu sơn đen mang cờ hiệu nền đỏ ngôi sao vàng với vận tốc bốn mươi cây số một giờ.
– Chuẩn bị…
Gia la lớn cho trung sĩ nhất Đằng và hạ sĩ Trà đang đứng nơi mũi tàu. Đằng với Trà là nhân viên của toán SEAL thuộc liên đoàn người nhái. Mỗi chiếc PBR đều chở theo hai người nhái lãnh nhiệm vụ đặt chất nổ để đánh chìm tàu. Đây là mục đích chính của cuộc phục kích. Được đặt tên là những con chuột của sông nước miền tây, chiếc PBR nhỏ xíu của Gia lãnh nhiệm vụ cặp sát vào chiến hạm của địch để cho người nhái đặt mìn. Hai bên cách nhau khoảng bốn mươi mét. Với vận tốc bốn mươi cây số một giờ hạ sĩ nhất Gia có từ năm tới sáu giây đồng hồ để đưa chiếc tàu của mình vượt qua lưới đạn của địch. Năm giây đồng hồ sống chết này xảy ra như chớp mắt. Chiếc PBR lao vút vào chiếc tàu sắt. Khi hai chiếc tàu còn cách nhau chừng ba bốn thước Gia gặt mạnh cần lái. Hai máy tàu chạy bằng dầu cặn rú lên với tốc lực tối đa làm chiếc giang đỉnh chỉ chạm nhẹ vào thành tàu sắt. Tả tiến hữu lùi, tay lái quay nhanh nửa vòng, Gia điều khiền chiếc tàu của mình ập vào thành tàu của chiến hạm Bắc Việt. Nhanh nhẹn và thành thạo Đằng và Trà làm phận sự của mình trong vòng một giây đồng hồ.
– Go…
Đằng hét lớn khi thấy từ trên cao rơi xuống một vật đen ngòm.
– Lựu đạn…
Ầm… Âm thanh nổ làm lùng bùng lỗ tai. Gia cảm thấy nhói đau nơi lưng nhưng anh không có thời giờ để suy nghĩ. Người thuyền trưởng có mười năm lính, với bảy năm ở các giang đoàn tác chiến đẩy mạnh cần điều khiển tới trước. Chiếc PBR nhỏ xíu vọt đi bằng vận tốc trăm cây số một giờ. Tới ngang mũi tàu anh quay tay lái một vòng thật nhanh điều khiển cho chiếc tàu quẹo cua thật gắt trong lúc Đằng và Trà ném hai trái lựu đạn lên bong tàu. Mấy chục chiếc PBR lướt như bay trên mặt sông tránh xa đoàn chiến hạm của địch. Ầm… Ầm… Ầm… Hàng loạt tiếng nổ rung rinh mặt sông Tiền. Từng khối nước vọt lên trời cao. Từng chiếc tàu ngả nghiêng vì trúng mìn của người nhái. Nương đà các giang đỉnh tấn công tới tấp. Mặt sông rộng sáng rực lên vì những chiếc tàu mang cờ đỏ sao vàng lần lượt bốc cháy. Tiếng đạn nổ ầm ầm hòa lẫn trong tiếng người la hét vì bị lửa đốt.
Ngồi trên chiếc tàu trôi lềnh bềnh Gia cùng thủy thủ đoàn im lặng mục kích cảnh tượng hạm đội Bắc Việt, chiếc bốc lửa sáng rực, chiếc nghiêng bên này, chiếc ngã bên kia, chiếc cắm mũi xuống nước, chiếc đưa bánh lái lên trời trước khi chìm xuống lòng sông đục ngầu. Đoàn giang đỉnh của phó đề đốc Hùng lầm lì tiến tới bao vây ba chiến hạm treo cờ trắng đầu hàng.
Dân chúng khắp nơi trong nước lắng nghe đài phát thanh Sài Gòn và Cần Thơ tường thuật tỉ mĩ về trận thủy chiến ngày hôm qua giữa hải quân Việt Nam Cộng Hòa và hạm đội Bắc Việt. Tất cả vỗ tay hoan hô và reo hò khi nghe các chiến sĩ anh hùng của hải quân đã đánh chìm hết các tàu chiến cũng như bắt sống ba chiến hạm của hạm đội Bắc Việt. Hai ngày sau họ đứng chật bến bắc Cần Thơ xem cuộc triển lãm các tàu chiến của hạm đội Bắc Việt.
Đứng lẫn lộn trong dân chúng Đình Anh cười nói với Ngọc Thụy.
– Chiến thắng của hải quân thật quan trọng. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chứng tỏ cho dân chúng cũng như thế giới tự do là chúng ta đủ sức chặn đứng bước xâm lăng của cộng sản Bắc Việt. Chúng ta, những kẻ bất khuất sẽ tồn tại trong hoàn cảnh khắc nghiệt của lịch sử dân tộc…
– Anh nói đúng… Em nghĩ sau chiến thắng này các nước tự do sẽ có cái nhìn khác hơn về Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta. Mình phải tích cực vận động để cho các nước tự do trở lại thiết lập bang giao với mình…
Ngập ngừng giây lát Đình Anh nói với vợ.
– Anh nghe tin là các chiến hạm của hải quân đã bắt giữ chừng mười mấy chiếc ghe đánh cá của Thái Lan. Mình nên thả các ghe đánh cá này về để gây thiện cảm với chính phủ Thái…
Ngọc Thụy cười nói.
– Mình phải đi Rạch Giá… Em có cách này hay lắm…
Đình Anh đùa với vợ.
– Em tự nguyện nói hay là anh phải bao em ăn cháo cá ở chợ Rạch Giá…
Bật tiếng cười thánh thót Ngọc Thụy bá vai chồng.
– Anh nhắc em mới nhớ… Hai đứa mình phải vào gặp cậu Viên để cậu ký giấy cho mình có quyền điều đình và phóng thích các ngư phủ Thái Lan…
Ngồi sau yên xe đạp trông thấy chồng gò lưng chở mình, Ngọc Thụy thở dài.
– Có lẽ em nên bàn với cậu Viên mở kho dự trữ xăng ở Phú Quốc để bán cho dân chúng một cách giới hạn. Thấy anh đạp xe em thương anh quá…
Ngoái đầu lại Đình Anh cười nói với vợ.
– Đạp riết rồi quen… Chở em anh cũng không thấy nặng. Anh có thể chở em đi Rạch Giá bằng xe đạp…
Dụi đầu vào vai chồng Ngọc Thụy nói nhỏ.
– Mình đi bằng xe jeep cho oai… Đi điều đình mà đạp xe đạp người ta cười chết…
Chiếc xe jeep do Đình Anh lái với Ngọc Thụy ngồi bên dừng trước căn cứ hải quân tại Kiên Giang. Nhìn tấm biển đề mấy chữ ” Vùng 4 Duyên Hải- Hậu Trạm Kiên Giang “ Đình Anh cười nói.
– Mình vào gặp đại úy Hùng, chỉ huy trưởng hậu trạm xong ông ta sẽ trình bày mọi chi tiết và hướng dẫn mình đi thăm tàu đánh cá của Thái Lan…
Dường như đã được bộ tư lệnh hải quân thông báo trước, cho nên đại úy Hùng nhận ra hai người khách đặc biệt của mình.
– Tôi là thiếu tá Đình Anh, đại diện cho bộ tổng tham mưu. Còn đây là bà Ngọc Thụy, đại diện cho bộ ngoại giao. Hân hạnh được gặp đại úy…
Ba người bắt tay với nhau xong đại úy Hùng nói với giọng thân mật và vui vẻ.
– Cám ơn thiếu tá và bà đại diện đã bỏ thời giờ quý báu để giải quyết một vấn đề nhức đầu và phiền phức cho cá nhân tôi và hậu trạm của tôi… Mời thiếu tá và bà đại diện vào văn phòng để tôi trình bày chi tiết…
Mời khách ngồi xuống ghế và đợi cho người lính mang nước uống lui ra khỏi phòng, đại úy Hùng vắn tắt.
– Mười lăm chiếc ghe đánh cá của Thái Lan bị hải quân bắt giữ vì vi phạm hải phận của nước ta. Do không có liên hệ ngoại giao cho nên tình trạng của họ không được ai giải quyết. Có người bị giam giữ cả năm rồi mà không được cứu xét. Tôi có làm phúc trình lên bộ tư lệnh vùng 4 duyên hải để xin cứu xét nhưng thượng cấp bảo cứ chờ vì chưa có lệnh gì từ bộ tư lệnh hải quân. Mình giữ họ cũng vô ích lại vừa tốn tiền nuôi cơm họ…
Ngọc Thụy mỉm cười hỏi.
– Tôi nghe họ xâm phạm hải phận của ta vì muốn vào đánh cá phải không thưa đại úy?
– Bà đại diện nói đúng. Biết vùng biển Vịnh Thái Lan thuộc hải phận nước ta có nhiều tôm cá cho nên họ lén lút đi vào để đánh cá thôi chứ không có làm gì khác hơn…
Ngọc Thụy cười nói với Đình Anh.
– Như vậy cũng dễ dàng để chúng tôi giải quyết. Tôi xin phép đại úy được nói chuyện với người đại diện của họ…
Đại úy Hùng đứng dậy.
– Tôi sẽ lấy xe chở thiếu tá và bà đại diện tới gặp họ…
Năm phút sau xe dừng bên lề con đường chạy ra tới bãi biển. Ngọc Thụy ngữi được mùi bùn và muối biển với rong rêu tan trong gió mạnh. Mười mấy chiếc ghe đánh cá đậu dọc theo bờ con rạch khá lớn cạnh mấy chiếc tàu của hải quân. Đại úy Hùng nói chuyện với một người chủ ghe đánh cá. Ông ta là người duy nhất nói được tiếng Anh cho nên đại úy Hùng đề cử ông ta làm đại biểu cho các tàu đánh cá.
– Ông thiếu tá và bà Ngọc Thụy đây là người của chánh quyền trung ương xuống để giải quyết cho quý vị… Còn đây là ông PhanNok, đại diện cho các tàu đánh cá…
Hai bên bắt tay nhau xong PhanNok nói.
– Tôi hy vọng ông và bà sẽ giải quyết cho chúng tôi nhờ. Chúng tôi cũng nghèo mà tàu bị giam giữ cả năm rồi thời vợ con đói khổ ở nhà không ai lo…
– Tôi hiểu tình trạng của ông và các đồng nghiệp nên mới xuống đây để giải quyết. Thay mặt cho chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa tôi tuyên bố thả quý vị về nước…
Quá mừng rỡ ông PhanNok thông dịch lại cho đồng bào của mình biết khiến họ mừng vui cám ơn rối rít. Giơ tay ra hiệu cho mọi người im lặng xong Ngọc Thụy nghiêm giọng nói tiếp.
– Chánh phủ của tôi sẽ phóng thích quý vị về nước mà không bắt quý vị phải đóng tiền phạt gì hết ngoài ra chúng tôi còn cho phép quý vị tự do trở lại hải phận Việt Nam để đánh cá…
Nghe nhân vật đại diện của bộ ngoại giao nói tới đó mấy chục người dân của nước Thái Lan hò reo tở mở…
– Quý vị được phép ra vào hải phận Việt Nam để đánh cá mà không bị bắt giữ với một điều kiện là chúng tôi muốn có một cuộc trao đổi với quý vị…
Mọi người im lặng lắng nghe điều kiện của vị đại diện bộ ngoại giao.
– Để tôi giải thích cho quý vị nghe một cách chi tiết về cuộc trao đổi mà tôi nghĩ là sẽ có lợi cho cả đôi bên. Chúng tôi cần một số hàng hóa để chi dùng trong nước. Ghe đánh cá của quý vị khi sang đây thay vì đi không quý vị sẽ chở hàng hóa bán cho chúng tôi. Sau khi bán xong quý vị sẽ đánh cá rồi chở tôm cá đó về nước…
Ông PhanNok cùng đám ngư phủ chụm đầu bàn tán giây lát xong ông ta hỏi Ngọc Thụy.
– Xin bà cho chúng tôi biết bà muốn mua loại hàng hóa gì?
Hiểu ý của ông ta, Đình Anh xen vào.
– Hàng hóa mà chúng tôi muốn mua không phải là những thứ hàng quốc cấm hay hàng lậu gì hết. Đó là đường, sữa hộp, thuốc men để chữa bịnh hoặc các vật dụng thông thường. Nếu quý vị bằng lòng tôi sẽ trao cho mỗi người một bản danh sách để cho quý vị biết. Tôi xin nhấn mạnh hai điều là hàng quý vị mang sang bán cho chúng tôi phải là hàng thật chứ không phải giả, đồng thời chúng tôi sẽ trả tiền cho quý vị bằng đồng đô la của nước Hoa Kỳ…
Sau khi thảo luận một hồi ông PhanNok nói với Ngọc Thụy và Đình Anh.
– Chúng tôi chấp thuận điều kiện của nhị vị. Quý vị còn điều kiện gì nữa không?
– Còn một điều kiện nhỏ mà tôi cần nói cho quý vị biết là quý vị phải chở hàng sang thời mới được tự do đánh cá. Thuyền nào không chở hàng sẽ bị chúng tôi bắt giữ vì được xem như xâm phạm bất hợp pháp… Quý vị đồng ý không?
Ông PhanNok thông dịch lại cho các đồng nghiệp của mình và mọi người đồng thanh chấp thuận. Họ không bị thiệt thòi gì hết trong cuộc trao đổi này. Tàu đánh cá của họ thay vì đi không sẽ chở hàng hóa sang bán rồi sau đó lại được tự do đánh cá để trở về nước. Như thế họ có thêm lợi nhiều hơn nữa nhất là không lo sợ sẽ bị bắt và giam giữ. Đợi Đình Anh trao cho mỗi chủ ghe đánh cá bản danh sách hàng hóa xong Ngọc Thụy cười nói.
– Quý vị chuẩn bị đi. Sáng mai tàu hải quân sẽ hộ tống quý vị ra khỏi hải phận Việt Nam. Khi quý vị trở lại họ sẽ đón tiếp và dẫn đường cho quý vị vào đây để bán hàng hóa cho chúng tôi…
Đưa tay ra bắt tay ông PhanNok, Ngọc Thụy cười nói tiếp.
– Tôi chúc ông lên đường bình an và sớm xum họp với gia đình. Hy vọng gặp lại ông…
Hiểu ý ông PhanNok bắt tay vị đại diện ngoại giao.
– Tôi cám ơn bà rất nhiều. Tôi hứa với bà là tôi sẽ trở lại để mang sang các thứ bà cần dùng…
– Cá nhân tôi và dân tôi rất cám ơn ông…
Sau khi trở lại Hậu Trạm Kiên Giang Ngọc Thụy nói với đại úy Hùng.
– Mọi việc đã giải quyết xong. Chúng tôi sẽ tường trình lên bộ tư lệnh hải quân sau. Bây giờ tôi nhờ đại úy thông báo với căn cứ hải quân ở An Thới biết để cho tàu hộ tống các ghe đánh cá Thái Lan về nước…
Bắt tay từ giã vị chỉ huy trưởng hậu trạm Kiên Giang xong hai vợ chồng trở về Cần Thơ. Từ từ lái xe qua cầu Đình Anh cười hỏi vợ.
– Anh bao em ăn cháo cá chịu không?
Ngọc Thụy trả lời bằng một câu hỏi.
– Anh đói bụng phải không?
Đình Anh cười ha hả vì người bạn trăm năm biết ý của mình. Quẹo xe vào chợ Rạch Giá anh tìm chỗ đậu xe xong hai vợ chồng đi bộ dài theo các xạp bán thức ăn. Gọi hai tô cháo cá Đình Anh cười hỏi vợ.
– Em nghĩ họ sẽ trở lại?
Ngọc Thụy trả lời trong lúc đưa mắt nhìn quanh quất.
– Em tin là họ sẽ trở lại nhất là trở lại với điều kiện của mình đặt ra cho họ. Sau thời gian bị giam giữ họ cần tiền mà điều kiện của mình nêu ra có lợi cho họ rất nhiều…
Thấy hai tô cháo còn bốc khói được bưng ra Ngọc Thụy hít hà.
– Em thèm cháo cá lâu lắm rồi… Ở Cần Thơ cũng ngon nhưng chợ Rạch Giá có hương vị khác…
Vừa thổi vừa húp Ngọc Thụy vừa ăn một hơi hết tô cháo cá mà vẫn còn thèm.
– Anh ăn nữa không?
Biết vợ mang bầu thèm ăn nên Đình Anh cười nói.
– Em gọi một tô nữa đi… Hai đứa mình chia đôi…
Ăn xong Đình Anh trả tiền đoạn hối vợ lên xe để về Cần Thơ sớm. Ngọc Thụy nói trong lúc xe chạy qua cầu Rạch Sỏi.
– Em đoán các ghe đánh cá Thái Lan sẽ trở lại khoảng chừng một tháng. Mình cần phải trình với bộ kinh tế để họ thiết lập một cơ quan lo việc buôn bán với các ngư dân của Thái Lan…
– Anh hy vọng mọi việc sẽ xảy ra đúng như mình dự tính…
Đình Anh nói với vợ và Ngọc Thụy gật đầu cười vui vẻ.
– Mình cần có tin tưởng và hy vọng để sống nhất là để vượt qua giai đoạn khó khăn này…
19
Quốc, Mai và mấy đứa nhỏ tròn mắt khi thấy Đình Anh ngừng xe trước cửa nhà.
– Hai em sang vậy… Anh nghe nói chánh phủ mở kho xăng dự trữ bán cho dân chúng mà chưa thấy bán ở đây…
Dựng chiếc Lam của mình xong Đình Anh cười.
– Tàu chở xăng chắc phải tuần sau mới lên tới Long Xuyên và Châu Đốc… Đợt đầu tiên là mỗi gia đình sẽ được mua mười lít xăng một tháng. Tuy nhiên mình có thể mua lại của người khác với giá mắc hơn…
Quay qua Hồng, Đình Anh cười nói đùa.
– Cháu nên nhờ Chương coi lại cái xe Honda đi. Mai mốt có xăng hai đứa tha hồ đi du dương…
– Con sẽ nói anh Chương chở con lên núi Thất Sơn chơi. Chỉ sợ ảnh không có tiền đổ xăng thôi… Một lít xăng giá bao nhiêu út?
Ngọc Thụy xen vào.
– Hai trăm… Còn mua của người khác thời hai trăm rưởi hoặc có khi ba trăm…
Quốc cười nói với Hồng.
– Chừng nào Chương không có tiền mua xăng con nói ba cho…
Quốc rất thương và chiều ba đứa con riêng của Mai cho nên ba đứa nhỏ cũng thương anh và gọi bằng ba một cách tự nhiên và thân mật.
– Anh đừng có chiều nó rồi để cho nó hư… Không có tiền đổ xăng thời đạp xe đạp cũng được…
Hồng năn nỉ.
– Đi honda lẹ hơn và oai hơn mà má…
Mai cười cười nói với Ngọc Thụy.
– Để chị ẵm cháu ra cho hai em xem. Thằng nhỏ giống anh Quốc lắm…
Ngọc Thụy trầm trồ khi thấy đứa bé bụ bẫm và ngộ nghĩnh với đôi mắt tròn to và nụ cười thật dễ thương.
– Anh chị đặt tên cho cháu chưa?
– Rồi… Nguyễn An Châu…
Quốc trả lời trong lúc bẹo má con trai. Mai hỏi Đình Anh.
– Có gì lạ ở Cần Thơ không?
Liếc nhanh vợ Đình Anh trả lời.
– Nhiều tin vui lắm chị… Thứ nhất là Ngọc Thụy có thai được hơn hai tháng rồi. Thứ nhì là chánh phủ đang thương lượng với chánh phủ Thái Lan về vấn đề mua bán gạo và tôm cá. Họ mua lại của mình rồi sau đó bán sang các nước tây phương. Ngoài ra chánh phủ Pháp cũng bằng lòng bán nhiên liệu cùng một số máy móc cho mình. Họ còn tính tới chuyện giúp mình xây thêm một nhà máy điện và một đài truyền hình… Nếu chương trình này hoàn thành thời dân chúng của miền tây sẽ có đủ điện để dùng hàng ngày. Gia đình chị sẽ được xem tivi mỗi tối…
Ba đứa nhỏ vỗ tay hoan hô khi nghe tin vui này. Mai khều Ngọc Thụy.
– Chị em mình ra sau bếp vừa làm cơm vừa nói chuyện. Hồng coi em cho má nấu cơm nghen…
Quốc và Đình Anh đứng nơi khoảnh sân hẹp.
– Anh có gặp Hiện không?
Đình Anh hỏi và Quốc đáp nhanh.
– Mới gặp tuần trước. Hiện không coi liên đoàn nữa mà về làm tham mưu trưởng sư đoàn 102 của Bảo…
Cười cười Quốc nhìn Đình Anh.
– Làm tham mưu trưởng sư đoàn là Hiện sẽ lên đại tá mấy hồi… Nó cùng khóa với em phải không. Bảo nói với anh là Hiện rất có tài về tổ chức và tham mưu. Nó mới làm tham mưu trưởng có ba bốn tháng mà sư đoàn của Bảo có một bộ mặt khác hẳn. Quân phong quân kỷ được chấn chỉnh. Khu gia binh được sửa chữa lại thật khang trang và ngăn nắp hơn. Nó còn đề nghị với anh và ông Kiếm lập một trung tâm huấn luyện tương tự như Dục Mỹ ở trong vùng Thất Sơn. Kể từ khi quân mình về đóng ở sông Vĩnh Tế thời vùng Thất Sơn không còn một thằng Việt Cộng nào…
Đình Anh cười nhìn anh rể của mình.
– Em biết… Em đọc báo cáo của bộ tư lệnh sư đoàn 7 thời tỉnh Bến Tre bây giờ không còn là thành đồng cách mạng của Việt Cộng nữa. Các quận như Giồng Trôm, Ba Tri, Bình Đại bây giờ an ninh 100/100. Việt Cộng bây giờ hiếm lắm, không đủ cho dân chúng nắm đầu huống chi tới lính tráng…
Quốc cười ha hả khi nghe câu nói cuối cùng của Đình Anh.
– Mới đây ở Xẻo Rô thuộc tỉnh Kiên Giang có một tiểu đội du kích ra chiêu hồi. Lý do ra hàng của họ rất buồn cười nhưng chứng tỏ một điều là dân quê không còn ủng hộ Việt Cộng nữa. Họ ra chiêu hồi vì đói quá. Họ không dám mò ra vùng có dân ở để xin tiếp tế thực phẩm vì biết dân chúng không những không cho mà còn đi báo lính quốc gia…
Quốc cười gật đầu.
– Đó là kết quả của chương trình Bình Định và Phát Triển Nông Thôn của chánh phủ. Khi tình trạng an ninh được ổn định, dân chúng có được một đời sống tự do và no ấm dĩ nhiên họ không chịu theo cộng sản nữa. Em muốn đi thăm Hiện không?
– Muốn…
Đình Anh nói gọn một chữ. Quốc cười vỗ vai em vợ.
– Ăn cơm trưa xong mình đi. Để tiện việc điều động tướng Nam đã ra lệnh cho công binh mở một con đường chiến lược nối liền Kiên Lương, Tri Tôn, Tịnh Biên và thị xã Châu Đốc. Bộ tư lệnh của anh đóng ở Tri Tôn còn bộ tư lệnh của Bảo ở Tịnh Biên. Hai bên cách nhau chừng hai chục cây số…
Mai bước ra gọi chồng và em ruột vào ăn cơm. Biết Quốc và Đình Anh sẽ đi thăm Hiện và Bảo, Ngọc Thụy cũng xin tháp tùng.
Quốc lái xe jeep chầm chậm trên con đường đất mới làm từ Tri Tôn về Tịnh Biên. Hai bên đường đầy hầm trú ẩn và hố cá nhân để tránh pháo kích. Ngọc Thụy để ý thấy rất ít nhà cửa của dân chúng mà trại lính nhiều hơn. Lính nghèo do đó họ cất nhà cũng giản dị. Mái nhà lợp tôn còn vách được làm bằng tất cả những gì họ có thể kiếm được. Có nhiều căn nhà mái lợp nửa tôn nửa lá còn vách thời tôn, ván và lá lẫn lộn với nhau.
– Hôm qua anh đi họp ở Long Xuyên với tướng Giai để bàn về việc giải ngũ một số sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ của biệt động quân… Hai em có nghe nói về chuyện này không?
Ngọc Thụy im lặng không trả lời. Có lẽ nàng đang bận tâm suy nghĩ chuyện gì. Liếc thấy thái độ trầm tư của vợ, Đình Anh quay sang cười với anh rể.
– Em biết chuyện này. Đầu tiên chánh phủ sẽ phát động chương trình tình nguyện giải ngũ nhưng áp dụng cho các đơn vị văn phòng hay không trực tiếp chiến đấu như công binh, tiếp vận và quân cụ… Sau đợt tình nguyện giải ngũ chánh phủ sẽ tiếp tục cứu xét tới các trường hợp như tuổi tác, thừa quân số hoặc không cần thiết. Theo ước tính của bộ tổng tham mưu thời chương trình giải ngũ này sẽ tiết kiệm cho chánh phủ hai ba tỉ đồng mỗi năm…
Cười cười nhìn Ngọc Thụy đang ngồi mơ màng ngắm cảnh, Đình Anh nói với Quốc.
– Em đã được lên trung tá và làm trưởng ban giải ngũ để duyệt xét chương trình giải ngũ đặc biệt này. Theo ước tính của em thời mình sẽ dân sự hóa một phần ba số lính đang có…
Quốc gật gù cười.
– Anh đồng ý điều này. Lính bây giờ hơi thừa. Vùng Châu Đốc, Long Xuyên này bây giờ lính nhiều hơn dân. Mà hai em cũng biết lính không có sản xuất…
Ngọc Thụy đột ngột ngắt lời Quốc.
– Theo anh thời mình cần bao nhiêu lính để ngăn chận không cho Bắc Việt vượt qua sông Vĩnh Tế?
Trầm ngâm giây lát Quốc mới từ từ trả lời.
– Nếu muốn ngăn không cho địch vượt qua sông Vĩnh Tế thời mình cần hải quân nhiều hơn. Hải quân mới là lực lượng đầu tiên ngăn không cho địch xâm phạm biên giới của mình… Nếu địch không vượt qua con sông Vĩnh Tế thời mình đâu cần có nhiều lính bộ chiến…
Đình Anh gật gù.
– Anh nói cũng có lý tuy nhiên mình phải đề phòng trường hợp…
Dù em vợ không nói hết câu nhưng Quốc cũng hiểu ý. Anh nói với Đình Anh nhưng ngầm trả lời cho câu hỏi của Ngọc Thụy.
– Để giữ con sông biên giới mình dàn tới mười sư đoàn gồm có năm sư đoàn bộ binh và năm sư đoàn thuộc lực lượng tổng trừ bị là sư đoàn dù, thủy quân lục chiến và ba sư đoàn biệt động quân. Theo anh như thế quá nhiều…
Đình Anh im lìm giây lát mới thở dài.
– Em cũng thấy hơi nhiều… Mười sư đoàn này tổng cộng lại ít nhất ta cũng có hơn trăm ngàn quân. Đem chia đều cho một trăm cây số chiều dài của hai con sông đào Vĩnh Tế và Vĩnh An thời lính có thể bắt tay nhau từ đầu sông tới cuối sông…
Quốc cười lớn còn Ngọc Thụy cũng bật thành tiếng cười vui vì sự so sánh của Đình Anh.
– Theo anh mình nên giải ngũ một phần ba hoặc phân nửa quân số. Như thế sẽ tiết kiệm cho chánh phủ một số tiền lớn rồi dùng số tiền này mua vũ khí tối tân hơn. Lấy vũ khí tối tân thay cho lính anh nghĩ có nhiều điều thuận lợi hơn…
– Em cũng đồng quan điểm với anh…
Ngọc Thụy lên tiếng. Đình Anh cũng phụ họa.
– Mình mua vũ khí mới sẽ có nhiều cái lợi hơn. Thứ nhất nếu là một khách hàng lớn mình sẽ được chủ hàng o bế và bảo vệ mình. Thứ nhì là nếu trở thành khách hàng quen thuộc mình có thể mua trước rồi trả sau. Thứ ba càng mua nhiều chừng nào mình càng có uy tín để có nhiều chọn lựa người bán hàng đồng thời mua được giá rẻ hơn…
– Sắp tới rồi…
Quốc lên tiếng. Trông thấy một cột cờ cao ngất với lá cờ vàng bay phất phới Ngọc Thụy buột miệng.
– Lá cờ đẹp quá…
Quốc gật đầu cười.
– Lá cờ của sư đoàn 102 biệt động quân này là một lá cờ đặc biệt và kỳ lạ. Nó là một huyền thoại. Một hồi nữa Bảo sẽ kể cho hai em nghe đầu đuôi câu chuyện…
Xe chạy từ từ rồi ngừng trước cổng chánh. Trông thấy Quốc người lính giơ tay chào. Quốc chào trả đoạn nói nhanh.
– Tôi muốn gặp đại tá Bảo…
– Dạ kính mời đại tá…
Đậu xe trước bộ tư lệnh Quốc cười nói với Ngọc Thụy và Đình Anh.
– Gặp lại hai em chắc Bảo và Hiện mừng lắm…
– Gặp lại bạn cố tri mà sao không mừng…
Nghe tiếng nói Đình Anh thấy Hiện và Bảo song song bước ra. Bắt tay Đình Anh thật chặt, Bảo cười nói khi thấy cái bụng hơi u u lên của Ngọc Thụy.
– Chà… Lúc này em tăng gia sản xuất dữ a. Được mấy tháng rồi?
Ngọc Thụy cười vui vẻ.
– Dạ ba tháng rồi anh…
Quay sang Hiện, nàng nói tiếp.
– Em tới thăm hai anh xong chở em về nhà thăm chị Ánh Tuyết với chị Quỳnh Hoa nha. Lâu quá em không có gặp…
Quốc cười xen vào.
– Hiện làm khổ chủ đêm nay đi. Mình rửa lon cho Đình Anh…
Vỗ vai người bạn thân của mình Hiện cười ha hả.
– Gì chứ rửa lon cho trung tá Anh cổ cò thời thằng này rất hân hạnh…
Hiện cười nói với Quốc.
– Em chạy về cho Quỳnh Hoa biết để chuẩn bị tiệc tùng trước…
Bảo nói với Đình Anh và Ngọc Thụy.
– Hai em vào phòng anh nói chuyện giây lát…
Chưa chịu bước đi Ngọc Thụy nhìn ra ngoài chỗ cột cờ.
– Anh Bảo kể cho em nghe về cột cờ ngoài sân đi. Anh Quốc nói nó đặc biệt và kỳ lạ lắm…
Nhẹ gật đầu Bảo nói với Ngọc Thụy và Đình Anh.
– Anh dẫn hai em ra thăm cột cờ xong rồi kể cho hai em nghe đầu đuôi câu chuyện…
Bảo hướng dẫn Đình Anh, Ngọc Thụy và Quốc bước ra khoảnh sân rộng của bộ tư lệnh sư đoàn 102 biệt động quân. Trời nắng chang chang. Gió thổi nhẹ nhưng có lẽ ở trên cao nhiều gió hơn vì vậy làm lá cờ vàng ba sọc đỏ bay phất phới.
Bốn người dừng lại trước một vòng tròn lớn bao quanh cột cờ. Quốc hỏi gọn.
– Mấy trái rồi?
– Bốn chục…
Chỉ vào vòng tròn Bảo cười nói.
– Cái hàng rào bao quanh chân cột cờ này đều làm bằng những trái đại bác không nổ. Bốn chục trái rồi…
Mặt hơi ngước lên nhìn lá quốc kỳ đang bay phất phới Bảo nói với giọng trầm buồn.
– Tám tháng trước đây một trái đại bác 130 ly của Việt Cộng đã rớt xuống ngay tại chỗ này trong lúc lính đang làm lễ chào quốc kỳ buổi sáng làm cho 45 người chết và hàng trăm bị thương nặng nhẹ. Riêng cột cờ bị gãy nát khiến cho lính phải dựng lại cây cột cờ mới. Để thách thức kẻ địch cũng như để biểu dương sự thương tiếc cho các đồng đội đã hy sinh; những người lính của sư đoàn 102 đã dựng một cột cờ cao gấp ba lần cột cờ cũ đồng thời lá cờ rách nát được thay bằng lá cờ mới và lớn hơn. Ngày đầu tiên vừa dựng xong cột cờ thời một trái đại bác 130 ly lại rớt xuống trong lúc mọi người đang chào đón lá quốc kỳ mới. Tuy nhiên…
Ngừng lại Bảo thở hơi thật dài xong nhìn Đình Anh và Ngọc Thụy.
– Là người có đạo nên anh không tin vào chuyện thần tiên ma quỉ, nhưng có những sự việc xảy ra ngay trước mắt khiến cho mình không tin cũng không được. Trái đại bác rơi xuống ngay dưới chân cột cờ mà không nổ. Nếu nó nổ ra thời có vô số người chết hay bị thương. Từ đó mỗi buổi sáng khi lính chào cờ là tụi Việt Cộng lại pháo kích vào ngay cột cờ. Lạ một điều là không có trái đạn nào nổ. Mấy tháng qua chúng bắn bốn chục trái vào nơi cột cờ mà không có một trái nào nổ hết. Binh sĩ đồn đại là vong hồn những người bị chết đã bảo vệ cho lá quốc kỳ cũng như che chở cho đồng đội. Lá cờ linh thiêng đó là một thách đố đối với địch quân đồng thời là niềm tin của hàng ngàn chiến sĩ của sư đoàn 102 nói riêng và binh lính đóng dài theo sông Vĩnh Tế nói chung. Mỗi khi thấy đạn đại bác của địch rớt xuống cột cờ mà không nổ họ lại hò reo hoan hô. Thậm chí có người khi nghe tiếng départ của pháo địch lại không tìm chỗ nấp mà chạy ra đứng cạnh cột cờ. Họ tin cột cờ và nhất là lá quốc kỳ linh thiêng đó sẽ che chở cho họ…
Ngọc Thụy ngước nhìn lá cờ vàng ba sọc đỏ đang bay phất phới. Tự dưng nàng có cảm tưởng hồn thiêng của sông núi và vong linh của triệu triệu người đã chết hòa nhập vào lá cờ tạo cho nó có một sức mạnh để tồn tại qua bao nhiêu thử thách và thăng trầm của đất nước.
Ngước nhìn lên lá cờ vàng ba sọc đỏ đang bay phất phới trên trời cao giây lát, Đình Anh nói với Bảo và Quốc.
– Em sẽ viết và đăng câu chuyện này lên báo Chiến Sĩ Cộng Hòa để cho tất cả anh em chiến sĩ và dân chúng đọc. Huyền thoại này nếu mình biết khai thác đúng mức sẽ tạo ra một niềm tin tưởng mạnh mẽ cho dân chúng. Hai anh cũng biết dân quê vốn tin vào những sự việc kỳ lạ…
Ngừng xe Hiện nói với mọi người.
– Xin mời mọi người về nhà…
Bảo với Hiện đi một xe còn Quốc lái xe theo sau. Khu gia binh của bộ tư lệnh sư đoàn 102 thật khang trang, ngăn nắp và sạch sẽ. Dọc theo con đường chính hai đều có trồng cây lấy bóng mát.
– Chỉ nhìn khu gia binh cũng biết anh Hiện có tài tham mưu và tổ chức…
Ngọc Thụy quay qua cười nói với Quốc. Vị tư lệnh sư đoàn 101 biệt động quân gật gù.
– Bởi vậy anh mới nhờ Hiện cố vấn cho bộ tư lệnh của anh về vấn đề tham mưu và điều hành. Anh với Bảo và đại tá Kiếm đã họp với thiếu tướng Giai để bàn bạc về chuyện xin mở khóa tham mưu và chỉ huy riêng trong nội bộ của biệt động quân để chỉ dạy cho các sĩ quan. Khóa đầu tiên sẽ mở vào tháng ba năm tới với 25 khóa sinh mà đa số là các liên đoàn trưởng hoặc tiểu đoàn trưởng…
Hiện ngừng xe cạnh lề đường trước căn nhà lợp tôn tương tự như các căn nhà chung quanh. Ánh Tuyết và Quỳnh Hoa cùng mấy đứa nhỏ vui mừng đón khách. Sau một màn chào hỏi Hiện mời mọi người nhập tiệc. Ba bà ngồi riêng có bàn ghế hẳn hòi trong lúc bốn ông lính phải hạ thổ ngồi quây quần trên chiếc chiếu. Gọi là tiệc nhưng đúng hơn là một bữa cơm gia đình gồm một tô canh chua với đầu cá lóc và một dĩa cá lóc chiên. Còn rượu thời giản dị lắm. Một chai rượu đế pha với xá xị cũng xong. Họ không cần say mà chỉ cần chút men cay để cười đùa, trêu chọc hay bàn tán đủ thứ chuyện.
Nhấp ngụm rượu khà tiếng nhỏ Bảo hỏi Đình Anh.
– Có chuyện gì lạ ở Cần Thơ không?
– Dạ nhiều chuyện lắm anh. Tuy nhiên hai chuyện lớn nhất là…
Đình Anh ngừng lại hớp ngụm rượu đoạn nghiêm giọng.
– Chánh phủ đang phát động một phong trào ” làm sạch chánh quyền “. Bất cứ nhân viên chánh phủ nào có thành tích, dính líu hoặc liên hệ tới chuyện tham nhũng sẽ bị điều tra và giải nhiệm hoặc tịch biên gia sản. Chánh phủ đã giao cho tướng Hiếu làm chủ tịch Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng…
Bảo gật gù.
– Không có ai xứng đáng hơn tướng Hiếu trong chức vụ đó…
Cười cười Đình Anh nói tiếp.
– Các cơ quan anh ninh và tình báo đang hoạt động ráo riết để loại trừ tụi điệp viên hoặc cán bộ cộng sản nằm vùng trong chính phủ dân sự và quân sự của mình. Các thành phần có khuynh hướng thân cộng hoặc ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản sẽ bị trả về bên kia sông cho cộng sản. Nói tóm lại là mình sẽ và phải làm sạch chánh quyền đủ mọi phương diện trước khi mở một cuộc bầu cử dân chủ và tự do thật sự…
Quốc lên tiếng.
– Thứ nhất cộng sản, thứ nhì tham nhũng. Hai thứ đó là quốc nạn của đất nước và dân tộc mình…
Cười ha hả có vẻ thích thú Đình Anh tiếp lời mà mắt nhìn về chỗ Ngọc Thụy đang ngồi.
– Sau khi nhậm chức Chủ Tịch Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng, được báo chí hỏi ý kiến về câu nói của phó tổng thống Trần Văn Hương ” Nếu diệt hết tham nhũng thời lấy ai làm việc “. Hai anh với Hiện biết tướng Hiếu trả lời như thế nào không?
Không những Bảo, Quốc, Hiện mà ngay cả Ngọc Thụy với Ánh Tuyết và Quỳnh Hoa cũng ngừng nói chuyện để lắng nghe câu chuyện của Đình Anh. Cuối cùng Bảo hắng giọng.
– Ông Hiếu trả lời ra sao?
– Thiếu tướng Hiếu trả lời là ” nếu diệt hết tham nhũng mà không có người làm việc thời tôi sẽ làm việc một mình…”
Hiện bật cười ha hả vì thích thú trong khi Bảo gật gù còn Quốc cười chúm chiếm. Ngọc Thụy nói với chồng.
– Nếu có dịp gặp tướng Hiếu anh nói với ổng là em sẽ làm việc với ổng…
Quốc nói với giọng trầm và nghiêm nghị.
– Anh và lính của sư đoàn 101 biệt động sẽ ủng hộ ổng hết mình…
Bảo ứng tiếng.
– Anh nữa…
– Rồi đây mọi người sẽ thấy nhiều tướng lãnh trong quân lực hoặc nhân viên quan trọng của các bộ trong chánh quyền dân sự tình nguyện từ chức hoặc được giải ngũ. Thực ra thời họ bị cho giải ngũ hay giải chức vì có tên trong danh sách tham nhũng hoặc dính líu tới tham nhũng. Nói tóm lại họ là những người thuộc thành phần không trong sạch. Sau khi loại trừ hết những thành phần bất hảo chánh phủ mới bắt đầu tổ chức bầu cử một chánh phủ hợp hiến, hợp pháp và được đại đa số quần chúng ủng hộ…
Quốc ngắt lời em vợ của mình.
– Mình phải mất bao lâu mới xong công việc loại bỏ gián điệp cộng sản và bài trừ tham nhũng?
Đưa ly rượu cho Hiện rót thêm Đình Anh trả lời.
– Em có quen một người trong Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng. Ông ta cho biết phải mất ít nhất nửa năm mới diệt hết tham nhũng bự, còn diệt tận gốc rễ của tham nhũng thời chắc phải còn lâu lắm…
Ngừng lại giây lát Đình Anh mới từ từ tiếp trong lúc nhìn Bảo, Quốc và Hiện.
– Em nghe tin đồn mà điều này không biết có đúng hay là không. Chánh phủ của mình đang chuẩn bị mở du kích chiến chống lại cộng sản…
– Anh cũng có nghe tin này…
Bảo lên tiếng. Quốc gật đầu như xác nhận lời của Bảo. Nhìn bốn ông lính, Ngọc Thụy cười nói nửa đùa nửa thực.
– Bốn anh muốn về thăm Sài Gòn không?
Bốn người lính đều có cử chỉ khác nhau khi nghe câu hỏi của Ngọc Thụy. Tuy nhiên dù có cử chỉ hoặc thái độ nào họ đều lờ mờ đoán ra cô em gái bé tí ti của họ đã nghĩ ra được ý kiến mới mẻ và kỳ lạ.
– Muốn… Anh muốn…
Hiện lên tiếng trước nhất. Uống ngụm rượu Bảo thở hơi thật dài.
– Anh nhớ Sài Gòn… Nhớ vô cùng… Như nhớ người yêu… Em có cách gì làm cho anh được nhìn thấy Sài Gòn…
Giọng nói buồn và chậm của Ngọc Thụy vang lên.
– Em cũng vậy… Em cũng nhớ Sài Gòn như các anh…
Rời chỗ ngồi Ngọc Thụy tới ngồi xuống chiếu kế bên chồng.
– Từ lâu rồi mình bị người Mỹ ép buộc phải đánh giặc theo ý của họ. Bởi vậy thay vì thắng cộng sản thời mình lại bị thua. Bây giờ mình có quyền quyết định một cuộc chiến tranh theo ý của mình…
Hiện nhìn Bảo trong lúc Bảo nhìn Quốc và Quốc lại nhìn Đình Anh. Thật lâu Bảo mới lên tiếng.
– Em nói cũng có lý… Tuy nhiên…
Nằm xuống chiếu gác đầu lên đùi chồng, Ngọc Thụy cười.
– Anh sợ dân chúng không ủng hộ mình phải không?
Bảo gật đầu còn Quốc có vẻ trầm tư nghĩ ngợi.
– Bắc Việt đang dàn mười mấy sư đoàn bên kia sông Vĩnh Tế để tấn công ta. Anh có cách gì làm cho Văn Tiến Dũng phải rút phân nửa quân đi chỗ khác không?
Bốn ông tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lặng thinh trước câu hỏi của Ngọc Thụy. Thật lâu Đình Anh mới nựng má vợ rồi cười hỏi.
– Em có ý kiến hả?
Ngọc Thụy cười thánh thót.
– Có… Ý kiến của em có thể làm đảo lộn tình hình hay ít nhất cũng giải tỏa được áp lực mà địch đang duy trì lên vùng biên giới Việt Miên…
Ngước nhìn Bảo, Ngọc Thụy cười đùa.
– Em có thai nên thèm ăn lắm. Em nói ra ý kiến đưa anh về thăm Sài Gòn xong rồi anh mua tôm càng nướng đãi em nhen…
Bảo gật đầu không do dự.
– Ừ… Em nói đi rồi anh nhờ chị làm món tôm càng nướng đãi em…
– Văn Tiến Dũng đang dàn mười mấy sư đoàn dọc theo biên giới để tấn công mình. Cái thế của hắn thoạt nhìn thời hùm hổ nhưng nhận xét kỹ theo em thời yếu xìu… Mấy chục ngàn quân của hắn còn đứng vững là nhờ vào lương thực. Nếu mình triệt được đường vận chuyển lương thực của hắn…
Tuy Ngọc Thụy không nói hết câu song bốn người lính cao cấp hiểu được cái ý của nàng. Nếu họ ngăn chặn được con đường tiếp tế từ Sài Gòn vào thời mấy chục ngàn bộ đội cộng sản Bắc Việt đang đóng dọc theo sông Vĩnh Tế sẽ bị lâm vào tình trạng đói khát và thiếu thốn quân dụng…
Họ còn đang suy nghĩ giọng nói của Ngọc Thụy lại chậm chạp vang lên.
– Quân dụng từ ngoài bắc và lương thực từ Sài Gòn tiếp tế cho bộ đội Văn Tiến Dũng phải vượt qua sông Cửu Long. Nếu mình kiểm soát được thủy lộ này thời hắn và lính của hắn chỉ có nước ăn củ năng và uống nước vũng cầm hơi thôi chứ sức đâu mà tấn công mình…
Tự nãy giờ biết câu chuyện sẽ hấp dẫn vì sự tham gia của Ngọc Thụy nên Ánh Tuyết và Quỳnh Hoa cũng rời bàn tới ngồi xuống chiếu cạnh chồng. Thấy Hiện mỉm cười gật gù Quỳnh Hoa diễu chồng.
– Sao… Anh chịu đi mua tôm càng chưa…?
Ánh Tuyết xen vào.
– Cả anh Bảo, anh Quốc với Đình Anh nữa… Bốn ông phải đích thân đi mua chứ không được nhờ lính đi mua à nghe. Bốn ông phải làm giống như Lưu Bị đi cầu Khổng Minh đó…
Bảo cười ha hả.
– Ngọc Thụy đã nói hết đâu mà anh đi mua…
– Anh Bảo nói đúng đó… Bấy lâu nay mình toàn ở thế thủ mà giặc lại ở thế công. Mình bỏ Sài Gòn cho giặc chiếm đóng không khác vì Hưng Đạo Vương bỏ Thăng Long cho Mông Cổ. Giặc lâm vào thế thủ và mình chuyển từ thế thủ sang thế công. Các chiến khu của chúng đang bỏ trống là căn cứ vững chắc cho chúng ta trú ẩn để từ đó phát động một cuộc chiến tranh…
Hiện ngắt lời Ngọc Thụy.
– Em muốn nói tới kiểu du kích chiến…
Ngồi dậy Ngọc Thụy cười đùa với chồng.
– Anh rót cho em ly xá xị đi. Phải nhậu sỉn thời em mới có hứng nói chuyện được…
Cười vui vẻ Đình Anh rót cho vợ ly xá xị với chút nước đá. Ngọc Thụy hớp ngụm nhỏ rồi khà tiếng lớn giống như đang uống rượu thật sự. Cử chỉ trẻ con của nàng khiến cho ai ai cũng phải bật cười.
– Anh Hiện nói đúng đó… Đã tới lúc mình phải phát động một cuộc chiến tranh du kích rập khuôn như địch đã dùng với mình ngày xưa…
– Anh chỉ sợ dân chúng họ không ủng hộ mình…
Bảo lên tiếng. Cười cười nhìn bạn, Quốc nói như đáp thay cho Ngọc Thụy.
– Sau gần hai năm sống dưới chế độ cộng sản dân miền nam đã biết rõ bộ mặt thật của chúng rồi. Họ biết Hồ Chí Minh là thằng cha ăn gian nói dối, chuyên môn lừa bịp cũng như đám lãnh tụ cộng sản là một lũ đại gian ác. Sở dĩ họ không dám chống đối chỉ vì sự kiểm soát gắt gao của đám công an. Nói tóm lại sức mạnh của tụi nó đều tựa vào công an. Bây giờ mình phát động một cuộc du kích chiến với mục đích đầu tiên là tranh thủ nhân tâm bằng cách ám sát, khủng bố, bắt cóc nhắm vào đám công an và bộ đội tại địa phương. Mình mà bảo vệ được dân thời dĩ nhiên dân sẽ che chở cho mình…
Uống một ngụm xá xị khà tiếng lớn như khoái chí cái gì, Ngọc Thụy nói với Quốc.
– Lấy nông thôn bao vây thành thị… Mình phải áp dụng triệt để câu nói này. Kiểm soát được nông thôn là mình có chỗ dựa vững chắc để từ đó ảnh hưởng của mình sẽ như vết dầu lan ra tới thành thị… Các chiến khu, mật khu sẽ là cứ điểm an toàn và vững chắc của mình. Bộ đội của Giáp bây giờ quen hưởng thụ tiện nghi tư bản cho nên chúng đâu có muốn trở lại sống trong rừng rú và nhất là đánh nhau nữa… Cuộc chiến tranh giữa quốc gia và cộng sản vẫn còn tiếp diễn chỉ có điều đổi chổ thay vùng mà thôi…
Ngồi dậy song vẫn tựa người vào vai của chồng, Ngọc Thụy cười hỏi Bảo với Quốc.
– Theo hai anh Bắc Việt sẽ dùng đường nào để tiếp tế cho bộ đội đang đóng dọc theo sông Vĩnh Tế?
Quốc nói nhanh như có sẵn câu trả lời.
– Từ Sài Gòn chúng có hai ngã để đi. Thứ nhất là từ Sài Gòn đi Gò Dầu rồi băng qua biên giới Miên tới Neak Luong. Đường thứ nhì theo quốc lộ 4 đoạn rẽ vào Cao Lãnh, Hồng Ngự xong đi tới Neak Luong. Con đường này đã bị gián đoạn trong chiến tranh. Có lẽ bây giờ chúng đã sửa chữa rồi. Tuy nhiên dù có đi đường nào họ cũng phải băng qua sông Cửu Long… Như em nói nếu mình kiểm soát được đường sông tức là mình bóp cổ chúng…
Hiện phụ họa.
– Nếu mình tung các toán biệt kích hay đại đội viễn thám, trinh sát hoặc người nhái phá hủy cầu cống, phục kích đoàn công voa chở tiếp liệu…
Đứng dậy Bảo cười nói.
– Thôi tụi mình đi mua tôm càng về đãi Ngọc Thụy để cô em gái nói mình thất hứa…
Bốn ông quan lớn kéo nhau đi ra chợ quận Tịnh Biên tìm mua tôm càng. Quỳnh Hoa nói vói theo.
– Mấy ông phải mua tôm còn sống nghe chưa… Tụi này không ăn tôm chết đâu…
20
– Xin lỗi ông… Ông chờ ai đó?
Đang ngồi trên chiếc Lam mơ màng nghĩ ngợi Đình Anh cười khi nghe câu hỏi trên.
– Tôi đâu có chờ ai… Tôi chờ tà áo dài màu tím hoa ô môi của tôi…
Ngọc Thụy cười thánh thót khi nghe câu trả lời của chồng. Ngồi lên yên vòng tay ôm chặt hông chồng, nàng cười hỏi.
– Anh chờ em lâu không?
– Không lâu lắm… Đang ngồi trong sở chợt nhớ em nên anh dù về mười lăm phút trước giờ tan sở. Anh rủ em đi ăn cháo cá…
– Anh có tiền không?
– Có…
– Tiền ở đâu?
– Mượn… Anh mượn tiền để bao em ăn cháo cá. Mình ăn mừng mà em…
Dụi đầu vào lưng chồng Ngọc Thụy cười nhỏ.
– Ăn mừng cái gì?
– Ăn mừng em có việc làm mới…
Thấy vợ im lặng, Đình Anh nói tiếp.
– Cậu Viên gọi điện thoại nói cho anh biết là bộ tổng tham mưu sẽ lập một phòng mới tên là Phòng Nghiên Cứu Chiến Thuật Chiến Lược. Người mà cậu định mời giữ chức trưởng phòng chính là em…
Ngọc Thụy ngắt lời chồng.
– Em đâu có biết đánh giặc…
– Đâu cần phải biết đánh giặc mới nghiên cứu và nghĩ ra chiến thuật và chiến lược. Vị trưởng phòng phải là người thông minh, suy tư, lý luận, để tâm tìm tòi và học hỏi rồi phác họa những ý kiến mới lạ của chiến thuật hoặc chiến lược trong quân đội. Cậu Viên nói là không ai có những ý tưởng mới lạ và hay ho bằng vợ cưng của anh…
– Cậu Viên nhờ anh thuyết phục em phải không?
Đình Anh cười lớn một cách vui vẻ khi bị vợ nói đúng ý của mình.
– Sao em biết?
– Nếu không thời tại sao anh lại nịnh em, bao em đi ăn cháo cá… Em đi guốc trong bụng anh…
Đình Anh cười rè.
– Cậu Viên bảo không ai xứng đáng chức trưởng phòng hơn em…
Ngừng lại giây lát Đình Anh nói nhỏ.
– Anh nghĩ em nên nhận vì nhiều lý do. Thứ nhất nó thích hợp với em. Thứ nhì lương của em sẽ nhiều gấp đôi so với nghề dạy học. Thứ ba đây là việc làm bảo đảm…
– Em thích dạy học hơn. Nhàn hạ mà vui… Ba tháng hè không làm việc sướng hơn…
– Mình sắp có con rồi… Tiêu xài nhiều hơn nên em cần có việc làm cao lương…
Ngọc Thụy thở dài im lặng. Nàng biết đời sống càng ngày càng trở nên đắt đỏ. Giá sinh hoạt leo thang mỗi ngày. Cách đây chừng ba tháng, hai vợ chồng còn đủ tiêu xài thời bây giờ phải cần kiệm, tiết giảm nhiều thứ mới đủ tiền sống qua ngày. Mai mốt đây nàng lại có thêm đứa con thời chi phí lại nhiều nữa.
– Cậu Viên còn nói thêm cho anh biết là bộ tổng tham mưu sẽ cho em mang quân hàm trung tá, dưới quyền em có chừng bảy tám chục nhân viên vừa quân sự lẫn dân sự…
Ngọc Thụy nói trong tiếng cười.
– Em sẽ yêu cầu cậu Viên cho em mang chức đại tá để em đì anh chơi. Từ nào tới giờ em toàn bị anh đì không hà…
– Trời đất… Em đì anh sát ván… Em quay anh như dế mà em bảo anh đì em. Ban ngày anh bửa củi, nấu cơm, rửa chén, giặt quần áo, tối trước khi đi ngủ anh còn phải đấm lưng, bóp tay bóp chân cho em…
Ngọc Thụy cười sặc sụa.
– Đó là anh năn nỉ em để cho anh làm chứ bộ. Anh nói anh thương em bầu bì nên anh giành làm…
Đình Anh cười ha hả.
– Được rồi em không có đì anh. Mà bây giờ em nhận không để anh trả lời cậu Viên. Nếu em không nhận thời cậu sẽ kiếm người khác…
Ngọc Thụy thở dài sườn sượt.
– Em nhận… Anh biết là mình cần tiền để nuôi con mà… Vả lại em không muốn cậu Viên buồn…
Đình Anh ngừng xe trước một quán ăn nhỏ nằm dọc theo bến Ninh Kiều. Dìu vợ vào tận bàn ăn, kéo ghế cho vợ ngồi xong Đình Anh gọi hai tô cháo cá. Hai vợ chồng im lặng ăn dường như mỗi người đều bận tâm về chuyện gì. Lấy muỗng vét không còn giọt nước trong tô, Ngọc Thụy cười nói.
– Ăn xong tô cháo em thấy khỏe và yêu đời… Chừng nào em mới bắt đầu làm việc…?
Móc túi trả tiền Đình Anh cười.
– Làm việc thời chắc chưa nhưng đầu tháng tới em cần có mặt để nhận chức vụ đồng thời sắp xếp nhân viên và công việc theo ý của em…
Hai vợ chồng bước song song ra cửa. Gió mát và nhẹ. Dòng sông Cần Thơ nước xanh lơ. Mấy chiếc tàu của hải quân chạy chầm chậm.
Tất cả nhân viên thuộc Phòng Nghiên Cứu Chiến Thuật Chiến Lược đều ngạc nhiên khi biết Ngọc Thụy là xếp của họ. Nhiều vị sĩ quan cấp tá hay cấp úy đều có cử chỉ hoặc thái độ không mấy thân thiện với vị trưởng phòng của mình. Tuy nhiên sau hai tuần lễ gặp gỡ và làm việc với nhau nàng đã chinh phục cảm tình của họ. Sự hiểu biết, thông minh, vui vẻ và ăn nói có duyên của nàng đã khiến mọi người đều cảm mến và tuân theo sự chỉ huy của người đàn bà trẻ tuổi hơn họ. Sau ba tháng trời miệt mài làm việc, Ngọc Thụy và nhân viên của nàng đã hoàn thành một bản phúc trình lên bộ tổng tham mưu với đầy đủ chi tiết. Ngọc Thụy còn đi xa hơn trong một bản nghiên cứu và phân tích về tình hình chính trị, kinh tế và văn hóa để hổ trợ cho những đề nghị của mình về sách lược đấu tranh chống cộng sản và bảo vệ phần đất còn lại của Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi đọc bản phúc trình, đại tướng Viên gọi điện thoại khen ngợi cháu gái của mình đã đúc kết một bản phúc trình đặc sắc với nhiều sáng kiến và đề nghị mới lạ. Thu lượm những ý kiến từ bản phúc trình này, bộ tổng tham mưu sẽ phác họa một chiến thuật và chiến lược cho quân lực.
19- 6- 1979
Toàn thể quân dân tưng bừng kỷ niệm đệ ngũ chu niên ngày Việt Nam Cộng Hòa được độc lập, tự do và tự chủ. Tại thủ đô Cần Thơ, cờ vàng ba sọc đỏ treo khắp nơi. Tuy không có cuộc diễn binh rầm rộ như ngày xưa nhưng dân chúng tự động hội họp và tuần hành trong trật tự để hoan hô và ủng hộ chánh phủ.
Trong khi dân chúng và binh sĩ các cấp vui mừng đón ngày quốc khánh thời một buổi họp kín được khai mạc với sự hiện diện của các tướng lãnh nắm giữ các chức vụ quan trọng của quân đội. Mười một vị tư lệnh sư đoàn bộ chiến, năm tư lệnh sư đoàn của lực lượng tổng trừ bị là biệt động quân, nhảy dù và thủy quân lục chiến. Hai tư lệnh không và hải quân. Phía tổng tham mưu có tướng Khuyên, cục trưởng cục tiếp vận. Tướng Đống, bộ trưởng quốc phòng. Tướng Khang, tổng tham mưu phó. Tướng Trưởng, tham mưu trưởng liên quân. Tướng Nam, tư lệnh mặt trận Việt Miên. Tướng Hiếu, chủ tịch ủy ban bài trừ tham nhũng. Tướng Trung, cục trưởng cục chiến tranh chính trị. Vì đây là buổi họp mật cho nên các vị tư lệnh không được mang theo sĩ quan tùy viên. Ngoài ra họ còn bị khám xét thật kỹ lưỡng trước khi vào phòng họp. Các binh sĩ canh gác và phục dịch đều được tuyển chọn cẩn thận.
Đang trò chuyện, thăm hỏi các vị tướng lãnh vội im lặng khi thấy cánh cửa hông mở ra. Vị sĩ quan quân cảnh mở cửa cho một người bước vào.
– Vào hàng… Phắc…
Mọi người trong phòng đứng nghiêm chào đón vị tổng tham mưu trưởng của họ. Giơ tay chào trả tướng Viên cười nói.
– Kính chào quý vị… Mời anh em an tọa…
Bước tới chiếc bàn cao và nhỏ có gắn sẵn máy khuếch âm tướng Viên hắng giọng.
– Kính thưa quý vị tướng lãnh…
Hôm nay là một ngày vui lớn cho toàn thể quân dân của Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta. Năm năm trước đây, cũng ngày 19 tháng 6, một nhóm quân nhân trẻ tuổi, yêu nước đã đứng lên làm lịch sử bằng cách lật đổ ông Thiệu và đoạn giao với chính phủ Hoa Kỳ. Hành động mạo hiểm và táo bạo của nhóm sĩ quan cấp tá đã phá vỡ thế cờ chiến lược mà hai siêu cường Mỹ- Tàu đã dàn dựng để đẩy mười bảy triệu dân Việt Nam Cộng Hòa vào gông cùm cộng sản. Tôi không nói thời quý vị cũng biết kết quả của cuộc cách mạng này thành công tới mức độ nào, vì năm năm qua tuy lãnh thổ bị mất khá nhiều nhưng đại đa số dân chúng của Việt Nam Cộng Hòa ta vẫn được sống trong độc lập, tự do, tự chủ và no ấm. Nhân danh tổng tham mưu trưởng, tôi đã mời những thành viên đầu tiên khởi động cuộc cách mạng. Kính mời quý vị cho một tràng pháo tay để hoan hô những người đã làm lịch sử…
Cánh cửa mở ra để cho chín quân nhân bước vào. Sáu người đi đầu mặc quân phục mang phù hiệu biệt động quân. Còn ba người cuối cùng mặc quân phục bộ binh mang phù hiệu biệt khu thủ đô, bộ tổng tham mưu và sư đoàn 5 bộ binh.
Đợi cho chín quân nhân cấp tá đứng xếp hàng trình diện trước hội đồng tướng lãnh xong tướng Viên cất giọng.
– Kính thưa quý vị. Tôi xin hân hạnh giới thiệu cùng quý vị tên tuổi, cấp bậc và chức vụ của họ năm năm về trước để chứng tỏ lòng can đảm và yêu nước thiết tha của họ khi tham gia đảo chánh. Kính thưa quý vị…
– Đại tá Bùi Năng Kiếm, liên đoàn trưởng liên đoàn 31 biệt động quân…
Đại tá Kiếm bước qua bên trái một bước xong giơ tay chào kính các vị tướng lãnh. Hàng loạt tiếng vỗ tay vang lên.
– Trung tá Nguyễn Bảo Quốc, liên đoàn trưởng liên đoàn 4 Biệt Động Quân.
– Trung tá Trần Đăng Bảo, liên đoàn trưởng liên đoàn 7 Biệt Động Quân.
– Trung tá Lê Hữu Hiện, liên đoàn trưởng liên đoàn 6 Biệt Động Quân.
– Trung tá Nguyễn Duy Minh, liên đoàn trưởng liên đoàn 32 Biệt Động Quân.
– Trung tá Hồ An Dân, liên đoàn trưởng liên đoàn 33 Biệt Động Quân.
– Trung tá Nguyễn Mạnh Hùng, biệt khu thủ đô.
– Thiếu tá Nguyễn Đình Anh, bộ tổng tham mưu…
– Thiếu tá Đỗ Duy Ánh, sư đoàn 5 bộ binh.
Cứ mỗi lần tướng Viên đọc tên một người là các vị tướng lãnh lại vỗ tay hoan hô. Đợi cho tiếng hoan hô dứt vị tổng tham mưu trưởng hắng giọng.
– Kính thưa quý vị. Nói đến cuộc đảo chánh lịch sử của ngày 19- 6- 1974 này, tôi không thể không nhắc tới một người vốn là linh hồn của cuộc đảo chánh. Tuổi trẻ, đang còn cắp sách tới trường nhưng với lòng yêu nước thiết tha, vị anh thư con cháu của bà Trưng, bà Triệu đã mạnh dạn khởi xướng cuộc đảo chánh với mục đích đòi lại quyền tự chủ của dân tộc. Kính thưa quý vị… Xin quý vị cho một tràng pháo tay thật lớn để chào đón linh hồn của cuộc cách mạng ngày 19- 6- 1974. Bà Nguyễn Đình Anh nhủ danh Trần Thị Ngọc Thụy…
Một thiếu phụ còn trẻ mặc áo dài màu tím hoa ô môi, quần lụa trắng và đôi guốc cao gót màu trắng thướt tha bước vào căn phòng họp. Không hẹn mọi người đều đứng lên vỗ tay hoan hô và chào đón. Khẽ nghiêng mình và nở nụ cười tươi tắn Ngọc Thụy bước tới đứng cạnh chồng. Đợi cho tiếng vỗ tay dứt vị tổng tham mưu trưởng chỉ vào cháu gái cưng của mình.
– Kính thưa quý vị… Hai năm nay toàn thể dân chúng của mười hai tỉnh miền tây được sống trong tự do, hòa bình và dân chủ vì chúng ta đã ngăn chặn được bước xâm lăng của cộng sản. Mười mấy sư đoàn bộ chiến với đủ cả tăng pháo của Văn Tiến Dũng đã dừng lại bên kia bờ sông Vĩnh Tế. Ngọc Thụy là người có sáng kiến khơi dòng kinh Vĩnh Tế để cản bước tiến của bộ đội Bắc Việt…
Tiếng vỗ tay lại vang lên. Từ dưới chỗ các tướng lãnh đang ngồi vang lên giọng nói sang sảng:
– Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cần phải gắn lon thiếu tướng cho cháu Ngọc Thụy mới xứng đáng công trạng của cháu…
Nghe giọng nói ai cũng biết đó là trung tướng Lê Nguyên Khang. Hơi mỉm cười tướng Viên nói.
– Tôi sẽ cho ghi lời đề nghị của trung tướng Khang vào biên bản của buổi họp hôm nay. Riêng cá nhân tôi đã mời cháu Ngọc Thụy đảm đương chức vụ Trưởng Phòng Nghiên Cứu Chiến Thuật Chiến Lược của quân lực ta. Bây giờ tôi xin nhường lời lại cho cháu Ngọc Thụy thuyết trình về một đề tài mà bộ tổng tham mưu sẽ thi hành trong tương lai gần đây…
Vị tổng tham mưu trưởng cười nhẹ với cháu gái của mình. Chín sĩ quan đảo chánh tới ngồi vào hàng ghế sau cùng. Nhìn mấy chục vị tướng lãnh Ngọc Thụy cất giọng run run.
– Kính thưa các bác, các chú và các anh… Lần đầu tiên được nói chuyện với các bác, các chú, cháu hơi khớp…
Mọi người bật cười vui vẻ. Tướng Khuyên chợt lên tiếng.
– Để cho cháu Ngọc Thụy khỏi khớp tôi đề nghị chúng ta nên tháo lon của chúng mình bỏ vào túi. Lúc đó cháu sẽ nói chuyện với chú bác chứ không phải mấy ông tướng một hai ba sao…
Dứt lời tướng Khuyên tháo tất cả mấy ngôi sao bỏ vào túi áo. Các vị tướng trong phòng họp lần lượt làm theo.
– Cháu cám ơn các bác các chú…. Người xưa của mình có câu ” Ăn cơm chúa phải múa tối ngày “. Sở dĩ ngày hôm nay cháu được hân hạnh đứng đây nói chuyện với các bác, các chú và các anh vì tuân lệnh thượng cấp là cậu Viên của cháu. Các bác các chú đều là những người có cấp bậc cao nhất, giữ những chức vụ quan trọng nhất cũng như kiến thức uyên bác về chiến tranh nhất. Thêm vào đó các bác, các chú còn có nhiều kinh nghiệm chiến trường nhất. Cháu không tốt nghiệp từ một trường quân sự nào cũng như chưa bao giờ cầm súng; tuy nhiên vì lòng yêu nước thương dân, nhất là thương mến và ngưỡng mộ các chiến sĩ anh hùng của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, nên cháu đã đem công sức của mình nghiên cứu và học hỏi để hôm nay nói chuyện với các bác, các chú và các anh…
Ngọc Thụy ngừng lại mỉm cười. Dù Đình Anh ngồi cuối hàng ghế nhưng nàng cảm thấy nụ cười và ánh mắt yêu thương của chồng đang nhìn mình vừa khuyến khích lẫn ngưỡng mộ.
– Kính thưa các bác, các chú và các anh. Đề tài mà cháu xin được thuyết trình ngày hôm nay có tên là Đột Kích Chiến Thuật và Chiến Lược…
Ngọc Thụy dừng lại khi nghe có tiếng xì xầm phát ra trong hàng tướng lãnh ngồi hàng ghế thứ ba.
– Thiết tưởng các bác chú đã biết về ba danh từ đột kích, chiến thuật và chiến lược nên cháu chỉ xin nói về nguyên nhân và hậu quả của đột kích chiến thuật và đột kích chiến lược. Cách đây hai tuần, Cộng Sản Bắc Việt đã pháo kích vào các làng xã của chúng ta dọc theo bờ bên này của sông Tiền. Các đại pháo 130 ly của địch với tầm bắn xa hai ba chục cây số đã pháo kích vào tỉnh lỵ Vĩnh Long, gây chết chóc và thương vong cho vô số dân lành vô tội. Liên tiếp trong tuần lễ qua đại pháo của Bắc Việt cũng đã bắn phá vào các thôn ấp thuộc hai quận Bình Đại và quận Trúc Giang của tỉnh Kiến Hòa. Các hành động độc ác và giết hại dân lành của cộng sản khiến cho ta không thể ngồi yên. Mang trọng trách bảo vệ dân lành, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ta cần phải có những hành động tích cực và thiết thực hơn. Thừa lệnh của cậu Viên, cháu và phòng Nghiên Cứu Chiến Thuật Chiến Lược đã phác họa và đề nghị một kế hoạch đột kích chiến thuật nhằm vào các mục tiêu sau đây. Thứ nhất là bảo vệ tình trạng an ninh cho dân chúng cư ngụ dọc theo bờ bên này của sông Tiền bao gồm các tỉnh như Kiến Hòa, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc, vùng Chợ Mới của tỉnh An Giang và toàn thể dân chúng sống dọc theo con sông đào Vĩnh Tế. Dân có an cư lạc nghiệp thời họ mới ủng hộ và giúp đỡ ta chống cộng sản. Lý do thứ nhì mà cháu sắp nói ra là lý do chiến tranh chánh trị…
Ngọc Thụy mỉm cười hướng về chỗ ngồi của trung tướng Trần Văn Trung.
– Cháu xin phép bác Trung xía vào một lãnh vực mà không ai giỏi và biết nhiều bằng bác. Mai mốt đây các anh chiến sĩ của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, của đại đội trinh sát Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân hay những người lính gan lì của đại đội viễn thám của các sư đoàn bộ binh sẽ đột kích chiến thuật vào nhiều vị trí của địch dọc theo hai con sông Tiền và Vĩnh Tế với các hoạt động ám sát, bắt cóc, thủ tiêu và phá hoại hầu gây hoang mang, sợ hãi và lo âu cho bộ đội Cộng Sản Bắc Biệt. Cháu muốn tiếng ho của cậu Nam sẽ làm cho Văn Tiến Dũng giật mình. Tiếng hô xung phong của bác Niệm sẽ khiến cho Chu Huy Mẫn phập phòng. Võ Nguyên Giáp sẽ bạc đầu vì không biết quân ta công hay thủ, tiến hay lùi…
Cả phòng họp đều bật cười khi nghe Ngọc Thụy pha trò.
– Các toán biệt kích sẽ đặt trọng tâm vào hoạt động đặt mìn phá hoại đường xá, cầu cống cũng như phục kích các đoàn xe chở quân dụng tiếp tế cho mười mấy sư đoàn của cộng sản Bắc Việt đang trú đóng nơi kinh Vĩnh Tế. Quân lực ta sẽ triệt đường lương thực bắt Phạm Hùng phải uống nước vũng, Hoàng Cầm phải đào cỏ cú mà ăn và bộ đội của Giáp phải rút về bên này bờ sông Cửu Long. Ta sẽ thả các toán SEAL phá hư cây cầu Long An hoặc Bến Lức với mục đích làm gián đoạn giao thông trên quốc 4 cũng như làm tê liệt khả năng vận chuyển quân nhu và lương thực của địch vào các vùng như Long An, Mỹ Tho, Gò Công, Mộc Hóa và Cao Lãnh để chuẩn bị cho giai đoạn thứ nhì…
Ngừng nói Ngọc Thụy uống một ngụm nhỏ nước lạnh đoạn hắng giọng.
– Nếu các bác, các chú, cậu và các anh có điều gì thắc mắc xin nêu lên câu hỏi…
Hơn năm mươi vị tướng lãnh ngồi trong căn phòng rộng đều im lặng. Lát sau vị tư lệnh sư đoàn 5 bộ binh là tướng Lê Nguyên Vỹ mới lên tiếng.
– Theo như những điều mà cháu đã trình bày thời quân lực ta sẽ chuyển từ thế thủ sang thế phản công?
Đây có thể là câu hỏi mà rất nhiều vị tướng lãnh tham dự buổi họp có ý định hỏi nhưng họ do dự chưa chịu lên tiếng. Nay nghe tướng Vỹ hỏi thời họ im lặng chờ nghe câu trả lời của người thuyết trình.
– Thưa bác Vỹ… Còn quá sớm để cho quân lực ta chuyển từ thế thủ sang thế công. Giai đoạn đột kích chiến thuật như một bức thông điệp hay lời tuyên cáo cho cộng sản Bắc Việt là chúng ta vẫn có đủ khả năng không những để ngăn cản chúng mà còn mở ra một cuộc chiến du kích làm cho chúng ăn không ngon ngủ không yên. Ngoài ra ta còn có ý nhắn nhủ với dân chúng ba miền nam trung bắc rằng Việt Nam Cộng Hòa vẫn tồn tại và một ngày nào đó không xa trong tương lai, ta sẽ phát động một cuộc tổng tấn công để giải phóng đồng bào ra khỏi gông cùm cộng sản. Giai đoạn đột kích chiến thuật thực ra nhằm vào các mục tiêu chánh trị nhiều hơn là quân sự. Tranh thủ nhân tâm là mục đích chính của giai đoạn đột kích chiến thuật. Chế độ cộng sản áp bức được dân chúng là nhờ sách lược công an trị. Các người lính biệt kích của ta sẽ lấy lòng dân bằng cách ám sát, bắt cóc hay thủ tiêu các tên công an làng xã, phường khóm hoặc tỉnh quận. Muốn dân theo ta, ủng hộ ta; thời ta phải tiêu diệt quyền lực của đảng cộng sản mà đại diện là công an và thứ nhì là bộ đội…
Ngọc Thụy ngừng nói uống ngụm nước lạnh. Nàng chưa kịp lên tiếng một câu hỏi khác vang lên.
– Cháu có thể cho chú biết là giai đoạn đột kích chiến thuật sẽ kéo dài bao lâu?
Người vừa đặt câu hỏi trên chính là tư lệnh sư đoàn 25 bộ binh, chuẩn tướng Lý Tòng Bá.
– Thưa chú Bá… Cháu và phòng Nghiên Cứu Chiến Thuật Chiến Lược cũng như các phòng ốc của bộ tổng tham mưu chưa ấn định rõ ràng thời gian cho giai đoạn đột kích chiến thuật bởi vì nó còn tùy thuộc vào tình thế của ta và của địch. Tuy nhiên cháu có thể nói ít nhất là năm năm…
Có nhiều tiếng xì xào vang lên trong phòng. Dường như hiểu được sự thắc mắc của mọi người Ngọc Thụy hắng giọng.
– Kính thưa các bác và các chú… Giai đoạn đột kích chiến thuật không hẳn là các hoạt động thuần túy quân sự như bắt cóc, thủ tiêu, ám sát hoặc phá hoại mà nó còn liên hệ tới nhiều hoạt động khác như tâm lý, tình báo, gián điệp hoặc địch vận và dân vận. Chúng ta sẽ thả các điệp viên nằm vùng, gài người vào dân chúng hay các cơ quan trọng yếu của địch. Ta sẽ hổ trợ cho các hoạt động đòi hỏi tự do dân chủ của các tôn giáo hay tầng lớp trí thức đang sống trong sự kềm kẹp của cộng sản. Đây là một cuộc đấu tranh đa diện, phức tạp và đòi hỏi thời gian lâu dài. Cháu nói năm năm nhưng giai đoạn đầu tiên này có thể sẽ kéo dài lâu hơn…
– Lý do nào khiến cho chúng ta phải kéo dài giai đoạn đột kích chiến thuật tới năm năm hoặc lâu hơn nữa? Cháu Thụy vui lòng nói cho mọi người được rõ…
Người vừa hỏi câu trên chính là chuẩn tướng Trần Văn Hai. Hướng về vị tư lệnh sư đoàn 7 bộ binh, Ngọc Thụy tươi cười trả lời.
– Có nhiều lý do khiến cho ta phải kéo dài thời gian của giai đoạn đột kích chiến thuật tới năm năm hoặc lâu hơn nữa, tuy nhiên lý do quan trọng nhất chính là tài chánh. Chánh phủ không đủ tiền tài trợ cho mọi hoạt động về tình báo, tuyên truyền, xâm nhập nhân viên vào trong lòng địch do đó ta phải làm từng việc một. Việc nào quan trọng và khẩn yếu sẽ được làm trước. Bởi vậy các hoạt động như phá hoại, ám sát, bắc cóc sẽ được thi hành trước nhất…
Ngọc Thụy dừng lại để chờ xem các bác, chú còn hỏi gì nữa không xong mới hắng giọng.
– Nếu các bác, các chú không còn thắc mắc nào nữa thời cháu xin nói tới giai đoạn thứ nhì là đột kích chiến lược. Sau khi giai đoạn đột kích chiến thuật bắt đầu có ảnh hưởng trong dân chúng cũng như gây ra tình trạng hoang mang, sợ hãi và bất ổn trong hạ tầng cơ sở của địch; ta sẽ chuyển sang giai đoạn đột kích chiến lược. Đang từ các hoạt động phá hoại, quân lực ta sẽ mở ra các cuộc tấn công cấp đại đội hoặc tiểu đoàn để đánh vào các đồn bót, căn cứ của địch nằm dọc theo bờ sông Tiền. Các đơn vị thuộc liên đoàn 81 biệt kích nhảy dù, biệt động quân, nhảy dù, thủy quân lục chiến sẽ lén lút xâm nhập vào những mật khu của địch. Các chiến khu D, C, Dương Minh Châu, Hắc Dịch, Hố Bò, Tam Giác Sắt sẽ là cứ điểm an toàn cho ta trú ẩn để từ đó phóng ra các cuộc đột kích chiến lược cấp tiểu đoàn hay trung đoàn. Cháu sẽ không đi sâu vào chi tiết của giai đoạn đột kích chiến lược vì thời điểm chưa tới. Phòng Nghiên Cứu Chiến Thuật Chiến Lược sẽ duyệt xét thành quả của giai đoạn đột kích chiến thuật rồi sau đó họp bàn với các cơ quan liên hệ để phác họa đường lối cho giai đoạn đột kích chiến lược…
Ngọc Thụy ngừng lại uống ngụm nhỏ nước lạnh xong hướng về chỗ đại tướng Viên đang ngồi. Trông thấy cậu của mình gật đầu nàng mỉm cười hắng giọng.
– Tiện đây cháu xin báo cho các bác, các chú và các anh một tin vui là nước Pháp đã chính thức bình thường hóa bang giao với nước ta bằng cách nâng lãnh sự quán lên thành tòa đại sứ. Đây là một chiến thắng về mặt ngoại giao và chánh trị của nước ta sau hơn một năm tranh đấu ráo riết…
Mọi người trong phòng hội đồng vỗ tay hoan hô cho thắng lợi ngoại giao này.
– Nước Pháp cũng là nước đầu tiên ký hợp đồng với nước ta về việc tìm kiếm và khai thác các giếng dầu hỏa ngoài biển đông. Bộ ngoại giao của ta đang vận động với các nước như Anh, Đức, Ý, Thụy Điển, Na Uy thiết lập bang giao và mua bán với ta cũng như khai thác dầu hỏa trong lãnh hải của ta. Hy vọng sự bỏ vốn đầu tư sẽ đem lại cho ta một ít tiền để kỹ nghệ hóa nông nghiệp và tân trang vũ khí cho quân lực. Bộ ngoại giao đang điều đình với nước Pháp để nhờ họ mua giúp cho ta một ít quân dụng cần thiết của Hoa Kỳ…
Tiếng xì xầm nổi lên khiến cho Ngọc Thụy phải ngưng nói. Nhìn xuống hàng ghế thứ ba nơi có tiếng xì xầm phát ra nàng cười lên tiếng.
– Các bác và các chú có điều gì thắc mắc?
– Bác chỉ hỏi là Hoa Kỳ bằng lòng bán vũ khí cho ta?
Người hỏi câu đó chính là tướng Trung, cục trưởng cục chiến tranh chánh trị của quân lực.
– Thưa bác Trung… Mình không có bất cứ liên hệ ngoại giao hoặc kinh tế nào với Hoa Kỳ do đó việc mua quân dụng của họ đều qua trung gian của Pháp. Pháp mua của Hoa Kỳ rồi đem bán lại cho mình. Mua theo cách này thời giá cao hơn nhưng đó là cách duy nhất để mình có được quân dụng cần thiết cho việc tu bổ, bảo trì và sửa chữa tàu chiến, phi cơ và vũ khí vì đa số chiến cụ mà mình đang xử dụng đều do Hoa Kỳ sản xuất…
Ngừng lại uống ngụm nước Ngọc Thụy cười tiếp.
– Sau đây cháu xin nhường lời cho cậu Viên nói chuyện với các bác và các chú…
Ngọc Thụy đi về cuối phòng ngồi vào ghế cạnh Đình Anh. Đại tướng Viên hắng giọng.
– Tôi xin báo cho tất cả anh em một tin buồn là sau thời gian dài nghiên cứu bộ quốc phòng và bộ tổng tham mưu đi đến quyết định giải ngũ một số đông binh sĩ, sĩ quan các cấp và tướng lãnh trong số đó có tôi…
Tiếng xì xào vang lên mỗi lúc một lớn hơn khiến cho tướng Viên phải giơ tay ra hiệu cho mọi người im lặng.
– Cá nhân tôi và anh em đã từng đổ xương máu để bảo vệ đất nước khỏi lọt vào tay cộng sản. Tôi hiểu lòng yêu nước thiết tha và sự hy sinh cao độ của anh em. Tuy nhiên sau khi rút về bên này bờ sông Tiền thời với một lãnh thổ nhỏ hẹp quân lực ta so ra quá nhiều và quá thừa…
– Anh Viên nói đúng đó. Tôi cũng cảm thấy tình trạng của quân lực ta bây giờ là quan nhiều hơn lính và lính nhiều hơn dân. Giải ngũ bớt quân số là bớt đi gánh nặng cho ngân sách quốc gia. Đã tới lúc chúng ta về đuổi gà cho má bầy trẻ rồi…
Mọi người đều bật cười vui vẻ vì câu nói đùa của tướng Khuyên.
– Anh may mắn là bà xã còn có gà cho anh đuổi chứ tôi thời chắc phải xách cần đi ra sông Hậu câu cá…
Câu nói của tướng Trung lại làm cho mọi người cười lớn hơn. Cầm trong tay bản danh sách tướng Viên nói với giọng trầm và buồn.
– Sẽ có rất nhiều sĩ quan các cấp, các tướng lãnh đảm nhiệm các chức vụ trưởng phòng, tư lệnh sư đoàn, chỉ huy trưởng các trung tâm huấn luyện sẽ được giải ngũ. Theo ước tính của Ủy Ban Giải Ngũ và Điều Chỉnh Quân Số, thời việc giải ngũ cũng như tái tạo lại hệ thống chỉ huy và điều hành sẽ tiết giảm cho ngân sách quốc gia một số tiền lên tới năm tỉ đồng. Ngày xưa vì nhu cầu của chiến tranh quân lực ta có rất nhiều trung tâm huấn luyện dành riêng cho các quân binh chủng. Hôm nay để tiết kiệm ta chỉ có một trung tâm huấn luyện duy nhất chuyên môn đào tạo binh sĩ và sĩ quan cho tất cả quân binh chủng. Trung tâm huấn luyện này được bộ quốc phòng đặt tên là Trung Tâm Huấn Luyện Liên Quân. Bộ tổng tham mưu đang chọn lựa một vị tân chỉ huy trưởng cũng như địa điểm để xây cất trung tâm huấn luyện này… Vào mùa hè năm tới chánh phủ sẽ tổ chức một cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội. Đây là một cuộc bầu cử tự do dân chủ nhằm mục đích để cho dân chúng lựa chọn một chánh quyền hợp pháp của mình. Sau khi giải ngũ các anh em nên tích cực tham gia ứng cử tổng thống hoặc tòa nhà lập pháp để tiếp tục phục vụ đất nước theo khả năng của mình. Tôi hy vọng nhiều anh em của chúng ta sẽ trở thành dân biểu, thượng nghị sĩ hoặc bộ trưởng trong chính phủ mới…
– Như vậy chắc đại tướng sẽ ra ứng cử tổng thống?
Khi nghe câu hỏi của Bảo, đại tướng Viên cười nhẹ.
– Còn quá sớm để biết được tôi có ra tranh cử tổng thống hay là không… Tiện đây tôi cũng nói sơ qua cho các anh em được biết về hệ thống chỉ huy mới của quân lực Việt Nam Cộng Hòa ta trong tương lai. Sau khi tôi giải ngũ rồi thời chức vụ tổng tham mưu trưởng sẽ không còn nữa mà thay vào đó là chức tham mưu trưởng liên quân tạm thời do trung tướng Ngô Quang Trưởng nắm giữ cho tới khi có một chánh phủ mới. Vị bộ trưởng quốc phòng của chánh phủ mới sẽ chỉ định ai là người giữ chức vụ tham mưu trưởng liên quân. Các phòng của bộ tổng tham mưu sẽ được thu gọn chỉ còn lại có bốn là phòng nhân viên; phòng an ninh- tình báo và tâm lý chiến; phòng hành quân và phòng tiếp vận. Riêng về tổ chức của bộ binh cũng sẽ thay đổi cho phù hợp với tình thế mới nhất là với ngân sách quốc gia. Quân lực ta sẽ chia thành ba mặt trận là Mặt Trận Tiền Giang, Mặt Trận Việt Miên và Mặt Trận Hậu Giang. Ba sư đoàn 7, 18, và 25 sẽ bị giải thể để trở thành các trung đoàn biệt lập và lưu động, thống thuộc Mặt Trận Tiền Giang dưới quyền chỉ huy của vị tư lệnh là thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh và tư lệnh phó là chuẩn tướng Trần Văn Hai. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam vẫn giữ chức vụ cũ. Các sư đoàn 1, 2, 3, 5 và 22 cũng bị giải tán để trở thành các trung đoàn biệt lập và lưu động chịu sự chỉ huy của bộ tư lệnh mặt trận Việt Miên. Thiếu tướng Phan Đình Niệm sẽ là vị tân tư lệnh Mặt Trận Hậu Giang để chỉ huy các trung đoàn cơ động của sư đoàn 9, 21 và 23…
Đại tướng Viên ngừng lại uống ngụm nước đoạn cao giọng tiếp.
– Sau khi tham khảo ý kiến với Phòng Nghiên Cứu Chiến Thuật Chiến Lược và cũng để thích hợp với hình thái chiến tranh đặc biệt, bộ tổng tham mưu đã quyết định tập hợp ba sư đoàn biệt động quân, sư đoàn nhảy dù và sư đoàn thủy quân lục chiến với liên đoàn 81 biệt cách nhảy dù, thành một đơn vị mới có tên là Lực Lượng Đột Kích Chiến Thuật Chiến Lược đặt dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng Hiếu…
Ngừng lại nhìn xuống các vị tướng lãnh đang ngồi trong phòng họp, tướng Viên cất giọng bùi ngùi.
– Trong số các anh em sẽ có nhiều người trở lại đời sống dân sự hoặc được bổ nhiệm vào chức vụ mới. Tuy nhiên tôi hy vọng là chúng ta sẽ gặp lại nhau, đối đãi với nhau bằng tình huynh đệ chi binh và cùng nhau xây dựng lại đất nước và giải phóng cho tổ quốc và đồng bào kém may mắn phải sống dưới sự cai trị độc tài và tàn ác của cộng sản….
Dứt lời vị tổng tham mưu trưởng bước xuống bắt tay từng vị tướng trong phòng họp. Mọi người cười nói, thăm hỏi và chúc tụng lẫn nhau thật lâu mới chịu giải tán.
21
2 giờ sáng. Trời tối thui. Mưa nặng hạt. Gió thổi phần phật. Tắt máy bốn chiếc PBR từ từ cắm mũi vào bờ. Một toán lính lặng lẽ đổ bộ lên dãy đất ven sông cách huyện lỵ Hồng Ngự chừng năm bảy cây số rồi sau đó biến mất trong bóng đêm mịt mùng. Để không lộ bí mật cuộc đổ bộ của toán biệt kích, thủy thủ đoàn của bốn chiếc PBR phải dùng sào đẩy cho tàu trôi ra giữa sông mới nổ máy và bắt đầu cuộc tuần tiễu thường lệ trên dòng sông Tiền.
Một trung đội. Hai mươi bốn người. Bốn toán. Mỗi toán sáu người. Đây là trung đội biệt kích đầu tiên mà bộ tổng tham mưu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã thử phóng ra để trắc nghiệm chiến thuật du kích bao gồm các hoạt động như ám sát, bắt cóc và phá hoại. Trung đội biệt kích của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đặt dưới quyền chỉ huy của trung úy Tùng, trung đội trưởng và thượng sĩ nhất Hưng, trung đội phó. Một già đầy kinh nghiệm, một trẻ nặng suy tư; Tùng và Hưng là cặp bài trùng trong nhiều chuyến công tác đặc biệt và quan trọng. Sự kính phục lẫn nhau, sự hiểu biết trách nhiệm và chia xẻ gian nguy khổ cực đã tạo nên tình đồng đội keo sơn gắn bó và đó là một trong nhiều yếu tố khiến cho họ thành công trong những công tác hiểm nghèo nhất.
Rải lính canh chừng xong Tùng quây các toán trưởng thành vòng tròn.
– Tôi lãnh toán 1 đánh mặt trước còn Can Nhí lãnh toán 3 ập vào sau lưng đồn bộ đội. Ông Hưng lãnh toán 2 phục kích quân tiếp viện. Hà lãnh toán 4 đánh vào huyện bắt mấy thằng công an. Phải làm nhanh và gọn. Mình có mười lăm phút để thanh toán mục tiêu. Mấy ông có gì thắc mắc không?
– Đồn công an đóng ở đâu hả trung úy?
Trung sĩ Hà lên tiếng hỏi. Ngần ngừ giây lát Tùng nói nhỏ.
– Tôi cũng không biết. Có gì hỏi dân hay nhờ dân dẫn đường… Hai ông cẩn thận…
Hưng cười khà.
– Trung úy đừng lo… Mình đánh bất ngờ vả lại tụi nó gần hai năm nay lo ăn chơi phè phỡn nên đâu có đề phòng. Mình đánh cái ào là xong…
Tùng vỗ vai Can Nhí.
– Đi em…
– Trung úy để em đi trước…
Can vẩy tay ra lịnh cho lính. Tùng gật đầu mỉm cười nhìn theo bóng thằng em thân tín của mình. Can, biệt danh Can Nhí. Nhí là danh từ mà bạn bè đặt cho nó vì thấy nó trẻ tuổi và nhất là thân hình cao không quá thước sáu của nó. Nhưng đừng tưởng nó nhí mà ăn hiếp. Bên trong cái thân hình nặng không đầy năm mươi ký lô đó là một thân võ thuật. Võ gia truyền. Võ Việt Nam. Với những ngón đòn tối độc. Những ngón đòn giang hồ quái dị. Tùng nhớ một lần ở An Lộc. Trong đám cố vấn Mỹ có trung sĩ John Anderson. Cao một thước tám, nặng gần trăm ký lô, cao thủ nổi tiếng của quyền anh; John rất hãnh diện về cá nhân cũng như coi thường tất cả lính Việt Nam kể cả lính biệt cách dù. Nghe lính đồn hắn thách thức Can Nhí đấu võ. Can từ chối. Điều đó khiến cho John càng thêm mục hạ vô nhân. Hắn tìm cách gây sự để bắt Can Nhí phải so tài với hắn. Can đem chuyện tên cố vấn gây sự với mình báo cho Tùng biết. Tùng trình bày sự việc với đại úy Smith. Ông ta là người hiểu biết và rất có cảm tình với lính biệt cách dù. Nghe Tùng trình bày xong ông ta cười nói với Tùng.
– Tại sao mình không để Can Nhí dạy thằng cốt đột đó một bài học. Tôi với anh sẽ làm chứng là thằng John gây sự trước và Can Nhí chỉ tự vệ mà thôi…
Cuộc đấu võ lan truyền. Toàn thể lính biệt kích và cố vấn Mỹ đều có mặt. Đa số lo sợ cho Can Nhí vì thân xác quá chênh lệch. Một bên giống như con chuột còn một bên là con khỉ đột to lớn, dềnh dàng với các cú đấm nặng ngàn cân. Chỉ cần trúng một đòn thôi là Can Nhí phải vỡ mặt hoặc nằm nhà thương cả tuần lễ. Tuy nhiên Can Nhí lanh như sóc. Nó vờn thằng khỉ đột mệt vã mồ hôi trước khi tung sát thủ. Cú đánh bằng nội gia chân lực vào ngay đản trung khiến cho thằng John xùi bọt mép nằm thẳng cẳng. Đại úy Smith phải gọi trực thăng tản thương. Sau lần đó đám cố vấn nhìn Can Nhí và lính biệt kích Việt Nam với cái nhìn thán phục và ngưỡng mộ. Họ có thái độ thân thiện, lịch sự, ăn nói lễ phép và giúp đỡ tận tình hơn.
– Trung úy…
Tùng mỉm cười khi nghe Can Nhí gọi.
– Đồn bộ đội đó trung úy…
Hơi gật đầu Tùng nhìn đăm đăm ngôi đồn nằm sát bên con rạch nhỏ. Tháp canh nhô lên cao hiện mờ mờ trong bóng đêm. Tên lính gác đi đi lại lại.
– Em nghĩ sao… Hơi xa phải không?
Tùng thì thầm. Can Nhí gật đầu.
– Nếu gần hơn em sẽ thổi cho nó một phát là xong ngay…
Can nói tới cái biệt tài thổi xì đồng và kim độc của mình. Tùng gật đầu cười trong bóng tối.
– Trung úy… Chắc mình phải để thằng Năm Không Dái làm việc cho chắc ăn…
– Ừ… Gọi nó tới…
Tùng mỉm cười khi nghe Can Nhí nói tới tên người lính chuyên môn bắn sẻ đồng thời cũng là một biệt danh nổi tiếng nhất trong trung đội. Năm là người Châu Đốc, ít học, hiền lành và chất phác. Tuy nhiên Năm lại được mọi người nể nang nhờ tài bắn súng nhất là bắn sẻ. Tùng đặt cho Năm cái tên rất kêu là Năm Vũ Khí. Tuy nhiên trong một tiệc rượu ở Pleiku, ông thượng sĩ Hưng sỉn mới gọi là Năm Khí Giới rồi sau đó lính lại sửa thành Năm Khí Giái. Lâu dần họ nói trại ra thành Năm Khí Dái, rồi từ từ thành ra Năm Không Dái bởi vì đối với người miền nam nhất là dân lục tỉnh thời họ phát âm chữ Giái với Dái giống như nhau khiến cho Năm Vũ Khí trở thành một đề tài diễu cợt của trung đội.
Đưa tay chỉ tháp canh với bóng tên lính gác Tùng thì thầm.
– Em cho thằng đó ngủ dùm anh…
Nhe răng cười trong bóng tối Năm Không Dái nâng khẩu súng đặc biệt của mình lên. Đó là khẩu M14 có gắn ống nhắm và bộ phận hãm thanh nơi họng súng. Với khẩu súng đặc biệt cộng thêm cái biệt tài bắn súng, Năm Không Dái có thể bắn đứt cuống trái dừa cách xa trăm thước. Đưa khẩu M14 lên nhắm giây lát xong Năm Vũ Khí bóp cò. Bụp… Âm thanh nổi lên. Tùng thấy tên lính canh lảo đảo rồi ngã xuống.
– Anh vào mặt trước còn em vào mặt sau…
Can Nhí kéo toán lính của mình đi. Tùng ra dấu. Như những bóng ma lính biệt cách dù biến mất trong bóng đêm. Tạch… tạch… tạch… Ầm… ầm… Tiếng súng và tiếng lựu đạn nổ ì ầm trong đêm tối khiến cho đám bộ đội đang ngủ say chợt giật mình thức giấc. Chưa kịp chạy ra khỏi phòng chúng chợt thối lui khi thấy năm ba người lính mặc quân phục rằn ri ào vào với súng chĩa lăm lăm. Không phòng bị lại bị đột kích bất ngờ đám bộ đội đành phải giơ tay đầu hàng. Dồn kẻ địch ra giữa sân Tùng lên tiếng.
– Tôi là trung úy Tùng thuộc Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ai trong các anh là người chỉ huy ở đây?
Toán bộ đội im lặng giây lát rồi một giọng nói nhỏ và chậm vang lên.
– Tôi… Tôi là trung đội trưởng…
Hơi mỉm cười Tùng nói lớn.
– Mời anh ra đây nói chuyện…
Một thanh niên tuổi gần ba mươi, tóc cắt ngắn và mặc chiếc quần đùi với áo thun trắng chậm chạp bước ra. Quan sát vị trung úy biệt kích giây lát thanh niên hỏi.
– Tôi là thiếu úy Đỉnh, trung đội trưởng. Các anh định làm gì. Giết chúng tôi?
Tùng cười nhẹ.
– Lính Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi không giết tù binh…
Kín đáo quan sát Can Nhí thoáng thấy nét mừng rỡ hiện ra trên mặt của đám bộ đội. Hai mươi bốn khẩu súng AK47, trung liên và đại liên của địch được lính đem ra chất đống nơi góc sân. Nghe tiếng súng nổ dồn dập nơi hướng chợ quận, Tùng nói với Can Nhí.
– Anh dẫn một toán đi còn em ở lại đây canh chừng. Cho lính bó súng của tụi nó lại để mình đem về…
Tùng dẫn năm người lính chạy nhanh về hướng chợ. Tuy tiếng súng đã im nhưng lửa lại cháy sáng hơn.
– Trung úy…
Một người lính thuộc toán 4 xuất hiện. Tùng hỏi nhanh.
– Có chuyện gì?
– Tụi này đụng với đám công an. Bắn chết ba thằng, bắt sống năm thằng trong đó có thằng xếp công an quận…
– Anh em mình có ai bị gì không?
Tiếng của Hà vang lên trong bóng tối.
– Mấy thằng công an chuyên môn ăn hiếp dân chứ đánh nhau thời dở ẹt. Súng mình bắn chỉ thiên mà nó lại đái trong quần anh ơi…
Tùng cười lớn khi thấy Hà cùng với một người lính xuất hiện.
– Có tin gì của ông Hưng không?
Hà lắc đầu.
– Không… Hướng ổng nằm phục kích nghe êm rơ. Em đoán tụi bộ đội sức mấy mà dám đi ban đêm. Phải đợi tới sáng mai tụi nó mới lò dò xuống…
Khẽ gật đầu Tùng quay qua nói với Tú, người lính mang máy truyền tin.
– Em gọi tàu đón mình lúc 05h00… Bây giờ mình tập họp dân tới đồn công an nói chuyện chơi…
Mấy trăm dân quê đứng im dưới ánh đuốc bập bùng. Họ im lặng nhìn mấy chục tên bộ đội và công an đang bị trói tay đứng xớ rớ giữa khoảnh sân rộng.
– Kính thưa đồng bào… Tôi là trung úy Tùng, thuộc Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ở bên kia bờ sông Tiền. Nghe bộ đội và công an chuyên môn ăn hiếp đồng bào nên chúng tôi tới hỏi thăm sức khỏe của tụi nó. Từ đây trở về sau chúng tôi sẽ tới viếng thăm đồng bào nhiều hơn nữa. Đồng bào tin tôi đi. Chúng tôi sẽ trở lại…
Ngừng lại Tùng nhìn đám đông. Anh thấy mắt của người dân quê chất phác hiện lên vẻ vui mừng và tin tưởng.
– Những người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ trở lại để giải thoát đồng bào và đất nước ra khỏi sự cai trị độc tài và tàn ác của cộng sản…
Hướng về đám bộ đội và công an đang lấm lét nhìn mình, Tùng nghiêm giọng.
– Chúng tôi sẽ trở lại… Các anh nên thức tỉnh để đối xử đàng hoàng với đồng bào cũng như bỏ hàng ngũ cộng sản mà theo về với quốc gia và dân tộc…
Đưa tay vẩy chào những người dân quê đang đứng im dưới ánh đuốc bập bùng Tùng cùng anh em biệt kích biến mất vào bóng đêm.
22
Trời xế chiều. Ánh nắng mặt trời của một ngày hè vào cuối tháng tám dọi xuống khoảng sân rộng và phẳng phiu. Năm chục người lính mặc quân phục rằn ri. Nơi ngực áo có in hình một cái đầu con cọp đang nhe răng. Họ đứng, nằm ngồi trò chuyện với nhau dọc theo hai dãy nhà lợp lá. Đây là căn cứ của Chiến Đoàn 1 Xung Kích của sư đoàn 102 Biệt Động Quân thuộc Lực Lượng Đột Kích Chiến Thuật Chiến Lược đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Hiếu.
Toán lính vội trở lại hàng ngũ khi hai vị sĩ quan cấp tá bước ra. Đó là đại tá Bảo, tư lệnh sư đoàn 102 biệt động quân. Còn vị trung tá chính là trung tá Hiện, tham mưu trưởng kiêm chiến đoàn trưởng chiến đoàn 1 Xung Kích.
Đại úy Hãn, sĩ quan trưởng toán giơ tay chào kính cấp chỉ huy của mình. Bảo và Hiện giơ tay chào trả xong Bảo hắng giọng.
– Anh em binh sĩ…
Đại diện cho Chiến Đoàn 1 Xung Kích các anh em sẽ là những người lính đầu tiên của biệt động quân đánh nhau với địch trên đất của địch. Tôi biết các anh em sẽ làm rạng danh người lính của Biệt Động Quân nói riêng và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung. Các anh em sẽ chu toàn nhiệm vụ mà tổ quốc và dân tộc đã giao phó cho chúng ta. Đó là nhiệm vụ của người lính chiến đấu cho tự do và độc lập của dân tộc. Hôm nay anh em sẽ được chỉ huy bởi trung tá Nguyễn Hữu Hiện, tham mưu trưởng kiêm chiến đoàn trưởng Chiến Đoàn 1 Xung Kích của sư đoàn 102 biệt động…
Tiếng vỗ tay hoan hô vang lên hồi lâu mới dứt. Nhìn một vòng năm mươi người lính xung kích trung tá Hiện cao giọng.
– Anh em binh sĩ… Chiều nay tàu của hải quân sẽ đưa tôi và anh em sang bên kia sông mở cuộc phục kích đoàn xe tiếp tế cho quân địch đang đóng bên biên giới Miên dọc theo sông Vĩnh Tế. Chặn đường tiếp tế của địch thời chúng ta mới làm cho địch ngưng đánh chiếm phần đất tự do mà tôi và anh em cùng gia đình của chúng ta đang sống. Tự do hay là chết. Ngày hôm nay chúng ta sẽ chứng tỏ cho bộ đội của Văn Tiến Dũng biết; chúng ta, những chiến sĩ bất khuất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn tiếp tục cuộc chiến đấu cho tới khi nào giải phóng quê hương ra khỏi sự cai trị độc tài và tàn ác của cộng sản…
Tiếng vỗ tay nổi lên cùng với tiếng hát của năm mươi người cất cao.
– Ngày bao hùng binh tiến lên
Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến
Bước oai nghiêm theo tiếng súng đi tung hoành.
Quân Việt Nam đi hồn non nước xây thành.
Ði là đi chiến đấu
Ði là đi chiến thắng
Ði là mang mối thù thiên thu
Ði là đi chiến đấu
Ði là đi chiến thắng
Bước lên đây người Việt Nam.
Kèn vang theo tiếng chân đang rồn rập xa xa
Tiếng gào thiết tha
Ngàn lời chính khí đưa
Ấm ầm tiếng thét hoà
Rầm rầm tiếng súng sa trường xa
Hồn say khi máu xương rơi tràn đầy, ngập biên khu
Oán thù khắp nơi
Từng bụi lốc cuốn rơi
Từng giọt máu sáng ngời
Một đường kiếm thép oai hùng đưa
Ngày bao hùng binh tiến lên
Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến
Bước oai nghiêm theo tiếng súng đi tung hoành.
Quân Việt Nam đi hồn non nước xây thành.
Ði là đi chiến đấu
Ði là đi chiến thắng
Ði là mang mối thù thiên thu
Ði là đi chiến đấu
Ði là đi chiến thắng
Bước lên đây người Việt Nam.
Bước lên đây Biệt Động Quân…
Biệt Động Quân xung phong… Biệt Động Quân sát…
Hiện mỉm cười nhìn Bảo. Cả hai vị sĩ quan chỉ huy đọc được trong mắt của lính một ý chí bất khuất, can trường và sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc.
18h00. Ánh tà dương le lói rọi trên màu áo hoa rừng của Hiện thành màu vàng óng ánh. Quỳnh Hoa nắm tay chồng. Mắt nàng rưng rưng. Hiện nói nhỏ với vợ khi thấy binh sĩ dưới quyền chỉ huy của mình lục tục xuống tàu.
– Anh phải đi…
Quỳnh Hoa gật đầu. Nước mắt của nàng ứa ra hòa với bóng tối xóa dần hình bóng của Hiện. Chiếc PBR từ từ tách bến đưa những người lính sang sông. Ngày xưa Kinh Kha còn được thái tử Đan mở tiệc đưa qua sông Dịch để hành thích bạo chúa Tần Thủy Hoàng. Hôm nay Hiện, chồng nàng và những người lính xung kích sang sông không có người đưa, không tiệc tùng tiễn biệt. Họa chăng chỉ là nước mắt của người ở lại. Những người lính của Chiến Đoàn 1 Xung Kích đi làm nhiệm vụ của người trai thời chinh chiến trong âm thầm và cô đơn, không vinh quang và cũng không cần ai biết tới.
Trời sáng mờ mờ. Sương mù giăng giăng. Mặt sông Cửu Long sóng gợn lăn tăn.
– Ông thầy uống cà phê ông thầy…
Trẹm, người lính mang máy truyền tin đưa cho Hiện cái ly nhựa vàng ố bốc mùi cà phê thơm thơm. Thong thả nhấp ngụm cà phê của thằng em thân tín đưa cho Hiện cười đùa.
– Lâu quá anh không có uống cà phê thành ra quên mất mùi vị. Làm sao mà em có cà phê?
Hiện hỏi vì ngạc nhiên. Sau khi rút về Hậu Giang thời cà phê hầu như là thứ hiếm, quý và mắc tiền nhất. Nó mắc hơn cả săng. Cười hà hà Trẹm nói nhỏ.
– Buôn lậu ông thầy… Cà phê phải đi vòng từ Ban Mê Thuột sang Thái Lan rồi sau đó nhập vào Rạch Giá. Một ký lô năm ba trăm ngàn đồng tùy theo ngon dở…
Theo thói quen Hiện đưa tay lên túi định lấy thuốc lá ra hút. Chợt nhớ mình đang ở trong vùng địch Hiện cười nhẹ.
– Giờ này mà được hút thuốc lá…
Trẹm cười liếc quanh quất.
– Giờ này mấy thằng bộ đội còn chỏng cẳng ngủ. Ông thầy cứ làm vài hơi đi…
Hiện lắc đầu uống thêm ngụm cà phê đen. Mặc dù thèm thuốc lá nhưng anh phải làm gương cho lính. Hãn, đại úy trưởng toán xuất hiện.
– Trung tá dậy sớm quá…
Hiện cười nhẹ.
– Trời lạnh thành ra hơi khó ngủ…
– Đại úy uống cà phê không đại úy…
Hãn kêu lên với giọng ngạc nhiên khi nghe người lính mang máy truyền tin mời mình uống cà phê.
– Làm sao mà em có cà phê. Từ hồi mình về Hậu Giang tới giờ anh thèm cà phê muốn chết…
Trẹm đưa cho Hãn ly cà phê đen. Nhấp ngụm nhỏ Hãn gật gù.
– Tuyệt… Cà phê Ban Mê Thuột ngon số dách. Tiếc là mình bỏ Ban Mê Thuột. Mấy thằng mán- bộ- đội đâu biết uống cà phê…
Hiện cười nhẹ.
– Hãn ở Ban Mê Thuột lâu không?
– Tôi ở Pleiku bảy năm thưa trung tá… Tôi có nhiều kỷ niệm về Pleiku…
Nhấp ngụm cà phê Hiện nói bằng giọng mơ màng.
– Tôi cũng thế… Lần đầu tiên tôi biết yêu… Cô bồ của tôi ở Pleiku giống như trong thơ của Nguyễn Tất Nhiên ” Em Pleiku má đỏ môi hồng “…
Hãn cũng cười.
– Cô bồ của tôi cũng vậy. Học đệ nhị… Nếu không có vụ mình rút khỏi Pleiku thời chắc chúng tôi đã lấy nhau…
Hãn thở dài. Ba người lính im lặng uống cà phê không ai nói với ai lời nào. Sương mù giăng đầy mặt sông rộng. Uống cạn ly cà phê Hiện hỏi Hãn.
– Mình có tin của toán viễn thám chưa?
Dù Hiện hỏi trống không nhưng Hãn cũng hiểu câu hỏi đó dành cho mình.
– Thưa có trung tá. Họ báo cáo đoàn công voa của địch đã rời Hồng Ngự hồi năm giờ sáng. Chắc chín mười giờ chúng mới tới chỗ mình nằm…
Trải tấm bản đồ lên trên cỏ Hãn thấp giọng.
– Mình chận tụi nó tại chỗ này. Đoàn công voa của tụi nó chừng năm mươi chiếc có hai T54 hộ tống và một chiếc jeep gắn đại liên dẫn đầu. Mình chận đầu, đuôi và giữa cắt tụi nó ra làm ba khúc…
– Mình có bao nhiêu M72?
– Năm khẩu thưa trung tá…
Hiện gật đầu.
– Đủ rồi… Hãn nhớ dặn anh em cẩn thận. Địch có tăng…
Khẽ gật đầu Hãn lủi nhanh vào trong đám lau cỏ cao lút đầu mọc lan ra tận con đường đất đỏ uốn lượn theo dòng sông.
Mặt trời ưng ửng đỏ nơi hướng đông. Hiện ngồi trên bãi cỏ cạnh con đường. Đứng sau lưng anh là Trẹm đang mở máy PRC 25 để liên lạc với hai toán 2 và 3. Hiện im lìm quan sát cảnh vật. Từ chỗ anh đứng cách Hồng Ngự hơn mười cây số theo đường chim bay và sâu trong biên giới Miên độ sáu bảy cây số. Con đường đất đỏ mà đoàn công voa của địch chạy tới đây phải đánh một vòng cua khá gắt cho nên phải giảm tốc độ. Vả lại chỗ này bờ đất bên phải lại cao hơn mặt đường một chút và cây cỏ rậm rạp. Do đó Hãn đã chọn chỗ này đễ dàn quân phục kích đoàn công voa của địch. Hiện cũng đồng ý và thầm khen ngợi vị đại úy đã chọn một vị trí hiểm nhất để phục kích.
– Trung tá…
Hiện ngước lên nhìn thiếu úy Đăng, phó trưởng toán 2.
– Toán viễn thám báo cáo đoàn công voa bắt đầu vượt qua biên giới… Một T54 dẫn đầu…
Hiện cười nhẹ.
– Em hãy cho binh sĩ sẵn sàng. Chờ khi nào có lệnh mới được khai hỏa…
– Tuân lệnh trung tá… Để em bắn chiếc T54 đi chính giữa…
Nằm mọp dưới đám cỏ cao bên cạnh Trẹm, Hiện nghe tiếng động rì rầm mỗi lúc một lớn hơn. Áp sát tai vào ống liên hợp anh lắng nghe các toán trưởng báo cáo đầy đủ chi tiết về sự di chuyển của đoàn công voa địch.
Đăng thì thầm.
– Nó tới chưa trung tá?
Hiện cười lặng lẽ.
– Toán 3 báo cáo khúc đầu đoàn xe địch đang đi qua vị trí của họ…
Đăng gục gặt đầu. Năm phút sau Hiện lại lên tiếng.
– Khúc giữa đoàn xe đang đi qua vị trí của toán 3…
Đăng, Trẹm nhìn đoàn quân xa sơn màu xanh đậm có hình ngôi sao vàng hai bên cửa đang từ từ lăn bánh ngang qua chỗ mình nằm. Hiện thì thầm với Đăng khi nghe tiếng xích sắt nghiến trên mặt đường.
– Sẵn sàng…
Đăng nâng khẩu M72 lên. Nhìn chiếc T54 dềnh dàng chỉ cách mình mươi thước Hiện cảm thấy hồi hộp và sợ hãi.
– Nếu trái M72 không nổ thời chết… Nếu lính bắn trật thời bỏ mẹ…
Hiện lẩm bẩm. Ý tưởng bùng nổ khiến cho vị trung tá từng sống chết không biết bao nhiêu lần phải sợ hãi. Anh sợ chết. Tại sao hôm nay mình lạnh cẳng. Có điều gì bất thường. Chắc lâu quá mình không có đánh giặc. Liếc qua bên trái thấy Đăng đang hờm khẩu M72 và nhìn mình như chờ đợi. Ngay khi chiếc T54 vừa lọt vào tầm súng Hiện hét nhỏ.
– Bắn…
Đăng đứng sổng lưng bóp cò. Bụp… Trái hỏa tiễn chống chiến xa bay vùn vụt trong không khí. Ánh lửa nháng lên cùng với tiếng ầm thật lớn. Khẩu M60 rống điếc tai. Vì đã nhắm kỹ cho nên lính biệt động bắn gục hai tên xạ thủ đại liên của chiếc tăng ngay trong loạt đạn đầu tiên.
– Xung phong…
Vất ống nghe Hiện đứng dậy. Tạch… tạch… tạch… Tiếng AK nổ dòn. Hiện cảm thấy ngực của mình nhói đau, bước chân lao chao và nhẹ bỗng.
– Ông thầy… Ông thầy…
Hiện ngã xuống. Đăng nghiến răng la lớn.
– Xung phong… Biệt động quân xung phong…
Quét nguyên một băng đạn M16 vào chiếc tăng đang bốc cháy Đăng nhào lên đường. Lính biệt động ào vào đoàn công voa. Lợi dụng cỏ cao và rậm rạp cho nên lính đã liều lĩnh và mạo hiểm núp gần bên vệ đường. Họ biết càng gần đường chừng nào họ có lợi thế nhiều chừng đó vì đại bác hoặc đại liên trên xe không bắn trúng họ được. Súng M60. M16. Lựu đạn nổ ầm ầm. Hàng chục chiếc quân xa bốc cháy. Chiếc tăng đi đầu nằm bất động vì trúng một trái M72 ngang hông. Bị phục kích một cách bất ngờ vả lại địch quân vào sát nên bộ đội hộ tống chỉ chống trả lấy lệ rồi lát sau buông súng đầu hàng. Để mặc cho lính phá hủy đoàn công voa, Hãn ứa nước mắt nhìn cấp chỉ huy nằm im trên bãi cỏ. Cuộc phục kích xảy ra một cách hoàn hảo trừ cái chết của Hiện. Người chỉ huy của Chiến Đoàn 1 Xung Kích thuộc Lực Lượng Đột Kích Chiến Thuật Chiến Lược đã nằm xuống bên bờ sông Cửu Long. Đó chỉ là cái chết khởi đầu. Sẽ còn có nhiều chiến hữu của anh sẵn sàng hy sinh cho tự do, dân chủ và một nền độc lập chân chính của tổ quốc Việt Nam. Đường tranh đấu còn dài cũng như rất nhiều gian nan nhưng đứa con yêu của dân tộc vẫn tiếp tục cho tới khi hoàn thành sứ mệnh cao cả mà quốc gia và dân tộc đã giao phó cho họ.
2006
chu sa lan