Macao… Trinh Nữ Giang Hồ- 2

CHƯƠNG 5 – BÊN KIA ĐẠI DƯƠNG

Trời nắng như thiêu đốt mà đại tá Pít lạnh cứng người. Văn Bình bỗng quát tài xế:

– Ngừng lại.

BMW, họ hàng ruột thịt của Mercedès có khác, xe đang phóng gần 100 cây số giờ vẫn thắng được ngay, mũi xe chỉ rùn xuống rồi 4 bánh xe đứng khựng lại. Nơi đậu xe là 1 ngã ba vắng vẻ, một phía là đường đèo nhỏ hẹp, khúc khuỷu. Chàng bảo tài xế:

– Để tay lái cho tôi.

Đại tá Pít hỏi bạn:

– Phục kích?

Văn Bình đáp:

– Có thể. Cẩn thận vẫn hơn.

– Tại sao anh biết vợ Chicô định bắn lén chúng mình?

– Vì nhiều lý do. Bắt đầu bằng câu chuyện màu xanh, màu đỏ.

– Hiểu rồi. Khi anh đặt câu hỏi với thằng bé, tôi nghĩ nát óc vẫn không tìm ra giải đáp. Giờ đây tôi mới nhớ lại 1 câu trong hồ sơ Chicô. Ông ta mắc bệnh loạn sắc. Vợ ông ta cũng vậy. Do đó, ông ta không lái xe hơi. Nàng bị rút bằng lái cách đây 12 năm, khi còn là sinh viên, chưa về làm vợ cho Chicô, nàng vượt ngã tư đèn đỏ, suýt cán chết người.

– Đúng. Hai vợ chồng cùng mắc bệnh loạn sắc 1 thì con cái ra sao?

– Bệnh này di truyền. Thế tất Tintin cũng bị loạn sắc.

– Đúng. Loạn sắc là bệnh không làm hại sức khỏe, hoặc tính mạng, song nó không thể nào chữa khỏi. Nam loạn sắc nhiều hơn nữ, và mẹ thường truyền bệnh cho con trai. Loạn sắc nghĩa là không phân biệt được rõ ràng màu sắc. Có nhiều cấp độ loạn sắc, thông thường thì bệnh nhân loạn sắc dễ lầm màu đỏ với màu xanh lục. Điều này thật tai hại vì đèn lưu thông hiện nay trên thế giới được căn cứ trên các màu đỏ, cam, và xanh lục. Mắc bệnh loạn sắc không được gia nhập hải và không quân. Cho nên Chicô rất khoái đời sống cưỡi sóng, cưỡi gió mà không được kết nạp. Rốt cuộc Chicô theo nghề thực vật học. Lúc gặp thằng con trai của Chicô trong patio của mẹ nó, tôi không nghĩ đến bệnh loạn sắc. Khi ra vườn, tình cờ thấy hoa đỏ, lá xanh, và cái vợt bắt bướm màu đỏ, tôi bỗng nhớ tới.

– Anh gài bẫy?

– Đúng. Tôi nghi nó không phải là Tintin thật. Nếu là Tintin chính hiệu, nó sẽ không ngơ ngác, không phản đối. Đằng này, nó cả quyết cái vợt màu đỏ, không phải màu xanh, nghĩa là nó có đôi mắt bình thường. Nó không mắc bệnh loạn sắc. Nó là Tintin giả…

– Và bà Chicô tiếp chúng ta hồi nãy cũng là bà Chicô giả?

– Đúng. 5 phút sau khi tiếp chuyện, tôi khám phá ra sự mạo danh. Đọc hồ sơ bà Chicô, hẳn anh lưu ý đến mấy chữ ” bị chứng alopecia areata từ năm 22 tuổi, hình thức nhẹ, mỗi khi nhuốm bệnh thì chỉ rụng tóc trên 1 khoảng bằng đồng xu trên màng tang trái. Một vài tuần sau tóc mọc lại như cũ, nguyên nhân là sự xúc động thần kinh “.

– Tôi có nhớ đoạn đó, nhưng tôi lướt qua vì thú thật tôi không biết ” alopecia areata ” là gì…

– Đó là tên y học. Nôm na, nó là bệnh rụng râu hoặc rụng tóc, không phải rụng lả tả mà là rụng từng đám. Nó gần như hói. Nhưng chỉ hói trên 1 diện tích thu hẹp, và trong 1 thời gian nào đó. Trong số 100 người, có chừng 2 hoặc 3 người mắc bệnh alopecia areata, đa số là phụ nữ. Y học chưa tìm nguyên nhân của bệnh, chỉ suy luận là nó có liên hệ đến sự xúc động thần kinh, nhất là ưu tư, buồn phiền như tiếp theo sự ly dị, chết chóc, cưới xin, vân vân… Trong 100 vụ rụng tóc thì 99 mọc lại. Người ta điều trị bằng hóa chất hoặc tia cực tím. Bệnh này chỉ xuất hiện trong lứa tuổi từ 20 đến 40 tuổi. Nơi tóc rụng có tóc mới mọc lên thì thoạt tiên da hơi sần đỏ, sau đó là những chồi tóc trắng, hoặc muối tiêu, nhỏ hơn tóc thường và bóng hơn. Tiến sĩ Chicô vừa loan tin ở lại nước ngoài, không về nữa. Bà Chicô có thể buồn, có thể vui, dầu buồn hay vui cũng có sự khủng hoảng tinh thần, và bệnh alopecia areata phải tái hiện. Tôi đã quan sát kỹ màng tang bên trái của nàng.

– Không thấy gì hết?

– Nơi đó tóc còn nguyên. Đàn bà làm đỏm hay che giấu những chỗ tóc hói bằng thuốc nhuộm. Mái tóc tuyệt đẹp của nàng đồng đều 1 màu đen mượt. Tôi không cận thị. Tôi không thể nhìn lầm…

– Tại sao anh chịu khó ngồi nghe nàng ” thuyết giảng ” tràng giang đại hải?

– Mục đích của địch là đầu độc ta bằng tin tức sai lầm. Tôi ráng ngồi nghe để xem địch giở trò gì. Thì ra địch muốn ta nghĩ rằng công trình khảo cứu của Chicô không mấy quan trọng, mất Chicô này thì Tây phương còn hàng chục Chicô tài giỏi khác. Địch lại ru ngủ ta, và đánh lạc hướng điều tra của ta về thực trạng vợ con của Chicô. Tuy chưa giáp mặt Chicô, tôi đã có thể nói chắc là vợ con của ông ta đang bị địch giữ làm ” con tin “.

– Anh đã đoan quyết được như vậy, tại sao còn gài bẫy thằng Tintin? Trong khi anh hỏi nó, bà Chicô rón rén đến sau lưng. Nàng đã nghe hết từ đầu chí cuối. Nàng đã biết anh ngờ vực mẹ con nàng. Đây là hớ hênh, hay là dụng ý của anh?

– Dụng ý. Dầu sao tôi cũng mới suy luận chứ chưa nắm được bằng chứng cụ thể là nàng là nhân viên địch đội lốt. Tôi cần thử lại đáp số. Anh đừng tưởng tôi không biết nàng tới. Tintin ngước mắt nhìn qua vai tôi. Tròng mắt cực kỳ âu yếm của nó cho thấy nó đang nhìn người thân. Nàng bước thật nhẹ, song như anh đã rõ, tai tôi rất thính. Bằng cách gián tiếp, tôi bảo cho nàng biết vai trò giả trang của mẹ con nàng đã lộ. Và trong trường hợp đó nàng phải thủ tiêu tôi trước khi tôi lên máy bay.

– Theo sự luận xét của anh, nàng là tay sai của tổ chức nào?

– Quốc tế Tình báo Sở Trung hoa hoạt động mạnh ở châu Mỹ la tinh hơn GRU sô viết. Tiến sĩ Chicô hiện trú ngụ ở Macao, sát nách Hoa lục. Nếu là GRU, họ sẽ đưa Chicô đến Phần lan, Thụy điển, hoặc các quốc gia chư hầu Đông Âu chứ chẳng dại chường mặt cách bờ biển Trung cộng mấy cây số. Tình báo Sở khét tiếng tàn bạo. Họ sẽ không ngần ngại chờ ta gần phi thường El Alto, hoặc cho 1 bọn sát thủ chuyên nghiệp rượt theo, thanh toán bằng tiểu liên và lựu đạn. Do đó, tôi phải giành lấy vô lăng. Chú tài xế của trú sứ CIA chỉ thạo lái xe hơi cho chủ hóng gió và tình tự với mèo…

Khi ấy Văn Bình và đại tá Pít đang đứng trên lề đường. Gió núi quạt vù vù. Giới chơi ” gôn ” quốc tế thường lên sân gôn cao chót vót ở La Paz chơi vì trong bầu không khí hiếm oxigen khỏi cần đánh thật mạnh, trái banh vẫn vọt được xa 2. Bắn súng trên đỉnh cao cũng vậy, sức xuyên phá của đạn gia tăng, do đó loại đạn 6.35 nhỏ xíu thường dùng cho súng phụ nữ, được gọi 1 cách khinh bỉ là ” đạn giấy ” vẫn có thể giết người ác liệt như đạn trung liên.

Văn Bình hỏi Pít:

– Anh mang theo mấy bì đạn?

Pít đáp, giọng lo lắng:

– Một trong súng, và 1 để ngoài.

– Kể ra 1 xạt giơ cũng đủ, vì anh không có thời giờ thay xạt giơ mới. Cẩn thận… cúi đầu xuống…

Gã tài xế ấn mũ két che nửa mặt, nằm dán sát sàn xe. Xe BMW bên ngoài bé nhỏ nhưng bên trong lại khá rộng, gã tài xế có thể ẩn núp an toàn. Thép của Tây Đức thuộc loại tốt, dễ gì đạn chọc thủng thân xe. Pít nhìn qua ô kiếng sau:

– Xe của địch?

Đang phóng nhanh, Văn Bình bớt ga xăng. Chàng đáp:

– Có lẽ họ.

Giờ này đường lên trường bay vắng heo nên trong chớp mắt chiếc xe đuổi theo chỉ cách chiếc BMW do Văn Bình lái chưa đầy 100 mét. Đó là kiểu xe ráp trong xứ, mã ngoài hao hao xe Opel của Đức, sườn lại bằng nhựa giẻo rất nhẹ, động cơ của hãng Vauxhall, Anh quốc. Tên nó là Grumett, chạy khá nhanh, khá bền, giá không đắt, rất thông dụng ở Nam Mỹ.

Trừ phi nó được lắp bình xăng đặc biệt với những tu bổ cần thiết về thắng, vỏ lốp, và thế quân bình, Văn Bình không ngán. Nó khó vượt qua chiếc BMW. Dẫu máy nó lớn hơn, nó vẫn phải ngửi bụi vì chàng đã lão luyện trong nghệ thuật ngăn chặn rượt đuổi trên đường trường. Chàng thét đại tá Pít:

– Cẩn thận… bên phải…

Xe BMW đang choán giữa lòng đường. Con đường không mấy rộng mấy, chỉ đủ xe ngược chiều tránh nhau. Tài xế xe Grumett đang huy động những mã lực cuối cùng. Hắn đảo sang trái, sửa soạn tràn qua. Bị chói mặt trời, Văn Bình không thấy rõ được người ngồi sau. Chàng chỉ biết là chật ních.

Chiếc Grumett còn cách 50 mét. Rồi 10 mét. Bốn bánh xe chồm khỏi mặt đường kéo bốc những đám bụi đỏ lòm. Không còn hồ nghi nữa, những người trong xe Grumett là nhân viên với địch. Văn Bình không liếc đồng hồ tốc độ, song chàng biết xe BMW đang ở tốc độ 120 cây số giờ. Ở tốc độ này, thắng gấp là gây tai nạn. Áp dụng kinh nghiệm lái xe đua, Văn Bình bất thần hất vô lăng sang trái. Cùng vi phân tích tắc ấy, chàng đạp thắng. Phải, chàng cố tình đạp mạnh bàn thắng. Chiếc BMW được gắn 4 thắng đĩa thật ” ăn “, kèm theo 1 hệ thống phụ thuộc hữu hiệu không kém. Nếu là tài xế tay mơ, không am tường khả năng thầm kín của xe, và không nắm vững các thủ đoạn đua tốc độ trên vòng chảo thì chắc chắn cử chỉ vừa rồi của Văn Bình đã làm chiếc BMW rớt xuống vực sâu bên đường, hoặc lật ngược, chổng 4 vó lên trời. Dưới tài ba độc đáo và già dặn của Văn Bình, chiếc BMW chỉ khựng lại, rồi quay 1 vòng, đầu xe đang trực chỉ trường bay El Alto vụt quay về hướng thành phố La Paz.

Tài xế xe Grumett sắp vượt qua chiếc BMW, thấy nó chao vào lề trái bèn lái vẹo qua phải. Quãng đường này có 1 hàng rào bê tông kiên cố chôn sâu trong đá hoa cương nhằm đỡ cản những chiếc xe lạc tay bánh.

Tài xế xe Grumett không đến nỗi xoàng, bằng chứng là hắn kiểm soát được vô lăng. Con ngựa máy bất kham của hắn không đâm húc hàng rào bê tông. Khốn nỗi khẩu súng của đại tá Pít đã khôn ngoan chờ đến lúc ấy để ” đẹt đẹt ” 2 phát liên tiếp. Cũng may, cuộc sống bên bà vợ ” sư tử Hà đông ” và đàn con ẩu như lính lê dương không ảnh hưởng tai hại đến khả năng tác xạ của viên đại tá CIA. Cả 2 viên đạn đều trúng lốp xe. 2 bánh sau bị xẹp khi tài xế ghìm giữ vô lăng. Giá hắn là vô địch đua xe quốc tế cũng bị tất tránh được tai nạn, huống hồ…

Rầm… Cảng xe tông vào hàng rào sắt. Vỏ xe Grumett bằng lát tích ép bị vỡ toang. Thân xe cao lêu nghêu tách làm đôi như thể nó được đúc bằng bột. Nửa đầu xoay tròn như chóng chóng trước khi văng xa, lăn tòm xuống vực thẳm. Nửa đuôi lại đứng nguyên 1 chỗ khác nào võ sĩ bị say đòn, tối tăm mặt mũi, rồi như có phép lạ vô hình bay vọt qua hàng rào xi măng. Bên phải đường dốc cũng là vực thẳm. Trong khoảnh khắc, chiếc Grumett với nhiều người ngồi bên trong đã biến mất dưới sâu. Nếu mặt đường không có những vết lõm chồng tréo của bánh xe và những vũng nhớt bầy nhầy, ai cũng nghĩ tai nạn kinh hoàng vừa xảy ra chỉ là sản phẩm của tưởng tượng.

Văn Bình đậu xe, nhảy xuống quan sát. Các nạn nhân không có hy vọng cứu sống vì cây cối xanh um đã hoàn toàn che kín. Văn Bình hất hàm với gã tài xế run rẩy:

– Trả tay bánh cho anh đấy. Sắp đến phi trường chưa?

Hắn lắp bắp:

– Thưa, sắp. Sợ lái không được.

Văn Bình xô hắn vào xe:

– Không được cũng phải được. Giờ tôi buồn ngủ.

Quay sang đại tá Pít, chàng chép miệng:

– Buồn ngủ quá, anh ơi! Có lẽ sau hàng chục đêm thức trắng, phút này tôi mới… thấm đòn. Anh cứ để yên tôi ngủ. Chừng nào phi cơ cất cánh hãy kêu dậy.

Chàng ngáp gần sái quai hàm:

– Lần này, chắc tôi kéo luôn 1 giấc đến Macao.

Bôlivi thuộc Nam Mỹ sửa soạn ăn cơm tối thì Macao ở Viễn đông, bên kia đại dương mênh mông sửa soạn lao vào hoạt động buổi sáng hôm sau. Vì giờ Macao chậm hơn giờ Bôlivi 13 tiếng.

Khi Văn Bình lục tục rời thường bay El Alto thì trời bảng lảng hoàng hôn. Và khi ấy Macao tiến sĩ Chicô ngồi trầm ngâm trước tách cà phê đặc sịt. Chicô có thói quen thức thật khuya, và dậy thật sớm. Phần lớn đời ông được giành cho phòng thí nghiệm. Ông không có thời giở giải trí, kể cả những thú vui lành mạnh. Ông cũng không có thời giờ nhàn rỗi để mơ mộng vẩn vơ. Thế mà từ rạng sáng đến giờ, ông chỉ ngồi mơ mộng vẩn vơ. Đúng ra Chicô ngồi mơ mộng vẩn vơ từ khuya. Sau nửa đêm, ông uống đến viên thuốc ngủ thứ 5, điều này chưa hề xảy ra đối với ông từ mấy chục năm nay, song 2 mắt cứ mở như chong chóng. Ông lấy sách ra đọc, những giòng chữ đen đột nhiên đổi màu loạn xạ rồi bốc lên khỏi tờ giấy, đua nhau múa nhảy trong không trung. Đầu nhức, mắt hoa, ông dựa lưng vào ghế để nguyên bộ y phục nhàu nát, ông cố gắng tập trung tư tưởng, xua đuổi những ý nghĩ lang bang ra khỏi óc, để tìm giấc ngủ.

Vẫn không ngủ được, ông đành pha cà phê uống. Ông không phải là dân nghiện cà phê. Ông chưa từng nghiện cái gì, kể cả thuốc lá, hoặc rượu mạnh. Có cũng được, không có cũng chẳng sao. Nhiều khi bị công việc lôi cuốn, ông quên cả ăn. Ông thường cho rằng nghiện ngập làm hèn con người. Từ ngày ông đến Macao, ông lại đa mang những thứ đắng, cay, và khét ấy. Cà phê thì uống không đường, uống hàng phích chứ không phải vài ba tách. Và nước cà phê phải đen sánh như chè đậu đen nghiền nhỏ của người Tàu bán ngoài đường. Kèm theo cà phê là nicôtin. Khi xưa, ông không dám xớ rớ đến thuốc lá. Hễ hút là ho sặc sụa. Nể bạn lắm ông mới hít 1 hơi thuốc thơm đầu lọc sợi vàng. Thuốc sợi đen là món cấm kị của ông. Giờ đây, thuốc lá không còn mùi vị gì đối với ông nữa. Ông hút xì gà, hút tẩu thuốc mới bõ. Đi đôi với xì gà là rượu mạnh. Đủ loại rượu Mỹ, rượu Anh, rượu Pháp, rượu Trung hoa… Cơ thể ông dường như đã chết, không còn biết phản ứng trước sự xâm nhập của độc chất.

Chicô dụi điếu xì gà mới đốt vào cái đĩa đựng tàn trên bàn. Lòng đĩa rộng và sâu như cái tô đã đầy ắp. Mùi tàn thuốc còn cháy xông vào mũi làm ông nhảy mũi 1 hồi. Ông bàng hoàng ra khỏi cơn mơ, quay về thực tại. Ông nhìn đồng hồ. 9 giờ sáng. Gió sông mát rợi thổi qua khung cửa sổ mở rộng vào phòng. Chicô sực nhớ đây không phải là La Paz, nơi ông có tòa nhà chênh vênh trên sườn núi trong khu mọi. Đây là lữ quán Caravela ở mút nam đảo Macao. Đứng sau cửa sổ nhìn xuống, ông có thể thấy sông Châu giang chập làm 1 với sông Tây giang. Dầu muốn dầu không, 2 con sông này bắt ông phải nhớ đến Hoa lục.

Macao là giẻo đất bé tí teo dính vào khổng lồ Hoa lục, gộp chung với 2 tiểu đảo tí teo khác của nó nữa là Taipa và Cô loan thì nó mới đo được 15 cây số vuông. Nó là 1 tỉnh của nước Bồ đào nha. Mặc dầu nó xa đất mẹ 13.000 cây số, từ trung tâm thành phố đến biên giới Hoa lục chỉ có 3 cây số, và nó được nối liền với Quảng châu bằng eo đất 140 mét bề ngang.

Chicô dụi mắt nhiều lần. Ông tưởng ông hoa mắt vì mất ngủ, và bị hóa chất, cà phê đen, nicôtin hành hạ. Nhưng không, nhỡn tuyến của ông vẫn còn tinh tế. Ông vẫn nhìn thấy đoàn tàu bập bềnh trên mặt nước màu vàng rỉ sét, cánh buồm căng rộng như cánh con giơi khổng lồ. Đoàn tàu này lênh đênh từ tháng này qua năm nọ trên sông, ra biển, tượng trưng cho nếp sống tự do. Riêng ông, ông sống trong cảnh tù túng. Ông thèm số phận những người Tàu lam lũ, ốm yếu, đứng chực chuyến ” bắc ” mỗi ngày chở họ ngược giòng sông về thị trấn Quảng châu, 100 cây số trong nội địa dưới quyền cộng sản cai trị. Chuyến đi dài lê thê 1 ngày 1 đêm. Chicô muốn ngược giòng sông như những người Tàu lam lũ, nhưng ông bị kèm riết. Còn khổ hơn tù khổ sai.

Ông bắt chước người Tàu xếp hàng để trèo lên xe buýt vượt biên giới. Hàng ngày xe buýt đưa thoi 2 chuyến giữa Macao và lục địa. Ông chưa ấm chỗ thì bị mời xuống. Kẻ mời ông rời xe buýt -rời niềm vui được đi Quảng châu- là Pe-Cheng. Pe-Cheng, lúc nào cũng là hắn. Hắn bám sát ông như bóng với hình. Hắn nhăn mặt, nói như mắng:

– Lần sau, ông đừng dớ dẩn như vậy nữa.

Trời ơi, lên xe buýt đi Quảng châu là dớ dẩn ư? Pe-Cheng không hiểu được Chicô muốn chắp cánh bay thẳng 1 mạch đến đó. Ông không được phép rời Macao, ông đành nhìn ngó thiên hạ di chuyển, ông đành ngửi mùi bồ hôi, lượm những hòn đất dính trên sàn xe, bất cứ những cái gì làm ông quên được những giờ, những phút cô đơn. Chicô thở dài, đau đớn. Xa xa, trong tầm mắt ông, màu hường, màu xanh, và màu vàng thẫm của những ngôi nhà xưa hiện ra từng lớp, từng lớp dưới ánh nắng ban mai rực rỡ. Thành phố Macao xây cất trên 7 ngọn đồi, nhà cửa nhấp nhô từ thấp lên cao như sóng biển. Buổi sớm mai rộn rịp mà thi vị, hàng vạn du khách từ khắp hang cùng ngõ hẻm trái đất đổ xô tới đây để thưởng thức những nét thanh tú có 1 không 2 ấy. Tuy nhiên, lòng Chicô lại trống trải, và hoang liêu lạ thường.

Ông lẩm nhẩm trong miệng:

– Mình ơi, con ơi!

Ông nhắm nghiền mắt mà hình ảnh ấy cứ đung đưa trước mặt. Hình ảnh 1 trưa nắng chang chang trong quang cảnh tiêu sơ và rùng rợn. Hình ảnh trạm gác biên giới. Phía này là mấy người lính ngồi sau cái bàn sọc sạch kê lộ thiên. Người ngáp dài. Người hút thuốc. Người bói bài 1 mình. Một chiếc cam nhông nặng nề lăn bánh. Một người ngoắt tay. Chiếc cam nhông chở đầy thực phẩm từ Hoa lục tiến vào vùng đất Macao. Bên kia là sự tương phản rõ rệt. Giữa những hàng rào kẽm gai rỉ sét, bẩn thỉu, nhuộm mùi đất, những vọng gác đúc bê tông tiêu điều, quạnh quẽ, rêu xanh và cây leo ngập đầy, là con đường thẳng tắp. Bọn lính Hoa lục đeo súng AK47, mặt ngẩn tò te, phục sức lôi thôi lếch thếch, đi lại như dệt cửi sau trạm quan thuế xiêu vẹo và cũ kỹ. Cạnh đó là chòi canh cao tồng ngồng trí 1 khẩu đại liên, ban đêm có đèn pha sáng quắc xuyên thủng màn đêm, ngăn ngừa mọi sự vượt biên lậu. Đáng kể nhất là lá cờ đỏ phất phới trước gió. Nếu không có lá cờ đỏ hung hãn của Trung cộng, và tấm chân dung to tướng của Mao sếnh sáng bên dưới tháp canh thì Chicô quên bẵng đây là biên giới giữa Macao và chế độ Bắc kinh.

Đây là biên giới giữa 2 nhà tù. Macao, nhà tù của tiến sĩ thực vật học Chicô. Quảng châu, nhà tù của vợ con ông.

Có tiếng gõ cửa. Như thường lệ, cửa khép hờ không khóa nên Pe-Cheng xô dễ dàng. Hắn đon đả chào:

– Chà, ông dậy sớm ghê! Còn dậy sớm hơn cả tôi!

Ông muốn nhổ bãi nước bọt vào mặt hắn, nếu ông được quyền gác bỏ những nguyên tắc lịch sự tối thiểu. Dầu sao ông cũng là nhà trí thức khoa bảng. Ông không thể hạ thấp tư cách ông bằng tư cách của Pe-Cheng. Hắn ở căn phòng kế cận, nhất cử nhất động của ông đều bị hắn theo dõi, ghi, chụp ngày đêm. Hắn dư biết ông trằn trọc đau khổ thâu đêm. Chicô nuốt giận, lí nhí 2 tiếng ” cám ơn “. Cám ơn về chuyện gì, chính ông cũng không hay. Đúng ra, hắn là kẻ thù của ông. Ông vẫn quay mặt ra cửa sổ. Xa xa là tiểu đảo Taipa, nơi có những xưởng làm pháo nổi danh Á châu. Và xa hơn nữa là tiểu đảo Cô loan với 2 bãi biển ngoạn mục và những ngọn đồi rợp bóng phi lao. Pe-Cheng chống nạnh giữa phòng. Chicô thường có lối nói bâng quơ, không quan tâm đến sự hiện diện của người đối thoại. Pe-Cheng hắng giọng rồi tiếp:

– Đến giờ rồi, ông ơi!

Chicô khựng người. Ông ” à ” 1 tiếng ngắn. Pe-Cheng không nhắc thì ông quên lửng. Sắp đến giờ ông gặp 1 nhân viên của tòa tổng lãnh sự Mỹ từ Hồng kông tới. Ông từ Đông kinh ghé Macao, công khai tuyên bố ý định ở lại Viễn đông với các ký giả, và bản tin này được loan bằng chữ đậm trên mọi tờ báo trên thế giới. Ông theo quốc tịch Mỹ nên ngay sau khi ông tuyên bố, người Mỹ đã đến tiếp xúc với ông. Cuộc tiếp xúc diễn ra ngắn ngủi, gần như bất thân thiện. Phái viên của chính phủ Mỹ chưa nói được gì, và ông cũng chưa nói được gì. Và đây là cuộc tiếp xúc thứ nhì. Cuộc tiếp xúc cuối cùng. Tòa lãnh sự kêu điện thoại cho khách sạn của ông. Ông hỏi ý kiến -đúng ra, ông xin lệnh- của Pe-Cheng. Hắn gật đầu:

– Được, ông cứ gặp họ. Ông nên gặp họ. Lần này, ông phải dứt khoát. Ông nói với họ những điều chúng tôi dặn ông. Ông còn nhớ không?

– Còn.

– Ông cần gìn giữ, cân nhắc từng chữ, từng câu. Có thể họ gài bẫy ông.

– Họ gặp tôi ở đâu?

– Ngay tại đây. Trong khách sạn. Trong phòng ông luôn luôn có máy ghi âm, và máy chụp hình hoạt động. Ông đừng chơi xấu chúng tôi, ông tiến sĩ nhé!

– Yêu cầu ông rút lại lời nói. Tôi không có tính chơi xấu. Vả lại, tôi chẳng dại gì chơi xấu.

– Tốt.

Pe-Cheng chưa đầy tứ tuần mà phát ngôn hợm hĩnh như thể hắn là bề trên, còn ông, 1 khoa học gia lỗi lạc trên 50 tuổi, chỉ là viên chức cấp dưới, nếu không muốn nói là con cháu trong nhà.

– Đến giờ rồi ông ơi!

Giờ hẹn là 9 rưỡi sáng.

Pe-Cheng mở ngăn kéo lấy cái hộp da dẹt đựng lược, dầu thơm, và dao cạo máy, đưa cho Chicô:

– Trên nguyên tắc, ông tự ý lưu lại Viễn đông. Ông tự ý từ bỏ quốc tịch Mỹ. Tự ý, nghĩa là không bị ai súi giục, lôi kéo. Tự ý, nghĩa là làm công việc ấy với sự hân hoan, vui sướng. Ông không thể mang bộ râu chưa cạo lởm chởm, và bộ quần áo nhàu nát. 20 phút nữa, họ tới. Phiền ông làm đẹp cái mặt, và thay bộ đồ mới.

Đặc điểm của lữ quán Caravela là phòng tắm chật chội. Vốn quen tiện nghi Tây phương, Chicô không mấy thoải mái. Ngay cả những căn phòng lớn nhỏ không đều của nó, ông cũng không ưa. Khách sạn gì mà bé tí teo, chỉ gồm vẻn vẹn 19 phòng, lên xuống không có thang máy. Nếu là vợ chồng mới cưới tìm nơi vắng vẻ, nên thơ để hưởng tuần trăng mật thì hợp nhãn. Lòng Chicô đang trống trải. Ông thèm nơi nào có thật nhiều tiếng ồn để khỏa lấp sự cô đơn. Pe-Cheng đã đích thân chọn Caravela, và chở ông tới. Trước kia nó là tư thất 1 ông bự người Tàu, do 1 kiến trúc sư hàng đầu xây cất. Năm 1964 nó đổi thành khách sạn. Nó là khách sạn bất đắc dĩ. Cũng như Chicô, ông là kẻ ly hương bất đắc dĩ.

Pe-Cheng đổ sạch tàn thuốc, khui hộp xì gà Havana và chai rượu mới, đặt ngay ngắn trên bàn đoạn nháy mắt chào Chicô. Ai cũng tưởng hắn là thư ký riêng của ông. Thật ra, ông chưa hề quen hắn. Hắn chỉ xuất hiện sau khi ông đến Macao. Cùng ra mặt với hắn là 1 bọn đầu trâu mặt ngựa, chia nhau chiếm hết những phòng còn lại trong khách sạn. Chicô có cảm tưởng ” họ ” đã thuê trọn 19 phòng. Nhân viên của ” họ ” túc trực ngày đêm. Trong 18 phòng còn lại, trong nhà ăn, ngoài hành lang, trước cửa, khắp nơi, đâu đâu cũng có ” họ “. Vì vậy ” họ ” không cần canh gác, Chicô vẫn chỉ là tù giam lỏng. ” Họ ” chưa hề khai tên nhưng Chicô biết ” họ ” là Quốc tế Tình báo Sở. Màng lưới tàn bạo của Tình báo Sở đã chụp xuống đầu ông và vợ con ông.

Chuông điện thoại reo. Từ dưới nhà, quản lý lữ quán gọi lên. Chicô đáp ngắn:

– Tôi đang chờ. Cứ cho khách lên.

Khách cao gần 2 mét. Cao nhưng không lòng khòng. Người cao quá khổ thường có nét mặt nghiêm nghị. Nguyên do là tuyến niêm dịch trên não làm việc nhiều. Tuyến niêm dịch làm việc ít thì thân thể lùn, mập, diện mạo lúc nào cũng buồn xo. Chicô có thiện cảm ngay với khách. Khách trạc 45. Trông hao hao diễn viên điện ảnh Mỹ Rock Hudson, người được phái nữ mê đắm. Đã trung niên mà khách còn sức cuốn hút đa tình. Hồi đôi, ba mươi, chắc khách là khối từ thạch, đàn bà con gái léng phéng đến gần là bị hút dính, không tài nào gỡ nổi. Khách là người Mỹ chính cống. Khách bắt tay Chicô rồi tự giới thiệu:

– Thưa bác sĩ, tôi là Hansen, tham vụ ngoại giao. Đồng nghiệp của tôi đã được hân hạnh gặp bác sĩ, nhưng anh ta chưa có cơ hội đàm luận lâu và kỹ nên…

Chicô cắt ngang:

– Vâng, vì lý do ấy, tôi đã chấp thuận cuộc gặp thứ hai. Nhân tiện, xin ông gọi tôi là Chicô, tôi rất kỵ 2 tiếng bác sĩ. Tôi biết ông rất bận, ông không có thời giờ ở lại lâu. Và tôi cũng có nhiều cái hẹn khác. Bởi vậy, chúng ta cần bỏ hết khách sáo, đi thẳng vào vấn đề. Xin hỏi ông: Ông đến gặp tôi làm gì? Để tiết kiệm thời giờ cho cả ông lẫn tôi, tôi đáp ngay là ông đừng hy vọng thuyết phục tôi trở về La Paz. Phong cảnh Macao đẹp. Người đẹp. Khí hậu tốt. Bạn bè tốt. Thức ăn ngon. Nên tôi lập nghiệp ở đây. Có thế thôi.

Hansen đủng đỉnh:

– Kỳ thật, ông cũng như tôi. Mười mấy năm nay, tôi cứ quanh quẩn ở Macao, không chịu đi đâu vì không thấy nơi nào đẹp bằng. Bạn bè đặt tên tôi là Hansen vì vậy.

– Tôi không thấy sự liên hệ nào giữa thành phố Macao và tên Hansen.

– Hansen là tên con vi trùng của bệnh cùi.

– A, tôi bắt đầu hiểu. Trên đảo Cô loan có 1 trại cùi. Ông từng sống ở đó?

– Vâng. Khi buồn thì lên đồi trồng hoa, hoặc ra bờ biển câu cá, hoặc theo dân chài ra khơi những ngày biển động để nếm mùi phiêu lưu. Những khi vui, tiền bạc rủng rẻng thì trở về trung tâm thành phố, vùi đầu vào sòng bạc, đánh chí chạp, quên đất, quên trời, quên cả chính mình nữa. Ông tính 5 sòng lớn, với đủ lối chơi, nào phán thán, kênô, nào ru lét, bài xì… cái gì cũng có. Con gái thì dễ thương, mĩ miều, bảo sao làm thế, chứ không ỉ eo, bướng bỉnh, làm phách như con gái Âu châu.

– Ông giàu ghê. Chẳng phải làm lụng gì cả. Chỉ có 1 việc giải trí và nướng tiền.

– Trật lất. Tôi không quá sướng như ông tưởng. Chẳng qua nghề của tôi nó lắt léo, khi thiên hạ làm thì mình nghỉ, khi họ nghỉ thì mình làm. Cái nghề đi khuya về tối. Cái nghề đấm đá, bắn súng, đấu dao ác ôn. Cái nghề không sống thọ đến 40 tuổi…

– Ông làm nghề tình báo?

– Phải.

– Nhân viên CIA?

– Phải.

– Nguy lắm ông ơi. Ông là tình báo Mỹ, ông léo hánh tới đây làm chi?

– Cám ơn ông. Macao ở trước miệng Quảng đông. Nó chỉ há ra là chui tọt vào họng, phương chi trong tổng số 300.000 dân thì hơn 90 phần trăm là người Tàu, có ít nhiều tương quan với Trung hoa cộng sản. Nhưng lại rất an ninh, ông à. Từ 400 năm nay, nó là vùng đất hải ngoại của Bồ đào nha. Bồ không thừa nhận Bắc kinh mà Macao có hề hấn gì đâu? 3 Là vì Macao là cửa sổ cho họ nhìn ra thế giới bên ngoài. Họ cần bán thuốc phiện, bán hàng trăm thứ khác. Họ cũng cần mua hàng trăm thứ khác. Macao phải sống yên ổn. Do đó, chúng tôi được sống yên ổn. Tôi không sợ, xin ông nhớ kỹ cho, Macao là nơi tụ tập của dân đi khuya về tối từ khắp nơi trên thế giới kéo tới. Không riêng gì CIA. Nhưng ông lại sợ. Ông sợ vì…

– Ông Hansen, ông phiếm luận những gì, tôi không hiểu. Ông đến gặp tôi, hẳn có mục đích rõ rệt. Ông muốn gì?

– Tất nhiên, tôi sẽ không yêu cầu ông từ bỏ ý định lưu lại Macao. Ông là công dân 1 nước tự do, ông có quyền hành động theo ý riêng ông. Ông có quyền từ bỏ quốc tịch. Ông cũng có quyền ly dị người vợ đầu gối tay ấp trung thành và đứa con trai 9 tuổi ngây thơ, vô tội. Nhưng ông không có quyền coi thường những điều ông từng cam kết với chúng tôi.

– Cam kết của các ông, cam kết với CIA?

– Vâng. Cách đây 6 năm, Hiệp hội Thực vật Tây bán cầu tài trợ 1.000.000 đôla cho công cuộc khảo sát utricularia tại La Paz. Số tiền này được trao tận tay ông.

– Sự giúp đỡ này nằm trong khuôn khổ khoa học, không dính líu đến chính trị hoặc tình báo.

– Hiệp hội Thực vật là tổ chức bình phong của CIA, không lẽ ông không biết điều đó?

– Tôi hoàn toàn không biết. Khế ước tài trợ gồm những điều khoản hết sức minh bạch. Giống cây utricularia khổng lồ ở La Paz có khả năng ăn thịt, mỗi lần từ 500 gờram đến 5 kí, bởi nó tiết ra diếu tố 4 đặc biệt. Tôi cần 1 ngân khoản lớn để nghiên cứu sâu rộng thêm. Nhờ 1.000.000 đôla của Hiệp hội, tôi đã tổng hợp được diếu tố này.

-Từ đó ông phăng lần ra Chicôzim.

– Vâng, vâng. Diếu tố này chứa đựng 1 số diếu tố phụ thuộc khác. Tình cờ tôi tìm thấy, và… và đó là 1 phát minh quan trọng về khoa học. Trong số các diếu tố phụ thuộc, có 1 chất tiêu hủy được những tế bào bị ung thư tàn phá trong cơ thể con người. Tôi đặt tên chất này là Chicôzim.

– Giới y khoa khắp thế giới nhiệt liệt đón chào Chicôzim vì đây là hóa chất đầu tiên chữa được bệnh ung thư nan y. Ông được mời đi nhiều nước để diễn thuyết. Ông được đề nghị lãnh giải tưởng Nobel về Y học và Hoá học.

– Tôi đã chán ngấy danh vọng, chán ngấy tất cả. Tôi qua Macao để trốn tránh sự giả dối, trốn tránh sự ồn ào…

– Không đúng. Ông qua Macao cũng để trốn tránh trách nhiệm. Cách đây 18 tháng, khi ông bắt đầu tổng hợp được Chicôzim, chúng tôi đã tài trợ thêm 1 món tiền nữa. Món tiền 5.000.000 mỹ kim.

– Là vì Chicôzim mới ở giai đoạn thí nghiệm nơi loài vật. Cần 1 thời gian để thí nghiệm vào con người. Thời gian này dài hay ngắn tùy theo phương tiện huy động. Và tùy theo vấn đề… tiền. Thiết nghĩ, 5.000.000 đôla có gì là nhiều đâu. Nó còn ít hơn giá thành 1 chiếc phi cơ ném bom của các ông. Vả lại, số tiền các ông bỏ ra đã được đền bồi tương xứng. Giai đoạn đầu thí nghiệm vào con người vừa hoàn tất. Chỉ còn đợi cân nhắc 1 thời gian là có thể bước sang giao đoạn bào chế thành dược phẩm.

– Ông đã cân nhắc xong chưa?

– Không tiện trả lời.

– Không tiện trả lời vì lẽ dễ hiểu, như tôi vừa nói, ông trốn tránh trách nhiệm. Chúng tôi xuất tiền cho ông thí nghiệm, công việc sửa soạn hoàn tất thì ông cuỗm luôn đi 1 mạch.

– Yêu cầu ông giữ gìn ngôn ngữ.

– Nếu là kẻ thiếu lễ độ, tôi đã nói thẳng rằng ông bội ước, ông lường gạt, ông trốn khỏi nước với mưu đồ bán công thức Chicôzim cho 1 chính phủ ngoại quốc.

– Mời ông ra cửa. Tôi đã chịu đựng hết nổi.

Tiến sĩ Chicô hầm hầm xô ghế. Hansen, đặc phái viên CIA từ tốn đứng dậy, vẻ mặt thản nhiên như thể y đã đoán trước mọi việc phải xảy ra như vậy. Hansen nhìn giữa mắt Chicô, dằn từng tiếng:

– Họ hứa trả ông bao nhiêu?

Chicô giật mình:

– Họ là ai? Bao nhiêu gì?

– Ông đóng kịch khéo lắm. Họ là chính phủ ngoại quốc mà ông tiếp xúc để bán công thức Chicôzim. Và bao nhiêu đây là bao nhiêu tiền. Số tiền phải kể hàng triệu. Họ thuận mua mấy triệu?

– Mời ông ra cửa.

– Nhân danh CIA, tôi đề nghị như sau: chúng tôi không kể đến 6.000.000 đôla đã đưa cho ông trong 2 lần. Họ hứa trả bao nhiêu, chúng tôi trả bấy nhiêu. Bao nhiêu, ông nói đi?

– Chào ông.

– Ông không đánh trống lảng được đâu. Chúng tôi là 1 tổ chức rộng lớn, hùng hậu số 1 trên thế giới. Chúng tôi có thể hạ sát ông bất cứ lúc nào, nhưng chúng tôi không làm vì không muốn giết 1 kỳ tài khoa học. Có lẽ ông bị mắc kẹt với họ. Nên tôi sẵn sàng vạch cho ông 1 lối thoát dung hòa: ông cứ trao công thức cho họ, nhưng là công thức giả, hoặc ông cố tình viết sai 1 vài đoạn.

– Không bao giờ.

– Nghĩa là ông chính thức nhìn nhận có điều đình bán công thức Chicôzim cho 1 chính phủ ngoại quốc.

– Tôi chưa hề nói như thế.

– Hừ… ông Chicô ơi… lấy thúng úp voi làm gì nữa ông… đây là đề nghị cuối cùng: ông đưa công thức đúng cho họ, và cả cho chúng tôi.

– Mời ông ra cửa.

– Nếu tôi cứ ở lì trong phòng?

– Có người sẽ phải thất lễ với ông. Ông mạnh, ông đông, họ cũng mạnh, cũng đông không kém. E còn mạnh hơn, đông hơn các ông. Thú thật, tôi ghét ông, nhưng không muốn ông thiệt mạng vô ích.

– Ông dọa làm thịt tôi? Còn lâu, ông tiến sĩ thực vật ơi! Còn lâu, vì tôi đã bố trí chu đáo. Cộng sự viên của tôi túc trực dưới đường. Họ đang bao vây lữ quán Caravela. Tôi chết thì ông cũng chết theo. Tính mạng của nhà bác học quý hơn tính mạng của nhân viên tình báo gấp trăm lần, phải không ông? Tuy bị chơi xấu, chúng tôi vẫn xử sự ôn hòa. Nếu bị dồn vào thế kẹt, chúng tôi bắt buộc phải quật ngược.

Tiến sĩ Chicô thở dài, không đáp. Đặc phái viên CIA Hansen ra đến ngưỡng cửa thì đứng lại:

– Ông có 24 giờ đồng hồ để suy nghĩ. Sau thời hạn này, chúng tôi sẽ hành động. Khi ấy, ông đừng trách chúng tôi độc ác.

– Cấm các ông đụng tới vợ con tôi ở La Paz.

– Không cấm, chúng tôi cũng tránh xa. Nếu ông thương họ, ông đã chẳng ở lại đây. Ông ra đi, phần nào cũng đề lập lại cuộc đời mới, và chắc chắn vợ ông sẽ bỏ ông. Trên đời, chúng tôi biết rõ ông yêu 1 người. Khi cần, chúng tôi sẽ cắt họng người đó.

– Cắt họng? Ông định cắt họng ai?

– Ông đoán thử xem.

– Tôi chẳng còn ai thân thiết, ngoại trừ vợ con.

– Còn chứ… thân phụ ông đã mất, nhưng mẹ ông còn sống. Năm nay, nếu tôi không lầm, thì bà cụ vừa chẵn 80 tuổi.

– Trời ơi!

– Ông bồ côi cha ngay từ thuở lọt lòng nên rất khăng khít với mẹ. Bà cụ vất vả ba sương nuôi ông ăn học thành người. Hồi nhỏ, ông mang bạo bệnh, suýt chết 4 lần. Ông sống được là nhờ sự chăm sóc hy sinh to lớn của bà cụ. Tôi xin lặp lại: quá thời hạn 24 giờ kể từ phút này, nếu ông không gặp tôi để trao trả công thức Chicôzim thì nhân viên CIA ở Bôlivi sẽ cắt họng mẫu thân ông bằng dao cạo, loại dao hơi cùn 1 chút để tạo thêm cảm giác đau đớn và rùng rợn.

Chicô ngồi phịch xuống giường. Đặc phái viên Hansen thọc tay túi quần, nghênh ngang xuống cầu thang. Pe-Cheng trở vào phòng không biết từ lúc nào. Ông Chicô vẫn đắm mình trong cơn suy nghĩ. Hắn phải lay vai ông, giọng oang oang:

– Khen ngợi ông. Ông đã làm đúng những điều tôi đòi hỏi.

Mắt Chicô đỏ ngàu. Dường như ông vừa khóc. Pe-Cheng an ủi:

– Ông đừng bận tâm đến nữa. Anh em tôi sẽ lo liệu hết. Thằng Hansen không dám mó vào da thịt ông đâu. Phòng nào trong lữ quán cũng có nhân viên của tôi. Tôi sẽ đặt người canh phòng thường trực. Ông còn bà mẹ ở La Paz, tại sao ông không nói với tôi?

– Ông có hỏi đâu mà nói.

– Rầy rà ghê. Nếu biết bà cụ còn sống, chúng tôi đã… mời luôn 1 thể.

– Ông mời vợ tôi, con tôi đã đủ làm tôi sống dở, chết dở. Cộng thêm mẹ tôi nữa, chắc tôi hết thở.

– Bà nhà và cậu con được đối xử vô cùng hậu hĩ. Ông còn phàn nàn chi nữa. Vô lý quá.

– Phàn nàn vì họ mất tự do. Ông bắt họ, chứ họ không hề tự ý theo ông. Rồi các ông dùng mạng sống của họ để buộc tôi phải tuân lệnh các ông. Một phía là các ông. Phía kia là CIA. Bên nào tôi cũng chết chẹt.

– Tùy ý ông. Ông cứ việc nghe lời Hansen. Ông có toàn quyền ra bến, đáp thuyền máy về Hồng kông, rồi từ đó đi La Paz.

– Ông Cheng, hơn ai hết, ông đã biết tôi chỉ có 1 con đường. Tôi sẵn sàng làm theo lệnh ông nếu ông nghĩ được cách ngăn CIA hạ sát mẹ tôi.

– Chẳng có gì khó. Ông sẽ gặp báo chí, cảnh cáo CIA phải chịu trách nhiệm về mạng sống của bà cụ. Mặt khác, tôi sẽ bố trí chờ Hansen và đồng bọn của hắn. Giang sơn nào, anh hùng nấy, chúng xớ rớ đến đây thì tan xương nát thịt.

– Đa tạ hảo ý của ông. Chừng nào tôi được gặp vợ con?

– Chừng nào cũng được. Bà nhà và cậu con đang ngụ trong 1 căn nhà khang trang ở bên kia ranh giới. Gần lắm, đi 1 lát là đến. Nhưng tại sao ông không sang lập nghiệp tại lục địa?

– Vấn đề sức khỏe không cho phép tôi sống ở Viễn đông. Vợ con tôi đều mắc bệnh.

– Ông đã viết xong bản luận án về Chicôzim chưa?

– Sắp xong. Tuy nhiên,…

– Hiểu rồi. Ông cần giáp mặt vợ con. Đồng ý. Ông sẽ lên đường ngay. Đêm nay ông lưu lại bên ấy để hàn huyên cho bõ những ngày xa cách. Sáng mai, quay về Macao.

– Cùng vợ con?

– Không. Vợ con ông chỉ được vượt biên giới sau khi ông nộp công thức Chicôzim. Chúng tôi là 1 đại tổ chức. Ông không nên chắc lép.

Pe-Cheng khoát tay. Sau lưng tiến sĩ Chicô đã có 1 thuộc viên mặt phẳng lì như đá tảng. Tiếp theo mệnh lệnh bằng tay của thượng cấp, hắn tiến lên 1 bộ. Cái mù soa tẩm thuốc mê được áp chặt vào mũi Chicô. Thuốc mê đặc biệt của nghề gián điệp có khác. Nạn nhân bất tỉnh tức khắc. Tứ chi mềm nhũn, ông Chicô ngã rụp. Pe-Cheng hất hàm với lũ thuộc viên lố nhố ngoài hành lang và trên ngưỡng cửa:

– Mang đi.

Chú thích

  1. tức daltonisme, hoặc color blindness.
  2. tại sân golf Mallasulla ( La Paz ), người ta có thể đánh banh golf xa 400 m. thành tích này được coi là phi thường nếu ở nơi khác.
  3. trước kia, Bồ đào nha thuê Macao của Trung hoa năm 1887, trở thành nhượng địa trong thế chiến 2, không bị Nhật chiếm, và năm 1951, Bồ tuyên bố Macao là 1 tỉnh hải ngoại của Bồ. Mùa đông 1966 – 1967, Vệ binh đỏ đã gây sự phá phách, nhưng sau đó tình hình đã được bình thường hóa.
  4. tức enzyme. Thực vật, động vật đều có enzyme. Trong con người, có chừng 650 enzymes khác nhau được tìm ra, mỗi enzyme làm 1 chức phận riêng.

CHƯƠNG 6 – TỪ XUNG THẰNG ĐẾN HỒNG KÔNG

Họ đi thì Văn Bình đến.

Chàng không bay thẳng 1 mạch từ Nam Mỹ qua Hồng kông như chương trình dự liệu. Phi cơ đáp xuống đảo Xung thằng, nơi đó chàng sẽ gặp viên tổng thanh tra, đặc trách khu vực Bắc Á của CIA. Tình báo nhà giàu nên họ tiêu xài không đếm. Nếu là điệp vụ do ông Hoàng điều khiển thì năm thì mười họa chàng mới được ngự phi cơ riêng. Ngay cả trong những chuyến riêng này lộ trình cũng không được quá 3.000 cây số. Chàng chỉ được dùng phi cơ nhỏ, càng ít chỗ càng tốt. Bởi vậy, chuyến đi từ La Paz đến Xung thằng là cuộc tĩnh dưỡng thần tiên đối với Z.28. Họ giành cho chàng 1 con chim sắt hạng đại, tất cả những cái gì to lớn và mang danh phản lực của Air Việt Nam chỉ là đồ… bỏ, trên đó được trang trí đàng hoàng, sang trọng như lâu đài. Phòng ăn, phòng ngủ, phòng hút thuốc lá, phòng tắm ngăn nắp, thừa mứa tiện nghi. Văn Bình chưa hề ngửi mùi phi cơ đặc biệt của ông tổng thống Mỹ, nhưng nghĩ thầm phi cơ đặc biệt này cũng khó thể khoái hơn. Hỏi nhỏ đại tá Pít -anh bạn khác màu da, khác sở thích, và khác hoàn cảnh gia đình, song lại chơi thân với chàng kinh khủng- thì được trả lời ” xe hơi cưỡi mây của ông Sì Mít đấy. Ông già ông ấy sợ anh… đau lưng nên mới cho anh đi thử “.

– Đi thử? Nghĩa là phi cơ mới tậu, ông Sì Mít chưa xài?

– Dĩ nhiên. Anh là người có hân hạnh ” cắt chỉ “. Riêng điều này đủ chứng tỏ ông Sì Mít có biệt nhỡn của anh chừng nào.

Biệt nhỡn còn ít. Siêu biệt nhỡn mới đúng. Là vì ông Sì Mít nhờ chàng việc gì, chàng đều thành công vẻ vang. Biết tính chàng, ông ra lệnh cho ban tiếp tân mua loại huýt ky ngon nhất thế giới. Chiêu đãi viên cũng thuộc hạng giỏi và thơm. Chàng được hầu hạ sướng hơn cả ông hoàng ( xin lưu ý: chữ h đây là h thường, không phải H hoa, vì ông Hoàng, tổng giám đốc Sở Mật Vụ quanh năm sống đạm bạc, có bao giờ hưởng thú ” de luxe ” đâu ) để chàng quên cuộc hành trình dài lê thê qua Thái bình dương. Ông Sì Mít còn dặn ban tiếp tân thuê gần 20 cuốn phim màu do các hãng lớn sản xuất trên màn ảnh đại vĩ tuyến, và do các tài tử gạo cội đóng vai chính. Món ” bên lề ” cũng vậy, chàng muốn lúc nào là có lúc ấy. Thế mà hỡi ôi… mọi dự đoán của ông Sì Mít và của đại tá Pít đều sai bét vì Văn Bình nốc 1 hơi huýt ky rồi… lăn ra ngủ. Trên màn ảnh, cao bồi, tướng cướp, và ông cò bắn súng đì đoàng, người chết như rạ, máu chảy thành vũng mà chàng vẫn ngáy đều. Mãi khi đến gần Xung thằng, chàng mới lồm cồm dậy như thể trong óc chàng có sẵn đồng hồ báo thức. Chàng ngáp dài, hỏi bạn:

– Sắp?

Pít đáp:

– 5 phút nữa hạ cánh. Anh tài thật. Ngủ đã chưa?

– Chưa. Nếu không bận việc, tôi còn có thể kéo luôn 1 ngày 1 đêm nữa.

Văn Bình kêu nữ tiếp viên lại với bảng ghi các loại rượu. Pít hỏi:

– Anh uống?

Văn Bình lắc đầu:

– Không. Tôi chọn vài chai vang để lát nữa…

– Ô, nhà ông tổng thanh tra thiếu gì.

– Vẫn thua ông Sì Mít.

Chàng bâng khuâng giây lâu trước hàng chữ Bót đô ( Bordeaux ) 1961:

– Có mấy chai của mùa nho 1961?

Nữ tiếp viên nhăn nhó:

– Thưa… thưa không có.

– Vậy, vang đỏ Bót đô có những loại nào?

– Thưa, 1962 và 1965.Thứ 1962 chỉ có 1 chai. Còn 1965 thì rất nhiều. Vang 1965 rất ngon, mời ông…

Chàng gạt phắt:

– Không lấy. Vang trắng đâu, đưa tôi coi?

Pít sửng sốt:

– Tôi vừa uống 1 chai 1965 hồi nãy, ngon lắm anh ơi!

Văn Bình gõ ngón tay vào đầu bạn, không khác thày giáo răn dậy cậu học trò đồng ấu:

– Ông đại tá Pít ơi, chỗ của ông là trong văn phòng đánh vẹt ni bóng loáng, hoặc bên cạnh cái nôi có đứa con mũm mĩm đang bú sữa và bà vợ… tốt da tốt thịt. Bót đô đỏ mùa nho 1962 là thứ bết nhất, kể từ nhiều năm nay, anh hiểu chưa? Nếu cho điểm từ 0 đến 20 thì năm 1962 chỉ được 8 điểm. Năm 1965 khá hơn nhiều. Với 16 điểm. Nhưng 1961 mới đáng đồng tiền bát gạo, 20 điểm trên 20. Ngoài nó ra chỉ có Bót đô năm 1945 mới dám so sánh với nó. Rượu chán mớ đời như thế này thì ai uống? Nào, vang trắng đâu?

Nữ tiếp viên đáp:

– Dạ… dạ, rượu Sô tẹc ( Sauternes, cũng thuộc vùng Bordeaux ) cũng chỉ có thứ trung bình.

– Vậy mà ông đại tá của cô cứ khen lấy khen để là trên phi cơ toàn đệ nhất tửu.

– Thưa, sâm banh thì khá.

– 1955 và 1952?

Cô tiếp viên xanh mặt. Văn Bình vừa đòi thứ sâm banh thượng hảo hạng, từng được Hàn lâm viện Rượu vang Pháp chấm 19 và 20 điểm. Cô tiếp viên lắp bắp mãi không thành tiếng. Đại tá sẵng giọng:

– Lại không có. Bê bối quá. May là bạn thân, chứ nếu khách lạ thì phen này tôi còn mặt mũi nào nhìn người ta nữa

Cô tiếp viên nói gần như mếu:

– Em xin lỗi ông.

Trong suốt chuyến bay, Văn Bình chưa có dịp ngắm nghía mấy cô tiếp viên căng cứng và khả ái. Ngủ nghê đầy đủ xong, chàng cảm thấy tâm thần thoải mái, và khi ấy chàng mới tiếc rẻ. Chậc, cô bé khá đẹp:

– Còn phần cô, cô thuộc năm nào?

” Thuộc năm nào ” có nhiều nghĩa. Sinh năm nào, tốt nghiệp đại học năm nào trước khi gia nhập ngành điệp báo. Nhưng cái nghĩa chàng muốn lại khác. Không hiểu, nàng đứng ngẩn tò te. Đàn bà ngơ ngác thường đáng yêu. Phương chi nàng độ 23, 24, thân hình chưa có khoảng mềm và nét gẫy. Nàng chưa phân biệt được nếp tẻ gì thì Văn Bình đã nắm tay kéo tới. Nàng ngã ngồi trên đùi chàng. Và chàng hôn nàng. Đại tá Pít ngó bạn, nửa khâm phục, nửa sửng sốt. Văn Bình thường có lối tấn công chớp nhoáng. Nếu là kẻ khác thì ăn bạt tai cháy má như chơi. Nhưng cô tiếp viên không hề phản đối. Trái lại, nàng còn đáp ứng cuồng nhiệt. Buông nàng ra, Văn Bình nói:

– Em còn hơn sâm banh 1955 và 1952 một bậc.

Nàng ưỡn ngực khiêu khích:

– Anh liệt em vào năm nào?

– 1962.

– Cám ơn anh. Em có nhà ở Hoa Thịnh Đốn, gần nhà đại tá Pít. Khi nào anh quá đó, đừng quên gọi điện thoại cho em. Anh đã khen em là sâm banh 1962, chắc chắn em sẽ không làm anh thất vọng.

Nàng rún rảy trên đôi giày cao gót bước sang cabin bên. Phản lực cơ sửa soạn hạ cánh. Đèn đỏ bật sáng yêu cầu buộc dây lưng an toàn. Đại tá Pít hỏi Văn Bình:

– Hai người nói với nhau những gì, tôi mít đặc hoàn toàn.

Văn Bình nhún vai:

– Có vợ rồi, biết thêm chỉ thêm khổ.

– Tội nghiệp thân tôi, sâm banh mùa nho 1962 bên Pháp là sâm banh hạng nhất, phải không?

– Hạng nhất thì có 1955 và 1952. Sâm banh năm 1962 cuộc loại siêu. Cũng như văm là đàn bà đẹp mái ấy mà. Đẹp hơn nữa là siêu văm. Sâm banh 62 có một số đặc điểm, ấy là mùi vị của nó nhẹ hơn, thanh cao hơn, và nhất là quý phái hơn mọi thứ khác. Dân chuộng sâm banh quốc tế thường tôn nó là thứ rượu quý phái nhất hiện nay.

– Thì ra anh khen cô ả có vẻ đẹp quý phái. Gớm thật, chưa thấy ai đáo để bằng anh. Tán gái bằng ngôn ngữ sâm banh.

Văn Bình cười:

– Cũng tùy người. Và mỗi nơi 1 cách. Mỗi típ đàn bà tán 1 nghệ thuật riêng biệt. Đem áp dụng phương pháp chọn rượu sâm banh ở Bôlivi chẳng hạn với cô vợ già của Chicô ở La Paz thì ốm đòn.

– Chuyện. Đàn bà mắt sếch thường dữ.

– Không cứ. Phụ nữ La Paz, dầu mắt sếch hay không đều dữ như nhau. Tuy nhiên, dữ ở đây không có nghĩa là vũ phu. Họ đảm đang và hơi lấn át. Riêng trong phòng the, họ rất dữ dội. Nhất là phụ nữ da màu, lai mọi, chân dài ngoằng, thân nhỏ, đầy thịt rắn chắc…

Văn Bình nheo 1 con mắt:

– Phì nộn và yếu tim như anh thì khó thọ đến 30. Anh biết tại sao họ dữ không? Do phong thổ mà có. Trong vòng 127 năm độc lập của Bôlivi thì có đến 128 cuộc đảo chính, cách mạng. Các chính phủ đua nhau đổ loạn xạ, một phần có sự tham dự của phái yếu. Tiếng là phái yếu, họ chẳng yếu chút nào. Họ buôn bán tần tảo nuôi chồng. Hễ buôn là buôn lậu. Con thì phần nhiều là con hoang. Để tôi kể lại cuộc cách mạng thành công tháng 4 năm 1952 anh nghe. Dọn đường cho cuộc nổi dậy, 1 số phụ nữ nhan sắc mặn mòi đến bắt tình với binh lính ở các trạm gác quan trọng. Trong giây phút đầu gối tay ấp lẽ nào ôm khẩu súng khư khư. Chàng lính phải vứt bên để hú hí người đẹp. Rốt cuộc chàng không được ân ái, chàng còn bị tước súng, và bị trói gô như khúc giồi.

Chợt có tiếng nói thanh tao:

– Anh coi chừng, nếu anh không giữ lời hứa, em sẽ làm thịt anh như phụ nữ Bôlivi năm 1952.

Cả Văn Bình lẫn đại tá Pít đều quay lại. Cô tiếp viên nõn nà hồi nãy đã đứng đấy. Phi cơ đã đáp xuống êm ái. Cửa phòng được mở rộng, cầu thang nhôm cao lêu nghêu, sơn trắng, óng ánh, được đẩy đến sát. Đôi bạn trai mãi trò truyện nên không để ý đến sự chuẩn bị rộn rịp chung quanh. Văn Bình chưa kịp đáp, nàng đã ôm ghì và hôn giữa miệng chàng. Phi hành đoàn tề tựu đông đủ dưới sàn bê tông, người đứng lố nhố mà cô tiếp viên phớt tỉnh như thể nàng đang đóng phim.

Bỗng dưng chàng được giai nhân âu yếm hôn. Chàng không chê sắc đẹp bao giờ, vì thế chàng hôn trả lại ngay, và hôn thật lâu. Đại tá Pít phải kéo chàng ra, giọng chán đường:

– Thôi ông, đến Naha rồi ông ơi. Mọi người đang chờ ông bên dưới.

Nếu Pít không nhắc, Văn Bình đã quên nhiệm vụ. Đây là Naha, thủ phủ và trung tâm kinh tế của Xung thằng. Du khách ghé Naha thường chỉ nghĩ đến 2 chữ Xung thằng, Okinawa. Có lẽ vì Naha là 1 thành phố nhỏ xíu, không có tiếng tăm. Thật ra đến Naha mà nói đến Xung thằng cũng không đúng. Muốn đúng, phải nói đến quần đảo Riu kiu 1. Quần đảo này gồm 73 hòn đảo, trong số có 47 đảo không dân cư, và phân chia làm 3 nhóm. Xung thằng là nhóm đảo lớn nhất.

Văn Bình được mời lên chiếc xe Hoa Kỳ kiểu mới ra lò. Naha cách Hồng kông 2 giờ phi cơ phản lực. Chàng sẽ thay phi cơ tại đây. Tòa nhà biết bay cực kỳ lộng lẫy của ông Sì Mít không thể tiếp tục chở chàng đến Cảng thơm vì lý do an ninh. Tài xế không lái vào đường phố chính mà là chạy về phía nam thị trấn, dọc theo xa lộ số 3, đến gần làng chài lưới đông đảo. Nơi đây cách thành phố non 10 cây số, và là địa điểm có nhiều đài kỷ niệm. Trong thế chiến thứ 2, khi quân Mỹ đổ bộ lên Xung thằng do Nhật chiếm giữ thì số người chết từ mọi phía lên đến 1 phần 4 triệu. Không khí đượm vẻ bùi ngùi mặc dầu nước biển vẫn xanh trong và cảnh hoàng hôn ngợp nắng vàng tuyệt đẹp. Văn Bình đập cánh tay đại tá Pít:

– Phụ nữ ở đây cũng dữ lắm, anh ơi!

Pít tưởng bạn đùa dỡn nên không trả lời. Vả lại, xe hơi bắt đầu lăn bánh vào biệt thự rộng bao la của viên tổng thanh tra CIA ở sát biển. Văn Bình không quan tâm đến những luống hoa khoe sắc trong vườn. Tâm hồn chàng đang chìm trong sương mù của quá khứ.

Phụ nữ trong vùng nổi tiếng dữ không thua phụ nữ Bôlivi. Vì theo truyền thống địa phương, đàn bà có nhiều quyền hơn đàn ông. Văn Bình đã có cơ hội -1 cơ hội vừa khoái trá vừa lo đứt hơi- nếm mùi ” dữ ” của phái yếu địa phương nhân 1 chuyến hoạt động trên đảo. Xung thằng được coi là thiên đường hạ giới của thú bơi lặn, săn cá dưới biển. Những rừng san hô ở đó gồm đủ màu sắc và hình thù gợi cảm. Ai đã nhìn ngắm 1 lần là phải trở lại nhìn ngắm nhiều lần nữa, như thể đáy biển có ma túy. Văn Bình mê săn cá, song chưa mê bằng tắm đêm. Bãi Trăng ở đó lại là bãi mà khách giang hồ lão luyện liệt vào hạng thần tiên cho kẻ tắm đêm. Chàng tắm đêm ở Bãi Trăng và làm quen 1 cô gái mĩ miều cũng nghiện tắm đêm như chàng. Đêm ấy, thật ra có nhiều cô gái xinh đẹp cũng tung tăng trong làn nước mát, thân thể lồ lộ. Chàng lân la hỏi chuyện cô gái bơi gần chàng nhất. Rồi việc phải tới đã tới. Nàng hẹn hò với chàng. Các bạn nàng không muốn nàng độc chiếm 1 chàng trai khôi ngô. Trận chiến diễn ra. Họ đánh nhau, hung hãn không kém đàn ông. Sau khi trừng trị cô gái tham lam và ích kỷ, họ quay ra tấn công chàng. Đêm ấy chàng phải vắt giò lên cổ mà chạy. Nếu chàng không giỏi khinh công chắc chắn các cô nường Xung thằng đã rần chàng tan xương nát thịt.

Viên tổng thanh tra đang làm việc trong phòng riêng. Ông trạc 55, 57 mái tóc bạc phơ, khuôn mặt hiền hậu, tuy nét mặt hơi đanh và luồng mắt sáng quắc đầy vẻ kiêu ngạo. Ông còn cái dáng dấp nhanh nhẹn của tuổi 30, nhưng Văn Bình vẫn thấy nơi ông 1 cái gì gò bó. Chàng đoán ông là quân nhân. Pít đeo lon đại tá mà chào ông 1 cách hết sức cung kính, nên ông có lẽ là tướng. Ông chìa thuốc lá mời Văn Bình hút, rồi nói:

– Lẽ ra, toàn bộ chi tiết công tác được nói hết với anh từ khi ở La Paz. Có sự trì chậm là vì giờ chót chúng tôi đã nắm được 1 số yếu tố mới. Tôi xin phép được bắt đầu từ đầu, nghĩa là bắt đầu từ sự biệt tích của tiến sĩ Chicô tại Đông kinh. Trong chuyến công xuất này của Chicô, 2 nhân viên CIA được lệnh theo sát ông 24 trên 24. Một nam, một nữ. Nam nhân viên đội lốt bí thư của Chicô. Nữ nhân viên chỉ từ xa kiểm soát chứ không xuất đầu lộ diện. Thể thức bảo vệ an ninh này được áp dụng kể từ năm ngoái sau khi công cuộc khảo cứu của Chicô đạt được kết quả khích lệ. Chicô và người bí thư ngụ trong đại lữ quán Kura. Khách sạn này gồm 537 phòng thuộc loại sang ở Đông kinh. Tuy nhiên, lý do Chicô được đưa tới đây thay vì những khách sạn tối tân hơn là vì nó tọa lạc gần tòa đại sứ Mỹ, phòng bất trắc xảy ra còn xoay sở kịp. Người bí thư ngụ chung phòng với Chicô, còn người nữ nhân viên ở tầng trên. Họ liên lạc kín đáo với nhau bằng máy vô tuyến bỏ túi. Đêm ấy, Chicô dự tiếp tân tại sứ quán về, đang rửa mặt trong phòng tắm thì địch bất thần ập vào phòng ngoài. Viên bí thư là võ sĩ nhu đạo đệ nhị đẳng đai đen, lại giỏi quyền Anh nên đã chống cự dữ dội. Địch rất đông, những 4 tên. Viên bí thư không địch nổi. Phương chi anh ta tay không, địch được trang bị toàn bằng súng hãm thanh. Anh ta bị bắn gục. Địch bắt Chicô mang đi. Tưởng viên bí thư đã chết, địch bỏ mặc. Không dè anh ta còn sống. Ngất đi mươi phút, anh ta tỉnh lại. Anh ta không đủ sức gây tiếng động lớn để lưu ý nhân viên lữ quán, cũng không thể bò lại điện thoại. May thay anh ta vẫn còn sáng suốt để kêu người nữ đồng nghiệp. Nàng đang ở lầu 12, lầu cao nhất. Xuống đến nơi thì nạn nhân hấp hối. Nạn nhân nói được ít lời thì tắt thở. Lục phòng tắm thì thấy mẩu giấy ghi thủ bút của Chicô. Trong lúc viên bí thư cầm cự với địch, ông đã nhanh trí nguệch ngoạc mấy chữ để lại. Nội dung như sau: ” Bọn X. Chờ tôi họp báo “.

– Chicô biết tung tích của địch?

– Biết. Từ nhiều tháng trước, địch đã héo lánh đến tận La Paz, tìm đủ lý luận để lôi kéo ông theo họ. Ông đã cương quyết từ chối. Hẳn anh đã rõ, ” địch ” đây là Quốc tế Tình báo Sở. Chữ X, là mật ngữ được ông Chicô dùng để chỉ Tình báo Sở. Xuyên qua bức thư ngắn của Chicô, chúng tôi đoán ông sẽ giả vờ hợp tác với địch, và địch sẽ cho phép ông tổ chức họp báo để loan tin ông tự ý theo họ.

– Và cuộc họp báo được triệu tập tại Macao?

– Phải. Đúng 3 ngày sau. Trong cuộc họp báo, Chicô lớn tiếng công kích Mỹ, CIA và Tây phương. Chúng tôi bố trí cho 1 nhân viên mà Chicô quen mặt tham dự họp báo. Chicô vừa nói xong thì cúp điện. Chỉ cúp nửa tiếng đồng hồ, đủ cho Chicô ném 1 viên giấy xuống đất để nhân viên này nhặt. Trong thư này, Chicô cho biết vợ con ông bị bắt cóc từ La Paz chở đến Hoa lục.

– Mạn phép ngắt lời ông. Tại sao đã có thư của Chicô, các ông còn dẫn tôi đến gặp mụ vợ và đứa con giả mạo của Chicô ở La Paz?

– Thứ nhất: tôi chỉ được thông báo bằng mật điện sau khi anh gặp họ. Thứ hai, giám đốc trú sứ của chúng tôi ở La Paz là đồ bù nhìn. Hắn bị Tình báo Sở lôi vào xiếc. Hắn thuộc thành phần tin cậy, nhưng rượu chè be bét và đàn bà đã làm đầu óc hắn rỉ sét. Sau khi Chicô bị bắt ở Đông kinh, Trung ương yêu cầu điều tra xem vợ con Chicô còn ở La Paz không, hắn đáp ” còn ” 1 cách ngon lành, và còn hót thêm là họ an toàn trăm phần trăm. Tôi phái 1 cộng sự viên kinh nghiệm hỗn danh là Hansen đến tiếp xúc với Chicô, theo yêu cầu của Chicô trong thư. Thư được viết bằng mật mã, bản dịch như sau…

Viên tổng thanh tra rút từ xếp hồ sơ trên bàn ra 1 tờ giấy đánh máy. Văn Bình lẩm nhẩm đọc:

” Địch thẩm vấn tôi nhiều lần, trước sau gần 8 tiếng đồng hồ về công cuộc khảo sát của tôi. Tôi chỉ đề cập đến Chicôzim. Địch hỏi về vũ trụ tuyến, tôi đáp là vũ trụ tuyến chỉ liên hệ tới sự phát triển utricularia, không hề mang tính chất quốc phòng, mặc dầu chương trình thử nghiệm được CIA tài trợ. Thoạt tiên, địch nghi ngờ. Dần dà, địch hơi tin. Vì tôi bỏ quốc tịch Mỹ, nhân viên sứ quán gặp tôi là chuyện dĩ nhiên, nằm trong thủ tục công pháp quốc tế. Nhân viên này sẽ nói cách nào để địch tin rằng tôi chỉ khảo sát utricularia, và chỉ phát minh ra Chicôzim. Địch muốn đưa tôi qua biên giới càng sớm càng tốt. Do đó tôi yêu cầu nhân viên của Trung ương phịa ra chuyện tôi còn mẹ già ở gần La Paz, và hăm dọa bắt giết bà, đại khái ” săng ta ” tôi. Trong khi gặp, nhân viên của Trung ương sẽ cho tôi biết chỉ thị. Cẩn thận: nơi tôi cư ngụ được địch gắn máy chụp hình bí mật.

Xin hành động gấp. Kẻo địch có thể hạ sát toàn gia đình tôi sau khi khám phá ra tôi cố tình dấu họ. ”

Văn Bình buông tờ giấy, nước đầu:

– ” Cố tình dấu họ “, nghĩa là…?

Viên tổng thanh tra đáp:

– Những tin tức về cây ăn thịt utricularia cho đến Chicôzim chỉ là tấm bình phong che đậy 1 bí mật quân sự trọng đại. Thành thật mà nói, tiến sĩ Chicô có nghiên cứu utricularia, và ông sắp sửa thành công. Nhưng Chicôzim không hề gần xa dính líu đến lãnh vực quốc phòng. CIA làm gì có thừa ngân khoản để tài trợ 1 công cuộc thử nghiệm khả năng ăn thịt của cây cỏ, cho dẫu đó là khả năng chưa hề thấy về thực vật học. Chúng tôi đã tiêu phí hàng chục triệu đôla vì Chicô phát minh 1 võ khí mới dựa trên vũ trụ tuyến. Thú thật với ông, tôi là cựu quân nhân cao cấp, tôi cũng chẳng biết gì về võ khí mới này. Tôi chỉ được ông Sì Mít cho hay lờ mờ rằng giá trị của nó phải tính từ ngàn triệu đôla trở lên, và ngay cả ngàn triệu đôla cũng khó mua được nó. Nếu chẳng may công trình của Chicô lọt vào tay người ngoài, nhất là vào tay Bắc kinh, thì sẽ gây nhiều hậu quả vô cùng tai hại cho tiền đồ thế giới nói chung, tiền đồ Hoa Kỳ nói riêng. Vì vậy, Chicô không thể lọt vào tay địch. Chicô phải được cứu thoát. Cứu thoát với bất cứ sự hy sinh to lớn nào. Ông Sì Mít vời đến anh vì ông nghĩ rằng ngoài anh ra…

– Hansen đã trao những chỉ thị nào cho Chicô?

– Hai người gặp nhau sáng nay. Hansen đã lén ghi âm được cuộc đàm thoại. Mời anh nghe lại.

Viên tổng thanh tra vói tay lên cái tủ thấp chứa hồ sơ kê sát bàn giấy lấy xuống cái hộp dẹt màu đen. Ông loay hoay ấn nút rồi cắm vào sườn hộp 2 sợi dây. Đó là dây nghe, và hộp này là máy thu băng, kiểu thật nhạy, cuộn băng bằng kim khí, nhỏ hơn sợi tóc, thu gọn trong kích thước của hột đậu mà thời lượng có thể kéo dài trong nhiều tiếng đồng hồ. Máy ghi âm tí hon được giấu trong cái đồng hồ đeo tay của Hansen. Ngoài tác dụng ghi âm, nó còn 2 đặc điểm ly kỳ khác, ấy là khám phá được sự hiện diện của máy ghi âm của địch, đồng thời ngăn cản địch phăng ra sự hiện diện của nó. Nó được chế ráp tại Tây Đức, bằng sản xuất do 1 công ty điện tử Mỹ được CIA bí mật bảo trợ mua lại. Phòng thí nghiệm CIA đã mất nhiều năm trời để hoàn bị nó, và cải biến nó thành dụng cụ nghe lén gián điệp lợi hại có 1 không 2 trên thế giới. Văn Bình nghe rõ mồn một như thể tiến sĩ Chicô đang ngồi trước mặt chàng. Viên tổng thanh tra bâng khuâng với cái bật lửa và hộp thuốc lá bằng vàng khối. Cử chỉ này chứng tỏ sự bối rối tột độ. Văn Bình rút sợi giây nghe, đặt xuống bàn. Ông tổng thanh tra nói:

– Giờ anh đã nắm vững được nội dung câu chuyện giữa Chicô và Hansen. Thật ra nó chẳng có gì quan trọng. Nó chỉ là màn kịch nhằm đánh lạc hướng địch, và sửa soạn cho việc giải cứu gia đình Chicô. Trong cuộc đàm thoại, Hansen lén trao cho Chicô 1 cái quẹt máy phát tuyến. Giống hệt cái quẹt máy tôi cầm trong tay. Quẹt máy này phát ra luồng sóng thẳng, những vệ tinh của chúng tôi bay trên trời tiếp nhận được và truyền về Trung ương CIA. Chicô sẽ vượt biên giới với sự cho phép của Tình báo Sở để thăm vợ con. Nhờ làn sóng ” bíp bíp ” của quẹt máy, chúng tôi sẽ theo dõi được lộ trình của Chicô, và sau cùng xác định được vị trí vợ con Chicô bị cầm giữ. Nhiệm vụ của anh là đột nhập Hoa lục, dựa trên những dữ kiện do quẹt máy phát tuyến tiết lộ, tìm đến nhà giam cứu thoát vợ con của Chicô, rồi hộ tống họ rời Hoa lục an toàn. Ông Sì Mít vừa điện cho tôi hồi nãy. Ông cụ nhờ tôi nói lại với anh là công việc sắp tới rất khó khăn, khó khăn đến nỗi hy vọng thành công trở nên vô cùng mong manh. Vẫn biết theo thủ tục nghề nghiệp, nhân viên hành động được toàn quyền ưng thuận hay từ chối, nhưng ông cụ lại tin tưởng anh không từ chối. Anh Z.28, anh trả lời ra sao?

Văn Bình cười:

– Nếu ông ở địa vị tôi, ông sẽ trả lời ưng thuận hay từ chối?

Viên tổng thanh tra nhún vai, không đáp. Cửa xịch mở, 1 người phụ tá mang trình 1 phong thư gắn xi, đóng dấu son đỏ chóe. Viên tổng thanh tra giựt mình:

– Viễn ký của ông Sì Mít.

Văn phòng tổng thanh tra trên đảo Xung thằng được nối liền với Trung ương CIA ở Lan gờ li bằng hệ thống viễn ký scrambler. Người ngoài có thể bắt được tín hiệu mà không hiểu được gì hết, cho dẫu những tín hiệu này được đưa cho máy điện tử tối tân nhất phân tích. Phong bì được cắt 1 đầu bằng kéo, ông tổng thanh tra bóc ra 1 tấm phiếu cạt tông mỏng, màu vàng rơm, tuột xuống lòng bàn tay ông. Đó là tấm phiếu đục lỗ, loại xuyên phiếu thông thường của máy điện tử IBM. Ông mở cái két sắt chôn gọn trong tường bê tông. Ngón tay ông thoăn thoắt, ông thuộc làu cách mở, không hề vấp váp mà cũng phải đến 3 phút đồng hồ cửa tủ sắt mới chịu mở hé. Loại két của ông được trang bị máy tự vệ độc đáo gồm nhiều họng súng bắn đạn thuốc mê và ống ảnh tự động. Ông bấm nút trong tủ, âm thanh rè rè nổi lên, ông đút tấm phiếu vào cái khe nhỏ. Nửa phút sau, 1 mẩu bìa cứng màu vàng in chữ chi chít từ cái khe khác lộ ra. Ông cầm lên đọc. Thì ra tủ sắt này chứa đựng bộ máy dịch mật mã tối tân. Đọc lướt qua, ông thở phào:

– Chicô đã vượt biên giới.

Nhìn đồng hồ tay, ông tiếp:

– Anh ra phi trường ngay bây giờ, tối nay đến Hồng kông anh sẽ đi Macao bằng thuyền máy. Những tin tức về lộ trình của Chicô sẽ được chuyển cho anh tại đó. Kế hoạch của ta như sau: anh Z.28 phụ trách việc giải cứu vợ con của Chicô. Giờ phút ấy, Hansen và Pít giải cứu Chicô ở Macao. Hai anh cần hỏi thêm điều gì nữa?

Dĩ nhiên là không. Trước khi từ giã, cấp lãnh đạo thường hỏi nhân viên hành động như vậy. Tương tự như tiếng chúc may mắn.

Văn Bình tiếc rẻ trèo lên chiếc xe hơi Mỹ dài ngoằng. Hộp đêm ở Naha không được giựt gân như ở Đông kinh, lại đắt đỏ hơn nhiều, nhưng ít ra khu ăn chơi Sakurazaka này còn giựt gân gấp đôi, gấp ba những cái giựt gân ở Sàigòn. Trước khi thưởng thức cái giựt gân trong xóm yên hoa, khách có thể an toàn thưởng thức các món ăn ngon bổ. Vì tiệm ăn nào sạch sẽ mới được quân đội Mỹ đồn trú trên đảo cấp cho chứng thư hạng ” A ” 2. Văn Bình vốn có thiện cảm với nền ẩm thực của Xung thằng, chàng lại quen 1 nơi kín đáo, tha hồ ngắm trăng, ngắm biển với giai nhân. Nhưng công việc là công việc. Mới đặt chân xuống Naha, chưa kịp ngó ngàng thiên hạ, cũng chưa kịp uống 1 hớp nước bản xứ, chàng đã phải tất tưởi lên đường.

° ° °

Hồng kông ban đêm vẫn hấp dẫn như thường lệ. Song le, thời giờ là vàng bạc, có lẽ còn quý hơn vàng bạc nhiều lần, Văn Bình chỉ tạt qua trường bay Kaitak và các đường phố như gió để ra bến tàu. Từ Hồng kông đi Macao cách 40 dặm, có hai phương tiện chuyên chở thông dụng: bằng đò máy, và tốc đĩnh. Đò máy hơi lâu, những 3 tiếng đồng hồ nhưng thoải mái, nhất là thuê cabin riêng, được điều hòa khí hậu đàng hoàng, khỏi phải ngửi bồ hôi của hành khách, và như mọi người đều đồng ý, hành khách Tàu từng phá kỷ lục thế giới về khoản khạc nhổ bừa bãi. Đò máy còn có 1 điểm tri kỷ đối với Văn Bình: ăn uống khoái khẩu đã đành, có tàu còn cho trình diễn màn thoát y vũ làm huyết quản sôi trăm độ nữa. Chiếc tốc đĩnh chở Văn Bình trượt nhanh như pa tanh trên băng. Trên thực tế, dưới bụng tốc đĩnh được gắn pa tanh nên trong khi đò máy chạy rề rề như rùa bò, nó chỉ ngốn đường trong 75 phút 3. Chương trình dự liệu từ Xung thằng không sai một phút, chàng đến bến thì chuyến tốc đĩnh cuối cùng trong ngày sắp sửa ra khơi.

Theo kế hoạch, đại tá Pít và chàng đáp chung tàu mà như riêng. Mỗi người kiếm 1 góc ngồi, giả vờ không quen nhau. Trời khá nhiều trăng, song hành khách không quan tâm đến phong cảnh gợi tình. Người Tàu thường ưa thực tế, ít bay bướm. Vả lại, phần đông hành khách đều là dân đổ bác. Họ rời Hồng kông bằng chuyến tốc đĩnh chót để đến kịp giờ chơi bạc ở Macao, rồi sau 1 đêm miệt mài đen đỏ, họ trở về trên đò máy, khởi hành từ Macao hồi 4 giờ sáng, ngủ 1 giấc no nê, đến nơi thì kịp giờ mở cửa sở làm 4.

Không 1 chuyện nào xấu xa xảy ra trong suốt hơn giờ đồng hồ lênh đênh. Tuy vậy, Văn Bình chỉ ngồi hút thuốc. Chàng hút liên miên, thỉnh thoảng lại ngửa cổ thả những vòng khói tròn, nhân tiện kiểm soát chung quanh. Tự dưng chàng cảm thấy nóng ruột. Giác quan thứ 6 báo cho chàng một sự hiện diện nguy hiểm. Chàng quan sát kỹ càng, không thấy gì khả nghi. Chàng vẫn chưa yên tâm. Đại tá Pít đeo kiếng đen ngủ vùi. Y chẳng làm gì mà lúc nào cũng mệt.

Bến tàu Macao hiện ra trong sương mù pha ánh trăng sáng đục. Chàng rềnh rang chờ hành khách lên bộ gần hết mới lững thững bước theo lên. Đại tá Pít đang ngáp muốn sái quai hàm. Macao… Trên giải đất nhỏ xíu này, Văn Bình đã từng lưu lại nhiều kỷ niệm vui buồn lẫn lộn. Vui thì thật vui, vì có những buổi đánh bạc chí chạp, hễ đặt tiền là thắng, tiếp theo là những đêm khiêu vũ đến mỏi rừ chân, lê không nổi, nhất là những cuộc hẹn hò còn mất sức gấp mấy chục lần. Nhưng buồn cũng thật buồn. Vì định mạng kỳ quặc đã bắt những người đàn bà đẹp yêu chàng và được chàng yêu lại phải chết, chết 1 cách đột ngột, chết 1 cách thê thảm giữa tuổi xuân hồng 5.

Chàng vẫy taxi. Sợ nửa chừng phải xuống gấp chưa kịp trả tiền, chàng ném vào đùi anh tài xế miệng rộng như ống nhổ 10 đồng pataca. Pataca là đơn vị tiền tệ trên đảo, tương đương với đồng đôla Hồng kông. Một cuốc taxi từ 1 đồng tới đồng rưỡi pataca là đắt. Khách xộp cũng khó thể trả 5 đồng. Mà Văn Bình trả những 10 đồng. Bất cứ tài xế taxi nào trên thế giới cũng cám ơn rối rít, hoặc ít ra phải thay đổi nét mặt, biểu lộ sự hớn hở. Dưới ánh đèn loáng tháng Văn Bình thấy gương mặt hắn phẳng lì như thể hắn chưa nhìn rõ số tiền. Chàng không thể lầm: hắn đã cúi xuống đùi, mắt hắn sáng quắc như đèn pha xe hơi. Hắn phải biết chàng vừa cho hắn 10 pataca, 1 số tiền quá hậu hĩ. Vậy mà hắn không vui mừng. Hắn cũng không buồn nhét mấy tờ bạc vào túi. Một tia chớp xẹt qua óc. Văn Bình chợt hiểu. Chàng phóng nhỡn tuyến tìm đại tá Pít. Không thấy bạn đâu hết. Chàng thụt lại 1 bộ. Sự cẩn trọng của chàng không đến nỗi vô bổ.

Vì ngay khi ấy, cuộc tấn công cực kỳ ác liệt xảy ra…

Chú thích

  1. tức Ryukyu, hoặc quần đảo Luchu. Ba nhóm đảo lớn hợp thành Ryukyu là Okinawa Gunto, Miyako Gunto, và Yaeyama Gunto, tổng diện tích 848 dặm vuông, với dân số 1.000.000
  2. hoặc chứng thư ” hạng nhất ” do chính quyền bản xứ cấp. Tưởng cần nhấn mạnh bộ truyện này được đặt vào bối cảnh địa lý trước năm 1972, năm Mỹ thỏa thuận trao hoàn Xung thằng cho Nhật bản. Đảo này được sát nhập vào Nhật bản năm 1872 cho đến năm 1945 bị Mỹ chiếm đóng.
  3. tiếng Anh hay Pháp là hydrofoil. Tàu hydrofoil được gắn chân vịt hoặc pa tanh đặc biệt dưới bụng. Kể ra hydrofoil dịch là tốc đĩnh không đúng hẳn, xin độc giả thứ lỗi.
  4. tức Gambler’s Ferry.
  5. xin đọc ” Vệ nữ đa tình ” đã xuất bản để theo dõi thiên tình hận của Văn Bình từ Macao đến Hồng Kông

CHƯƠNG 7 – VƯỢT BIÊN

Bên tai Chicô bỗng nổi lên những tiếng lào xào. Ông có cảm giác như đang nằm trong vườn lá vàng rụng liên miên dưới gió thu gấy lạnh. Rồi nhiều âm thanh khác át hẳn tiếng lào xào. Ông nghe được tiếng người nói. Một giọng quen thuộc:

– Đến nơi rồi ông Chicô.

Ông mở choàng mắt. Pe-Cheng đứng lù lù phía trước, hàm răng trắng nhởn nhe chào. Đầu ông còn nhức, miệng khô đắng như bị nhịn nước từ lâu. Tuy vậy, ông đã phục hồi được ngay sự sáng suốt. Ông hỏi hắn:

– Đây là đâu?

– Lục địa.

Chicô nhỏm đầu:

– Các ông đánh thuốc mê tôi?

Pe-Cheng gật đầu:

– Vì điều kiện an ninh. Chúng tôi không tiện vượt biên bằng lộ trình thông thường. Ông được qua lục địa theo 1 đường dây đặc biệt, hoàn toàn bí mật.

– Tôi lảo đảo muốn té, ông ơi! Thuốc mê nặng quá.

– Chẳng sao cả. Ông dựa tường 1 lát là khỏe. Tốt hơn ông uống 1 hớp nước.

Pe-Cheng rót nửa ly 1 thứ nước vàng vàng, sủi bọt. Mùi chua chua ngòn ngọt bốc lên mũi. Chicô hỏi:

– Thuốc rã mê?

– Thuốc mê này không cần đồ rã. Tùy liều lượng nặng nhẹ, nó chỉ gây mê trong 1 thời gian nhất định. Rồi tỉnh lại. Đây là sâm banh. Sâm banh do chúng tôi sản xuất.

Chicô liếc nhìn cái chai để bên. Nhãn ” Đồng tiền vàng ” là tên loại sâm banh hảo hạng của Trung hoa. Nghe nói thứ ngon nhất được ép từ nho ra trong năm 1910, nghĩa là trên nửa thế kỷ. Ông chưa thưởng thức sâm banh Tàu bao giờ, nhưng hơn 1 lần ông đã nghe bạn bè chê bai. Uống sâm banh Hoa lục thà đừng uống. Óc ông nghĩ vậy, song bàn tay ông vẫn nâng ly rượu nốc cạn 1 hơi. Tinh thần ông trở nên thoải mái. Pe-Cheng cũng tự thưởng 1 ly đầy ắp. Sực nhớ, ông quay lại:

– Vợ con tôi đâu?

Pe-Cheng chỉ cánh cửa đối diện:

– Phòng bên.

Chicô đứng phắt dậy, nhưng Pe-Cheng cản lại:

– Khoan đã. Có 1 vài điều ông cần nhớ. Ông chỉ được thăm hỏi qua loa rồi về.

– Trước khi đi, ông nói là tôi được phép lưu lại trọn đêm, sáng hôm sau mới phải quay về Macao.

– Lệnh trên không cho phép.

– Cấp trên của ông ở đâu, tôi cần gặp.

– Bất tiện.

Chicô bặm miệng, đau khổ:

– Tôi được ở lại đây đến bao giờ?

Pe-Cheng giơ 1 ngón tay:

– Tối đa 1 giờ. Tôi chờ ông bên này. Hết giờ, tôi sẽ đập cửa.

Chicô xoay quả nắm. Căn phòng khá rộng, bầy biện đơn sơ, tường quét vôi sám, không khí có vẻ lạnh lẽo tuy trời khuya mát rợi. Lục địa đang ở mùa hè. Một thiếu phụ và 1 đứa trẻ ngồi bên cái tràng kỷ khảm xà cừ kê ở góc. Cả 2 đều mặc đồ tàu. Họ nhìn thấy ông trước. Đứa bé nhanh chân vọt tới:

– Ba!

Người đàn bà điềm tĩnh hơn, nhưng giọng nói cũng ướt nhèm nước mắt:

– Trời ơi, anh!

Chicô khựng người, không thốt nổi lời nào. Đứa bé ôm ghì ông và khóc òa. Ông bế nó lên, hôn hít lung tung. Nó là Tintin, con trai duy nhất của vợ chồng ông. Ông đặt nó là Tintin vì trước giờ chuyển bụng, vợ ông đang say sưa đọc truyện Tintin, 1 loại sách hình giải trí của Pháp cho thiếu nhi song nhiều người lớn tuổi vẫn mê thích. Khi nó biết ngồi, nó vớ cuốn Tintin, cầm ngay ngắn đọc như trẻ em 7, 8 tuổi. Hơn thế nữa, nó còn từ tốn giở từng trang ngắm nghía. Từ khi lọt lòng mẹ, Tintin được ông chăm sóc với tin tưởng gây dựng cho nó thành kỳ tài khoa học. Nó là nguồn hy vọng và hứng cảm của đời ông. Thiếu nó, ông không sống nổi. Nó có khiếu hội họa, bởi vậy ông đã dầy công khảo cứu cách chữa bệnh loạn sắc của nó. Loạn sắc là bệnh di truyền, chữa khỏi là cả 1 vấn đề, cũng như bệnh huyết hữu 1. Lúc ông lên đường qua Âu châu, thằng Tintin ở nhà với mẹ nó. An toàn. Trong tòa nhà luôn luôn có người gác.

Giờ này nó lại ở đây, xa quê hương La Paz cả bề ngang rộng lớn của Thái bình dương bao la. Cái bao la của Thái bình dương vẫn chưa ghê rợn bằng cái bé nhỏ của giẻo đất gần Quảng châu thuộc lãnh thổ Trung hoa cộng sản và biên giới Macao. Nó cách Macao 1 quãng đường ngắn song nó có thể đi luôn không về nữa. Cuộc đoàn tụ ngắn ngủi này sẽ định đoạt tương lai nó. Định đoạt tương lai của cặp vợ chồng chênh lệch tuổi tác mà thương yêu nhau nồng thắm không kém trai gái đôi mươi.

Sự đau đớn hiện rõ trên mặt vợ ông. Da nàng ngăm ngăm đã trở thành xanh tái, đôi mắt thật đẹp của nàng bắt đầu có quầng, 2 quầng đen sâu hoắm chứng tỏ nàng mất ngủ liên miên. Nàng chưa hề có nếp răn, vậy mà hoàn cảnh tù túng và chia ly buồn thảm đã đào nhiều rãnh ngang dọc trên vầng trán rộng và và sáng bóng của nàng. Nàng nép vào ngực ông, giọng run run vì xúc động:

– Anh khỏe không?

Ông vuốt tóc nàng:

– Khỏe. Tóc em lại rụng rồi.

Khoảng da mang bệnh alopecia trên màng tang trái của nàng đã trơn trụi. Bệnh rụng tóc chỉ trở nặng khi tâm thần bấn loạn. Nàng nức nở:

– Mấy ngày nay nhớ anh quá em chẳng ăn, chẳng ngủ gì được. Nếu tình hình kéo dài chắc em không sống nổi.

Chicô an ủi vợ:

– Chúng mình sắp được xum họp với nhau, em đừng ngại.

Đột nhiên Chicô đau nhói nơi tim. Tình báo Sở hứa 1 đàng, quàng 1 nẻo. Dẫu ông nộp những bí mật khoa học cho họ, vị tất họ thả ông và vợ con ông. Họ sẽ đưa ông đến 1 vùng hẻo lánh nào đó trên lục địa mênh mông, sống trong 1 tiểu thị trấn không có tên trên bản đồ thế giới. Gia đình ông sẽ được hưởng tiện nghi đầy đủ, nhưng quanh năm không được ra khỏi trung tâm thí nghiệm. Toàn thể sẽ chết lần chết mòn trong trại giam bằng vàng ấy. Chicô thèm tự do. Vợ con ông thèm tự do. Chỉ có CIA mới có thể mang lại tự do cho ông và gia đình ông.

Sợi dây liên lạc duy nhất và cuối cùng giữa ông và hệ thống tiếp cứu của CIA là cái quẹt máy phát tuyến. Ông cất nó trong túi áo ngực. Nó đè lên tim, tạo cho ông 1 sự thoải mái tin tưởng. Ông vừa đặt tay lên ngực, ông không thấy nó đâu nữa. Nó đã biến mất. Biến mất trong thời gian ông bị đánh thuốc mê chở từ Macao qua Hoa lục. Hốt hoảng, ông buông vợ con ra. Ông loay hoay lục túi. Vợ ông bàng hoàng:

– Anh tìm gì?

Ông nói dối:

– Không. Cái này.

Mọi đồ vật tùy thân của ông, từ cái bót phơi căng phồng giấy tờ và tiền nong đến hộp xì gà đều còn nguyên. Ngoại trừ cái bật lửa cần thiết. Chicô bước vội ra cửa:

– Chờ anh 1 phút. Anh ra gặp Pe-Cheng.

Tuy miệng nói cứng trong lòng Chicô lại xao xuyến dữ dội. Hansen đã trù liệu chuyến vượt biên, nhưng lại quên trù liệu ông bị đánh thuốc mê, nhân viên địch lục soát quần áo. Dụng cụ phát tuyến được giấu dưới đáy quẹt máy. Kẻ thiếu kinh nghiệm nghề nghiệp khó thể khám phá ra. Chicô không tin Pe-Cheng là kẻ thiếu kinh nghiệm nghề nghiệp, nghĩa là Pe-Cheng đã biết rõ sự giàn xếp của CIA. Ông còn là kho tàng khoa học vô giá của Tình báo Sở nên hắn sẽ không giết ông trong lúc này. Hắn sẽ tương kế tựu kế chơi CIA một mách tan hoang. Sau đó hắn mới nặng tay đối với ông.

Pe-Cheng đang tơ lơ mơ bên chai sâm banh ” Đồng tiền vàng ” đã cạn. Hắn không phải là dân nhậu có hạng. Mới hơn nửa chai sâm banh cà tàng, mặt đã đỏ như gấc chín. Hắn cười với ông:

– Chưa đầy 5 phút, ông đã xong rồi ư?

Chicô hất hàm:

– Tôi có chuyện cần nói.

Đến lúc không lùi được nữa, Chicô chỉ còn nước làm mạnh. Pe-Cheng hơi ngạc nhiên vì giọng nói gay gắt pha giận dữ của nhà bác học thường mềm mỏng và lễ độ:

– Chuyện gì? Ông bà có chuyện gì không vừa ý?

Chicô nghiêm mặt:

– Đàn em của ông đã cầm nhầm một món đồ kỷ niệm quý nhất đời tôi.

Pe-Cheng phóc dậy, múa tay:

– Chúng ăn cắp kỷ vật của ông? Lạ thật. Đứa nào? Nó lấy của ông cái gì?

– Cái quẹt máy bằng vàng khối.

Pe-Cheng dằn mạnh cái chai xuống bàn:

– Ông mất cái quẹt máy bằng vàng khối hả? Được, ông chờ một lát, tôi sẽ trả lời.

Chicô mừng húm. Té ra Pe-Cheng không tịch thu cái bật lửa phát tuyến. Đúng là em út của hắn mượn tạm. Nhân viên cấp dưới thường túng thiếu. Túng thiếu nên làm càn. Từ nhỏ đến lớn chắc nhân viên cấp dưới Tình báo Sở chưa hề thấy cái quẹt máy Dupont vàng.

Ba gã thanh niên cùng lứa tuổi 23, 24 được Pe-Cheng kêu vào, xếp hàng một trước mặt Chicô. Pe-Cheng nó oang oang 1 hồi, cả bọn chăm chú nghe, dáng điệu sợ sệt. Người Tàu có thói quen lớn tiếng. Pe-Cheng lại đang tức giận nên giọng rền vang như sấm. Chicô không hiểu tiếng Tàu, nhưng đoán được xài xể đàn em về cái quẹt máy không cánh mà bay. Cả 3 gã thanh niên lần lượt đáp lời. Sau cùng Pe-Cheng quát chúng ra ngoài rồi quay về phía Chicô, chuyển sang Anh ngữ:

– Chúng không xớ rớ đến cái bật lửa của ông. Còn đứa thứ tư thì đang tạt về nhà cách đây nửa cây số. Tôi đã sai gọi nó. Ông yên tâm, 1 sợi tóc chúng cũng được tơ hào. Tôi sẽ trừng trị đứa gian. Trong trường hợp nó không lấy, tôi sẽ cho tìm kiếm kỹ lưỡng ở Macao. Trong khi ông ngủ mê được khiêng ra xe, có thể cái quẹt máy tuột rớt khỏi túi. Phiền ghê. Cái quẹt máy này là kỷ vật hôn nhân?

Chicô đáp không ngần ngừ:

– Không phải. Nhưng cũng quý không kém. Nếu phải đổi cả sản nghiệp của tôi, tôi vẫn sẵn sàng. Như vậy ông đủ hiểu giá trị của nó.

– Được, ông để việc ấy cho tôi. Thời giờ gần hết. Bà và cháu đang chờ…

Thằng Tintin hỏi dồn khi ông trở vào phòng:

– Ba, ba mất quẹt máy, hả ba? Mất cái này thì mua cái khác, cần gì?

Chicô nhìn vợ bằng cặp mắt tràn trề ý nghĩa. Dường như nàng đọc được ý ông, nàng không hỏi gì. Nàng vốn thông minh tuyệt vời. Hồi còn là sinh viên, nàng lấy hết chứng chỉ thực vật này đến chứng chỉ thực vật khác. Nhiều người chê ông kết hôn với nàng là dại. Nàng quá trẻ, lại quá khỏe. Phương chi khối óc thông minh xuất chúng của nàng lại đi kèm 1 nhan sắc khốc liệt, nghĩa là sắc đẹp làm đàn ông yểu mạng. Trông mặt bắt hình dong, ngạn ngữ này không đúng với nàng vì bề ngoài siêu văm dữ dằn ấy lại chứa những sự hiền hòa chưa từng thấy. Tuy tuổi tác chênh lệch, nàng không hề chán ông. Sau 10 năm chung sống, mối tình của nàng vẫn nồng đượm như thể đang ở thời kỳ trăng mật. Ông không còn là đàn ông sung mãn. Thuở ông cưới nàng, ông cũng chẳng hơn hiện nay bao nhiêu. Mối tình của nàng đối với ông không nặng phần xác thịt hoặc chỉ là sự động cỡn của cô sinh viên trước 1 thiên tài to lớn như thiên hạ lầm tưởng.

Chicô âu yếm hôn vợ. Nàng run run trong vòng tay chồng. Ông hỏi:

– Họ bắt em và con tại nhà?

Nàng đánh:

– Vâng, nửa đêm họ mở cửa, lẻn vào, em sực tỉnh, em trông thấy mà không làm gì được vì họ hun thuốc mê.

– Rồi họ đưa em và con ra trường bay El Alto?

– Từ phút đó trở đi, em ngủ thiếp. Em không biết họ mang em ra khỏi Bôlivi bằng đường nào.

– Chừng nào em tỉnh?

– Em tỉnh lại trong căn phòng này. Em và con không được phép ra cửa, mãi khi người ta nói đây là Hoa lục, em mới biết đã vượt qua Thái bình dương đến Á châu.

– Họ nói gì về anh?

– Nói anh ở gần đây, và sắp đến thăm. Họ lặp lại nhiều lần là em và con bị giữ làm con tin, cho nên sự phóng thích hoàn toàn tùy thuộc vào thái độ hợp tác của anh.

– Anh đã nhận lời.

Chicô lại hôn vợ. Dầu địch núp bên ngoài, theo dõi nhất cử nhất động trong phòng -điều Chicô không còn hoài nghi nữa- họ cũng không thể phăng ra thâm ý của ông. Ông hôn vợ để tạo cơ hội 2 người quấn quít nhau và ông có thể nói nhỏ vào tai nàng. Đoạn ông dìu nàng ra giữa phòng. Ngoài cái tràng kỷ gỗ trắc lên nước bóng loáng, khảm xà cừ óng ánh, đồ đạc trong phòng chỉ có cái giường chân quỳ kiểu xưa, và nhiều cái đôn sứ Giang tây đặt thành hàng dài sát tường. Chắc chắn địch đặt máy ghi âm bí mật. Giữa nhà là vị trí tương đối an toàn nhất. Ông tiếp tục hôn, và tiếp tục thì thầm. Khi ông buông vòng tay và nựng cằm nàng, nàng ngó ông bằng luồng nhỡ tuyến hàm súc. Nàng cố trấn tĩnh, tuy vậy mặt nàng vẫn đượm vẻ nghiêm trọng. Pe-Cheng thò đầu qua khe cửa:

– Tìm thấy quẹt máy rồi. Trả lại cho ông. Và thành thật xin lỗi ông.

Hắn trao cái bật lửa cứu tử cho Chicô. Đúng là cái Dupont của phái viên Mỹ Hansen. Hú vía… vật hoàn chủ cũ. Pe-Cheng không ngờ đó là dụng cụ phát tuyến tối tân. Trống ngực Chicô đập nhanh như ngựa phi. Thằng Tintin nghển cổ:

– Cái quẹt máy của ba đẹp ghê!

Chicô đặt cái quẹt máy vào giữa lòng bàn tay của nó, giọng trìu mến:

– Con cầm lấy mà chơi. Nhẹ tay, đừng đánh rơi, trầy của ba.

Ông nói vậy, nhưng trong thâm tâm ông mong nó ăn nỉ đòi cái bật lửa cho bằng được. Tintin là con một. Con một thường hư vì được nuông chiều quá độ. Khốn nỗi, Tintin tuy là con một, nó được nưng như nưng trứng, hứng như hứng hoa, song không hư. Nó luôn luôn ngoan ngoãn. Không bao giờ nó dám đòi cái gì bị mẹ cấm đoán. Mới 9 tuổi, nó đã biết suy nghĩ như thiếu niên 15, 16 tuổi. Đó là điều hay. Mai kia nó có thể nối giõi tông đường 1 cách vẻ vang. Giờ phút này đó lại là điều dở: là vì nó không ỉ eo, xin xỏ cái bật lửa thì ông không thể nào cho nó. Ông từng xác nhận với Pe-Cheng cái bật lửa là kỷ vật vô giá. Lẽ nào ông vứt lại cho Tintin làm đồ chơi?

– Có vẻ nó mê cái bật lửa lắm, anh ơi! Trong những ngày đầu ở đây, nó vò võ 1 thân 1 mình. May ra nó quên được phần nào buồn khổ. Dầu sao, cái bật lửa này là hình bóng của anh, hình bóng thân yêu của ba nó. Anh cho nó mượn chơi nhé?

Chicô ngần ngừ:

– Mượn chơi thì được… nhưng…

– Anh khỏi lo. Để em giữ cho. Vả lại, gia đình mình sắp sửa đoàn tụ. Anh nỡ tiếc con sao?

Chicô vội lắc đầu:

– Không, không đời nào. Đời anh, anh không tiếc, huồng hồ tiếc 1 vật vô tri.

Thằng Tintin nhảy cỡn, tung cái bật lửa lên cao rồi hứng bắt. Nếu 1 bộ phận bị lỏng vít bung ra thì chết. Pe-Cheng chăm hú nhìn Tintin đùa nghịch với cái quẹt máy. Chicô tái mặt. Vợ ông cũng tái mặt. Pe-Cheng tiến lên 1 bước khiến Chicô có cảm giác như quả đất quay cuồng. Ông chờ đợi ” bản án tử hình ” của Pe-Cheng. Thôi hết. Thôi hết. Nhưng trời đã cứu gia đình ông vì Pe-Cheng không đoạt cái bật lửa khỏi tay thằng bé. Cách Tintin 1 mét, hắn dừng lại rồi cất tiếng:

– Nuông con quá, nuông con quá.

Chicô rút mù soa, giả vờ hịt mũi để che giấu sự xúc động rồn rập. Pe-Cheng liếc đồng hồ tay:

– Mời ông sửa soạn.

Chicô xoa đầu con trai.

– Chúng ta phải về Macao ngay?

– Vâng. Đã 2 giờ sáng. Về ngay mới…

Pe-Cheng câm bặt. Suýt nữa hắn nói hớ.

Thủ tục từ giã giữa Chicô và vợ con diễn ra chầm chậm. Ông hôn con trước khi hôn vợ. Rồi tiếp tục hôn lần thứ ba. Pe-Cheng phải can thiệp ông mới chịu thất thểu ra phòng ngoài. Cánh cửa được đóng lại. Bọn thuộc viên của Pe-Cheng đã tề tựu đầy đủ. Pe-Cheng tắt ngọn đèn nê ông sáng quắc. Ngoài vườn tối om. Gió thổi qua cành lá rì rào. Cho dẫu vợ con Chicô được tự do tản bộ trong vườn, họ cũng khó xác định được địa thế. Vì tòa nhà 1 tầng cũ kỹ này lọt thỏm giữa những rặng cây ăn trái xum xuê, và phía sau màn cây dày đặc còn 1 hàng rào cây găng bất khả xâm phạm cao như bức Vạn lý trường thành.

Đế giày của Chicô dẫm sỏi rào rạo. Cuối con đường nhỏ, sát rặng cây đen sì 1 chiếc xe hòm đen dài, lùn, bí mật, đã đậu sẵn. Pe-Cheng dạt sang bên:

– Mời ông.

Chicô chưa kịp yên vị thì chiếc khăn đẫm thuốc mê đã đắp lên mặt.

Như hồi tối.

Mấy giờ đồng hồ trước khi Chicô bất tỉnh trong chiếc xe hòm đen từ lục địa quay về biên giới thì tại bến tàu Macao, Văn Bình rơi vào 1 ổ phục kích. Cũng may linh tính của chàng đã thấy trước. Chàng chưa trèo lên taxi mặc dầu gã tài xế giục dã. Ngũ quan chàng được đặt trong tình trạng báo động tối đa nên tai chàng đã nghe tiếng gió khả nghi. Tiếng gió rít xoáy này là do lưỡi dao bén khuấy động không khí. Chàng đã nghe âm thanh quen thuộc của đao kiếm từ sau lưng trờ tới hàng ngàn lần. Thậm chí không cần quay lại, chàng đã có thể phân biệt được loại dao sử dụng, hướng tấn công của địch, và đặc biệt là tài nghệ của địch. Tiếng gió từ trên cao chụp xuống, hơi lạnh loe rộng như cái tán. Văn Bình thụp xuống, lăn cuộn trên đất. Lưỡi dao nhắm giữa đỉnh đầu toan chẻ chàng làm đôi bị hụt, chém vào mui xe hơi. Mui taxi bằng tôn mà bị chặt đứt 1 dọc dài như thể bằng gỗ dán mỏng. Chàng đã có đủ thời giờ để quan sát địch. Chúng gồm 2 tên. Mặc đồ tàu. Dận giày ban mỏng. Thân hình và mặt mũi gày đét. Cả 2 đều cầm dao quắm. Người Trung hoa gọi là yển nguyệt đao, nghĩa là hình thù giống vành trăng khuyết. Yển nguyệt đao thường lắp cán dài, lưỡi cũng dài. Nhưng loại đao do 2 tên địch thủ trong tay lại ngắn. Cán chỉ độ 1 tấc tây. Lưỡi khoảng 3 tấc, mũi nhọn hoắt, mình hơi cong như lưỡi liềm. Yển nguyệt đao có 2 tác dụng: đâm bằng mũi như gươm, và chém bằng lưỡi như đao.

Tên vừa thọc trộm chàng đang đứng cách chàng trong tầm tay. Cuộc phục kích xảy ra ở 1 khoảng tối, bị 1 giãy xe hơi đậu sát lề ngăn cản tầm mắt nên người ở bên kia đường khó thể nhìn thấy. Văn Bình bị lọt giữa vùng sáng, địch thấy chàng dễ dàng, chàng thấy địch rất khó khăn. Chàng không hy vọng nhờ cậy lực lượng an ninh trên đảo. Lính tráng hơn nửa tiểu đội, trang bị toàn bằng súng cổ lổ sĩ bắn phát một, với 1 con tàu tuần duyên gắn cà nông cũ mèm từ hơn 30 năm nay chưa hề ngửi mùi đạn. Ngần ấy sức mạnh chỉ có thể chống đỡ được sự tấn công của… ruồi, muỗi. Bên tàu ban đêm thường là nơi đổ máu, và nhà cầm quyền thường làm ngơ. Vì phần lớn những vụ thanh toán đều liên hệ đến chính trị. Làm ngơ là thượng sách để giữ Macao khỏi bị anh khổng lồ Bắc kinh nuốt chửng. Đang nằm trên đất, Văn Bình quẫy mạnh, văng mình lại gần bức tường. Gần nơi taxi đậu có bức thường sừng sững. Dựa lưng vào tường, chàng tin tưởng có thể hóa giải được hai lưỡi dao trăng khuyết lợi hại của địch. Hai tên địch từ từ xấn lại. Chúng bước thẳng tới, 1 tên cầm đao tay phải, tên kia cầm đao tay trái. Lối đánh song đao này rất nguy hiểm, nếu để chúng đến gần, vây kín chàng trong 1 diện tích nhỏ chàng khó bề thoát chết. Tuy vậy, chàng không thay đổi vị thế. Chàng có thể bỏ chạy, song chàng quyết đứng lại. Đao pháp của 2 tên địch vừa vô tình tố giác chân tướng của chúng. Chúng không phải là điệp viên Quốc tế Tình báo Sở. Chúng có thể là đảng viên 1 hội kín Trung quốc: Hồng tu hội.

Trung quốc là xứ có nhiều hội kín nhất thế giới. Hồng tu hội ra đời ở Mãn châu, giáp giới Hoa bắc, vào cuối thế kỷ 19. Xuất thân là hội của những kẻ chuyên ăn trộm ngựa, dần dà thành hảo hán cướp của nhà giàu giúp đỡ người nghèo trước khi được tổ chức chặt chẽ và bay bướm theo mẫu mực hành hiệp, trừ gian, thế thiên hành đạo của 108 vị anh hùng Lương sơn bạc. Hồng tu hội -tức hội râu đỏ mặc dầu đảng viên không nhất thiết phải có râu đỏ- đã giữ vai trò khá quan trọng trong 2 cuộc chiến tranh chống Nga hoàng và chiến tranh kháng Nhật tại Mãn châu.

Sự phân hóa Quốc Cộng ở Trung hoa sau thế chiến đã dẫn đến tình trạng phân hóa trong các hội kín. Do đó, Hồng tu hội tách làm nhiều nhóm nhỏ, nhóm theo Quốc dân đảng tản cư qua Đài loan, nhóm lưu lại lục địa hợp tác với Mao trạch Đông, nhóm hùng cứ ở Hồng kông và Macao, xa gần dính líu đến các hoạt động buôn lậu và gián điệp giữa các siêu cường.

Mỗi hội kín thường theo 1 môn phái võ lâm. Riêng Hồng tu hội gồm những kỳ tài về yển nguyệt đao. Đánh 1 mình, họ cầm 2 đao. Nhưng họ hay chơi từng cặp, người cầm đao tay phải, người cầm đao tay trái. Đấu pháp của các hảo hán Hồng tu từng làm kinh hồn bạt vía nhiều cao thủ.

Hai lưỡi đao trăng khuyết cùng giơ lên, ánh thép ngời sáng trong trong bóng đêm u uất. Văn Bình bật tiếng kêu:

– Khoan… khoan… các anh là môn đệ của Dương giáo chủ, phải không?

Dương giáo chủ tên thật Dương bạch Mã là giáo chủ sáng lập ra hội Hồng tu tại Mãn châu. Họ Dương được thiên hạ xưng tụng là đại anh hùng vì tinh thần cứu khổn phò nguy. Họ Dương khét tiếng nhờ nghệ thuật sử dụng yển nguyệt đao độc đáo. Nghệ thuật này được truyền cho đảng viên Hồng tu.

Câu nói của Văn Bình như cái thắng cực mạnh ngáng giữ chiếc xe chở nặng lao xuống giốc. 2 tên địch khựng lại, lưỡi đao sắc bén vừa hoa lên vội hạ xuống. Cả hai đều nhảy lùi một bộ, quay ngang đao. Đó là đóa pháp, cách rút đao về giữ thế thủ truyền thống của võ sĩ Hồng tu. Thái độ này chứng tỏ 2 tên địch hoang mang sau câu nói đột ngột của chàng. Phải là con bướm giang hồ mới biết được chúng là môn đệ của Dương bạch Mã với bí kíp yển nguyệt đao. Một tên đáp:

– Phải. Anh liệu đỡ đòn, chúng tôi không nhân nhượng đâu.

Văn Bình gằn giọng:

– Phàm là môn đệ Hồng tu, các anh không thể không thuộc lòng 13 điều tâm niệm của giáo chủ. Các anh quên điều thứ nhất rồi ư?

Điều thứ nhất trong thập tam di ngôn của Dương giáo chủ là đảng viên phải giữ tinh thần mã thượng, không được ỷ thế hiếp cô, nhất là tấn công khách thương đi một mình.

Vẫn tên ấy đáp:

– Chúng tôi không quên. Nnhưng anh là gian phi, anh phải đền tội.

– Căn cứ vào đâu anh dám quyết tôi là gian phi?

– Đừng nhiều lời vô ích. Cho phép anh kiếm khí giới. Trong xe còn một con đao yển nguyệt.

Hắn xây lưng về chiếc taxi. Gã tài xế lon ton chạy tới, với lưỡi đao trăng khuyết. Văn Bình xua tay, từ chối. Tên hồi nãy rít giọng:

– A… anh đã muốn đấu tay không thì chúng tôi không rụt rè nữa.

Văn Bình lắc đầu:

– Tôi không hề muốn đấu với các anh, đấu bằng tay không, cũng như đấu với đao yển nguyệt. Vì lẽ tôi không thù oán các anh, ngược lại các anh không thù oán tôi. Các anh đón đường giết tôi chẳng qua người ta bốc được tên và trao nhiệm vụ, thế thôi. Các anh hãy về báo cáo là không thể hạ người vô tội đồng môn đúng theo tinh thần của Dương giáo chủ.

Điều thứ 9 của thập tam điều đã quy định rõ rệt: công việc được ủy thác theo lối bốc thăm. Bốn nhằm ai thì người ấy phải đi. Lệnh trên bắt giết ai thì phải tuân hành, dẫu nạn nhân là người ruột thịt. Trái lệnh là bị nghiêm trị, nhẹ thì xẻo tai, chặt ngón tay, nặng thì hành quyết không xét xử. Tuy nhiên, tập tục gắt gao này luôn luôn được chước giảm trong những vụ đâm thuê chém mướn để gây quỹ cho hội.

Gã tài xế xen vào:

– Anh ta nói đúng, bọn mình không nên hạ sát người vô tội đồng môn.

Tên thứ ba từ nãy đến giờ ngậm miệng, bỗng vùng vằng:

– Đâu được. My sư thúc đã dặn riêng tôi. Việc lớn, không phải chuyện làm ăn tầm thường. Các anh sợ thì để tôi ra tay 1 mình.

Nói đoạn, hắn vọt ngay về phía Văn Bình, chân trái trườn theo chân phải, vận chuyển nhẹ nhàng và thần tốc, hươi đao chém từ trên xuống. Ngọn đao của hắn khá độc ác vì hắn dùng thế ” đảo đả kim chung ” chém vẹt thành nửa vòng tròn, với ý định chặt lìa bả vai chàng. Hắn đã châm ngòi tấn công. Văn Bình phải đánh phủ đầu cho hắn mửa mật. Chàng triệt hạ được hắn với 2 bàn tay không, tức khắc 2 tên còn lại sẽ khâm phục chàng, và trận chiến mặc nhiên chấm dứt. Nghĩ vậy, chàng bèn lượn sang trái, mũi nhọn của dao yển nguyệt phập vào tường. Trong vi phân tích tắc ấy, bàn chân phải của chàng xẹt ra, quất trúng nách hắn. Ngọn cước bình thường của chàng từng làm nhiều cao thủ gãy xương hông, huống hồ địch thủ chỉ là 1 đảng viên gọi dạ bảo vâng nghèo kinh nghiệm. Lưỡi dao trăng khuyết vuột khỏi bàn tay xương xẩu của hắn, đồng thời hắn ôm vai, ngã khuỵu, máu tươi hộc thành vũng. Bênh bạn, 2 tên Hồng tu còn lại xông tới. Khốn nỗi chỉ 1 tên có khí giới, tên tài xế quá hoảng hốt quên bẵng con dao bị chàng gạt vứt trên vỉa hè. Đến sát Văn Bình tên tài xế mới nhớ đến 2 tay trần trụi của mình. Hắn hấp tấp thối đòn, vô hình chung bỏ mặc bạn hắn cho Văn Bình ăn gỏi. Lưỡi dao lóe ánh bạc vút qua đầu. Văn Bình né tránh không mấy vất vả. Chàng có thể chộp bắt chuôi dao ngay trong đòn chém ngang này, song chàng muốn kéo dài cuộc mèo vờn chuột thêm 1 vài phút nữa để đối phương có thêm cơ hội nhận chân được tài ba xuất chúng của chàng. Chàng đợi hắn chém tiếp từ dưới móc lên mới thi thố 1 chiêu tuyệt kỹ về trắc kiên quyền. Chàng rùn người, rồi như thể toàn thân chàng là 1 khối tròn lao thẳng vào bụng địch. Vai chàng hơi nghiêng và nhích cao, tất cả sức lực của chàng được dồn lên bả vai cứng như sắt, khả dĩ húc đổ được bức tường đá ong kiên cố. Địch lãnh trọn ngay giữa lỗ rốn, ngã văng ra xa, chết giấc.

Văn Bình khỏi cần ra oai với tên tài xế vì hắn đã mục kích ngón đòn vai kỳ ảo của chàng từ đầu đến cuối. Đánh đòn vai mỗi khi cận chiến mà tay chân bị vướng hoặc khi địch sử dụng dao quắm. Thiếu lâm tự có 1 bí pháp gọi là kiên pháp. Một trong 3 phép húc vai này là trắc kiên. Các bậc cha chú trong Hồng tu hội nổi danh trong nhiều thế hệ giang hồ hành hiệp nhờ phép trắc kiên. Họ chuyên đánh yển nguyệt đao. Nhưng nếu họ bị đối phương áp đảo bất thần bằng yển nguyệt đao thì họ phản công lại bằng phép trắc kiên. Họ luyện được phép này hầu như đến trình độ thượng thừa. Sự phân ngôi thứ trong đảng thường dựa trên trình độ sử dụng phép trắc kiên. Vì thế, đòn vai của Văn Bình đã khiến tên tài xế chóa mắt, đầu óc xửng vửng, tay chân loạng choạng như người say rượu. Văn Bình chỉ hai tên Hồng tu đang nằm sóng sượt trên lề đường, hỏi hắn:

– Muốn chơi nữa không?

Tên tài xế vái dài:

– Thưa sư bá, tôi đâu dám.

Chàng đã được hắn tôn lên hàng sư bá, nghĩa là hắn đã biết sợ. Chàng bèn ra lệnh:

– Leo lên.

Hắn run lập cập tra mãi mà chìa khóa vẫn trượt khỏi công tắc. Máy nổ ròn, hắn ngó chàng đợi chỉ thị. Chàng khoát tay:

– Thẳng.

Macao nhỏ như cái khăn mù soa, xe chạy 1 lát là xuyên từ đầu này qua đầu kia. Văn Bình phớt tỉnh hút thuốc Salem, ra lệnh cho tên tài xế thay đổi hướng chạy đến chục lần. Từ đường Praia Grande sát bến, chiếc taxi nhỏ xíu do Nhật chế tạo bon bon qua tòa thị sảnh và nhà thờ chính trước khi trèo giốc và vượt qua những cây đa khổng lồ sắp hàng ngay ngắn 2 bên lề. Gần 2 cây số rưỡi đến gần Mã cốc miếu Văn Bình đập vai cho tên tài xế tốp lại. Đây là ngôi đền cổ từ hơn 600 năm thờ Nữ hải thần A Mã, thần của dân chài và người đi biển trong vùng. Do tên nữ thần mới nảy ra tiếng Macao. Tứ phía chìm trong cảnh tranh tối tranh sáng. Tên tài xế lắp bắp năn nỉ:

– Sư bá đừng giết em út, tội nghiệp.

Văn Bình giơ sống bàn tay, giả đò sửa soạn giáng xuống. Tên tài xế chắp 2 tay, giọng thảm thiết:

– Lạy sư bá, trăm ngàn lậy sư bá, em út chỉ là tép riu trong hội, như sư bá đã thấy em út chỉ lái xe, 2 thằng ấy mới được thượng cấp ra lệnh chặn giết sư bá…

– Nghĩa là mày còn thèm sống?

– Trăm ngàn lạy sư bá, con người ai lại không thèm sống. Em út xin tuân theo.

– Ngoan lắm. My sư thúc ra lệnh cho bọn mày?

– Dạ. My sư thúc là đảng trưởng.

– Sư thúc khốn khiếp của mày hiện ở đâu?

– Thưa, rất dễ tìm. My sư thúc có 1 hộp đêm gần đại lộ Almeida Ribeiro. Tụi em là nhân viên trong hộp đêm. Đây… tụi em có mang sẵn danh thiếp. Hộp đêm này tên là Sham-sing.

Tên tài xế lục túi, rút ra tấm danh thiếp in chữ vàng nổi, cung kính đưa cho Văn Bình. Hắn tỏ ra khôn ngoan và rất biết điều. Chàng đòi hỏi gì, hắn thỏa mãn ngay không dám trì hoãn. Điều hắn không dè là chính thái độ mềm dẻo tuyệt đối của hắn lại xô hắn vào chỗ chết. Giá hắn câm họng, Văn Bình chỉ tặng hắn 1 atémi, hắn bất tỉnh hồi lâu trên vệ đường rồi tỉnh lại. Đằng này hắn lại tiết lộ bí mật, 1 bí mật khá quan trọng: sự liên hệ chặt chẽ giữa Tình báo Sở và con người được gọi là My sư thúc, chỉ huy Hồng tu hội ở Macao. Bất đắc dĩ Văn Bình phải giết hắn để giữ kín sự tiết lộ. Dưới ánh đèn táp lô xanh biếc, dường như tên tài xế bắt chợt được tia mắt quyết liệt của chàng. Hắn tông cửa, toan tháo chạy. Nhưng cánh cửa vẫn dính cứng vào thân xe. Văn Bình hóa kiếp cho hắn bằng 1 đòn vào trũng gáy. Thật ngọt. Tên tài xế gục xuống vô lăng.

Chú thích

  1. bệnh hoại huyết tức bệnh hemophilie, trong máu thiếu 1 chất làm đông nên 1 vết trầy nhỏ có thể làm máu chảy hoài, nguy đến tính mạngkông và biên giới Hoa lục.

CHƯƠNG 8 – TRÊN ĐỈNH ĐỒI HOANG

Văn Bình gạt xác chết còn nóng hổi sang bên. Taxi chật chội, nền đường lởm chởm gò đống và ổ gà, chốc chốc tên tài xế bất hạnh lại ngã vào lòng chàng. Vùng sáng trước mắt mỗi lúc một rực rỡ. Văn Bình trở lại những đường phố sầm uất. Macao là thành phố của những con vạc ăn đêm. Tiếng xoa mà chược kêu rào rào như mưa rơi trên máng kẽm. Xe hơi qua đường Sidonio Bais, nơi có đại lữ quán Estoril. Món gà Phi châu ở đó được liệt vào hạng tuyệt ngon, khách khó tính mấy cũng phải mút ngón tay, rượu vang ở đó còn ” siêu ” hơn nữa. Tuy nhiên, đối với Văn Bình lữ quán này đáng nhớ ở chỗ nó đi kèm với 1 sòng bạc cực kỳ sống động và sang trọng. Mắt chàng bỗng mờ đi. Chàng vừa nhớ Yên Hà và sòng phán thán định mạng 1. Nàng đã chết. Giờ đây chàng cũng đang lao đầu vào chỗ chết.

Bánh xe trước xập ổ gà, xác tên tài xế lại nhào xuống đùi chàng. Chàng bừng tỉnh mộng. Qua 1 khu chói lòa ánh đèn nê ông muôn màu, chàng xuyên bóng tối của những cây đa cổ thụ. Chàng đậu sát lề, kiểm soát chung quanh lần chót, đoạn băng vào 1 hẻm ngang. Tên tài xế khỏi phải chờ lâu, sáng hôm sau những cô gái mặc áo hoa cà bó lẳn làm ” ca ” đêm tại sòng bạc lũ lượt ra về sẽ bắt gặp cái xác co quắp, gối đầu trên cửa xe taxi. Án mạng xảy ra quá thông thường, hồ sơ nội vụ sẽ được xếp xó. Ngoại trừ Tình báo Sở, không ai biết sát nhân là ai. Cuộc điều tra của cảnh sát tư pháp bản xứ sẽ chẳng tới đâu vì lẽ giản dị chàng đã lau sạch dấu tay, không lưu lại trên xe 1 vết tích cỏn con.

Chàng vòng hai con hẻm ngắn trước khi đến ngõ cụt. Theo chỉ thị, ngõ cụt này dài đúng 100 mét. Bề ngang của nó chưa đầy 1 mét, xe hơi không lọt, thậm chí xích lô cũng phải đậu ngoài. Nó là mặt hậu của hai khu nhà chổng mông vào nhau, hai bên là tường cao, gắn mảnh chai nhọn lởm chởm. Người Tàu vốn tiết kiệm, mặt tiền họ còn xài đèn thận trọng, huống hồ cổng hậu. Bởi vậy, lòng hẻm tối thui, nếu không có ánh trăng có lẽ chàng xòe hết bàn tay cũng không thấy ngón.

Ánh trăng bị những tầng lầu và tường cao che khuất chỉ chiếu xuống gián tiếp, tạo thành những vùng sáng lờ mờ, hư ảo. Văn Bình lạnh xương sống. Thiếu gì nơi gặp gỡ an toàn, họ lại bố trí trong ngõ ống hun hút rùng rợn này. Khỏi cần đặt 1 cây súng có hạng, địch chỉ sai 1 thằng bé miệng còn hôi sữa thủ cây ná cao su là điệp viên Z.28 bị loại khỏi vòng chiến. Tùy theo viên đạn, nếu là đạn kim khí thì… ôi thôi, chàng phải nằm bệnh viện bó bột.

Chàng ép mình sát tường, quan sát đường lớn và bề sâu của hẻm. Một mùi thơm ngạt ngào dật dờ trong không khí. Văn Bình có cảm tưởng như nó quyện cuốn vào quần áo và da thịt chàng. Đó là mùi thơm độc đáo của thuốc phiện vê tròn cháy sèo sèo trên bấc dầu lạc. Hút á phiện ở đây không tự do mà cũng như tự do, ban đêm chỉ khổ con tì, con vị của kẻ lang thang. Mùi á phiện là mộ

tthứ radar của thành phố Macao. Càng đến gần khu náo nhiệt, nó càng thơm. Văn Bình bật nhớ hẻm ống tối thui này chỉ cách Rua de Felicidade một quãng ngắn, đường Khoái lạc. Đặt tên là Khoái lạc, là Hạnh phúc, là Sung sướng rất đúng vì nó quy tụ trên một khoảnh đất hẹp số tỉ lệ gái đẹp cao nhất nhì Viễn đông. Khu Khoái lạc gồm đủ thứ, thượng vàng hạ cám, ả đầu, geisha theo kiểu Phù tang hầu hạ khách nghiêm chỉnh, ít khi lạc ra ngoài ranh giới, hoa biết nói chuyên nghề mua vui ở xóm Peitou, Đài Bắc. Khu Felicidade vượt xa nhiều nơi khác vì hết thú xác thịt, thú ma túy, khách còn thú đổ bác. Văn Bình không phải là nhà tu, 1 trong các ” lẽ sống ” của chàng là du hí, vậy mà phút này chàng chỉ được quyền ngửi mùi thơm, và thưởng thức trong trí tưởng tượng. Nước miếng rệu đầy miệng chàng. Chàng không nghĩa đến nhưng tiềm thức chàng không thể quên. Đường Khoái lạc không chỉ khoái lạc về thú vu sơn và cưỡi mây đạp gió, nó còn thu hút được nhiều kẻ sành sỏi 5 châu nhờ ở danh tiếng của tiệm Tàu mang cái tên… Cười. Thực khách ăn xong cũng phải cười thỏa mãn. Tên tiệm ăn này là ” Phật tiếu lâm “, nghĩa là ” Ông Phật cười “. Món ruột của nhà hàng là bồ câu quay.

Văn Bình nghe rẹt 1 tiếng. Chàng thụp xuống. Tiếng rẹt từ cuối hẻm phát ra. Chàng đoán là tiếng cửa mở. Chàng chờ giây lâu không nghe thêm âm thanh khả nghi nào nữa. Nhỡn tuyến của chàng đã quen với bóng đêm. Chàng bắt đầu nhìn thấu được tận trong xa. Địch rình chàng ở cuối hẻm? Có hay không, chàng không thể cả quyết. Có hay không, chàng không thể trở lui. Chàng có hẹn với nhân viên CIA có nhiệm vụ trao cho chàng những chỉ thị về lộ trình của tiến sĩ Chicô qua lục địa. Chàng phải lên đường nội đêm nay, cuộc giải cứu vợ con của Chicô không thể trì hoãn. Chàng chỉ có 1 giải pháp: tiến. Tiến thẳng vào hẻm. Đến đâu thì đến.

Chàng kiên nhẫn chờ thêm 5 phút. Tiếng động quái gở dứt hẳn. Chỉ còn lại tiếng xoa mà chược, tiếng gió thổi. Thậm chí chàng còn nghe được tiếng lá vàng rụng trên những cành cây nhằng nhịt ngoài lề đường vắng ngắt. Chàng cất bước từ từ. Cứ mươi thước chàng lại dừng nghỉ, tiếp tục đưa mắt lục soát khoảng tối. Con hẻm dài 100 mét mà Văn Bình mất gần 1 khắc đồng hồ mới đi hết. Nơi tay trái của chàng lờ mờ 1 khung cửa thấp nhỏ. Khung cửa này sẽ dẫn chàng đến nơi hẹn. Chàng nín thở, định thần thật lâu. Chàng vừa nghe tiếng người thở sau cửa. Hơi thở đàn ông. Nhịp nhàng và chững chạc. Chàng dựa lưng vào tường, chuẩn bị đương đầu với hiểm họa vô hình. Chợt có tiếng gọi nho nhỏ:

– Z.28 hả?

Văn Bình đã nhận ra người đàn ông sau cửa là ai. Y là đại tá Pít. Theo kế hoạch, y không phải chờ chàng tại đây. Chắc nội vụ bị trục trặc. Chàng đáp:

– Chính hiệu. Bị động ư?

Pít ló đầu ra:

– Suỵt. Đừng nói to.

– Địch?

– Không. Anh đi theo tôi.

Văn Bình chui qua cửa, vào sân sau 1 ngôi nhà lầu xiêu vẹo, cổ xưa, như thể được xây cất từ thế kỷ thứ 16, thế kỷ khách thương Bồ đào nha giứt mẩu đất này khỏi tỉnh Quảng đông, lập thành Macao. Sân hẹp ngang, bề dài gần bằng sân bóng rổ. Nó có mái che nên đã tối lại càng tối thêm. Nền sân bằng đất phủ đầy rêu làm Văn Bình trơn trượt, phải vịn vai bạn. Qua khỏi cái sân bán lộ thiên đến 1 cánh cửa khác mở sẵn. Đại tá Pít vào sau, đóng cửa hẳn hòi rồi rọi đèn bấm. Bên phải, Văn Bình thấy cầu thang gỗ ọp ẹp. Những con dơi bay loạn xạ. Có con đụng cánh vào tóc chàng. Sự kiện này cho thấy nhà bỏ hoang từ lâu. Pít chỉ gầm cầu thang:

– Lối xuống hầm. Cẩn thận kẻo hụt chân. Mình có thể trò truyện được rồi.

Dưới ánh đèn pin, Văn Bình đặt chân xuống những bậc đá ướt. Đó là những phiến đá kích thước không đều, bề mặt lồi lõm, được xếp chận lên nhau thay cho cầu thang. Đại tá Pít nói đúng: nếu thiếu cẩn thận, chàng có thể gẫy chân như chơi.

Văn Bình lẩm bẩm:

– Nhà cửa gì mà tồi tàn như vậy?

Pít đáp:

– Chưa đến điểm hẹn. Đây là đường tắt bí mật. Có cửa trước khoảng khoát, đèn nê ông sáng quắc, mình không dám sử dụng sợ địch canh chừng.

Căn hầm khá rộng. Phiền 1 nỗi trần nó quá thấp, Văn Bình luôn luôn phải khom lưng vì chỉ ngẩng lên là bươu đầu. Đại tá Pít kéo cái thạp che kín cửa hầm, đoạn tiếp tục chiếu đèn bấm cho Văn Bình nhìn rõ đường. 2 người nện gót trong vòng 3 phút đến 1 bức tường. Lại 1 đống đá thay cho bậc thang. Bên trên cảnh tượng khác hẳn. Dưới hầm là địa ngục tối tăm thì bên trên là thiên đường sáng rực. Bên trên là 1 căn phòng lót gạch bông, tường sơn xám, trần treo đèn ống. Đại tá Pít dẫn Văn Bình qua phòng bên. Phòng này làm Văn Bình ngạc nhiên hơn vì nó được trang trí không thua phòng giấy giám đốc công ty Tây phương. Nó được điều hòa khí hậu mát rợi, dọc chân tường kê 1 giẫy máy hình thù kỳ cục. Văn Bình hỏi:

– Hansen?

Pít đáp:

– Hắn chỉ kịp giới thiệu tôi rồi phải vù ra bến tàu để kiểm điểm ca nô và đồ đoàn. Anh đến chậm, tôi lo quá.

– Anh về đây bằng gì?

– Taxi. Rút kinh nghiệm, tôi không dám trèo lên taxi đậu gần bến. Địch có thể gài người. Tôi chịu cực đi bộ 1 quãng, cách bến gần 200 mét mới vẫy taxi. Còn anh? Lại la cà dọc đường?

Văn Bình cứng họng. Chàng không thể thú nhận chàng là chúa lười. Gặp taxi là chàng mở cửa, bất kể tài xế công dân lương thiện hay chuyên viên đấm đá bắn giết. Chàng đành gật đầu thú nhận chứng bệnh la cà. Gật đầu xong, chàng chuyển đề tài:

– Thằng cha đâu?

” Thằng cha ” là danh từ thân mật, tuy hơi xách mé, để gọi viên giám đốc trú sứ ở Macao. Do sự sắp xếp của ông tổng thanh tra từ trụ sở Xung thằng, chàng sẽ hoạt động chung với giám đốc trú sứ CIA sở tại. Đại tá Pít nghểnh tai:

– Thằng cha nào?

Văn Bình phát cáu:

– Thằng cha giám đốc trú sứ chứ còn ai nữa? Không lẽ anh bắt tôi đổi giống của hắn và kêu bằng ” nàng “?

– Cứ kêu ” thằng cha giám đốc trú sứ ” bằng ” nàng ” đi, hắn không giận đâu, hắn còn khoái nữa là khác, anh đại tá Z.28 ơi!

Văn Bình bật ra tiếng ” ồ ” vì người vừa nói không phải là đại tá Pít. Giọng nói phụ nữ trong trẻo, thánh thót và ấm áp. Chàng quay lại. ” Thằng cha ” giám đốc trú sứ vừa xuất hiện. Là 1 trang nữ lưu đầy đặn, khả ái và rí rỏm. Đại tá Pít cười tủm tỉm:

– Giới thiệu… đây là ” thằng cha ” giám đốc trú sứ của anh.

Văn Bình chết trân, không thốt được lời nào dù bình sinh chàng là vua tán gái. Nữ lưu chìa bàn tay thon trắng cho chàng bắt rồi nói:

– Tội nghiệp, đừng chọc quê anh Z.28 nữa. Mời 2 anh an vị. Anh Văn Bình, em điều khiển trú sứ ở đây, hân hạnh được đón tiếp anh. Em là người Tàu, mang 1 phần ba máu Bồ đào nha trong huyết quản. Tên thật của em là Kwan, Lindy Kwan, nhưng bạn bè thân thiết thường gọi em là Kênô.

– Vì cô thích chơi kênô?

– Đúng. Kênô là 1 phần đời em. Em tự ý xin qua Macao vì vùng đất này quá quen thuộc với em, lại chứa nhiều bất trắc, thích hợp với tính tình sống động của em. Phần nào cũng do sự quyến rũ của các sòng bài kênô. Anh cũng ưa chơi kênô lắm sao?

Định mạng thật lạ. Tháng trước, chàng gặp 1 cô gái đẹp mang tên Bacara vì chuyên chơi bài xe lửa bacara khiến nhiều sòng bạc ở Las Vegas thua thất điên bát đảo, thì tháng này chàng lại gặp 1 cô gái đẹp chuyên chơi bài kênô ở Macao. Bacara đã lâm nạn? Còn Kênô? Văn Bình hơi rùng mình gấy lạnh 2.

Kênô là môn chơi may rủi xuất phát từ đất Tần, từ trước Thiên chúa giáng sinh, dường như dưới triều Tần thủy Hoàng. Đến cuối thế kỷ 19, hàng ngàn người Tàu làm việc tại các công trường hỏa xa xuyên Mỹ du nhập kênô vào Hoa Kỳ, rồi chỉ sau 1 thời gian nó được dân Mỹ mê say. Hiện nó choán 1 chỗ ngồi chĩnh chệ trong các sòng bài Las Vegas.

Chơi kênô rất đơn giản: đồ nghề gồm 80 trái banh trắng nhỏ bằng banh ping-pong, in số từ 1 đến 80, một luồng gió nhân tạo thổi từng trái vào cái ống. Ra số nào, nhân viên sòng xướng to số ấy. Những số chạy ra lần lượt được ghi bằng đèn sáng trên tấm bảng lớn cho mọi người theo dõi. Mỗi cuộc chơi gồm 20 lần rút bóng. Con bạc được quyền chọn tối đa 15 số. Họ đánh dấu những con số họ chọn trên tấm vé kênô. Vé kênô là miếng giấy chia làm 2 hình chữ nhật theo chiều ngang, phần trên in số từ 1 đến 40, phần dưới từ 41 đến 80. Họ chơi gần như số đề, hoặc cá ngựa. Mơ những gì liên quan đến ban đêm, đàn bà, mặt trăng… thì đánh ” âm “. Ban ngày, đàn ông, mặt trời… thì đánh ” dương “. Chọn số xong, con bạc mang vé lại quầy, nhân viên sòng chép lại vào tờ vé khác, đóng dấu cả 2 tấm, giữ lại bản chính, trao cho con bạc bản phụ. Tùy theo trúng ít hay nhiều số, con bạc sẽ ăn ít hay nhiều tiền. Sự kiện hấp dẫn của kênô là khỏi cần đặt lớn mà đôi khi có thể vơ về những số bạc khổng lồ 3.

Văn Bình đang bâng khuâng chưa kịp trả lời thì nàng tiếp, giọng say sưa như thể vừa hít bạch phiến:

– May quá, ở đây chẳng có ai mê kênô. Em phải chơi 1 mình lắm lúc buồn héo ruột gan. Hansen không những ưa kênô, anh ta còn ưa tất cả những cái gì dính líu đến cờ bạc. Công việc xong xuôi, anh phải ở lại vài ba đêm chơi kênô mới được. Anh đừng bỏ rơi em nhé. Anh hiểu vì sao em yêu kênô không?

Văn Bình đâu phải là ma xó để có thể đọc được tâm can nàng. Chàng khoái kênô thật đấy, song chàng không khoái riêng thứ nào. Chàng khoái đồng loạt. Cờ bạc lại chưa được chàng trọng vọng bằng thuốc lá Salem thơm vị bạc hà và rượu huýt ky chính gốc. Ngay cả 2 món thần tiên ấy tất có kí lô nào khi đứng trước món… ái tình. Chàng giữ thái độ im lặng. Nàng phải đáp thay chàng:

– Thế này, anh nhé. Kênô giống hệt nghề gián điệp. Chủ sòng thu tiền hồ những 20 phần trăm, nghĩa là tỉ lệ cao nhất so với các món chơi đỏ đen khác, ấy thế thiên hạ vẫn đổ sô tới vì họ bị lôi cuốn bởi tiền thắng. Mua cái vé 3 đôla có thể ăn 25.000 đôla nếu gặp vận hên 4.

– Cô gặp vận hên lần nào chưa?

– Về nghề này thì nhiều. Nhưng chơi kênô thì chưa. Nói cho đúng, em suýt thắng 1 lần ở Las Vegas. Hồi ấy, em chưa đầu quân cho ông Sì Mít, em còn làm cái nghề ruột của gia đình em: nghề chuyên viên hột soàn. Em kiếm tiền như nước, không biết tiêu đâu cho hết nên ăn dầm ở dề gần các sòng kênô. Nó không phải là môn sát phạt, mỗi đêm thua từ vài chục đến vài trăm đôla là cùng, em có điều kiện để chơi tháng này qua năm khác. Em thích kênô cũng vì sòng kênô là nơi nam nữ độc thân dễ gặp nhau, và làm quen nhau tự nhiên nhất. Trong khi chờ đợi, người ta có thể bắt chuyện và từ đó những kẻ ý hợp tâm đầu tiến xa hơn nữa không mấy khó khăn. Trò chơi này rất hợp của tuổi đôi mươi. Phải, cách đây 8 năm, em mới 21 tuổi. Tuổi 21 ở Tây phương không còn là tuổi đần độn, tuổi thơ ngây của con gái như xưa. Em đã có nhiều bạn trai, em đã nếm mùi xác thịt, song le em chưa hề biết tình yêu chân thật, tình yêu lý tưởng là gì.

Tiếng sét ái tình giáng xuống đầu em 1 đêm em la cà bên bàn kênô. Chàng đẹp trai lắm, anh ơi! Chàng có cặp mắt và giọng nói rất lạ. Chàng ngó ai là người ấy khó giữ vững được tâm thần, và hễ chàng cất tiếng thì trong phòng như có hơi mát của biển rộng. Chàng bỏ ra 100 đôla mua 100 vé, và hỏi ý kiến em trước khi chọn số. Sau đó chàng rủ em xuống tầng dưới giải khát. Từ tầng dưới, em theo chàng xuống bãi đậu xe, trèo lên xe chàng. Chàng lái em dạo chơi trên con đường nhựa thẳng tắp gần sòng bạc. Dọc đường, chàng đậu xe lại, tỏ tình với em. Nếu chàng không nói lúc ấy, em cũng nói, phương chi chàng ngỏ lời trước. Chúng em ôm nhau hôn đắm đuối, quên hết sự vật chung quanh. Thế rồi tai nạn thảm khốc xảy ra…

– Xe hơi bị đâm?

– Vâng. Trong phút say sưa, chàng đậu xe lệch hẳn 1 phía, mũi xe rúc vào lề, đuôi vểnh ra đường. Hàng trăm xe chạy đua với tốc độ hơn 100 cây số giờ, nhưng không gây tai nạn vì họ đều là người lái bình thường, họ tránh dễ dàng. Trừ 1 gã đàn ông vừa uống rượu ngất ngư, mắt cận thị nặng vừa vỡ kiếng trước đó mấy phút trong hộp đêm. Lẽ ra y phải cất xe riêng, về nhà bằng taxi. Nhà y ở xa, y có thể ngủ đêm tại lữ quán. Định mạng run rủi y bất chấp các nguyên tắc an ninh lưu thông sơ đẳng. Y lái chiếc Cadillac kồng kềnh, nặng nề. Xe của chúng em là chiếc Chevrolet Corvette, kiểu xe đua thấp thỏi, nhẹ tâng, vỏ sườn bằng nhựa lát tích ép. Y lao chiếc Cadillac vào cốp xe Corvette. Em bị bắn tung ra ngoài, rớt xuống ruộng, chỉ gãy xương chân, và dập nát 1 bên tai. Còn chàng… chàng bị cây sắt của vô lăng đâm lủng ngực, chết liền tại chỗ. Em nằm bệnh viện chụp hình, bó bột xong xuôi về nhà trước khi trời sáng. Thì 1 người bạn ở sòng bạc gọi dây nói cho biết các vé của em có hy vọng ăn lớn.

– Tại sao lại ” có hy vọng “?

– Khi chọn số, bạn em đứng bên. Y chỉ nhớ loáng thoáng nên y điện thoại lại cho chắc dạ. Em đáp là tình yêu của em không còn nữa thì giàu có cũng bằng thừa. Vả lại, em đâu thiếu tiền. Bạn em năn nỉ mãi, em đành chiều y. Nghe dứt, y kêu lớn trong điện thoại: Trời ơi, chị trúng 3.000.000. Chị trúng 3.000.000… Em vùng dậy, lấy xấp vé ra xem lại kỹ lưỡng từng tờ, rồi em đốt 1 đống lửa lớn, ném cả xấp vào đó. Rồi em ngất đi.

Tỉnh lại, Em thấy nằm trong bệnh viện. Bạn em đến nơi em ở giữa lúc xấp vé cháy gần hết. Những vé còn lại có thể lãnh non 300.000 đôla. Bạn em báo cảnh sát. Họ kéo đến với đủ máy móc, phòng thí nghiệm của họ cứu thêm 1 số nữa. Vị chi em trúng hơn 400.000 đôla. Trúng cũng như không vì em không đụng đến tiền. Em yêu cầu sòng bạc cúng cho 1 quỹ xã hội. Em dùng chữ ” suýt trúng ” là vì vậy. Kênô trở thành lẽ sống của đời em từ đó. Em gia nhập CIA, họ cần 1 chuyên viên hột soàn ở Macao, nơi này lại có sòng kênô nên em nhận lời. Em sống ở đây đã 3 năm. 3 năm đánh kênô, để sống với kỷ niệm. Thày tướng nói em khó tránh được số 7 nổi 3 chìm. Em có hai tai giống hệt tai của Pôlin 5, em gái cưng nhất của Nã phá luân hoàng đế.

Kênô kéo những lọn tóc che kín màng tang và xây lại cho Văn Bình ngắm. Thì ra nàng nuôi tóc dài và uốn dợn thật cầu kỳ để che giấu những vành tai không lấy gì làm đẹp. Tai trái của nàng có vết thẹo, hậu quả của tai nạn xe hơi. Tai phải còn nguyên. Thày tướng quả là sử gia thâm thúy: tai của Kênô cũng lớn quá khổ và cũng méo xệch như tai của giai nhân Pauline.

Pauline là 1 trong những người đẹp được nhắc đến nhiều nhất trong lịch sử nước Pháp. Pauline yểu mạng sau nhiều năm yêu cuồng sống loạn. Người ta cho rằng Pauline chết non vì đôi tai phá tướng. Nếu nàng có đôi tai cân xứng và mĩ miều, có lẽ đời nàng đã không chìm đắm liên miên trong những cuộc tình ngắn ngủi, trái khoáy hoặc tuyệt vọng.

Đại tá Pít vẫn ngồi yên, mắt lấm lét nhìn đồng hồ treo trên thường. Kênô nói:

– Anh nóng ruột hả, anh Pít? Chưa đến giờ đâu. Em xin lỗi anh nhé. Tuy nhiên, anh đừng sợ em kể lể con cà con kê để lỡ hẹn. Bề nào mình cũng phải chờ lệnh của Xung thằng. Trên cái bàn ở góc có ngọn đèn, khi nào nó phựt đỏ là em có điện. Em làm phiền 2 anh lắm nhỉ?

Văn Bình hoảng hồn:

– Đâu có. Cô cứ nói tiếp. Muốn hoạt động chung với nhau được bền lâu và hữu hiệu, cần tìm hiểu rõ tâm tư của nhau.

– Cám ơn anh. Em đã nói hết, giờ chẳng còn gì để nói tiếp nữa. Anh thấy em thế nào? Thày tướng nói đúng không? Được gặp anh, em mừng ghê. Nghe nói anh giỏi tướng diện, rất nhiều người phục. Họ chê tai em đã đành, họ còn chê cả mắt em nữa. Anh nghĩ sao?

Hỏng to… Coi tướng vốn là nghề mọn của Văn Bình, tuy vậy ít khi chàng dám trổ tài vì nhiều lẽ dễ hiểu: nói sai thì mất tiếng tăm, nhược bằng nói đúng thì… sự thật mất lòng. Kênô bước ra giữa phòng, từ từ quay tròn 1 vòng như thể nàng hành nghề trình diễn những kiểu y phục mới trước 1 cử tọa sành điệu. Chấm điểm 1 cách vô tư thì nàng không đẹp lắm, nhưng liệt nàng vào hạng trung bình cũng quá đáng. Riêng thân hình mảnh mai và căng nở ở những bộ phận cần thiết của nàng cũng đủ mang về cho nàng sự khen ngợi đồng thanh và nồng nhiệt của phái khỏe. Phương chi mặt mũi nàng rất khá thanh tú và đẹp: miệng nhỏ, răng đều, mũi cao, mắt to bồ câu. Nàng mặc sường sám Trung hoa hở nách, chấm đầu gối. Cặp giò cân đối và trắng hồng, không cần tất. Đầu gối nàng tròn trịa đáng yêu. Văn Bình không rời mắt khỏi cổ chân nàng. Cổ chân thon nhỏ như nặn làm tăng vẻ quý phái của cặp giò tuyệt diệu. Chàng mỉm cười:

– Về xem tướng, tôi mới bập bẹ, không điêu luyện như người ta đồn đại đâu. Tại cô bắt ép tôi mới dám múa rìu qua mặt thợ. Pauline long đong về đường tình, lại yểu mệnh vì cộng với đôi tai bất xứng, nàng còn có cổ chân cục mịch. So sánh cô với Pauline hoàn toàn sai.

Kênô vỗ tay hồn nhiên như cô bé tiểu học:

– Cám ơn anh. Nhưng còn cặp mắt?

– Mắt cô rất đẹp.

– Nhiều người đã khen mắt em đẹp. Đẹp mà suốt đời vò võ 1 thân 1 mình thì xấu còn hơn. Thày tướng phàn nàn là tròng mắt có pha màu tím nên em yêu thật nhiều song không yêu ai được bền lâu. Em công nhận điều này đúng, mặc dầu chỉ đúng 1 phần nhỏ.

– Cô không yêu bền vì chưa gặp tri kỷ. Tròng mắt thiên về màu tím báo hiệu 1 sức sống tình cảm cực kỳ mãnh liệt. Trên thế giới này đàn bà mắt tím rất hiếm. Như minh tinh màn bạc Liz Taylor chẳng hạn: cặp mắt tím hoa cà của nàng được coi là đẹp nhất hoàn cầu. Nhờ cặp mắt tím hoa cà, Liz được chọn đóng Cléopâtre, bà hoàng ái tình nổi danh về cặp mắt tím hoa cà trong cổ sử Ai cập. Mắt cô rất đẹp, không những tròng tím hoa cà, hàng mi lại dài thật dài, và cô không cần lông mi giả.

Kênô không đợi Văn Bình nói hết, nàng xà vào người chàng, hôn bừa lên má, lên miệng. Đại tá Pít trợn tròn mắt. Y không khi nào ngờ được 1 nữ giám đốc trú sứ CIA và 1 điệp viên hành động lại trò truyện tầm phào với nhau rồi ôm nhau hôn giữa lúc công việc ngập đầy đến cổ. Mà có phải công việc tầm thường cho cam. Toàn là mưu thần chước quỷ. Toàn là hành trình thách đố Tử thần… Văn Bình nâng mặt Kênô. Loại mắt rộng, tròng tím hoa cà, phủ mi mềm và rợp như mắt của nàng, được khoa tướng diện gọi là mắt mị. Mị và tú đều là mắt đẹp. Tú thì đẹp hiền và nghiêm. Còn mị thì đẹp dữ và lẳng. Cờ tình đến tay, không phất cũng uổng. Văn Bình bèn ghì chặt Kênô, hôn mê ly vào cái miệng tình tứ của cô gái lai đẹp dữ dội và lẳng.

Reng… reng…

Nếu không có tiếng chuông điện thoại chắc còn lâu lắm 2 người mới chịu rời nhau và quay về thực tại dầu sôi lửa bỏng. Văn Bình hơi sửng sốt:

– Lạ thật, giờ này mà có điện thoại?

Kênô nhún vai:

– Hai, ba giờ sáng họ còn rung chuông kêu em dậy, huống hồ giờ này. Đàn ông ở đây không ga lăng đâu, anh ơi. Vả lại, đây là công việc làm ăn. Công việc hột soàn của em thường được giải quyết ban đêm.

Kênô áp ống nghe vào tai, ” alô ” 1 tiếng rồi đáp:

– Vâng, chính tôi đây. Phiền ông thư thư 1 thời gian nữa. Mới có 2 tuần. Phải 2 tuần nữa tôi mới nghiên cứu xong được. 4 tuần là ít, ông ơi. Có hột tôi nghiên cứu luôn 2, 3 tháng. Ông muốn gấp rút không được đâu. Gần 60.000 mỹ kim, không phải ít. Tôi nghi bên dưới nó có hơi ép. Đụng vào nó sẽ vỡ nát. Ông đồng ý chưa? Vâng, ông nên nghe tôi kiên nhẫn 1 chút thì hơn. A, còn chuyến hàng sắp cặp bến? Tuần tới tôi xin trả lời dứt khát. Về số lượng cũng như về giá cả, hiện giờ tôi chỉ có thể nói là số lượng không bằng chuyến trước, giá cả lại đắt hơn chừng 2, 3 phần trăm… Sao, ông chê đắt? Đắt hay rẻ là do ảnh hưởng quốc tế, tôi không liên hệ gì đến nó. Tôi chỉ làm cái nhiệm vụ trung gian bạc bẽo. Vâng, chào ông. Tuần tới vào giờ này, xin ông gọi lại. À, may cho ông là tôi còn thức, chưa đi ngủ. Nếu tôi đã trèo lên giường, đắp mền kín mít thì súng thần công nổ ì ầm bên tai, tôi vẫn không chịu thức đâu. Chào ông, chúc ông ngủ ngon.

Kênô cười ròn gác máy. Chàng hỏi nàng:

– Khách hàng kim cương?

Vẫn cười, nàng đáp:

– Vâng. Hắn là khách hàng rất xộp của em. Xộp ở đây không có nghĩa là có nhiều tiền, hoặc có tính hào phóng, mà là đại diện cho 1 chủ nhân ông siêu đẳng. Hắn mua hàng trăm ngàn mỹ kim trở lên. Mua xong, đưa qua biên giới.

– Hắn đại diện cho Bắc kinh?

– Đúng hơn, đại diện cho Quốc tế Tình báo Sở. Em làm giám đốc trú sứ CIA mà giao dịch thương mãi với đại diện Tình báo Sở: điều này hẳn làm anh ngạc nhiên? Anh đừng quên rằng thiên hạ không biết em là nhân viên CIA, thiên hạ chỉ biết em là chuyên viên hột soàn có uy tín ở Macao. Em mở tiệm đàng hoàng. Tên tiệm là Kênô. Thoạt đầu, em chỉ phụ trách việc mài, cắt, và nhận hột soàn, nghĩa là làm ăn công và riêng về nữ trang. Dần dà, em biến thành cố vấn. Em chỉ nhận cắt những hột khó. Đồng thời làm môi giới buôn hột soàn. Anh đã hiểu lý do Bắc kinh chưa sát nhập Macao là vì Macao mang về cho họ khá nhiều ngoại tệ. Bạch phiến từ Vân nam do Tình báo Sở trồng chế được chở đến đây, và có sẵn mại bản quốc tế mua hết, trả bằng đôla, hoặc vàng lậu và hột soàn. Anh biết không? Hàng năm Macao nhập cảng chừng 53 tấn vàng. Về hột soàn thì rất nhiều nhưng khó xác định được số lượng. Ông Sì Mít đưa em sang đây làm chuyên viên hột soàn để dòm ngó, theo dõi hoạt động mua hột soàn lậu của GRU và Tình báo Sở. mỗi năm, mức sản xuất kim cương toàn cầu lên đến hơn 30.000.000 cara, nghĩa là khoảng 6, 7 tấn. 90 phần trăm của số này chỉ là những loại đá có công dụng kỹ nghệ để làm đầu dao cắt, khoan, đục, chẳng hạn cái khoan giếng dầu, và những dụng cụ quan trọng khác trong lãnh vực quốc phòng và thám hiểm không gian. Em làm môi giới mua cho Tình báo Sở được khá nhiều kim cương nên tên đại diện rất tin cậy. Con người là con người, khó thể là ông thánh, tên đại diện Tình báo Sở không thể không tối mắt trước những đống tiền chất núi. Em đã bố trí cho hắn chấm mút. Chuyến hột soàn vừa rồi, hắn được lời 1 cục gần 6 cara. Hắn nhờ em cắt làm nhiều hột nhỏ và mài nhẵn. Hắn gọi điện thoại là để nhắc lại chuyện ấy.

Đại tá Pít đặt câu hỏi để thỏa mãn tính tò mò:

– Nếu chỉ cắt và mài thì làm gì phải hẹn 4 tuần hoặc 2, 3 tháng?

Kênô đáp:

– Thời hạn 4 tuần hoặc 2, 3 tháng mới là thời hạn nghiên cứu, chứ muốn mài, cắt còn phải 1 thời hạn tương tự nữa. Viên kim cương lấy từ mỏ ra có hình thù thật xấu và bẩn. Hột nhỏ thì dễ, hột lớn phải nghiên cứu kỹ mới dám cưa hoặc cắt. Cưa thì dùng cưa tròn bằng đồng, mỏng lét như tờ giấy, tẩm bột vụn kim cương, và quay 6.000 vòng mỗi phút. Đôi khi phải mất cả tuần mới cưa xong 1 hột lớn. Cắt thì tương đối lẹ hơn, rủi ro lại dễ xảy ra hơn. Trước hết, xẻ cái rãnh nhỏ trên mặt đá, đặt mũi dao cắt vào đó rồi lấy búa đập. Nếu trong hòn đá có 1 túi hơi thiên nhiên thì khi đập búa sức ép sẽ làm kim cương bể vụn. Em yêu cầu tên đại diện Tình báo Sở chờ đợi ít ngày là để xem xét lại viên kim cương của hắn có túi hơi ngầm hay không.

Kênô nhấc tấm vải dầu ra khỏi cái máy hình vuông trông giống máy chữ đặt trên bàn, rồi giải thích:

– Đồ nghề của em đây. Hai anh thấy cái cần dài này chứ? Nó y hệt cây cần của máy nghe đĩa, chỉ khác là ở đầu nó có 2 gọng kềm giữ chặt viên kim cương, tì vào hòn đá mài tròn. Gọi là đá, kỳ thật nó bằng thép đặc biệt, nó mài thật nhanh. Thoạt đầu mài thành 8 cạnh, sau đó mài cách nào cho phần trên chia thành 33 mặt, và phần dưới 25 mặt. Công việc đòi hỏi nhẫn nại, thận trọng, chưa kể khéo tay.

– Không ngờ cô học được cái nghề khó khăn này.

– Nói ” học ” không đúng. Đó là nghề cha truyền con nối. Ngày nào cũng nhìn thấy, lâu dần nó ăn nhiễm vào máu, vào não rồi thành thói quen của mình. Chán lắm anh ơi, lắm lúc buồn muốn chết. May có sòng kênô. May còn có những nguy hiểm thường ngày của nghề gián điệp. Nếu ngày nào cũng bằng phẳng như ngày nào chắc em đã nhảy xuống biển.

Ngọn đèn đỏ cuối bàn bật cháy. Rồi tắt. Rồi cháy. Pít cuống quít:

– Mật điện… mật điện!

Chuyên viên mài cắt kim cương có khác, Kênô luôn luôn giữ thái độ khoan thai, hầu như lừng khừng. Nàng từ tốn ngồi xuống, đối diện cái máy mài hột soàn. Té ra đây là máy mài giả. Sự thật nó là 1 điện đài tối tân. Kênô đeo mũ nghe. Mũ nghe này cũng là 1 dụng cụ của nghề mài cắt hột soàn. Tiếng tạch tè quen thuộc và ấm áp vẳng vào tai hai người đàn ông. Bức điện khá dài. Kênô phủ kín một trang giấy toàn bằng chữ số.

Ghi xong bức điện, nàng tắt máy, mở ngăn kéo lấy ra hộp thuốc lá Con Mèo 50 điếu vợi non nửa. Nàng chọn một điếu ở giữa, rút thuốc, dốc đổ tất cả vào lòng bàn tay. Điếu thuốc chỉ đựng 1 dúm nhỏ ở hai đầu, ruột nó là một cuộn giấy nhỏ xíu, mỏng tanh. Giấy này bằng vàng y dát mỏng tối đa nên tuy bề ngang của nó chỉ bằng cái ruột bút chì, khi mở ra nó thành 1 hình vuông, mỗi cạnh đo được 20 centimét. Tờ giấy được kẻ nhiều ô vuông nhỏ bằng mực đen, với những chữ số li ti. Nó là ” cẩm nang ” giúp Kênô hiểu được nội dung bức mật điện. Văn Bình nổi danh về tài dịch mật mã cũng phải khen ngợi Kênô. Thoáng 1 lát, nàng đã làm xong. Trên bàn, trong tầm tay nàng có 1 chồng tự điển. Đủ loại tự điển. Tiếng Tàu. Tiếng Y pha nho. Tiếng Anh. Nàng đặt quyển tự điển Y pha nho trước mặt, mở 1 trang trắng ở gần cuối, châm thuốc lá Con Mèo hút rồi phà khói xuống giấy. Những nét tim tím lần lượt hiện ra. Đây là bản đồ vùng duyên hải Quảng châu, sát nách Macao. Trên bản đồ, nhiều giẫy chữ nối đuôi nhau chi chít. Kênô nghiên cứu 1 phút, đoạn dùng bút chì màu vẽ 1 đường ngoằn ngoèo từ Macao chạy vào nội địa Hoa lục. Sợ lầm, nàng soi kiếng lúp vẽ lại lần nữa. Nàng thở phào, bồ hôi giỏ giọt trên trán:

– Biết rồi… thảo nào…

Văn Bình chỉ đầu ngón tay vào đoạn cuối của nét chì mỡ đỏ tươi, hỏi:

– Vợ con Chicô hiện bị giam tại đây?

Kênô gật đầu:

– Vâng. Đúng như em đoán trước và trình báo về Trung ương. Họ chọn nơi này tức là họ đã đề phòng trường hợp chúng ta đột nhập và giải cứu các nạn nhân. Nó là một ngọn đồi. Trại giam nằm trên đỉnh. Trên đỉnh đồi hoang…

Chú thích

  1. tác giả đã nói kỹ về luật chơi phán thán trong ” Vệ nữ đa tình “.
  2. câu chuyện tình của Bacara và Z.28 được thuật lại trong ” Riô, đảo tình bốc cháy ” đã xuất bản.
  3. Las Vegas và Macao chơi khác nhau: tại Las Vegas, ghi 15 số trúng, trúng 8 số là được ăn, còn tại Macao ( chủ sòng tham hơn ), phải trúng từ 7 số xấp lên.
  4. đại để 1 số quy luật như sau: vé 60 xu (Mỹ) một tấm, trúng 5 số thì ăn 5 đôla, trúng 6 số thì ăn 50 đôla, trúng 7 số thì ăn 1.100 đôla, trúng 8 số thì ăn 12.500 đôla. Muốn ăn 25.000 đôla, phải mua 12 đôla / vé và trúng 6 số, hoặc 3 đôla / vé và trúng 7 số…
  5. Pauline Bonaparte ( 1780 – 1825 ), biết yêu vũ bão từ năm 14 tuổi, nhiều lần lập gia đình, và có nhiều người yêu.

CHƯƠNG 9 – CẦU VÀNG

Kênô cũng lẩm bẩm theo:

– Sống chết, có số cả. Nhiều người đã chết không có nghĩa là chúng mình sẽ chết ở đồi Cầu Vàng.

Văn Bình hỏi Kênô, giọng vẫn bình tĩnh như thường lệ:

– Tên ngọn đồi này là Cầu Vàng à?

– Phải. Muốn đến tận trại giam phải qua 1 con suối lớn, nước chảy ào ào như thác, có 1 cây cầu chênh vênh bắc ngang, gọi là Cầu Vàng. Đúng ra, Cầu Vàng là 1 tên lịch sử. Nó là một cây cầu ở Nin cheang foo, xây toàn bằng đá trong thế kỷ 17. Dạ cầu được chạm đục công phu hình con rồng khổng lồ. Lưng rồng được bào nhẵn làm đường đi vào vườn ngự uyển của nhà vua trồng hoa thơm cỏ quý, và nuôi chim lạ. Cung phi mĩ lệ của vua ở trong vườn, thường dân không được bén mảng đến gần. Nhiều kẻ trái lệnh vì muốn chiêm ngưỡng sắc đẹp giai nhân đều bị chém đầu. Để ngăn cấm triệt để mọi thâm nhập tò mò, nhà vua sai đào hầm chông, và đặt bẫy ngầm quanh cầu, và trên con đường độc nhất dẫn vào vườn. Nơi này được gọi là Cầu Rồng Vàng. Dần dà, gọi tắt là Cầu Vàng.

– Đã có người chết ở đồi Cầu Vàng?

– Có. Và rất nhiều. Theo chỗ em biết, năm ngoái GRU sô viết mất 2 người. Đầu năm nay đến lượt 2 điệp viên MI-5 Anh quốc.

– Họ đến đó làm gì?

– Cứu đồng nghiệp của họ.

Đại tá Pít có vẻ băn khoăn:

– Như vậy nghĩa là Văn Bình bị đưa vào chỗ chết. Tính mạng của vợ con Chicô quan trọng thật đấy, song tính mạng của chúng mình không phải đồ bỏ. Văn Bình đi, tôi ở lại, điều này làm tôi không yên lòng. Đề nghị cô Kênô thỉnh thị ý kiến của Xung thằng.

Kênô nhún vai:

– Vô ích. Mọi việc đã được chuẩn bị đầy đủ.

Ngoảnh sang Văn Bình, nàng hỏi:

– Anh nghĩ sao?

Văn Bình đáp:

– Chẳng nghĩ sao cả. Tôi chỉ đợi giờ ra bến tàu.

– Anh bỏ rơi em?

Văn Bình bàng hoàng:

– Cô cùng đi với tôi ư? Không được. Việc này là việc của đàn ông.

– Nam nữ bình quyền từ lâu. Anh đừng khinh phụ nữ chân yếu tay mềm.

– Tôi đâu dám khinh, nhưng…

– Có 3 điều khiến anh không thể đổ bộ lục địa 1 mình. Thứ nhất, em đã ngấy cuộc sống tù túng trong bàn giấy và cửa hàng kim cương. Những đêm thức trắng bên sòng kênô càng làm em chán chường thêm. Em đang cần một cuộc đổi gió, 1 cuộc vật lộn gay go với Tử thần để phục hồi quân bình tâm não. Do đó, anh không được phép từ chối. Thứ hai, anh chỉ có thể cấm Kênô đi theo, chứ không thể cấm giám đốc trú sứ CIA tại Macao. Em thay mặt ông Sì Mít ở đây, dầu sao anh chỉ là khách. Thứ ba, nếu anh vượt quyền giám đốc trú sứ, chắc chắn anh sẽ thất bại.

Văn Bình nhăn nhó:

– Tôi chịu thua. Hiện cô nắm trong tay bản đồ trại giam Cầu Vàng?

Kênô cười ròn rã:

– Anh nói đúng. Thiếu bản đồ này, anh không thể tiến được 1 bước, chứ đừng nói là xuyên qua hàng rào radar, tàu tuần duyên, đèn pha dọc bờ biển, và các bãi mìn Hoa lục. Em chỉ ngấy cuộc sống tầm thường, song chưa muốn chết yểu. Anh yên trí. Em đã mua chuộc được 1 cán bộ chỉ huy trong đội tuần duyên. Đêm nay, hắn chờ em trên bờ biển Quảng châu. Với sự giúp đỡ của hắn, anh có thể đổ bộ an toàn. Nào, chúng mình khởi hành.

Đại tá Pít chìa tay:

– Chúc cô thuận buồm xuôi gió.

Kênô thúc cùi chỏ vào thùng nước lèo khá đồ sộ của viên ” sứ giả lưu động ” của ông tổng giám đốc CIA, giọng châm biếm:

– Kiêng cữ, nghe không anh? Trước khi đi vào đất chết, chúc sống là điềm rủi. Em phải đánh anh, chẳng phải vì em hỗn xược, mà vì theo tập tục, em trả cái xấu lại cho anh.

Pít ôm bụng, mặt méo xệch. Kênô thương hại:

– Anh đau hả?

Pít đáp:

– Không. Có gì mà đau.

Y nói bằng giọng run run, chứng tỏ món chẩu quyền bất ngờ của người đẹp làm y suýt hụt hơi. Vì tự ái của giống đực, y phải nói cứng. Kênô liếc xéo Văn Bình:

– Còn anh, sao anh chưa đánh để xả sui?

Kênô đã nói, lẽ nào chàng gác ngoài tai. Chàng bèn gõ ngón tay vào khớp xương vai của đại tá Pít. Chàng chỉ chạm nhẹ như gãi ngứa mà Pít vẫn kêu ” oái ” 1 tiếng chói tai. Kênô kéo ghế cho Pít:

– Anh ngồi đây chờ Hansen. Gần sáng, công việc hoàn tất, em sẽ đãi các anh 1 chầu mai quế lộ. Thứ ngon độc nhất vô nhị, ủ chế từ hơn nửa thế kỷ, trước cuộc cách mạng Tân Hợi.

Bỏ mặc đại tá Pít ủ rũ ôm bụng và ôm vai, Văn Bình theo gót Kênô sang phòng bên. Nàng dận giày cao gót -loại giày tấc mốt đế nhọn dành cho dạ hội- và mặc áo bó cứng như áo thun của vũ công, nghĩa là những thứ tuyệt đối bất tiện cho những cuộc hành trình vất vả. Vượt biên, thâm nhập trại giam Cầu Vàng trước mũi Tình báo Sở không phải là chuyến đi ngoạn cảnh. Chàng muốn yêu cầu nàng thay đồ song không dám hé răng. Vấn đề phục sức là cấm địa đối với những cặp trai gái mới quen nhau, người đàn ông biết phép lịch sự không nên bình phẩm.

Đây là phòng ngủ của nàng. Văn Bình chóa mắt trước 2 cái tủ gương cao, dài, kê sát tường. Bề dài mỗi cái độ 5 mét. Bên trong quần áo treo mắc 1 giẫy dài lê thê. Mấy trăm bộ là ít. Đàn bà ăn diện thường may sắm nhiều. Chàng là đực rựa mà còn có hàng tủ, hàng rương, nhiều bộ com lê và giày dép chưa bao giờ dùng đã lên meo lên mốc, huống hồ Kênô là phái yếu, nhất là phái yếu có nhan sắc quyến rũ. Tại Sàigòn, chàng từng thấy phòng ngủ kê 2 tủ quần áo đầy ắp. Các nữ nhân viên Biệt Vụ lỗi lạc của ông Hoàng như Thu Thu, cô gái đeo sợi giây vàng với những cái khánh reo leng keng ở cổ chân. Katy, nữ lưu nghiện màu trắng tinh nguyên. Nguyên Hương, nữ bí thư ông tổng, người tình không bao giờ lên xe hoa của Văn Bình. Và Quỳnh Loan, người vợ có con không bao giờ cưới… đều khét tiếng về số lượng sở hữu y phục, xêm xêm từ 200 bộ quần áo, và từ 100 đôi giày dép trở lên.

Nhưng so sánh với Kênô, họ còn thua xa.

Sở dĩ phụ nữ đẹp cần may sắm nhiều là vì màu sắc và mốt kiểu mỗi năm, có khi mỗi mùa, luôn luôn thay đổi. Đằng này, tủ quần áo của Kênô chỉ gồm 1 màu duy nhất.

Màu tím.

Tím đậm, tím lợt, tím than, tím xanh, tím hoa cà, tím tía, tím trơn, tím chấm, tím bóng, tím mờ… thôi thì đủ thứ màu tím khác nhau. Mốt may cũng gần như không thay đổi. Đồ tàu thì độc 1 thứ sường sám cổ điển: có cổ, hở nách. Đồ đầm thì sơ mi và quần. Điều lập dị là trong khi phụ nữ 5 châu hoảng hốt chạy theo mốt quần rộng và áo đuôi tôm thì mấy trăm cái quần của nàng vẫn giữ kích thước trung dung, mấy trăm cái áo của nàng vẫn trung thành với lối cắt chân phương: trước sau bằng nhau.

Kênô nhanh nhẹn bước vào góc:

– Anh chờ em 1 phút.

Văn Bình quay lưng lại cửa phòng tắm. 1 phút của Kênô sẽ được kéo dài thành… 10 phút. Tuy vậy, nàng đã phá kỷ lục về mặc nhanh. Văn Bình từng gặp đàn bà ” 1 phút ” úm ba la thành… 100 phút. Cửa phòng tắm mở khá rộng, tất cả những gì diễn ra trong phòng tắm được tủ kính đựng quần áo phản chiếu rõ ràng. Chàng đang mỉm cười 1 mình thì Kênô từ phòng tắm nói vọng ra:

– Anh Z.28?

Chàng rướn tai:

– Cô gọi tôi?

– Không lẽ em gọi em. Anh coi chừng đấy.

– Địch lẻn vào trong này?

– Anh Z.28 dễ thương ơi, anh đừng đánh trống lảng nữa. Chẳng có ai, ngoài anh và em. Và anh nên coi chừng em… lần này em tha, lần sau anh sẽ bị em trị tội.

– Tội gì?

– Tội anh rất nặng: ai cho phép anh hành nghề y sĩ?

Khiếp. Kênô quả là đàn chị về tài quan sát. Nàng đã khám phá ra sự nhìn trộm của chàng. Chàng bèn cười trừ:

– Xin cô chớ giận. Tôi nhìn cô thật đấy, song chẳng thấy được gì hết.

– Anh cận thị?

– Mắt tôi rất tốt. Thày thuốc bảo rằng đến năm 90 tuổi, tôi cũng chưa cần đeo kiếng. Tôi cận thị vì trên người cô chỉ thấy hào quang chói lòa.

Kênô chạy bổ ra, ôm chàng. Nàng vui hồn nhiên như con nít. Không hiểu sao chàng lại có cảm tình sâu đậm với nàng. Dường như cảm tình này có sẵn trong lòng chàng từ lâu. Nó chìm lắng dưới đáy, đột nhiên những cơn sóng dữ cuốn kéo nó lên trên mặt nước. Nàng đội mũ lưỡi trai màu tím. Mặc sơ mi và quần tím. Xăng đan mỏng tím. Văn Bình chợt hiểu: chàng có cảm tình tự nhiên với nàng là do ” đồng bệnh tương lân “. Nàng cũng thuộc vào lớp người tỉnh mà không tỉnh, say mà không say. Lớp người có quá nhiều nghị lực, quá nhiều tài năng thiên phú đến nỗi biến thành điên tàng, lập dị như chàng. Chàng vốn ưa phụ nữ mặc đồng màu. Hồi gặp Katy chuyên mặc đồ trắng bất luận xuân hạ thu đông, chàng đã đặt hỗn danh nàng là ” nữ đại tá “. Đại tá ở đây là đại tá Mel lít 1, 1 người Anh cát lợi gắn bó mật thiết với màu trắng. Nhưng màu trắng chưa ảnh hưởng đến chàng nhiều bằng màu tí. Chàng chưa tìm ra lý do. Có lẽ vì màu tím là màu tri kỷ của ông Hoàng.

Mối tình giữa ông Hoàng và Văn Bình còn cao hơn tình cha con, tình đồng chí 1 bậc. Những gì ông Hoàng yêu thích, Văn Bình đều yêu thích, tuy chàng không nói ra, và không công khai nhìn nhận. Ông tổng giám đốc Hoàng nặng nợ với màu tím vì ngày xưa vợ ông, bà Maria, mê màu tím. Bà từ trần, để lại 1 di vật chứa chan kỷ niệm: cái áo lót mình màu tím. Từ đó, ông luôn luôn mang di vật này bên mình. Màu tím, màu của hoa đổng thảo, được coi là tiêu biểu cho sự khiêm tốn. Thuở còn để chỏm, Văn Bình học võ vỡ lòng, được thày truyền dạy cho đức tính khiêm tốn, đức tính bắt buộc phải có để trở thành võ sĩ vô địch 2. Khiêm tốn cũng là đức tính bắt buộc phải có trong nghề điệp báo hành động. Văn Bình luôn luôn cố gắng để học hỏi đức tính khiêm tốn của ông Hoàng. Giống ông, chàng mặn nồng với hoa đổng thảo 3.

Trời ơi, màu tím trên thân thể Kênô y hệt màu tím đáng yêu, đáng nhớ của hoa đổng thảo. Chàng bèn xiết chặt eo nàng. 2 người mới gặp nhau lần đầu mà như đã thân nhau từ lâu lắm. Chàng bắt đầu gọi nàng bằng ” em ” âu yếm. Nàng tắt đèn phòng ngủ, dẫn chàng xuống cầu thang. Nhà dưới là ga ra. Chiếc Pontiac 2 cửa dài ngoằng và đồ sộ của nàng choán quá nửa diện tích. Văn Bình hỏi;

– Ngồi chung xe với em không sợ lộ ư?

Nàng đáp:

– Trước kia thì không, nhưng từ mấy ngày nay chắc có nhân viên Tình báo Sở bí mật canh chừng tiệm hột soàn của em. Em lái xe đêm hoài, đêm nào cũng chơi kênô gần sáng mới về. Em còn có thói quen chạy vòng vòng để hóng mát. Giờ này địch thấy em cũng không nghi ngờ gì đâu.

– Còn anh?

Kênô mở cốp xe, kéo bật lên:

– Anh nằm trong cốp. Thùng xe Pontiac dư chỗ cho 2 người. Cốp xe có đèn sáng, lại được điều hòa khí hậu đàng hoàng, khỏi sợ nghẹt thở. Cần gì, anh cứ liên lạc với em. 2 bên sườn xe có máy vi âm, anh nói thầm em cũng nghe được rõ ràng, và anh cũng vậy…

Văn Bình trèo vào thùng xe. Nàng cúi xuống hôn môi chàng. Máy điều hòa thuộc loại cực mạnh. Nàng vừa cho xe chạy, không khí chung quanh chàng đã mát rợi. Sàn cốp được lót 2 cái mền len êm ái. Dẫu không có mền len, Văn Bình cũng không lo. Ống nhún xe Mỹ êm ái không thua giường lò xo Hồng kông. Cốp xe được trang bị 1 bộ ống viễn kính đặc biệt. Nó gồm 4 lỗ tròn, mỗi lỗ ăn thông với 1 hệ thống kiếng nhìn xa và khuếch đại, mỗi lỗ phụ trách 1 hướng. Nhờ nó, chàng nằm ép trong cốp mà vẫn thấy hết mọi việc xảy ra phía trước, phía sau, và cả 2 bên hông 4.

Xe từ từ lăn bánh khỏi ga ra. Kênô ngồi trước vô lăng, bấm nút điều khiển, cửa ga ra mở và đóng bằng hơi điện. Tiếng nàng thánh thót trong ống nghe:

– Thoải mái không anh?

Chàng đáp:

– Thoải mái.

– Em bắt đầu lái vào đường lớn đây. Anh theo dõi ống kiếng nhìn sau xe. Hễ có gì khả nghi anh cho em biết.

Kênô phóng nhanh rồi giảm tốc độ. Rồi phóng nhanh. Nàng thay đổi tốc độ như vậy nhiều lần. Và nhiều lần nàng quẹo trái, quẹo phải liên miên, trước khi chạy thẳng hướng đông bắc, cách đền Quan âm 1 quãng thì đậu lại. Đền này là thắng cảnh của đảo, du khách thường đến tận nơi để ngắm tận mắt cái bàn băng đá lịch sử nơi được ký hiệp ước đầu tiên giữa Hoa Kỳ và Trung hoa, cũng như pho tượng của 1 vị la hán giống Marco Polo như tạc 5. Người ta chưa cắt nghĩa được tại sao nhà thám hiểm Tây phương theo đạo Thiên chúa này lại hiện diện trong 1 ngôi chùa Phật giáo?

Tứ phía yên tĩnh. Qua ống nhòm, Văn Bình thấy 1 cây đa khổng lồ, cây cổ thụ độc đáo của đền Quan âm. Kênô vòng xe. Giọng nàng cất lên:

– Anh thấy rõ bên kia không?

” Bên kia ” là Hoa lục. Đây là Porta do Cerco, vùng đất cuối cùng giữa Macao và Trung cộng. Viễn kính hồng ngoại tuyến có khác, Văn Bình thấy rõ như ban ngày mặc dầu ánh trăng yếu ớt không khắc phục nổi màn đêm và sương mù dầy đặc. Du khách chỉ được phép đến gần 100 mét, và không được chụp hình. Kênô đậu xe xa hơn nhiều, nhưng Văn Bình vẫn có cảm tưởng biên giới Hoa lục đang ở trong tầm tay. Kênô nói:

– Vượt qua cổng đồn 50 cây số thì tới con đường độc đạo dẫn lên đồi Cầu Vàng. Mình phải đi vòng nên lộ trình dài gấp đôi.

Xe hơi đổ dốc. Lát sau, Kênô tắt máy. Nàng nói:

– Em xuống trước, 5 phút sau đến lượt anh. Bên trái có 1 lối đi nhỏ. Gần 200 mét, phía dưới là nơi neo canô. Hansen và em chờ anh trong canô.

– Còn chiếc Pontiac?

– Hansen sẽ lái về.

Văn Bình hé nắp thùng xe. Kênô đã chọn nơi xuống thuyền này thật thích hợp. Không 1 bóng người. Những tia trăng sáng đã bị đỉnh cây cao ngăn chặn. Ngoại trừ sóng biển trắng xóa, tất cả đều tối.

Chàng đợi đúng 5 phút rồi dùng đầu đội cốp xe lên, nhảy xuống cát. Chàng mới nằm bất động nửa giờ đồng hồ mà tay chân ngứa ngáy, đau nhức. Lối đi độc đạo kêu rào rạo dưới chân chàng. Tiếng lá khô bị nghiến nát ban đêm gieo vào lòng chàng cảm giác rờn rợn. Chàng không nhận định được nơi này là đâu. Chàng đoán chừng ở phía nam Macao. Trời tối đến nỗi chàng chỉ thấy lờ mờ đường chỉ bằng kền óng ánh trên sườn canô. Chàng nghe tiếng đằng hắng của đàn ông. Chắc là Hansen. Rồi giọng nói quen thuộc của Kênô:

– Trên ấy có gì lạ không anh?

Chàng đáp nho nhỏ:

– Không.

Kênô từ sau màn sương mù hiện ra cùng 1 người Mỹ cao lớn. Hắn giơ bàn tay chào chàng đoạn lùi lũi trèo lên mặt đường. Văn Bình đặt chân xuống sàn thuyền máy. Chàng chỉ bóng đen vạm vỡ đang nhòa dần trong đêm:

– Hansen?

Nàng đáp:

– Vâng. Anh ta hoạt động ở đây đã lâu. Nói tiếng tàu không thua người tàu chính hiệu bao nhiêu. Địa hình địa vật thuộc làu làu.

– Tại sao Hansen không được giao nhiệm vụ vượt biển giải cứu vợ con Chicô?

– Nhân viên Tình báo Sở ở các đồn duyên hải và trại giam Cầu Vàng đều là võ sĩ Thiếu lâm từ cấp trung đẳng trở lên, 1 số lại xuất sắc về nội ngoại công. Hansen mới đai đen nhu đạo và karatê được mấy năm nay, chưa đáng mặt đối thủ. Em nghe nói anh là võ sĩ độc nhất vô nhị, chắc chắn đêm nay em được thưởng thức đã đời…

– Anh thua thì khốn.

– Chẳng sao. Anh nghĩ coi: muốn dự khán những trận đấu vô địch quốc tế, dân sành điệu phải tranh nhau mua vé chợ đen để ngồi gần võ đài. Hàng trăm triệu người ôm cứng màn ảnh nhỏ trong buổi truyền hình trực tiếp. Đàng này em được thưởng thức độc quyền, có bị thiệt thân nữa, em cũng không oán thán. Vả lại, còn lâu em mới chết.

Canô lướt nhẹ ra khơi. Nó nhỏ bằng nửa tốc đĩnh, loại thuyền máy gắn pa tanh chở khách trên đường khứ hồi Hồng kông – Macao. Tất nhiên nó chạy nhanh gấp đôi. Trên thực tế, tốc độ của nó xấp xỉ với xe hơi trên bộ. Người không quen đi biển bắt buộc phải nôn ọe mật xanh mật vàng. Trong khi ấy, Kênô dựa lan can ngắm xe cộ và trai thanh gái lịch tới lui, lui tới, dưới đường phố.

Văn Bình là tri kỷ của nước, tri kỷ của sóng biển. Chàng yêu biển nên yêu sự bềnh bồng hồ hải. Trên một phạm vi nào đó, kiếp sống lênh đênh ” phiếm thủy đào hoa ” đã khiến chàng yêu nghề gián điệp hành động. Nghề thủy thủ cũng như nghề gián điệp, ít ai vượt quá 40 tuổi chưa phải về hưu. Thốt nhiên Văn Bình nghĩ đến tuổi đời mỗi năm một gia tăng của mình. Thằng Văn Hoàng đã 10 tuổi. một chân của ông tổng giám đốc Hoàng sắp tuột kề miệng lỗ. Và chàng nữa. Cả chàng nữa. Tre già, măng mọc. Dầu chàng là đệ nhất võ sĩ, đệ nhất điệp viên, dầu chàng có khả năng thiên phú giữ vững được tuổi xuân, chàng vẫn không tránh khỏi định luật đào thải tàn nhẫn.

Kênô tì mạnh vào hông chàng:

– Anh nghĩ gì thế?

Văn Bình bật tỉnh:

– Không.

Rồi nhanh trí đánh trống lảng:

– Quái, thuyền máy lại chạy ra xa bờ?

Kênô đáp:

– Vâng, phải ra thật xa, ngoài tầm viễn kính cực mạnh của các đồn duyên hải Hoa lục rồi mới quẹo vào, chọn nơi khuất cho chúng mình xuống. Kìa, thuyền trưởng.

Boong canô hoàn toàn vắng vẻ. Thủy thủ đoàn dường như được lệnh lánh mặt. Người lạ có cảm tưởng đây là con tàu ma, tự nó điều khiển, không cần máy móc, nhân sự và xăng nhớt. Kẻ được Kênô giới thiệu là thuyền trưởng trạc 50 tuổi, gương mặt dầy dạn phong sương, phục sức xuềnh xoàng với bộ vét túi kín cổ màu đen bằng vải thô, và mũ kết không đính phù hiệu. Đến gần 2 người, y nói:

– Mời ông bà theo tôi.

Hai người bước vào một cabin rộng ở giữa thuyền máy. Đây là phòng riêng của thuyền tưởng, dường như để giành cho những cuộc bàn luận kín đáo nên không trổ cửa sổ, vách lót ny lông hãm thanh, và được điều hòa khí hậu.

Thuyền trưởng nhìn Kênô:

– Thưa bà, “Con heo” đã được chuẩn bị xong xuôi. Tôi đang cho tàu chạy vòng tròn theo chỉ thị đã định. Chừng nào cần “Con heo”, bà báo trước cho tôi 3 phút. Bà ấn chuông màu đỏ này, tôi sẽ có mặt.

Thuyền trưởng chỉ cái nút đỏ trên bàn. Cái bàn hình bầu dục gắn vào sườn tàu.

– Chào bà. Chào ông.

Thuyền trưởng lùi lũi quay ra, cửa cabin đóng lại. Kênô ngồi xuống cạnh Văn Bình:

– Chúng mình có đúng nửa giờ. Nào, chúng mình xét soát lại lần cuối các chi tiết về điệp vụ “Con heo”.

Tiếng “Con heo” gợi ý nghĩa đẹp trong điệp vụ đổ bộ lục địa sắp tới của Văn Bình. Ông nhà giàu CIA bị thất trận chua cay trên vịnh Con Heo ở bờ biển Cuba khi họ giùng giằng nửa muốn yểm trợ không quân, nửa muốn bỏ rơi du kích chống Castro khiến cuộc cờ bị lật ngược. Bởi vậy, cuộc đổ bộ lần này phải thành công mỹ mãn.

Đến gần Quảng châu mà quên “Con heo” thì quả là vô tình và vô tài về nghệ thuật ẩm thực. Quảng châu là thủ phủ của tỉnh Quảng đông, và tỉnh Quảng đông là thủ phủ của nghệ thuật quay heo sữa. Đành rằng người dân bản xứ không còn được nhậu nhẹ linh đình như xưa, du khách ngoại quốc vẫn tìm thấy món heo sữa quay ngon nhất thế giới trong 3 nhà hàng ở Quảng châu mang cái tên tình tứ là Bắc Viên, Nam Viên và Đông Viên.

Điệp vụ đổ bộ được đặt mật danh “Con heo” là do một căn nguyên khác. Ấy là Văn Bình và Kênô phải dùng “Con heo” để rời tàu, rẽ sóng vào bờ Hoa lục. “Con heo” là tiếng lóng của đội người nhái trong thế chiến thứ 2 để gọi một loại tàu ngầm bỏ túi được phe Trục sử dụng chống lại hải quân đồng minh ở địa trung hải. Đại để nó dài bằng 2 chiếc xe hơi Mỹ, hình nó thuôn tròn như điếu xì gà, đường kính hơn nửa mét, nó chạy bằng bình điện rất êm, tốc độ từ 3 đến 5 cây số giờ, 16 cây số mới hết điện. Mũi nó gắn 1 ống thủy lôi đặc biệt chứa 300 kí thuốc nổ. Mỗi con heo do 2 người nhái điều khiển, nó lặn ngầm dưới nước, dính ống nổ vào vỏ chiến hạm đồng minh rồi sau đó ống nổ tự động khai hỏa 6.

“Con heo” của Văn Bình được chế tạo theo công thức tương tự, nhưng về công dụng thì hoàn toàn khác -vì nó phục vụ các hoạt động gián điệp- kỹ thuật cũng hoàn toàn khác. Dựa trên công cuộc khảo sát của Viện Khoa học Sinh vật Hoa Kỳ về cá mập, nó núp sau bề ngoài 1 con cá mập búa cỡ lớn. Có nhiều loại cá mập, nhưng tựu trung có thể phân biệt 5 thứ: nhỏ nhất là cá mập xanh, lớn nhất là cá mập trắng, không kể cá mập voi dài từ 15 đến 20 mét, dữ tợn nhất là cá mập hổ, và cá mập búa. Gọi là cá mập búa vì đầu nó phình ra như cái búa đinh 2 đầu. Thân nó nhẵn thín, không gồ ghề như cá mập hổ, đuôi nó phân làm 2 nhánh nhọn hoắt. Tàu ngầm bỏ túi mang hình thù cá mập để di chuyển dễ dàng trong những vùng có cá mập ăn thịt người. Cá mập xê dịch không nhanh mấy, 6 – 7 cây số giờ là cùng, song hàng năm nó có thể bơi 1 quãng xa gấp rưỡi vòng địa cầu, nên ở đâu nó cũng có thể có mặt. Nó ưa thích những nơi nước biển từ 13 đến 20 độ bách phân, nghĩa là nước biển của nhiều vùng trên thế giới. Cá mập thật đụng cá mập thép thường rút lui… có trật tự. Lại còn có lợi đôi khi nước trong, và giữa ban ngày trời nắng, cá mập thép có thể bơi gần bờ, không sợ bị lính canh phát giác.

Thuyền trưởng hướng dẫn Văn Bình và Kênô xuống tầng hầm sâu dưới mặt nước. Văn Bình vẫn không gặp thủy thủ. Những cầu thang uốn bằng nhôm trắng óng ánh tưởng như soi gương, cạo râu được. Lát tích màu đỏ tươi trải khắp sàn tàu, lấy ngón tay quẹt cũng khó bắt được bụi. Sau cùng 2 người đến cabin chứa “Con heo”. Văn Bình giúp Kênô mặc bộ đồ lặn. Nàng nghiện màu tím đến nỗi bộ đồ lặn của nàng cũng bằng cao su tím, và đồ lót mỏng mà chàng thấy sau khi nàng cởi bỏ quần áo cũng chói rực màu tím hoa cà.

“Con heo” cá mập nằm thưỡn giữa cabin. Phải đến gần và nhìn kỹ người ta mới khám phá ra là cá giả vô tri vô giác. Trên lưng nó có 2 chỗ lõm, đó là ghế ngồi. Nó gồm đủ bộ phận điều khiển cần thiết. Tốc độ của nó nhanh hơn tốc độ của “Con heo” thế chiến thứ 2, và cá mập trên đại dương rất nhiều. Tầm hoạt động cũng được nhân 3, mặc dầu bình ắc cu điện nhỏ xíu. Văn Bình đeo lên lưng cái túi lớn bọc vải dầu không thấm nước đựng khí giới và đồ nghề. Thuyền trưởng coi đồng hồ:

– Như đã định, tôi sẽ lảng vảng ngoài hải phận quốc tế. Trong trường hợp gặp trục trặc, quý vị muốn về sớm hoặc về muộn, xin quý vị liên lạc với tôi.

Thuyền trưởng toan nói thêm câu kết thúc thường lệ ” quý vị cần hỏi điều gì nữa không? ” thì có hồi chuông báo động reng reng làm y đứng khựng. Y chộp lấy ống nghe. Phụ tá của y từ trên boong báo cáo xuống:

– Thưa có biến. Một chiếc trực thăng đeo cờ hiệu Hoa Kỳ vừa từ bờ bay ra, sửa soạn lượn trên đầu.

– Kệ nó.

– Thưa, 1 khoái đĩnh của đội tuần duyên sắp đến nơi. Trời quá nhiều sương mù nên ta không nhìn thấy. Có thể họ sẽ lục soát tàu mình. Tôi đã áp dụng các biện pháp cần thiết. Yêu cầu ông cho thêm chỉ thị.

– Chừng bao lâu khoái đĩnh mới cặp sát tàu mình?

– Thưa, chừng 5 phút. Kể cả việc ra hiệu và cử người sang tàu mình phải mất 10 phút trở lên.

– Được. Chờ tôi trên boong.

Thuyền trưởng chạy lại góc cabin, 1 chân đặt lên bậc thang, miệng nói với Văn Bình:

– Mời quý vị an vị. Tôi mở cửa cho nước biển tràn vào.

Nhiều tiếng ào ào nổi lên. Nước biển ùa vào như thác lũ. Trong khoảnh khắc, cabin khô ráo ngập lút đầu. Động cơ của tàu ngầm bỏ túi “Con heo” đã nổ thật nhẹ, nhẹ như tiếng thì thầm. Kênô ngồi sau Văn Bình, chân thõng 2 bên, lưng được dây da buộc chặt.

Rrr… Rrr…

Chiếc tiềm thủy đĩnh tí hon băng thẳng ra đại dương mênh mông. Trên đường đổ bộ. Trên đường dẫn đến Cầu Vàng, nơi chờ sẵn những sứ giả hung hãn của Tử thần.

Chú thích

  1. tức Mellish, ông chuyên dùng mũ trắng, com lê trắng, vớ trắng, mặt bôi phấn trắng, thậm chí tóc giả cũng trắng. Tuy nhiên, Henry Cope, mê màu xanh lục, còn lập dị hơn Mellish nhiều, mặc xanh đã đành, thoa phấn cũng xanh, chỉ ăn thức ăn xanh như trái cây và rau, biệt thự toàn xanh, giường nệm xanh, và nằm ngủ dưới cái đồng hồ lớn có 2 cây kim xanh.
  2. về lai lịch màu tím và mối tình sầu thảm này, xin đọc ” điệp viên áo tím “, Z.28, xuất bản năm 1969.
  3. hoa đổng thảo là hoa violette ( violet ).
  4. hệ thống trang bị trong cốp xe này đã được nhiều sở gián điệp đông tây bắt chước áp dụng.
  5. nhà thám hiểm nổi danh ở thế kỷ 13 và 14, từ Âu xuyên Mông cổ qua Á, đến tận Nam dương. Ông từng phục vụ 17 năm dưới triều vua Mông cổ.

6. những “Con heo” đầu tiên dài 6m50, đường kính 0m53, và được đem sử dụng cuối năm 1941. Người nhái nổi danh nhất là đại úy Luigi Durand de La Penne của hải quân Ý đại lợi, từng làm nổ 1 chiến hạm Anh, bị bắt cầm tù, và còn sống.