Trầm Tử Thiêng

Trầm Tử Thiêng: Người Nhạc Sĩ Của Thời Cuộc

Nguyễn Ngọc Chấn

Vào một chiều cuối năm, tôi và nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng không hẹn mà gặp trong một quán vắng. Cali bị El Nino hoành hành, lúc nắng, khi mưa, đang nắng chang chang, mây đen bỗng kéo đến, mưa trút xuống ào ạt. Ngồi chờ nắng, uống đến tuần trà thứ ba, trời chưa tạnh hẳn, bị mưa gío cầm chân, tôi bèn gợi ý để nghe Trầm Tử Thiêng tâm sự về quá trình sinh hoạt văn hóa của anh.

Tôi vẫn gọi anh là một nhạc sĩ của thời cuộc, Bất chợt chính tôi bị cuốn hút vào một cuộc đời rất ngoạn mục của người bạn từ 30 năm nay. Thế nhưng, tôi lại thất bại, một lần nữa, lại với câu hỏi: “Tại sao lại là “TRẦM-TỬ-THIÊNG”? Anh vẫn cười bí mật, lắc đầu với tôi như đã lắc đầu với hàng chục người, hỏi anh từ mấy chục năm trước. Thì thôi, anh có lý của anh, tôi xin chào thua. Năm 1971 tôi biệt phái về Bộ Văn Hoá Giáo dục, trình diện phòng Truyền hình học đường, Trung tâm học liệu. Tôi vô cùng thích thú gặp lại Trầm Tử Thiêng, được làm chung trong cùng một nhiệm sở. Chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm trong suốt 3 năm tại Trung Tâm Học Liệu. Sau biến cố 1975, tôi nhanh chân đi trước, Trầm Tử Thiêng kẹt, 10 năm sau gặp lại, chúng tôi tiếp tục sinh hoạt mật thiết hơn tại thủ đô tỵ nạn. Là một nhà giáo, xếp bút nghiên theo việc kiếm cung, trong thời gian gần 10 năm tại ngũ, tôi đã góp mặt trong nhiều đơn vị, nhiệm sở, chức vụ, khoác những mầu áo, kỳ hiệu khác nhau. Tuy có những gian truân, khó nhọc nhưng tôi vô cùng trân quí những ngày được mặc quân phục. Dù là một chuyên viên vận tải hay một trưởng đoàn quân xa, sát cánh với các chiến đoàn Biệt động quân. Dù là một ký gỉa chiến trường hay là một thuyền trưởng tiếp vận tôi luôn luôn hãnh diện về những đóng góp khiêm nhường của cá nhân mình, cũng như chuyên ngành Quân vận của tôi. Những ký ức ấy đã giúp cho tôi thêm chất liệu hiếm quí, để khi trở về nhiệm sở dân sự, tô điểm cho kỹ thuật điện ảnh của tôi phong phú hơn, đa năng hơn sau này. Tương tự như tôi, Trầm Tử Thiêng may mắn hơn, mặc quân phục nhưng công việc có ít nhiều liên quan đến sở trường âm nhạc của anh. Là một quân nhân phục vụ tại Cục Tâm Lý Chiến, Trầm Tử Thiêng đã theo dõi cuộc chiến, điều nghiên lãnh vực tâm lý, từ tiền đồn đến hậu phương, từ trung tâm huấn luyện đến quân y viện. Nơi anh phục vụ được góp nhặt những tin vui chiến thắng, xen kẽ với những bất hạnh của đồng bào bị kẻ thù bách hại. Từ những dữ kiện chung quanh ấy, anh trở thành chứng nhân của cuộc chiến. Như các sử gia viết nên những trang quân sử, Trầm Tử Thiêng dùng khuông nhạc ghi lại hành trình cuộc chiến, chiếm mất một quãng đời thanh xuân của chúng tôi. Chứng nhân qua âm nhạc. Nếu sách sử được lưu trữ trong kho tàng văn khố quốc gia, thì nhạc Trầm Tử Thiêng đi vào kho tàng nhạc Việt của dân gian. Âm nhạc có lợi thế phổ thông, đại chúng dễ ghi sâu vào lòng người, loan truyền mau lẹ và bén nhậy hơn sử sách. Rất sớm, từ cuối thập niên 50 Trầm Tử Thiêng đã bắt đầu sáng tác nhưng mãi đến giữa thập niên 50, tác phẩm anh mới có dịp được phổ biến trên các đài phát thanh và truyền hình… Trầm Tử Thiêng mơ màng dẫn tôi về những ngày cuối năm 1967. Trong lúc đồng bào chuẩn bị đón xuân. Cả nước chào đón những giờ phút linh thiêng nhất của một năm. Như một số anh em quân dân chính được phép ở nhà, đang chuẩn bị cúng ông bà, Trầm Tử Thiêng bị gọi trở lại Cục Tâm Lý Chiến sau nửa đêm giao thừa, để đón nhận những tin chẳng lành của một trận chiến khốc liệt: trận tổng công kích tết Mậu Thân. Tin chẳng lành dồn dập báo về não bộ Cục tâm lý chiến: Giờ này, một tiền đồn bị địch quân tràn ngập, phút khác, một thôn xóm bị Cộng quân thiêu rụi, nơi đây, quân ta đẩy lui Cộng quân khỏi một khu phố, chỗ nọ, giặc phá nát một đoạn đường.
Những ngày kế tiếp Quân lực Việt Nam Cộng Hoà phản công mãnh liệt, bẻ gẫy kế hoạch tổng công kích của địch. Kẻ xâm lăng trở nên hung bạo, quay mũi dùi tàn sát thường dân cả nước. Cố đô Huế hứng chịu nhiều đau thương nhất, cầu Trường Tiền gẫy một nhịp, cắt đứt con đường huyết mạch thân quen của đất thần kinh. Xuân Mậu Thân Cảm thông với nỗi xót xa của người dân xứ Huế, Trầm Tử Thiêng viết bài ca bất hủ

Chuyện một chiếc cầu đã gẫy:

không chỉ khóc than cho một nhịp cầu vô tri vô giác, nhưng, anh đã chia sẻ niềm đau, với hơn 4 ngàn gia đình Huế, gẫy nhịp với người thân trong những nấm mồ tập thệ Hàng chục ngàn đồng bào khắp nước, bị bức tử ngay trong những giờ phút linh thiêng nhất của một niên lịch. Nhạc phẩm “Chuyện một chiếc cầu đã gẫy” trở thành bản kinh cầu tang chung của đất nước. Nhạc phẩm này đã dính liền với hàng chục ngàn sinh mạng, chết tức tưởi trong dịp tết Mậu thân. Cho đến nay, đồng bào vẫn hát mãi bài ca và Tết vẫn là ngày giỗ chung cho cả nước, đông đảo nhất vẫn là gia đình đồng bào xứ huế.
Sang năm, để kỷ niệm 30 năm sau Tết Mậu Thân đồng bào sẽ khoác lại vành tang, tưởng niệm người quá vãng, Trầm Tử Thiêng sẽ gợi lại cho chúng ta vết thương của một nhịp cầu gẫy.
Thu Mậu Thân. Vành khăn xô chưa mục, Huế chưa ráo lệ, mùa thu năm ấy lại gặp thêm tai hoạ,lần này Trầm Tử Thiêng sáng tác một ca khúc bi thương khác, xót xa, chua chát cho đồng bào ngoài nớ, tai trời giáng xuống sau cái họa do con người gây ra. Nhạc khúc

Tôn nữ còn buồn

Nhạc khúc Tôn nữ còn buồn nói về trận bão lụt vĩ đại, tàn phá miền trung, trong đó anh mở đầu bằng lời than não nuột. Thay vì câu: sau cơn mưa, trời lại sáng, anh hát rằng: “sau cơn mưa, trời vẫn thế sao em!” rồi Trầm Tử Thiêng viết tiếp: “Giặc về còn đánh, còn xua, ai đi ngăn nổi gió mưa của trời! Dù mai con nước chưa vơi, mưa bão tơi bời, vẫn về thăm em…” Trầm Tử Thiêng không là một nhạc sĩ viết bài ca tuyên truyền, anh dùng nét nhạc để ghi lại những giai thoại lịch sử, đôi khi có gởi gấm một vài phê phán với cảm xúc đầy nhân bản của một bộ môn nghệ thuật, ngợi ca những mối tình trong thời chiến, những lần hẹn hò, những xao xuyến chờ mong, những lo âu bồi hồi, những cách ngăn ly biệt.

Bên các anh có chúng tôi. Phục vụ tại cục tâm lý chiến Trầm Tử Thiêng, theo dõi, cập nhật hoá các mặt trận, nhiều ca khúc anh ghi lại chứng tích kiêu dũng của các chiến sĩ quân lực việt nam cộng hoạ Anh rất hãnh diện được đóng góp khả năng sáng tác vào quân vụ của mình. Trầm Tử Thiêng sáng tác rất nhiều, một số nhạc phẩm được phát xuất từ ngưỡng cửa đời binh nghiệp như: “Quân trường vang tiếng gọi”, “Đêm di hành”, “Mưa trên poncho” ..v..v. đó là một vài nhạc phẩm được anh em hát nhiều.
Sau những ca khúc viết cho người tân binh, Trầm Tử Thiêng đi song song với nhịp bước của các chiến sĩ, anh đã đến nhiều tiền đồn, khích lệ tinh thần chiến đấu của chiến sĩ. Thăm viếng, ủy lạo, chia sẻ nỗi đau với anh em thương binh tại quân y viện. v…v.
Dõi theo bước chân các trận đánh hào hùng, Trầm Tử Thiêng viết lên những bài ngợi ca tinh thần các chiến sĩ .Thời gian này có đến hàng chục ca khúc. (tiếc thay anh không lưu trữ được, vì sau biến cố 1975 các ca khúc này đã trở thành tai họa, anh đã phải thiêu hủy một số, và, thất lạc nhiều trên bước đường lẩn tránh).
Thời gian này Trầm Tử Thiêng phối hợp với các phái đoàn chiến tranh chính trị vùng, các sinh viên, học sinh tổ chức các chuyến viếng thăm tiền đồn. “Ðưa em vào hạ”, một ca khúc mang hình ảnh khá cảm động mà anh muốn gởi gấm đến người hậu phương:
-“Mùa hè năm nay, anh sẽ đưa em rời phố chợ đôi ngày, qua miền xa mà nghe rừng thiêng gọi lạ
-Tiếng nỉ tiếng non, khi chiến trường năm yên thở khói. Ðứa bé nhìn cha đang chờ giặc dưới giao thông hào”.
Viếng thăm tiền đồn gây cho anh nỗi xúc động, có đến tận nơi chúng ta mới thấy cuộc sống thật của anh em lính chiến, vợ con họ phải sống ngoài chiến tuyến, những bé thơ mon men bên giao thông hào nhìn cha cầm súng chờ giặc.
“Bài vinh thăng cho một loài chim”, anh viết cho phi công Trần Thế Vinh, người chiến sĩ không quân đã kiêu hùng hạ 21 xe tăng bắc việt, trong trận chiến mùa hè đỏ lửa, sau đó phi cơ của anh hùng Trần Thế Vinh đã bị việt cộng bắn hạ.
Mười năm tang thương (1975-1985) Sau khi cuộc chiến chấm dứt, Trầm Tử Thiêng còn ở lại Việt Nam. May mắn tránh né khỏi đi học tập cải tạo, sinh hoạt văn hóa của anh bị chậm lại. Trầm Tử Thiêng thuộc thành phần ngụy. Trong suốt cuộc chiến nhiều ca khúc anh sáng tác, ca ngợi sự chiến đấu dũng cảm của quân lực Việt Nam Cộng hòa. Một số bài hát trong đó có “Chuyện một chiếc cầu đã gẫy” và “Bài hương ca vô tận” biến thành bản án của anh đối với chế độ, nhạc anh bi khép vào loại văn hóa phản động, được đưa về bắc bộ phủ để nghiên cứu từ nhạc đến lời.
Thời gian này Trầm Tử Thiêng trốn tránh, tìm đường vượt biên nhiều lần nhưng bất thành, bị bắt ở tù. Tại khám lớn rạch gía, Trầm Tử Thiêng viết bài “Tâm ca của người tù vượt biển”, sau đó anh bị đầy xuống trại cải tạo lao động U minh, sống chung với anh em công chức cao cấp và sĩ quan QLVNCH.
Xót xa nhìn những người hùng một thời, nay sa cơ nằm trong tay giặc, một buổi chiều từ láng nhìn ra, từng đám tù cải tạo, sau một ngày lao động trở về, tả tơi như những thây ma, tủi nhục, Trầm Tử Thiêng viết nên bài “Hành ca trên nông trường oan nghiệt”:
“Anh em độ vài trăm, anh em độ vài ngàn, anh em chừng vài mươi vạn, chới với dưới mặt trời hắc ám, như không hẹn hò ai, đau thương chung một ngày. Ngước mắt anh em nhìn nhau. Cười vang vương đồng loại. Bao năm chưa nghỉ ngơi Ðiêu linh qua từng thời. Anh em mù loà nhân đạo, đua nhau nuôi thù hằn tiếp nối.
Những tình khúc chia ly. Thời gian mười năm kẹt lại với nhà cầm quyền cộng sản, Trầm Tử Thiêng vẫn sáng tác, ghi dấu những cuộc chia ly: Người vượt biển ra đi, kẻ tìm đường di tản, Trầm Tử Thiêng viết một số ca khúc như: “Gởi em hành lý” như một lời nhắn gởi ra nước ngoài, cảm nhận nỗi đau thương nơi quê nhà, những phút chia ly thật cảm động. Kế đó là những bài “Tình khúc sau cùng” “Một thời uyên ương” ; ” Dứt bão, bắt đầu nước mắt”.
Ca khúc nói đến chia ly có những bài như “Người ở lại đưa đò”, nói về một người cựu chiến binh Việt nam cộng hòa, ở lại, làm nghề đưa đò cho người vượt biển. Bài đưa đò thứ hai, cảm động hơn chí tình hơn: “Mẹ Hậu Giang”. Ngày xưa bà mẹ Hậu Giang đưa đò cho những người con theo kháng chiến chống Pháp, đánh đồn, sập bóp. Giai đoạn kế, bà mẹ bị lôi cuốn vào cuộc chiến, nhưng lại không ở cùng chiến tuyến với ta, hỗ trợ con theo chiêu bài kháng chiến. Sau khi quê hương bị chụp mũ bởi mỹ từ “giải phóng” mẹ Hậu Giang bừng mắt, nhận biết mình bị lừa, bà lại đưa đò chở những người con lần lượt bỏ nước ra đi sau năm 1975. Trầm Tử Thiêng viết rằng:
“Mẹ Hậu Giang âm thầm quày dìa hậu giang, chèo chống thêm cảnh ly tan ly tan, tình mẹ hậu giang. Ngày xưa thương con đưa đò, ngày nay thương con đưa đò”
Cuối cùng Trầm Tử Thiêng cũng thoát đi sau khi để lại nhạc khúc đầu tiên, ghi dấu giai đoạn đầu đen tối của đất nước, gói ghém trong bài “Du ca trên thành phố đỏ”, “Một thời uyên ương”
Nhắc đến “du ca”, xin mở một cái ngoặc kép, nói về một thể nhạc khác của Trầm Tử Thiêng, viết cho tuổi trẻ trong phong trào du ca. Thời gian đó, anh đã về Trung tâm học liệu, gần gũi hơn với hoạt động giới trẹ Lúc bấy giờ thanh thiếu niên bị xao xuyến trước những biến động thời cuộc, họ cảm thấy lạc lõng, lo sợ trước viễn tượng của đất nước.
Trầm Tử Thiêng cùng các nhạc sĩ thân hữu khởi xướng phong trào du ca, hát tập thể, ràng kết những người trẻ với nhau, nối nối vòng tay nhau, nhìn rõ mặt nhau, tìm ý nghĩa cho cuộc sống, xoá đi mặc cảm lạc lõng.
Hiện nay phong trào du ca cũng vẫn được phát triển tại hải ngoại, Trầm Tử Thiêng vẫn hăng hái đóng góp như lúc anh trẻ lại 20 năm trước. Nhạc “du ca” của Trầm Tử Thiêng nổi rõ trong thời hiệp định Paris, khi mọi người chờ đợi hình ảnh của môt ngày hòa bình. “Hòa bình ơi ! Việt nam ơi! đã được phổ biến mạnh mẽ đến với mọi người. Nhưng bài “Làng hòa bình giả tưởng” mới chính là điều anh cảm nhận thời bấy giờ. Con sâu thoát khỏi cái kén. Trở lại với Trầm Tử Thiêng, khi đến trại tỵ nạn anh tiếp tục sáng tác hăng hơn, tự do hơn. Tự ví mình như con sâu, gói tròn trong cái kén, 10 năm sau mới mọc cánh, mới cắn lũng nổi cái vỏ để thoát ra, bay đi thành cánh bướm:
“Ta như con sâu, 10 năm nhốt đời trong cái kén, cố xé đau thương từng đêm đen. Mộng tìm một không gian rộng thênh thang, trút nỗi đau và ca lên….
Trầm Tử Thiêng không vì cái kén đã kềm hãm anh 10 năm mà trở thành cùn nhụt. Anh vẫn tiếp tục sáng tác. Bên cạnh những bài viết cho cuộc sống mới như “Mười năm yêu em” , “Chợt nghĩ về hai nơi”, “Hãy ngủ yên tình yêu”, anh vẫn khắc khoải hướng về đất nước bằng tâm trạng của kẻ lưu vong. “Ðêm nhớ về sàigòn” là một điển hình:
“Ta như cậu bé mồ côi. Cố vui cuộc sống nhỏ nhoi. Cố quên ngày tháng lẻ loi để lớn: Ðể đêm đêm nhớ về sàigòn…..
Giai đoạn chao động. Vừa đặt chân đến hải ngoại Trầm Tử thiên chào ra mắt bằng ca khúc “Mười năm yêu em”. Qua cái nhìn khách quan, đó là một tình khúc, nhưng bên trong, Trầm Tử Thiêng có gởi gấm, ẩn dụ, nói với những người sống ở hải ngoại đang thấy mỏi mệt với cuộc sống mới. Trong “Mười năm yêu em” anh cảm nhận phần nào khác biệt với tâm trạng mỏi mệt của người khác. Cuộc sống nơi bến bờ tự do là lý tưởng, thực sự đối với anh, nhưng, nhiều người không ý thức cái lý tưởng đó, có thể họ đã để lý tưởng quá cao, trước khi bước chân đi, khi va chạm thực tế, họ bị hụt hững. Trầm Tử Thiêng lưu ý hai tiền đề trong Mười năm yêu em:
“Dường như trong ta em có điều tuyệt vọng! Dường như trong em ta vẫn đầy hoài mong.”
Ðó là điều Trầm Tử Thiêng nói đến giữa lý tưởng và con người. Lý tưởng gọi con người là “EM”, mang thông điệp tình yêu. “EM” có thể thất vọng với lý tưởng, nhưng lý tưởng thì làm sao biết thất vọng
Giai đoạn nổi trôi.
Ðược chắp cánh bay, được hít thở cái không khí tự do, Trầm Tử Thiêng trân trọng những ưu ái đọ Ðường anh đi chỉ gặp những ngọn sóng lăn tăn làm mình chao đảo, gập ghềnh. Nhưng nhìn về hướng Ðông, anh nghĩ đến hàng trăm ngàn đồng bào vẫn còn lênh đênh trên biển. Trong các trại tỵ nạn, hàng chục ngàn người còn gặp khó khăn, tình trạng định cư bi đát lắm. Trầm Tử Thiêng viết cho trại tỵ nạn ca khúc “Trại tỵ nan Galang” lúc ở Indonesia.
Hướng về biển Ðông anh chia sẻ bằng ca khúc “Ta hát tình thương về biển đông”. Ai đã từng lênh đênh trên biển, biết hàng ngày đồng bào vẫn lũ lượt bỏ đi, bất chấp tình trạng sức khoẻ, phương tiện chỉ là những chiếc thuyền mục rữa.
Con tầu Tình thương về biển Ðông cứu vớt bao người khỏi cơn thịnh nộ của tạo hoá, cũng như, dành lại những người dân yếu đuối khỏi bàn tay thô bạo của bọn hải tặc.
“Ta hát tình tương về bển Ðông” là thông điệp của một người từ biển vừa bám được đất liền, gởi cho người đang sống bình yên trên đất liền:
“Ta ca vang cho mỗi hy vọng vượt cao hơn thủy triều.Ta ca vang cho tắt bão bùng, đại dương cũng hòa theo…..”Xin hẹn tấm lòng mang tình thương muôn nơi mãi vì tình người. Ðất liền vẫn đầy dẫy tai biến như bao bất hạnh ngoài khơi…
Giai đoạn cảm thương.
Những biến cố của thế giới đôi khi cũng ảnh hưởng đến đời sống tình cảm của anh. Cuối năm 89, toàn thể khối cộng sản Ðông âu hoàn toàn tan rã, anh nghe như một tin mừng. Bài “Từ mùa xuân Ðông âu” đã biểu lộ nỗi vui mừng..đầy nước mắt đó:
“Có lúc ta mơ thật lạ lùng.Thấy đất quê ta ươm mầu xuân.Người bạn Ðông âu ơi, hãy nhớ,quê ta cũng chờ một mùa xuân..”
Nhìn về trại tỵ nạn mỗi ngày mỗi tàn lụi đi, lương tâm nhân loại đã cằn cỗi theo tháng năm. Chánh sách định cư ngày một thay đổi, gây khó khăn cho những người còn kẹt lại trên các hải đảo. Hàng ngàn trẻ em mồ côi, có em sinh ra, lớn lên ngay trong hàng rào kẽm gai trại tỵ nạn, chưa từng một lần bước ra khỏi khuôn viên nhà tù, không một tia sáng cuối đường hầm. Yếu tố ấy thúc đẩy Trầm Tử Thiêng viết lời ca bài “Bên em đang có ta” dựa theo ý và nhạc của Trúc Hồ:
“Cha yêu em thiết tha mang gởi con cho tình người. Mặc đại dương mênh mông khoác lên thân nhỏ nhoi….”
Cũng như trước đó anh đã viết cho các trại tỵ nạn (đã đóng cửa). những bài “Nói với Hồng kông”, “Thà chết nơi này”..v..v.
Ca khúc “Bước chân việt nam”, một lần nữa Trầm Tử Thiêng viết lời cho nhạc Trúc Hồ, đánh dấu 20 năm tỵ nạn. Nghe bản nhạc như xem một khúc phim từ ngày đầu, người việt tỵ nạn, ngơ ngác bước chân ra khỏi quê hương điêu tàn, túa ra sống trên bao nhiêu đất nước xa lạ. Thế rồi, sau 20 năm cần cù nhẫn nại, cố gắng bơi chèo, nhiều người Việt Nam đã thành công rực rỡ. Ðến nay, hầu như nơi nào trên thế giới cũng có những bước chân của người Việt Nam, ở đâu chúng ta cũng cố gắng vươn lên và mạnh hơn. Trong”Bước chân Việt Nam” Trầm Tử Thiêng và Trúc Hồ cũng gởi lời cám ơn thế giới tự do đã giang tay đón nhận, cưu mang những người lưu lạc, cho chúng ta cơ hội tạo dựng cuộc sống tốt lành.
Niềm xúc cảm sâu xa.
Thế rồi khi các quốc gia tự do, vì áp lực kinh tế khó khăn, người tỵ nạn bỗng trở thành gánh nặng cho họ, thế giới đồng lòng ngỏanh mặt làm ngơ trước nỗi lo âu của hàng chục ngàn đồng bào còn kẹt trong các trại tạm cư. Viễn tượng bị trả lại nơi họ đã hy sinh cả mạng sống để ra đi. Cánh cửa tự do khép lại, xua đuổi người việt tỵ nạn. Nỗi tuyệt vọng dâng cao, nhiều người tự tử thay vì bị cưỡng bách hồi hương về với chế độ cộng sản.
Trong lúc ấy chỉ có Phi luật tân đã can đảm, đơn phương chấp thuận cho người việt được lưu lại, lập nghiệp tại quốc gia họ, dưới sự bảo bọc của hội đồng Giám mục Phi. Nguồn tin naỳ như một gáo nước cứu người đang chết khô, cái phao cho người sắp chết đuối. Trầm Tử Thiêng xuất thần viết bài “Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng”, diễn tả nỗi vui mừng của những người Việt Nam khỏi bị cưỡng bách hồi hương.
“Hãy nói cho mọi người cùng nghe; “người đã cứu người” “Hãy nói cho mọi người cùng nghe: “làng Việt Nam đang xây thêm bên ngoài Việt nam”…..
“Một ngày Việt Nam” viết chung với Trúc Hồ, Trầm Tử Thiêng nói lên niềm mơ ước của người việt nam lưu vong, thoát khỏi những đau thương của trăm năm này, nghìn năm nọ.
Bài này những người Việt Nam bị chính quyền cộng sản bán đi lao động tại các quốc gia Ðông âu cảm thấy tác giả diễn tả đúng, cảm thông với tâm trạng của ho Khi Việt cộng cần ngoại tệ, đã xuất khẩu họ ra nước ngoài như những tên nô lệ, bán đi để trả nợ. Vì không muốn trở về sống với bạo tàn vô nhân đạo, những công nhân lao động này trốn tránh ở lại, sống lạc lõng tại các quốc gia Ðông âu. Trong khi đó cộng đồng Việt tỵ nạn vẫn chưa hoàn toàn cảm thông, chấp nhận họ vào đại gia đình tỵ nạn. Những lần họp mặt với nhau, họ cùng hát lên bài “Một ngày Việt Nam” như một bản quốc ca mới cho một nhóm người Việt lưu vong vô tổ quốc. Ā ớc cứu người đang chết khô, cái phao cho người sắp chết đuối. Trầm Tử Thiêng xuất thần viết bài “Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng”, diễn tả nỗi vui mừng của những người việt nam khỏi bị cưỡng bách hồi hương.
Cộng sản Việt Nam lên án bài “Một ngày việt nam”, cho là một khúc ca cực kỳ phản động:
“Từng vòng tử sinh quay thấm thoát cũng vài ngàn năm, nhiều lần nằm mơ, ôi đất nước bao lần đổi mới”
Anh cố tình dùng chữ “đổi mới” của Cộng sản, phác họa mấy ngàn năm lịch sử Việt nam, nhưng cộng sản vẫn mặc cảm tự ti với hai chữ đổi mới này Một sự đổi mới mỗi ngày thêm tệ hại và tang thương. Ðổi mới ra sao:
“Bằng cuộc bể dâu, xương trắng vẫn cao nghệu thành non, Giòng máu vẫn tuôn trào thành sông. Chưa thấy bóng thanh bình một lần ! Sau đó anh mạnh dạn kêu gọi tình ruột thịt: Dù nhục dù vinh, xin hãy hát vang lời Việt nam. Hãy tựa vào lòng nhau, ơi những trái tim cùng dòng máu.” 
Chứng nhân thành quả.
Tháng 4 năm 1997 Trầm Tử Thiêng tháp tùng phái đoàn báo chí, văn nghệ sĩ hải ngoại đến tham dự lễ khánh thành “Làng Việt nam” ở phi luật tân. Các anh đã chứng kiến ngôi “làng Việt nam đang xây, bên ngoài Việt nam” (lời bài có tin vui).
Thành quả của gần 2 triệu dollars do đồng bào hải ngoại đóng góp, trợ giúp, xây dựng ngôi làng Việt nam cho dân tỵ nạn, được chính phủ Phi luật tân cho phép ngụ cư vĩnh viễn trên quê hương ho Theo anh đây là một chuyến đi thật cảm động và lý thú.
Từ đốm lửa Thái bình Xuân lộc.
Khi đồng bào quốc nội nổi dậy chống lại bạo quyền việt nam, phát xuất từ vựa lúa Thái bình. Các đảng viên cộng sản về vườn, sau khi dâng trọn đời cho chủ nghĩa cộng sản. Bạo quyền đàn áp thân quyến những cựu chiến binh của ho Cuộc nổi dậy của Thái bình làm nức lòng đồng bào hải ngoại, quyết tâm yểm trợ cuộc đấu tranh của ho Trầm Tử Thiêng vội viết ca khúc “Từ đốm lửa Thái bình Xuân lộc”, tức tốc thâu thanh suốt đêm để kịp thời trình diễn trong ngày biểu tình tháng 9 tại Little Sàigòn. Trong ngày biểu tình, với 12,000 đồng bào tham dự, ca khúc từ đốm lửa Thái bình Xuân lộc được trình diễn liên tục, trên các làn sóng radio tại little sàigòn, và tiếp vận đến các tiêu bang khắp Hoa kỳ.
Bài này viết:
“Những nhánh lúa đã được cấy xuống, dân làng ta về nhà chợ Nghĩ đến lúc có hạt thóc mới, đêm nào cũng nằm mơ.
Nhưng người dân Thái bình cũng như cả nước đã bị bọn cường quyền ác bá bóc lột không thương tiếc:
“Nếu tránh thoát những phường ác bá, cũng gặp bọn cường quyền.’
Ðồng thời phía nam, đồng bào giáo dân Xuân lộc cũng nổi lên chống chính phủ, đòi lại quyền tự do tín ngưỡng. Hiện nay đã lan rộng tới đồng nai Cộng sản đàn áp cuộc nổi dậy, nhưng họ biết những người đang bị họ cưỡng bức cũng là những đồng chí của họ trong suốt quá trình năm mươi năm xây dựng chủ nghĩa cộng sản:
“Năm mươi năm bơi chèo chới với,trong hồ ao đục ngầuNăm mươi năm chung đường sớm tối,đã nhìn rõ mặt nhau.”
Trong “Hãy vui lên, khi lòng còn biết buồn” anh kêu gọi mọi người hãy tiếp tục nuôi dưỡng và duy trì tình cảm bén nhạy của đời sống. Trong đó Trầm Tử Thiêng nói đến hai điểm nóng thời sự:

  • Trường hợp cơ quan NASA thám hiểm hoả tinh, thâu thập dữ kiện, hy vọng có đời sống và một tia hy vọng con người có thể lên sống trên ấy trong tương lai.
  • Trường hợp thứ hai, Pete Peterson, một người tù binh của Cộng sản Việt nam ngày trước, đã trở thành một nhà ngoại giao, đại diện cường quốc mạnh nhất thế giới, làm đại sứ tại quốc gia đã cầm tù ông. Văn phòng đại sứ không mấy cách xa nơi giam ông suốt sáu năm trước.
  • Bài Exodus, nhạc của Ernest Gold, Trầm Tử Thiêng viết lời việt: “Lưu vong khúc của người Việt nam” (6/97), nói lên thân phận của người Việt qua những thời chiến tranh và những cuộc dời đổi, chia ly, dưới cái nhìn của một người Việt lưu vong. Hy vọng độc gỉa đã có dịp thưởng thức và thấm thía qua 2 ca khúc mới này trên video Hollywood night 17.

Trên 30 năm sáng tác, Trầm Tử Thiêng đã có trên dưới 300 ca khúc, bao gồm những bài tình ca viết cho lứa đôi, hàng trăm ca khúc viết cho thiếu nhi, trong khoảng thời gian anh phụ trách chương trình phát thanh học đường tại Trung tâm học liệu, với hai cố nhạc sĩ Lê Thương và Hùng Lân, phát tuyến trên đài phát thanh quốc gia (không đề cập trong bài viết này). Một số tác phẩm của anh đã trở thành bất Tử, gắn liền tên anh với những biến chuyển, thăng trầm của đất nước.Trầm Tử Thiêng còn đóng góp nhiều tình khúc mang đầy nhân bản từ cảm xúc bén nhạy của anh.
LỜI CUỐI CHO ANH.
Khi tìm đọc lại bài viết này thì hàng ngàn thân hữu, khán, thính gỉa ái mộ đến với anh lần cuối, để tiễn đưa TRẦM TỬ THIÊNG về nơi yên lành. Trong cuộc sống trên 60 năm đầy ý nghĩa, anh đã để lại nhiều tuyệt phẩm, hàng triệu người đã hát theo anh. Anh chỉ giã từ cõi tạm nhưng nơi này anh đã trở thành bất tử trong lòng mọi người.
Là một người bạn trong suốt 35 năm; Từ các quân trường Quang Trung, Ðà Lạt, Thủ đức, nào những chuyến ủy lạo thương binh, đến viếng thăm tiền đồn, và rồi 3 năm cuối tại Trung Tâm Học Liệu. Tôi và anh Trầm Tử Thiêng có hàng trăm kỷ niệm. Cuộc đời đầy nghiệt ngã, dù anh còn nghị lực nhưng định mệnh đã thắng, cướp anh đi khi anh vừa kiệt lực.
Xin cúi đầu giã biệt anh. Hẹn một ngày không xa, mình sẽ xum họp dưới sự quan phòng của Thượng đế.
Vĩnh Biệt TRẦM TỬ THIÊNG

Nguyễn Ngọc Chấn
Xuân 2000

( Bài này được trích lại từ Dactrung.com)

BÊN EM CÓ TA

NHẬT THỊNH

Thoáng nhẹ như nụ hôn thoảng trên đôi môi hồng, Trầm Tử Thiêng đi vào cõi vĩnh hằng nay đã mười năm, một tổ chức nọ đã mượn tên một nhạc phẩm của Trầm Tử Thiêng “Bên em đang có ta” dùng làm chủ đề cho một chiều ca nhạc. Nhắc tới tên Trầm Tử Thiêng, không mấy ai quên một sự kiện diễn ra ở Washington, một buổi văn nghệ được tổ chức để gây quỹ vận động cho 2000 thuyền nhân ở Phi Luật Tân có điều kiện định cư tại Hoa Kỳ. Người ta nghĩ tới một nhạc phẩm của Trầm Tử Thiêng có nhan đề “Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng”, sáng tác tháng 8 năm 1896, do Khánh Ly ca, âm hưởng thanh thoát, trầm lắng, tạo nhiều ấn tượng sâu sa khi chính phủ Phi Luật Tân chấp thuận cho thành lập tại địa phương một làng Việt Nam, sau khi những người tỵ nạn bị cưỡng bách hồi hương oan nghiệt. Các thuyền nhân sau nhiều tháng ngày lênh đênh trên sóng gió đại dương, tưởng phải lìa khỏi thiên đường tự do trở lại chốn địa ngục cũ, không ngờ định mệnh đã cứu vãn số phận họ. Ngoài ra, Trầm Tử Thiêng còn viết bản “Bên em đang có ta”, như thế là có hai nhạc phẩm được phổ biến trong các buổi sinh hoạt cộng đồng và công tác xã hội từ thiện.

Người ta còn nhớ cách đây mười năm, cái chết do bệnh tim quái ác của Trầm Tử Thiêng, lúc 8 giờ 55 ngày 25 tháng 1 năm 2000 tại Anaheim West Medical Center, Anaheim, hỏa thiêu tại Peek Family, Westminster, California, trong sự lạnh lẽo, cô đơn, ngoại trừ một người cháu túc trực bên cạnh, người bệnh vỏn vẹn còn ba mươi bảy mỹ kim tồn trữ trong ngân hàng. Nghệ sĩ nghèo xơ nghèo xác đến độ bất nhẫn, vậy mà những tháng ngày lâm trọng bệnh, Trầm Tử Thiêng nhất định không nhận một sự giúp đỡ nào từ các nơi. Họ tính tổ chức một đêm nhạc để cứu trợ. Trầm Tử Thiêng – một người có tư cách, không sàm sỡ, bất nhã với bất cứ ai, không giàu có, may đủ sống, nhưng giàu tình người, và không hề coi trọng tiền bạc hơn tác phẩm. Không mở miệng phê bình ác ý về người khác hay than thở khó khăn về tiền bạc, nói bóng nói gió người sản xuất lấy nhạc của mình mà làm ngơ không biết đến tác giả là ai. Những tháng ngày mắc kẹt ở Sài Gòn, đời sống nghiệt ngã làm nhiều người thay đổi tư tưởng, nếp sống, điều này đối với Trầm Tử Thiêng không hề có. Trầm Tử Thiêng đi về cõi vĩnh hằng, để lại cho người đời sau một số nhạc phẩm giá trị, ký thác trong đó biết bao nhiêu tư tưởng, suy tư về quê mẹ, nay đã nghìn trùng xa cách, khắc khoải, ưu tư về một Mẹ Việt Nam không thể cất dấu. Từ “Chuyện một chiếc cầu đã gãy”, qua những bản “Kinh khổ”“Mộng sầu”“Tưởng niệm”“Mười năm yêu em”…đến “Đêm nhớ về Sài Gòn”, Trầm Tử Thiêng viết nhạc thật nhân bản, đầy tình nghĩa dù qua nhiều hoạn nạn, điêu linh. Trầm Tử Thiêng ước mong có một ngày nào đó được“Vòng tay tình yêu người và người”. Cho nên dù qua bao loạn ly, phân tán, tình người có bị tiêu hao, đổ vỡ, Trầm Tử Thiêng vẫn kiên nhẫn chờ một ngày mai thật không ngờ tới,“Thù hằn anh em bỗng nhìn nhau gọi nhau thật đậm đà.” Mộng không thành, Trầm Tử Thiêng đành bỏ nước ra đi, đem theo khối tình quê, tự coi mình như đứa trẻ mồ côi quên đi năm tháng lẻ loi, cố vui cuộc sống nhỏ nhoi để hàng đêm tưởng nhớ Sài Gòn. Tưởng rằng Trầm Tử Thiêng là một “Gã si tình” mà thật ra thật chung tình. Một gã si tình quân tử ngoài xã hội. Cho dù đôi chân quá chậm chạp, Trầm Tử Thiêng vẫn “Mười năm yêu em” để “Xin em cùng ta hát để nhớ hoài”. Những lời ca đẹp nuột nà, óng chuốt, tràn ngập tình yêu, tình người và tình quê.

Trầm Tử Thiêng vóc dáng trông nhỏ bé, khắc khổ mà tính tình rất khiêm nhường, nhỏ nhẹ và không thích ồn ào, khoe khoang, nụ cười luôn rộng mở. Trầm Tử Thiêng tìm niềm vui trong âm nhạc, sống độc thân, im lìm từ trước đến nay. Gia đình còn tại Việt Nam, trừ vài người thân cư ngụ tại San Jose – California, Úc Châu, và một người cháu duy nhất tên Nguyễn Văn Trí gọi bằng bác, từng sống với Trầm Tử Thiêng cho tới thời gian gần đây, nay dời sang tiểu bang Florida để theo học một đại học trong vùng. Khi hay tin Trầm Tử Thiêng bị trọng bệnh Nguyễn Văn Trí đã tức tốc bay trở về tiểu bang California, sống gần Trầm Tử Thiêng trong những giây phút cuối cùng. Hai ký giả Lâm Tường Dũ và Du Miên đại diện gia đình, tổ chức tang lễ cho Trầm Tử Thiêng.

Trầm Tử Thiêng từ giã cõi đời đến nay đã khá dài, thời gian đó đã diễn ra nhiều cái tang, trong nước có : Văn Cao, Lê Thương, Hùng Lân, Dương Thiệu Tước, Y Vân, Hoài Linh, Trúc Phương, Lâm Tuyền, Đinh Việt Lang, Đỗ Lễ, Phạm Trọng, và ngoài nước thì có Thẩm Oánh, Phạm Đình Chương, Hoàng Trọng, Hoàng Linh Duy, Lê Uyên Phương, Văn Phụng và Trầm Tử Thiêng.

Trầm Tử Thiêng mắc chứng nan y, đến giờ thứ 25 của định mệnh còn bình tĩnh chống chọi với tử thần, chết bởi kiệt sức. Điều này cho hay trong mỗi hành động, Trầm Tử Thiêng luôn luôn suy nghĩ, cân nhắc và tính toán. Người vợ trước của Trầm Tử Thiêng đã “nghĩa tử là nghĩa tận” đúng theo đạo lý Đông phương uy nghi, đĩnh đạc đã âm thầm trở về chịu tang, một hình ảnh đẹp của truyền thống dân tộc, chan chứa tính nhân bản. Nhiều đồng nghiệp, thân quen và người mộ điệu từ mọi ải địa đầu đã về nhỏ lệ tiếc thương cho một tài hoa vội cất cánh bay xa, khi năng lực sáng tạo còn sung mãn.

Trầm Tử Thiêng tên thật Nguyễn Văn Lợi, sinh ngày 1 tháng 10 năm 1937  – có tài liệu ghi 1940 – tại huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, thời thơ ấu sống ở Liên Khu 5 Nam Ngãi, trải qua những năm tháng dài của chiến tranh nên đã hiểu rõ đời sống dưới chế độ cộng sản, nhờ đó sau này đã có một lập trường, một thái độ dứt khoát với chủ nghĩa Karl Marx. Trầm Tử Thiêng ca hát từ năm lên 10 ở vùng quê Nam Việt trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp những năm 1945-1950. Sau về Sài Gòn tiếp tục việc học và tham gia hoạt động âm nhạc tại các trường học và các đoàn thể trẻ. Trầm Tử Thiêng tốt nghiệp trường Sư Phạm, đứng trên bục giảng hít thở bụi phấn suốt từ năm 1958 tại trường Cầu Kho, sau dời về trường Phan Đình Phùng. Thực ra Trầm Tử Thiêng tham gia sinh hoạt văn nghệ từ các năm 1954 – 1955, làm thơ viết văn ký bút hiệu Đức Lợi và Tô Lãm trong thi văn đoàn của ký giả Lâm Tường Dũ, một người bạn rất thân của Trầm Tử Thiêng. Năm 1958, Trầm Tử Thiêng chuyển hướng sang lãnh vực âm nhạc, sáng tác nhạc cho đến cuối đời được 250 ca khúc gồm các đề tài về tình yêu, quê hương, chiến tranh, thân phận con người và thiếu nhi. Bản “Bài hương ca vô tận” nổi tiếng trong thời kỳ đầu soạn nhạc.

Trầm Tử Thiêng hoạt động trong Ban văn nghệ của Phong trào Truyền bá Quốc ngữ, chơi trong nhiều ban nhạc được thành lập khi bấy giờ, sinh hoạt cùng thời với các nhạc sĩ Văn Trổ, Trần Trịnh, Đinh Việt Lang, Song Ngọc…Trầm Tử Thiêng còn lên sân khấu trình diễn các ca khúc hài hước của Trần Văn Trạch, và tự biên tự diễn một số bài, ký bút hiệu Hữu Lợi. Năm 1960, đổi bút hiệu Hữu Lợi thành Trầm Tử Thiêng, chính thức bước vào con đường sáng tạo, được nhiều người mến mộ qua loạt nhạc viết riêng cho tình yêu như bản“Tình ca dọc đường”

Trong các năm 1961 – 1962 Trầm Tử Thiêng nối kết cuộc tình dang dở, sau nhiều năm xa cách vì thời cuộc. Nhờ động lực của mối tình hồi sinh này, Trầm Tử Thiêng viết loạt bài:“Tình ca dọc đường”, gồm nhiều nhạc phẩm đặc sắc như: “Tưởng niệm”“Hối tiếc”,“Mộng sầu”,“Người mang tên cô đơn”,“Bài hương ca vô tận.” Đa số các ca khúc này khi vừa hoàn tất, Trầm Tử Thiêng đã ôm đàn hát cho các bạn bè nghe để đóng góp ý kiến. Nói vậy cho vui, chứ thực ra Trầm Tử Thiêng ít khi nào chịu nghe ai để sửa chữa, thay đổi, vì khi sáng tác Trầm Tử Thiêng đã qua một quá trình gạn lọc với bản thân, rất cân nhắc, đắn đo.

Nói về chuyện góp ý, Nhật Ngân tên thật Trịnh Lâm Ngân, kể chuyện có một lần thu thanh tại phòng thâu Tùng Giang, hôm đó có một nữ ca sĩ ca bản“Tưởng niệm” của Trầm Tử Thiêng, lúc hát đến câu:“Đang mân mê cho đời nở hoa, chợt bàng hoàng đến kỳ trăn trối…” bỗng cô phì cười, bước tới gần Trầm Tử Thiêng, ỏn ẻn thưa:

-Anh Trầm Tử Thiêng ơi! Anh có thể tìm một chữ nào khác để thay thế cho chữ “mân mê” được hay không? Vì hễ mỗi khi hát tới chữ này em lại nín cười không nổi.

Tùng Giang và Nhật Ngân tỏ ra hoảng hốt, sợ Trầm Tử Thiêng nổi nóng, nhưng không, Trầm Tử Thiêng vẫn bình tĩnh như không, chỉ nhẹ nhàng  nói:

-Khi làm văn nghệ, em nên nghĩ tới chuyện trên lưng quần thì đẹp hơn…

Một lần khác, ca sĩ Vũ Khanh cho hay trong một lúc cao hứng đã “lỡ dại” khuyên Trầm Tử Thiêng:

-Này anh Trầm Tử Thiêng, trên bao thuốc lá có khuyến cáo đừng nên hút thuốc lá, sẽ có ngày bị ung thư phổi, tại sao anh cứ hút mà không sợ .

Trầm Tử Thiêng trừng mắt nhìn Vũ Khanh, nói theo giọng miền Nam:

-Mày hãy coi chừng, tao vặn cổ mày đó nghe Vũ Khanh, phổi của tao chứ đâu phải phổi của mày mà lo. Mấy thằng khuyên tao đừng hút thuốc lá, đều đã chết cả rồi.

Năm 1966, như mọi người cùng lứa tuổi phải “xếp bút nghiên theo nghiệp đao binh”, Trầm Tử Thiêng bị gọi động viên, lên đường nhập ngũ. Khi Trầm Tử Thiêng vào Trung tâm Huấn luyện Quang Trung thụ huấn quân sự giai đoạn 1 trước khi chuyển đi Đồng Đế, Nha Trang để kết thúc giai đoạn 2. Trong thời kỳ này Nhật Ngân phục vụ ở Ban văn nghệ Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, vì thế Nhật Ngân và Trầm Tử Thiêng thường đi khắp các bãi tập của quân trường để huấn luyện cho các tân binh hát các ca khúc Trầm Tử Thiêng đã sáng tác tại quân trường Đồng Đế như:“Thao trường đổ mồ hôi chiến trường bớt đổ máu”,“Giọt mưa trên poncho”,“Quân trường vang tiếng gọi”,“Đêm di hành”

Sau các nhạc phẩm viết cho người tân binh, Trầm Tử Thiêng đi song song với nhịp bước của các chiến sĩ, tới các tiền đồn heo hút nằm rải rác trên khắp bốn vùng chiến thuật, để khích lệ tinh thần chiến đấu của các binh sĩ, thăm viếng, úy lạo và chia sẻ nỗi đau đớn của những thương binh điều trị tại các quân y viện. Dõi theo bước chân các trận đánh hào hùng, Trầm Tử Thiêng viết các nhạc phẩm ngợi ca tinh thần các chiến sĩ. Thời gian này có hàng chục ca khúc đã được sáng tác, nhưng rất tiếc Trầm Tử Thiêng đã không còn lưu trữ được, bởi sau biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975, các ca khúc đã trở thành tai họa, một số bị thiêu hủy và thất lạc trên bước đường lẩn tránh. Trầm Tử Thiêng phối hợp với các phái đoàn chiến tranh chính trị các vùng chiến thuật, các sinh viên, học sinh tổ chức các chuyến viếng thăm tiền đồn. Bản“Đưa em vào hạ”mang nhiều hình ảnh khá cảm động mà Trầm Tử Thiêng muốn gửi đến người hậu phương:

“Mùa hè năm nay anh sẽ đưa em rời phố chợ đôi ngày, qua miền xa nghe rừng thiêng gọi lại.
Tiếng nỉ tiếng non, khi chiến trường nằm yên thở khói.
Đứa bé nhìn cha đang chờ giặc dưới giao thông hào”.

Viếng thăm nơi tiền đồn có lắm hình ảnh đã gây cho Trầm Tử Thiêng nhiều nỗi xúc động, có đến tận nơi mới chứng kiến được tận mắt cuộc sống thật của người lính chiến, vợ con họ phải sống ngoài chiến tuyến, những trẻ thơ mon men đến bên giao thông hào nhìn người cha mắt đăm đăm phía trước, cầm chắc súng chờ giặc. Bản “Bài vinh thăng cho một loài chim” Trầm Tử Thiêng diễn tả người phi công Trần Thế Vinh, đã kiêu hùng hạ 21 thiết giáp của cộng quân Bắc Việt trong trận chiến mùa hè đỏ lửa 1972, sau phi cơ của Trần Thế Vinh bị bắn rơi. Nên biết vào tháng 1 năm 1971, quân Mỹ hiện diện ở miền Nam chỉ còn có 140 ngàn người, riêng tại quân khu 1 lực lượng Mỹ đã rút toàn bộ, chỉ giữ lại có Lữ đoàn 196 Bộ binh để bảo vệ Đà Nẵng và căn cứ không quân Phú Bài. J. Pimlott trong tập Vietnam Decisive Battles tiết lộ đến cuối tháng 9 năm 1972 cộng quân Bắc Việt thiệt hại 100 ngàn người, trong khi miền Nam chỉ thiệt hại khoảng phân nửa.

Khi tốt nghiệp quân trường Đồng Đế, Trầm Tử Thiêng biệt phái về Phòng Văn Nghệ thuộc Cục Tâm Lý Chiến, cùng các nhạc sĩ Anh Việt Thu, Trương Hoàng Xuân, Đỗ Kim Bảng, Lam Phương, Duy Khánh…Trong suốt thời gian Trầm Tử Thiêng phục vụ tại đây, cứ mỗi thứ năm Nhật Ngân lại dẫn Ban văn nghệ Quang Trung lên Đài phát thanh Quân đội để thu thanh chương trình hàng tuần, họ tụ họp uống cà-phê tại câu lạc bộ hay ăn nhậu ở trước cổng Cục Tâm Chiến, có sự tham dự của Trần Trịnh, Anh Việt Thu, trái lại Trầm Tử Thiêng chỉ dùng nước ngọt. Trong bất cứ cuộc họp mặt hay vui chơi nào Trầm Tử Thiêng thường ít nói và luôn giữ thái độ chừng mực, ngay khi đối xử với các đồng nghiệp, bởi thế có người đã gọi đùa Trầm Tử Thiêng là“Thầy giáo Lợi”.

Vào khoảng thời gian này, vào những buổi chiều hay những ngày cuối tuần, Nhật Ngân thường tập trung những người viết nhạc trẻ như: Thanh Sơn, Mặc Thế Nhân, Nguyên Thảo, Giao Tiên, Vĩnh Sử, Hoài Nam, Thanh Phương, Ngọc Sơn, Hoàng Trang, Y Vũ, Trúc Phương, Song Ngọc, Trần Trịnh tại nhà hàng Kim Sơn, góc đường Lê Lợi và Nguyễn Trung Trực, đối diện nhà xuất bản, phát hành nhạc Minh Phát, Diên Hồng uống cà-phê hay nhậu nhẹt và theo dõi thị trường phát hành nhạc từ hai nhà phát hành này. Những lần gặp gỡ đó họ tổ chức chơi hốt lú, hễ người nào thua thì phải thanh toán tiền cho cả bọn. Hốt lú tức cách chơi mà mỗi người tham dự có trong tay năm cây tăm, khi đưa tay lên bàn nắm mấy cây tùy ý. Lần lượt người tham dự đoán tổng số tăm trong tay mọi người, ai đoán trúng ra ngoài, cứ tiếp tục vậy, người còn lại cuối cùng được làm ông chủ trả tiền. Có thể nói từ ngày họ ngồi chung chơi hốt lú, Trầm Tử Thiêng và Mặc Thế Nhân thường xuyên thắng cuộc. Chuyện này và nhiều chuyện khác xảy ra chứng tỏ Trầm Tử Thiêng trong bất cứ một việc làm nào đều có suy tính khoa học. Ngay khi chứng bệnh nan y ào ào kéo đến như cơn lũ, Trầm Tử Thiêng vẫn an nhiên tự tại, không chịu đầu hàng ngay, quyết chống đỡ đến kỳ cùng, theo người kế cận Trầm Tử Thiêng tiết lộ, phút chót đã chết vì kiệt sức hơn do căn bệnh.

Trầm Tử Thiêng đã viết nhiều nhạc phẩm phục vụ cho các chiến dịch. Bản“Chuyện một chiếc cầu đã gãy”viết cho chiến dịch Tết Mậu Thân ở Huế kéo dài thê thảm 26 ngày kể từ lúc 2 giờ đêm mùng 1 Tết, cộng sản Bắc Việt thủ tiêu chôn sống hàng nghìn người dân vô tội, giai điệu nhạc đậm đà, âm hưởng ngũ cung, pha lẫn chút mùi vị của giọng hò đẩy đưa, ngọt ngào, đầy tình tự của những cô gái đất Thần Kinh, chính ở cái tính thời sự đậm nét của nó: Cầu Trường Tiền tượng trưng vẻ đẹp thâm trầm, trang nghiêm và cổ kính, biểu tượng niềm tự hào nét đẹp văn hóa lâu đời của người dân Huế bị cộng sản Bắc Việt giật sập một“vài”giữa của cầu, cắt đứt con đường huyết mạch đất cố đô để lại nhiều nỗi đau sầu, hờn căm trong lòng người. Hoàng Oanh, Duy Khánh, Hương Lan, Thanh Thúy đã nâng nhạc phẩm thương đau này lên thêm một bậc bằng giọng ca như xé lòng, thê thiết:

“Cầu thân ái, đêm qua gãy một nhịp rồi 
Nón lá sầu khóc điệu Nam Ai 
Tiếc thương lời vắn dài.”

“Chuyện một chiếc cầu gãy” không chỉ khóc than cho nhịp cầu vô tri vô giác, nhưng Trầm Tử Thiêng đã chia sẻ niềm đau sót với hơn 4,000 gia đình Huế, gãy nhịp với người thân trong những nấm mồ tập thể. Hàng chục nghìn dân chúng khắp nước bị bức tử trong những giờ phút linh thiêng nhất của một niên lịch. Cộng quân Bắc Việt mở trận tổng công kích Tết Mậu Thân, Trầm Tử Thiêng được phép ở nhà, chuẩn bị cúng ông bà thì bị gọi trở lại Cục Tâm Lý Chiến, dồn dập nhận những tin dữ báo về: Giờ này một tiền đồn bị địch quân tràn ngập, phút khác, một thôn xóm bị cộng quân thiêu rụi, nơi đây quân ta đẩy lui cộng quân khỏi một khu phố, chỗ nọ giặc phá nát một đoạn đường. Những ngày kế tiếp cộng quân bị phản công mãnh liệt, kế hoặch tổng công kích của địch bị bẻ gãy, chúng trở nên hung bạo như con chó dại bị dồn vào chân tường, quay mũi dùi tàn sát dân chúng. Bản“Chuyện một chiếc cầu đã gãy” trở thành bản kinh cầu, tang chung của cả nước, dính liền với hàng chục ngàn sinh mạng chết tức tưởi trong dịp Tết Mậu Thân, trong đó có nhiều đàn bà, trẻ em ngây thơ vô tội bị chôn sống. Có nơi khi đào đất lên xác người còn nóng hổi vì mới chôn đêm trước. Nỗi đau thương thống khổ ấy đã được Nhã Ca ghi rõ nét, sâu sắc và bi thương nhất trong tác phẩm “Giải khăn sô cho Huế”. Viết về biến cố này trong lãnh vực âm nhạc không có nhạc phẩm nào diễn tả nỗi đau khổ của người dân Huế đặc sắc, sâu sa và xúc động bằng “Chuyện một chiếc cầu đã gãy” của Trầm Tử Thiêng. Lần lượt Hoàng Oanh, Duy Khánh, Hương Lan, Thanh Thúy đã chuyên chở bài hát đau thương, nức nở này đến hàng triệu trái tim của dân chúng miền Nam bằng giọng ca xúc động và thật có hồn:

Cầu thân ái, đêm qua gãy một nhịp
Nón lá sầu khóc điệu Nam Ai
Tiếc thương lời vắn dài

Sau Tết Mậu Thân, vành khăn sô chưa mục, Huế chưa ráo lệ, mùa thu năm đó một tai họa khác lại trùm phủ lên đầu cổ người dân đen khốn khổ. Lần này Trầm Tử Thiêng viết môt nhạc phẩm bi thương khác, xót xa, chua chát cho dân chúng ngoài nớ, tai trời giáng xuống sau cái họa do con người tạo nên. Bản“Tôn nữ còn buồn” diễn tả trận bão lụt kinh hoàng đã tàn phá khắp miền Trung, trong đó Trầm Tử Thiêng mở đầu bằng lời than não nuột. Thay vì viết :“sau cơn mưa, trời lại sáng”, Trầm Tử Thiêng  than van: “Sau cơn mưa, trời vẫn thế sao em” và hạ bút viết tiếp:

“Giặc về còn đánh, còn xua, ai đi ngăn nổi gió mưa của trời.
Dù mai con nước chơi vơi, mưa bão tơi bời, vẫn về thăm em…”

Trầm Tử Thiêng không đơn thuần sáng tác nhằm mục đích tuyên truyền, mà dùng nét nhạc để ghi lại những giai thoại lịch sử, đôi khi có gửi gấm một vài  phê phán với cảm xúc đầy nhân bản của một bộ môn nghệ thuật, ca ngợi những mối tình diễn ra trong chiến tranh, những lần hò hẹn, chờ mong xao xuyến, những âu lo bồi hồi, những cách biệt ly biệt.

Bản“Đưa em vào hạ” viết cho chiến dịch mùa hè đỏ lửa, tiêu biểu nét nhạc thấm đẫm quê hương, một nén hương, một lời nguyện cầu mong đất nước sớm chấm dứt chiến tranh. Nhạc phẩm thu hút nhiều người, vang vọng đó đây lời ca trầm buồn, không mấy ai tránh khỏi bùi ngùi qua giọng ca như xé nát tâm can của Duy Khánh, đầy xúc động của Hương Lan hay một Thanh Tuyền thê thiết với những câu:

“Thương em đi, gót nhẹ chân mềm 
Bước trên quê hương điêu tàn 
Còn gì đâu? Còn gì đâu?” 

Tương tự bài“Kinh khổ”, phảng phất mùi thiền tựa hương trầm tỏa ngát đem đến mọi người, mọi nhà hương vị an lành, ấm áp. Lời ca, nét nhạc nứt nở, thương đau, bối cảnh ngập ngụa bom đạn, day dứt tiếng khóc than, những thây người gục ngã, người ta mường tưởng tới những oan hồn vất vưởng nơi bãi chiến trường còn khét lẹt mùi thuốc súng. Tất cả như dàn trải sau những lời kinh cầu nguyện của cac bà mẹ Việt Nam:

“Mẹ ngồi cầu nguyện hằng bao đêm 
Lời kinh vọng xa thật êm đềm”

Kinh Khổ

Trong số những ca khúc viết cho Cục Chính Huấn Trầm Tử Thiêng ký bút hiệu Anh Nam. Thời gian này Nhà xuất bản“2001 bài ca hay” của Duy Khánh đã xuất bản nhạc phẩm“Trả lời thư em” của Trầm Tử Thiêng cùng một đợt với bản“Lính xa nhà” của Trần Trịnh, Nhật Ngân. Ngày đầu tiên phát hành nhạc phẩm, Duy Khánh đạt lời mời Trần Tử Thiêng, Trần Trịnh, Nhật Ngân đến tiệm Chí Tài ở Chợ Cũ nhậu nhẹt. Mặc ai muốn nhậu cứ nhậu, Trầm Tử Thiêng bình thản dùng Coca Cola. Thấy thế Duy Khánh đùa nói:“Tụi tôi uống mỗi người một ly rượu thì ông phải uống một chai Coca mới công bằng nghe.” Trầm Tử Thiêng cười, đưa ly Coca Cola lên cụng, miệng nói: “Dzô”.

Năm 1970, Trầm Tử Thiêng được biệt phái về Trung Tâm Học Liệu, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, phụ trách Ban Phát Thanh Học Đường, nhiều nhạc thiếu nhi được hoàn thành trong thời gian này, và Trầm Tử Thiên đã cùng Nhật Ngân phát hành tập nhạc, băng nhạc“Hãy hát lên tuổi thơ”, được phổ biến, đón nhận rộng rãi. Trước và sau tháng Tư đen năm  1975 đầy những bi thảm, kinh hoàng, Trầm Tử Thiêng, Hùng Lân, Nhật Ngân dọn nhà ở gần nhau, cùng nằm trên đường Tự Đức. Nhật Ngân chuyển từ trong khu Phú Thọ ra đường Tự Đức, quận 1, số 10, Trầm Tử Thiêng số 17 và Hùng Lân số 19. Vì thế họ thường qua lại nhà nhau vào mỗi buổi chiều để theo dõi, bình luận, bàn thảo, và cứ mỗi lần gặp nhau họ lại tính chuyện vượt biên cùng sáng tác nhạc chống đối. Tháng 8 năm 1975, khi Nhật Ngân sáng tác bản “Anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh?”, Trầm Tử Thiêng liềb viết ngay bản:“Du ca trên thành phố đỏ”. Sau chừng một năm Nhật Ngân viết tiếp bản“Tôi biết tôi sẽ buồn” thì Trầm Tử Thiêng đáp lễ bằng bài:“Dứt bão bắt đầu nước mất”. Những nhạc phẩm này đều được phổ biến ở hải ngoại.

Nhạc sĩ Nguyễn Ánh kể chuyện năm 1974, tức ngày miền Nam nằm trên bờ vực thẳm, một sự đổ vỡ không biết xảy ra ngày nào, Trầm Tử Thiêng đã sống một đời sống thật bình dân, mang nét phong trần và bụi đời, cưỡi chiếc xe đạp làm phương tiện di chuyển, các học trò của Trầm Tử Thiêng thấy thế đã đặt tên là chiếc“SS-50”, vai đeo một chiếc ba-lô đựng một xấp bản thảo viết tay một cách hoa mỹ, một số bản cũ đã phát hành như “Kinh khổ”“Lời của mẹ”… hay bản nháp của một nhạc phẩm nào đó viết dang dở cần sửa chữa, một ngăn chứa những giấy tờ cá nhân như căn cước, giấy hoãn dịch và mấy thứ giấy linh tinh khác mà chỉ có Trầm Tử Thương mới biết được là phải dùng hay dùng vào việc gì. Ngoài ra trong ba-lô của Trầm Tử Thiêng còn hai thứ bất khả ly thân tức miếng khảy đàn bằng đồi mồi lên nước trông bóng loáng rất đẹp và một vật cuối cùng…một gói mì ăn liền. Thật trái ngược với Duy Khánh khi cần đi đâu thì dù xa hay gần đều gọi xích-lô chở đi, hay Chế Linh chễm chệ lái xe Jeep, họa hoằn lắm mới đi chiếc “Harley” to tổ chảng. Thời gian này Duy Khánh mở lớp nhạc luyện ca Trường Sơn, ở số 62 đường Trần Hưng Đạo Sài Gòn, thường vào giờ học chiều ngày thứ hai, Duy Khánh hay bận nhiều việc như kẹt tại phòng thâu băng hay có buổi họp bạn và nhiều lần Duy Khánh bận nhậu với vài nghệ sĩ khác tại một quán nhậu cách lớp nhạc chừng 10 thước. Do đó Trầm Tử Thiêng được Duy Khánh mời dạy thế. Đám nhạc sinh hễ vào lớp thấy vắng mặt Duy Khánh là phá như điên, trong lớp có cây Tây Ban cầm (guitar) chúng ngang nhiên đem đàn ca hát xướng cho chán, rồi quăng lên thả xuống sàn rầm rầm, mấy nữ nhạc sinh thì đem quá bánh, nước ngọt vào lớp ăn uống xả rác đầy nhà. Vì mất an ninh như vậy nên Duy Khánh phải mời Trầm Tử Thiêng về cộng tác. Thật tội nghiệp cho Trầm Tử Thiêng, sau khi phát bài, dạy cả lớp hát chung, đến lượt từng người lên hát riêng, có người hát trật nhịp, muốn nhanh lúc nào cứ nhanh, và  xuống xề lúc nào cứ xuống, bất chấp nhạc lý đã ghi rõ ràng trong bản nhạc, tuy thế Trầm Tử Thiêng vẫn kiên nhẫn dẫn giải và cố chạy theo tốc độ của người học. Trầm Tử Thiêng đệm đàn cho học trò hát mà đổ mồ hôi hột.

Sau biến cố tang thương của ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam chìm ngập trong bi thảm, từng lớp người chen chúc nhau trên các chiếc thuyền mỏng manh vượt trùng dương, rời bỏ quê mẹ đi tìm vùng đất hứa, Trầm Tử Thiêng bị cộng sản liệt vào thành phần nhạc sĩ phản động, đời sống gặp nhiều khó khăn. Mấy lần Trầm Tử Thiêng bỏ trốn hỏa ngục đỏ, tanh tưởi mùi máu đỏ lòm lòm đều thất bại, bị cộng sản bắt đi tù “cải tạo” hơn một năm tại Cà Mâu. Trầm Tử Thiêng đã theo vận nước nổi trôi, viết được nhiều ca khúc chống đối chế độ, ngầm gửi ra hải ngoại như các bản:“Dứt bão bắt đầu nước mắt”“Hành ca trên nông trường oan nghiệt”

Năm 1985, Trầm Tử Thiêng vượt thoát đến đảo Galang, Nam Dương, được ca sĩ Thanh Thúy bảo lãnh cho nhập Hoa Kỳ, định cư tại Orange County, California đến khi giã từ thế giới loài người. Trước đó vào đầu năm 1982, Nhật Ngân nhờ may mắn vượt biên tới Thái Lan, được nhận vào Hoa Kỳ đầu năm 1984. Khi Trầm Tử Thiêng tới đảo Galang, đã báo ngay tin cho Nhật Ngân vào giữa tháng 3 năm 1985. Nhật Ngân báo tin cho ca sĩ Thanh Thúy là người đã từng bảo trợ cho Nhật Ngân từ Thái Lan qua Hoa Kỳ biết. Thanh Thúy bèn bảo trợ cho Trầm Tử Thiêng, sang Van Nuys ở với gia đình Thanh Thúy năm ngày, để lo hoàn tất thủ tục giấy tờ, trước khi về ở với Nhật Ngân ở Nam California. Khi qua Hoa Kỳ, Trầm Tử Thiêng hồi tưởng lại những trại cấm, đêm ngày văng vẳng tiếng kêu siết của các con người thiếu tự do, chở người trở lại biển khơi, hay trói người trả về nơi khổ nhục mà họ đã bỏ trốn ra đi, trong chiến dịch“cưỡng bức hồi hương”, viết nên những bản: “Nói với Hồng Kông” ,“Thà chết nơi này”. Trầm Tử Thiêng đã thoát ra từ nỗi khổ đau của riêng mình để hòa nhập, trải lòng ra với những khổ đau của con người, đó là lúc Trầm Tử Thiêng nghĩ đến những người “mắc cạn” trên những hòn đảo ở Thái Bình Dương mà giấc mơ nhìn thấy ánh sáng tự do đã tàn lụi. Tấm lòng phơi trải đó của Trầm Tử Thiêng trở dậy giạt dào:“Ta hát tình thương về biển Đông.”

Sang miền đất hứa, Trầm Tử Thiêng luôn sát cánh cùng các đoàn thể, tổ chức mục đích giữ gìn văn hóa truyền thống, là cố vấn Ban chấp hành Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại 2, nhiệm kỳ 1996-2000. Cuối năm 1999, Trầm Tử Thiêng cùng các văn nghệ sĩ sáng tác thành lập Thư viện Việt Nam. Từ khi lưu vong tỵ nạn, Trầm Tử Thiêng định cư tại thủ đô tỵ nạn Little Saigon, California, hợp tác làm việc với Mây Productions, Hollywood Night và Trung Tâm Asia. Trầm Tử Thiêng đã cùng Trúc Hồ sáng tác nhiều nhạc phẩm thích hợp cho thể loại nhạc đồng ca như “Bước chân Việt Nam”“Việt Nam niềm nhớ”“Một ngày Việt Nam”“Tình đầu thời áo trắng”“Cám ơn anh”“Hẹn nhau năm 2000”.

Bài “Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng” Trầm Tử Thiêng viết tháng 8 năm 1996, Khánh Ly ca, nhân dịp Đại nhạc hội “Góp một bàn tay”, ấn dấu một chứng tích lịch sử đánh dấu một làng Việt Nam chính thức được xây dựng tại Phi Luật Tân dành cho những người Việt Nam lưu vong, không có tổ quốc, không có một quốc gia nào chấp nhận họ. Trầm Tử Thiêng còn có nhiều bản nhạc tình viết trước và sau thời điểm năm 1975:“Chợt nghĩ về hai nơi”, “Mười năm yêu em”, “Tình ca mùa đông” (1965), “Mây hạ” (1967), “Đêm nhớ về Sài Gòn” (1987). Những nhạc phẩm Trầm Tử Thiêng viết trong suốt 40 năm được hầu hết các ca sĩ trong và ngoài nước biểu diễn. Ước vọng cuối đời của Trầm Tử Thiêng là được mang tình thương đến cho các trẻ em mồ côi. Qua Trúc Hồ và Việt Dzũng, Trầm Tử Thiêng ký thác ước nguyện thành lập một quỹ “Bên em đang có ta” – lấy tên một bản nhạc của Trầm Tử Thiêng viết cho trẻ em mồ côi tị nạn cộng sản – để giúp các trẻ mồ côi. Xa quê hương nhạc của Trần Tử Thiêng không còn các âm thanh hãi hùng của tiếng đạn rơi bom nổ chát chúa đêm ngày, phảng phất rờn rợn các hình ảnh của cuộc chiến đẫm máu, tất cả được thay thế bằng nỗi thương nhớ gậm nhấm tâm hồn, sự bâng khuâng của người ly hương. Người ta thấy tâm trạng này được thể hiện sau những tháng ngày lênh đênh trên đại dương qua các bản:“Việt Nam về trong nỗi nhớ”“Một ngày Việt Nam”“Áo mẹ áo em”“Bên này biển”,“Chợt nghĩ về hai nơi” tuy nhiên tiêu biểu và được nhiều người biết đến nhất vẫn là bản“Đêm nhớ về Sàigòn”. Hỏi đã có bao nhiêu ca sĩ hát bản này của Trầm Tử Thiêng? Không ai biết. Hỏi đã có bao nhiêu triệu người Việt lưu vong mà ít nhất một lần nào đó trong đêm khuya lạnh lẽo đã âm thầm hát một mình và khóc một mình để thương nhớ về một quê mẹ mịt mờ bên kia bờ đại dương sóng vỗ? Cũng không ai biết. Nhưng chắc chắn một điều là bản nhạc bất hủ này của Trầm Tử Thiêng đã bám rễ vào hầu hết tâm hôn của người Việt lưu vong. Tương tự các bản“Thiênđường quạnh hiu”,“Vẫn một đời hiu quạnh” của tác giả, bản“Bây giờ tháng mấy”, của Từ Công Phụng, không mấy ai không nghe một lần trong đời.

Trong các ngày đầu khi mới đến Nam California, còn nhiều bỡ ngỡ, xa lạ,“Trung tâm Dạ Lan” (tức Mây Productions bây giờ) đề nghị Trầm Tử Thiêng, Anh Bằng và Nhật Ngân hợp soạn trong một băng nhạc gồm những bài lấy nội dung từ những tiểu thuyết Việt Nam nổi tiếng, tổng cộng mười bản. Trong cuốn băng đó Trầm Tử Thiêng viết bốn bản, Anh Bằng, Nhật Ngân mỗi người viết ba bản. Trầm Tử Thiêng được quần chúng yêu thích nhất với bản“Dò dọc”phỏng theo tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc tên thật Tô Văn Tuấn (1914-1987), sinh tại tỉnh Biên Hòa, dòng nhạc mang âm hưởng miền Nam rất hấp dẫn. Anh Bằng bản“Cổng trường vôi tím” theo truyện“Vòng tay học trò” của Nguyễn Thị Hoàng (1939- ) bút hiệu Hoàng Phương Đông, sinh tại Huế, và Nhật Ngân bản“Hồn bướm mơ tiên” dựa theo truyện mang cùng tên của Khái Hưng, tên thật Trần Khánh Giư, rất được yêu thích.

Năm 1988, Trung tâm Asia đề nghị Trầm Tử Thiêng, Anh Bằng và Nhật Ngân thành lập nhóm Tinh Hoa sản xuất băng nhạc gồm toàn những sáng tác mới của họ. Đã sản xuất được ba cuốn băng, sau đó còn thêm cuốn nữa.

Tinh Hoa 1, chủ đề lấy tên ca khúc của Trần Tử Thiêng:“Em có còn trở lại” dùng làm nhạc chủ đề, ngoài ra Trầm Tử Thiêng còn có bài “Tình ca mùa Đông” gửi gấm bên trong nhiều tâm sự:

Hẹn hò nhau qua phong ba
Anh cố bước nhưng chân chậm quá
Để rồi sắp gặp nhau mới biết em không đợi nữa
Trời lại thêm mùa Đông cho tuyết than trên đầu non 

Tinh Hoa 2, tựa đề mang tên ca khúc của Nhật Ngân“Bên trời phiêu lãng”, trong đó có bản “Một thời uyên ương” của Trầm Tử Thiêng.

Tinh Hoa 3, mang tên chủ đề của băng nhạc lấy tên bản“Đêm nhớ về Sài Gòn”do Trầm Tử Thiêng và Nhật Ngân hợp soạn.

Sau này trong ngày tiễn đưa cuối cùng Trần Tử Thiêng ở Peek Family, trước giờ hỏa táng, giữa đám đông các văn nghệ sĩ, thân hữu và khán giả ái mộ, Anh Bằng nói với Nhật Ngân:

-Thật tiếc nhóm Tinh Hoa bọn mình chỉ làm  chung được ba cuốn băng thôi, cớ chi lúc đó mình không tiếp tục nữa đi?
Nhật Ngân vội cải chính:

-Nhóm mình làm được bốn cuốn chứ, bộ quên cuốn “Lửa Bolsa” sao?

Anh Bằng cười duyên:

-Thế mới rõ mình đã già, bảy chục ngoài còn gì, nói trước quên sau. Mới thực hiện đó đã quên, nói thật bây giờ nhóm Tinh Hoa chỉ còn độc nhất chú thôi, tôi coi như đồ bỏ.

Nói dứt lời Anh Bằng cười hà hà kéo Nhật Ngân ra chụp hình trước những vòng hoa phúng điếu bên di ảnh của Trầm Tử Thiêng:

-Đây là tấm ảnh cuối cùng của nhóm Tinh Hoa đó nghe, tụi mình phải cười cho tươi chứ không được buồn.

Trước khi chia tay Anh Bằng nói:

-Trầm Tử Thiêng vậy mà thật hên, khi ra đi trong nhóm còn chú và tôi tiễn đưa, khi tôi hay chú đi thì chỉ còn một người đưa thôi.

Đến đây Anh Bằng nhìn Nhật Ngân ngậm ngùi:

-Trong băng nhạc “Lửa Bolsa” chú là người yếu nhất đấy nhé, tôi ba bài, Trầm Tử Thiêng ba bài, chú chỉ được mỗi một. Ráng đi chú, mình còn thở là còn phải viết.

Trong băng “Lửa Bolsa” Trầm Tử Thiêng khỏi nói, viết ba bài: ngoài bản“Người con gái trên đường Bolsa”, còn có bản“Hẹn về”“Gửi em hành lý”, Anh Bằng ngoài bảy mươi tuổi còn rực lửa với ba bài: “Nổi lửa đấu tranh”,“Dựng lại cờ vàng trên quê hương ta”“Ai cũng thấy”, Nhật Ngân viết độc nhất vô nhị một bài “Lửa Bolsa”, và tăng cường một bài của Minh Duy “Bài ca chiến thắng”.

Nhạc của Trầm Tử Thiêng có thể phân loại làm hai chủ đề chính là nhạc quê hương và nhạc tình ca, thể loại nào cũng bao gồm nhiều ca khúc độc đáo, lời lẽ chứa đựng nhiều ẩn ý sắc bén, cho tới nay vẫn còn đựợc nhiều người mến mộ, cảm thấy gần gũi với tâm hồn mình. Trước kia người ta biết tới Trầm Tử Thiêng, đánh giá bằng những bản tình ca buồn, lời nhạc da diết đau thương như bản“Mộng sầu” có những câu nghe thấy rướm máu:

“Tình mình bây giờ đau như ngọn roi, uất vào tim, vết bầm tím”

Trầm Tử Thiêng được nhắc tới nhiều trong loại nhạc quê hương nhẹ nhàng, tha thiết tình tự dân tộc, mang nhiều nét đặc trưng của từng thời kỳ lịch sử.    Nhạc Trầm Tử Thiêng có thể phân loại làm hai chủ đề rõ rệt: tình yêu quê hương gồm hai giai đoạn trước và sau biến cố năm 1975 và tình yêu đôi lứa, những năm cuối đời Trầm Tử Thiêng dành nhiều thì giờ sáng tác những ca khúc có tính chất thời sự giá tri. Trước năm 1975 Trầm Tử Thiêng than khóc cho quê hương điêu tàn vì chiến tranh. Và sau biến cố năm 1975, Trầm Tử Thiêng than khóc cho kiếp tha hương, nỗi khó khăn của người tỵ nạn bơ vơ, long đong ở những trại tị nạn. Bất cứ thể loại nào Trầm Tử Thiêng đều có những tác phẩm đặc sắc, giá trị,  lời lẽ bén nhọn, chứa đựng nhiều ẩn ý. Cùng với Lam Phương, Trầm Tử Thiêng được coi như một trong những người thuộc lớp trước có sức viết mạnh và những nhạc phẩm của họ thuộc loại xuất sắc của hai thế hệ già, trẻ. Nhưng trước khi Trầm Tử Thiêng được biết đến như một nhạc sĩ viết những bản tình yêu đôi lứa thật buồn, lời nhạc rướm máu và da diết, nức nở như “tình mình bây giờ đau như ngọn roi, quất vào tim, vết bầm tím” (Mộng sầu), thì Trầm Tử Thiêng cũng được nhắc đến nhiều như một người viết nhạc về tình yêu quê hương có vị trí đứng vững vàng, chững chạc dù rằng thời gian đó Trầm Tử Thiêng chỉ mới có hơn 30 tuổi. Trầm Tử Thiêng có những ca khúc khó thể nào quên, tượng trưng cho nhiều giai đoạn khác nhau của lịch sử. Nó như gắn chặt với cuộc đời của Trầm Tử Thiêng, ngay thời kỳ mang quân phục trên người, nhưng công việc vẫn có ít nhiều liên quan đến sở trường âm nhạc. Là một quân nhân phục vụ tại Cục Tâm Lý Chiến, Trầm Tử Thiêng đã theo dõi cuộc chiến, điều nghiên địa hạt tâm lý, từ tiền đồn đến hậu phương, từ trung tâm huấn luyện đến quân y viện. Nơi Trầm Tử Thiêng phục vụ được góp nhặt những tin vui chiến thắng, xen kẽ những bất hạnh của quần chúng bị kẻ thù bách hại. Từ những dữ kiện chung quanh ấy, Trầm Tử Thiên trở thành chứng nhân của cuộc chiến. Và thay vì như những sử gia viết những trang quân sử, Trầm Tử Thiêng dùng khuông nhạc để ghi dấu hành trình cuộc chiến.

Mười năm tang thương (1975-1985), sau cuộc chiến chấm dứt, Trầm Tử Thiêng còn mắc kẹt ở trong nước, may mắn tránh né khỏi đi học tập cải tạo, sinh hoạt văn hóa bị chậm lại. Trong suốt cuộc chiến nhiều nhạc phẩm của Trầm Tử Thiêng đề cao sự chiến đấu kiên cường của người lính chiến, một số nhạc phẩm trong đó“Bài hương ca vô tận” biến thành bản án của Trầm Tử Thiên đối với chế độ, nhạc của Trầm Tử Thiêng bị cộng sản khép vào loại văn hóa phản động, được đưa về Bắc để nghiên cứu từ nhạc đến lới. Thời gian này Trầm Tử Thiêng trốn tránh, tìm đường vượt biên nhiều lần đều thất bại, bị bắt giam. Tại nhà tù Rạch Giá, Trầm Tử Thiêng viết bản “Tâm ca của người tù vượt biên”, sau bị đầy xuống trại cải tạo lao động U Minh, sống chung với các công chức cao cấp và các sỹ quan miền Nam cũ. Xót xa nhìn những người hùng một thời, nay sa cơ thất thế nằm trong tay giặc, một buổi chiều từ láng nhìn ra, thấy từng đoàn tù cải tạo, sau một ngày lao động trở về, trông tả tơi như những thây ma, tủi nhục, Trầm Tử Thiêng viết bài “Hành ca trên nông trường oan nghiệt”:

Anh em độ vài trăm, anh em độ vài nghìn, anh em chừng vài mươi vạn, chơi vơi dưới mặt trời hắc ám, như không hẹn hò ai, đau thương chung một ngày. Ngước mắt anh em nhìn nhau. Cười vang vương đồng loại. Bao năm chưa nghỉ ngơi. Điêu linh qua từng thời. Anh em mù lòa nhân đạo, đua nhau nuôi thù hằn tiếp nối

Thời gian mười năm kẹt lại dưới chế độ cộng sản, nghiệt ngã, tàn bạo, dã man Trầm Tử Thiêng tiếp tục sáng tác, ghi dấu những cuộc chia ly: Người vượt biển ra đi, người tìm đường di tản, Trầm  Tử  Thiêng  viết một số bài, điển hình bài “Gửi em hành lý” là một lời nhắn gửi ra hải ngoại, diễn tả nỗi đau thương nơi quê mẹ, phút chia ly thật cảm động.  Nhạc phẩm nói đến sự chia lìa có “Người ở lại đưa đó”tảngười cựu chiến binh ở lại làm nghề chèo đò cho người vượt biển. Bài đưa đò khác “Mẹ hậu giang” còn xúc động hơn. Ngày xưa vào thời tiền cách mạng, mẹ sơi phải bả cộng sản, nghe tuyên truyền ngon ngọt lắm, đưa đò cho các con theo kháng chiến chống Pháp. Sau mẹ bị lôi cuốn vào cuộc chiến, nhưng khác chiến tuyến với những người bỏ cộng sản về thành, hỗ trợ các con theo kháng chiến. Sau khi quê hương bị lộ chiêu bài “giải phóng”, mẹ biết rằng bị lường gạt, đã quay trở lại đưa đò chở các con bỏ nước ra đi sau năm 1975.:

Mẹ hậu giang âm thầm quày dìa hậu giang, chèo chống thêm cảnh ly tan, tình mẹ hậu giang: Ngày xưa thương con đưa đò, ngày nay thương con đưa đò.  

Cuối cùng Trầm Tử Thiêng bỏ nước đi thoát, để lại nhạc phẩm đầu tiên, ghi lại giai đoạn đầu đen tối của đất nước, gói ghém trong bản“Du ca trên thành phố đỏ”“Một thời uyên ương”. Du ca coi như một  thể nhạc khác của Trầm Tử Thiêng viết cho tuổi trẻ trong phong trào du ca khi phục vụ tại Trung tâm Học liệu, gần gũi hoạt động với giới trẻ. Lúc bấy giờ thanh thiếu niên bị giao động, xao xuyến trước các biến động của thời cuộc, họ cảm thấy lạc lõng, hoang mang trước viễn tượng của đất nước. Trầm Tử Thiêng và một số người khác khởi xướng phong trào du ca, hát tập thể, kết nối những người trẻ đến với nhau, nối vòng tay nhau, nhìn rõ mặt nhau, tìm ý nghĩa cho cuộc sống và xóa bỏ đi mặc cảm lạc lõng.

Dư luận có người cho rằng nét nhạc về tình yêu quê hương của Trầm Tử Thiêng mang âm hưởng, giai điệu phảng phất nét nhạc về tình yêu quê hương của Duy Khánh, đặc biệt các bản viết trước năm 1975 đề cập đến nỗi điêu tàn của chiến cuộc. Điều này không hoàn toàn xác đáng. Cớ chi những người viết cùng thời như Trinh Lâm Ngân – tức Trần Trịnh và Nhật Ngân – tác giả “Lính xa nhà” và Phạm Thế Mỹ, tác giả“Trăng tàn trên hè phố”“Những ngày xưa thân ái” đều phảng phất âm điệu của Duy Khánh, không ai có ý kiến. Nhận xét vậy phải chăng do cảm tính hay chủ quan? Thực ra có những người viết trước Duy Khánh như Dương Thiệu Tước, Nguyễn Hữu Thiết, Xuân Tiên và Hoàng Thi Thơ đã ít nhiều mang âm hưởng của Duy Khánh. Nếu cho rằng có sự trùng hợp, điều đó thiết nghĩ không có gì phải ngạc nhiên lắm, cả hai đều gốc miền Trung nên có cùng niềm tâm sự và mối thương cảm xót xa cho một dải đất nhỏ hẹp nằm giữa một bên là đại dương và một bên là dãy Trường Sơn chạy dài, trong thời chiến tranh cộng quân đã dùng nơi đây để xua đoàn quân“sinh Bắc tử Nam” vào miền nắng ấm. Bao nhiêu nhọc nhằn của chiến tranh tàn phá:

“Thương em đi, gót nhẹ chân mềm
Bước trên que hương điêu tàn
Còn gì đâu? Còn gì đâu?”

Bài“Đưa em vào hạ” tiêu biểu nét nhạc tình ca quê hương tựa tiếng thở than ai oán, một nén hương, một vành khăn tang, một lời nguyện cầu thống thiết cho quê hương bị bom đạn cày sới đắm chìm trong tang tóc. Ai đã nghe bản nhạc này qua giọng ca như xé lòng của Duy Khánh, tha thiết của Thanh Tuyền, đầy xúc động của Hương Lan, Chế linh trong một đêm mưa gió não nề nào đó tại quê nhà xưa kia mới thấy thấm thía cái tâm tình quặn thắt của Trầm Tử Thiêng.“Đưa em vào hạ” nổi bật trong những nhạc phẩm xuất sắc viết về cuộc chiến đầy đau thương.

Tới bản “Kinh khổ” sản sinh sau bài “Kinh chiều” của Hoàng Thi Thơ một thời gian không lâu  nhưng đã được tán thưởng nhiệt liệt qua giọng ca của Khánh Ly, bởi khi bấy giờ vào đầu thập niên 1970, cuộc chiến đã quá khốc liệt, đến nỗi người ta chỉ còn biết cầu nguyện. “Kinh khổ” của Trầm Tử Thiêng như thấy vương vất đâu đó một hương vị thiền, thoảng thứ trầm hương ngát tỏa mà đêm đêm người ta vẫn đốt lên để cầu mong an lành cho mọi người. Do đó “Kinh khổ” không da diết, nức nở như “Đưa em vào hạ”, người ta thấy được đằng sau vẻ lãnh đạm của lời ca, nét nhạc một bầu trời khét lẹt của bom rơi đạn nổ, những thây người vương vất, những tiếng khóc than đầy oán hờn, tức tưởi và cả đến bóng dáng của những oan hồn vật vờ trong màn sương hòa lẫn khói súng của chiến trường còn hằn nguyên vết đạn. Tất cả được Trầm Tử Thiêng gửi gấm khéo léo, tài tình sau những lời tụng niệm của người mẹ trong đêm khói lửa mịt mù trời đất:

Mẹ ngồi nguyện cầu hằng bao đêm
Lời kinh vọng xa thật êm đềm  

Giọng ca của Khánh Ly khi cất lên đã đem đến cho con người cái cảm giác lạnh lùng đến rợn người của những lời kinh đã cạn khô niềm xúc cảm, lời ca không hẹn mà nên, hao hao bài thơ bất hủ“Vẻ đẹp của Thần Chết”của văn hào Ấn Độ Rabindranath Tagore, đoạt giải thưởng Nobel Văn Học năm 1913, đã viết báo, viết thơ, viết kịch mà còn là tác giả của nhiều cuốn phê bình, nhiều sách khảo cứu.

Năm 1998, Trầm Tử Thiêng khi trả lời cuộc điện đàm của ký giả Trường Kỳ cho biết đã sáng tác hồi còn đi học, khoảng năm 1955-1956, nhưng đến năm 1965-1966 mới phổ biến trong quần chúng. Những nhạc phẩm đều liên hệ đến đời sống riêng tư, đời sống tình cảm…bối cảnh của từng thời kỳ. Tình cảm thì có nhiều biến động, không có thứ tình cảm nào gọi là mất mát trong đời. Tình yêu cũng có cái thời của nó, dù có hay không nó vẫn còn trong cách nghĩ ngợi nào đó. Do đó có thể phân chia làm ba giai đoạn: 1.Giai đoạn năm 1975 về trước khi đất nước có chiến tranh – 2.Giai đoạn các năm 1975-1985 mắc kẹt trong nước 10 năm – 3.Giai đoạn năm 1985 đến nay định cư tại Hoa Kỳ, trong đó có thời gian ngắn sống ở trại tỵ nạn Galang, Nam Dương. Những nhạc phẩm đầu tay bị tuyệt bản vì lý do này hay lý do nọ, đặc biệt biến cố Tháng Tư Đen 1975. Những nhạc phẩm được trình làng đằu tiên“Rồi20 năm sau” gồm hai phần riêng rẽ nhau: 1.Phần 1 “Lời của Mẹ” – 2.Phần 2 “Lời của con” bị tuyệt bản. Trong khi “Lời của mẹ” đến nay vẫn còn được phổ biến, đôi khi mang chung đề tựa: “Rồi 20 năm sau”. Vẫn trong thời gian năm 1966, Trầm Tử Thiêng đã viết một loạt tình khúc in thành tập gồm 14 bài mang tên “Trên đỉnh yêu đương”, trong đó có 4 bài được phổ từ thơ Hoàng Trúc Ly xuất bản năm 1969: “Hối tiếc”“Mây hạ”“Yêu dấu chưa nguôi” và “Cõi nghìn trùng”. Từ đó đến những năm về sau Trầm Tử Thiêng sáng tác “Bài hương ca vô tận”“Bảy ngày đêm góp lại”,  “Đưa em vào hạ”“Mùa xuân trên cao”, “Trộm nhìn nhau”…Biến cố Tết Mậu Thân, Trầm Tử Thiêng viết “Chuyện một chiếc cầu đã gãy”, cho Huế và cả nước chung một màn tang, tới “Kinh khổ”“Khúc sinh ca”“Đêm trên quê hương”…Không nhớ hết…đi song đôi có những bản tình ca “Mộng sầu”“Tưởng niệm”“Tưởng không còn nhìn thấy nhau”“Em có còn trở lại”“Nghìn đêm như một”…Đến một loạt bài viết khi đất nước tắt lịm tiếng súng sau năm 1973 ký kết Hiệp định Paris:“Vĩnh biệt chiến trường”“Hòa bình ơi, Việt Nam ơi”“Hình ảnh của một ngày hòa bình”“Nếu xuân này hòa bình”… Trên đất tạm dung, Trầm Tử Thiêng viết: “Mười năm yêu êm”,“Tình ca mùa đông”“Thư xuân hải ngoại”“Đêm nhớ về Sài Gòn”“Hãy hát lên tin yêu”…Trầm Tử Thiên nhận dịnh  những nhạc phẩm viết tại hải ngoại “có thể đi vào cá biệt hoặc đi vào đại thể, như có những bài về tình yêu, nhưng vẫn có những vướng mắc của con người đang sống lưu vong, đó là quan niệm của tôi, người viết nhạc, một người lưu vong sáng tácđề tài sáng tác của tôi thay đổi theo nhịp sống, hơi thở chung quanh của người Việt hải ngoại.” Trầm Tử Thiêng lập luận: “Mỗi một thời nó đều có các sáng tác đi theo tôi chứ tôi không có thay đổi cách sáng tác gì cả. Hoàn cảnh cho tôi những biến đổi trong sáng tác. Tôi nghĩ đó là điều cần cho tôi và đó là cách để cho mình có những sáng tác dồi dào. Nó ghi nhận được từng thời một của cuộc sống, ít nhất cho bản thân của mình. Bên cạnh đó là những người cùng sống với mình, cùng chia sẻ đời sống, chia sẻ những cái vui cái buồn với mình. Vậy thì chủ đề tôi vẫn viết về Tình Yêu, Quê Hương, Thân Phận Con Người và Giữa Con người Với Con Người cũng như Giữa Mình Với Chính Bản Thân Mình…Trong đời sống có các cái tiêm nghiệm, cách sống, thái độ sống của mình, với người khác…tất cả các cái đó đều ghi nhận trong cuộc đời sáng tác của tôi.”    

Không phải chỉ khi Trầm Tử Thiêng qua đời bởi cơn bạo bệnh, lâm vào hoàn cảnh ngặt nghèo, người ta mới biết tới Trầm Tử Thiêng, tới với Trầm Tử Thiêng và dành cho Trầm Tử Thiêng những tình cảm ngút ngàn cảm kích. Trái lại ngay từ những ngày nào xa xưa, khi Trầm Tử Thiêng còn âm thầm xây dựng cho sự nghiệp nghệ thuật của mình có đđất đứng, tự trải cho mình chiếc chiếu hoa cạp điều, đến những năm tháng lưu lạc nơi xứ người, Trầm Tử Thiêng đã chiếm được rất nhiều những sự ngưỡng mộ từ mọi giới. Những người hâm mộ Trầm Tử Thiêng vì nhạc, vì tình, không phải chỉ những người cùng sống một thời với Trầm Tử Thiêng một thời, ngay đến lớp trẻ lớn lên nơi miền đất lạ – không phải nơi chôn nhau cắt rốn của quê hương – ngập ngừng mỗi khi diễn tả bằng tiếng mẹ đẻ. Tất cả đều đón nhận nhạc của Trầm Tử Thiêng, đặc biệt những sáng tác viết về thân phận nổi trôi và những suy tưởng giữa giòng đời trôi giạt. Thứ tình cảm chân thành, rung cảm và xúc động…đó thiết tưởng không còn bất cứ một thứ gì gọi là quý giá hơn mà họ đã trang trọng dành cho phút giây an nghỉ nơi cuối đời của Trầm Tử Thiêng.

Nhật Thịnh

Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Mỹ

hvln

Advertisement