Đầu năm-ngày mùng một Tết Nhâm Dần (2022)- một người bạn hỏi tôi về Thập nhị Chi( mười hai con giáp) và thập Can ( mười Can). Câu hỏi bất thình lình làm tôi không nhớ lại được chuyện cũ; nhưng sau một lúc, tôi hồi tưởng…
Những Đoản Văn Rời
Ngày ta bỏ núi
Chương 1.
Giữa tháng 2 năm 1975, tôi lái xe từ đồn Kiến-Đức, Quảng-Đức lên thăm Đại Tá Biệt Động Quân Phạm Duy Tất tại căn cứ Non-Nước, khoảng 10 cây số bắc Kontum. Đêm đó hai thày trò tôi nằm bên nhau, hàn huyên tới khuya. Tôi được Đại Tá Tất cho đọc bản cung từ của một hồi chánh viên. Bản cung từ này do Đại Úy Dũng của Trung-tâm Thẩm Vấn, Quân đoàn 2 thiết lập. Người hồi chánh là một Thượng Sĩ trưởng mũi thám sát của Trung đoàn 48, Sư đoàn 320 CSBV. Anh ta khai rằng, hai tháng nữa sẽ có một cuộc tấn công đại qui mô của Cộng Quân nhằm giải phóng thị xã Ban Mê Thuột. Anh ta còn kê khai ra những tổn thất của Sư đoàn 320 CSBV trong trận đánh 34 ngày đêm vây hãm Plei Me tháng 7& 8 năm 1974. Trận này Trung đoàn 48/SĐ 320 chủ công đã bị thiệt hại rất nặng, mỗi đại đội chỉ còn khoảng 17, 18 cán binh. Đơn vị đó phải về hậu cứ gần biên giới Việt Miên để bổ sung quân số rồi chuyển vùng hoạt động. Đêm đó tôi có nói với Đại Tá Tất rằng,
Continue readingCUỐI ĐƯỜNG
“Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ.
Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với thuộc cấp của mình!”..
(Vương Mộng Long)
Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài-Gòn hơn hai chục cây số. Nơi đây là đoạn cuối của Quốc Lộ 1. Chỉ còn một quãng đường ngắn ngủi nữa thôi, Quốc Lộ 1 sẽ chấm dứt.
Continue readingNGƯỜI CON DÂU NƯỚC MỸ
LGT: Bài viết vô cùng cảm động sau đây của quả phụ một sĩ quan QLVNCH, kể về một mối tình thời chiến tranh Việt Nam giữa chị ruột của tác giả với một người lính Mỹ, đã hy sinh trong cuộc chiến. Hơn ba mươi năm sau, tưởng nhớ công ơn người anh rể đã hy sinh cho quê hương, tác giả ghé thăm bức tường đá đen ghi danh 58,000 tử sĩ Mỹ trong chiến tranh Việt Nam… Không ngờ, tại đây, bà tình cờ gặp bố mẹ của người anh rể cũng đến viếng thăm con, và qua câu chuyện, tác giả đã giúp ông bà nội người Mỹ tìm thấy người con dâu Việt và đứa cháu nội chưa từng biết mặt…
Tháng tư thường cho tôi nhiều nỗi buồn và nhớ. Buồn vì từ đó ta làm thân mất nước không nhà và nhớ vì trước đó có quá nhiều kỷ niệm không bao giờ còn tìm lại được. Giữa lúc lòng tôi đang chơi vơi thì chị bạn rủ theo đoàn nguời về thủ đô Hoa thịnh Đốn để coi hoa Anh Đào nở và nhất là đi thăm bức tường đá đen, ghi lại tên tuổi của hơn năm mươi tám ngàn tử sĩ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, đã bỏ mình để bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi đó là một dịp may đến thật tình cờ.
Tôi vẫn thường nghe nói về vườn hoa Anh Đào mà vương quốc Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ đô, đang khoe sắc mỗi độ xuân về. Thật như thỏa tấm lòng vì cả hai, được nhìn những cành hoa mà cả một thời tuổi trẻ ước mơ và đến tận nơi bức tường đá đen để tìm tên một người đã là điều tôi mong muốn từ lâu. Thế nên tôi thu xếp hành trang vôi vã đi ngay. Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người du ngoạn đã đưa tôi từ miền Texas xa xôi về tới thủ đô. Con đường Ohio chạy dọc theo bờ sông Potomac hoa Anh đào đã nở rực rỡ một màu hồng phơn phớt trắng. Hơi lạnh đầy trong không khí của một mùa đông dài còn sót lại, vương qua mùa xuân, đọng trên những cánh hoa dọc theo con đường Constitution dẫn đến bức tường đá đen nằm kia, trầm mặc u buồn.
Tháng Tư, hoa đã nở từ lâu. Xác hoa rơi lả tả làm hồng cả một khỏang không gian quanh những con đường chạy dọc theo công viên. Hoa Anh Đào thật đây rồi, những cánh hoa mà tươi xinh ngày xưa tôi chỉ được nhìn thấy trong phim ảnh rồi thầm cảm mến những kiếm sĩ của xứ Phù tang, cô đơn vung đường gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh, thì hôm nay đang rực rỡ khoe sắc trước mắt tôi đây. Tôi tách ra khỏi nhóm người đi bộ một mình dưới những tàn cây. Tôi vẫn thích đưọc đi một mình để nhớ về những ngày tháng đã dần qua.
Ngày xưa chưa mất miền Nam gia đình tôi đã có một cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Chồng tôi, một người lính trận, mỗi lần về phép thường hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố vấn trong đơn vị. Hai người cùng làm việc, cùng chung sở thích và ý nguyện nên rất thân nhau. Thuở ấy tôi không biết nhiều về đất Mỹ như bây giờ nhưng qua lời anh diễn tả, cũng đủ hiểu rằng người lính Mỹ ấy đến từ một vùng quê xa xôi miền trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài cái vẻ bên ngoài rất tài tử, râu ria xồm xoàm vì những ngày tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp cắt tiả thì Mike Wright thật nhân hậu và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với tấm lòng rộng lượng hồn nhiên của nguời Mỹ. Họ đã mang biết bao nhiêu tài sản, cả sinh mạng khi đến giúp đất nước tôi, hòa nhập vào đời sống người dân bản xứ, tươi vui trong cuộc sống. Bởi thế, anh chàng râu tia xồm xoàm Mike chiếm được cảm tình của gia đình, nhất là bà chị lớn chưa chồng của chúng tôi ngay. Chuyện tình của một người lính viễn chinh từ một đất nước xa xôi với người con gái Việt Nam còn nguyên nền nếp gia phong diễn ra thật êm đềm hạnh phúc với một đám cưới đậm chất phương Đông. Chị tôi khăn đóng, áo dài bên cạnh anh Mike cũng áo dài khăn đóng. Trông họ cũng thật vừa đôi.
Từ đó tôi không còn cô đơn trông ngóng hằng đêm mà có cả chị tôi là kẻ đồng tình, đồng cảnh. Chúng tôi đã có những ngày đợi chờ trong lo lắng, đã có những ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Những tháng tươi vui của một thời son trẻ tưởng như không bao giờ dứt cho đến một ngày kia. Tôi không quên được cái ngày người chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn đích thân đến báo cho tôi biết là chồng tôi và đơn vị của chàng không về nữa. Cả người cố vấn Mỹ dễ thương đang là anh rể của tôi cũng cùng chung số phận. Một đơn vị oai hùng, thiện chiến, tưởng như là không bao giờ thua trận đã nằm lại đâu đó trên vùng đất Hạ Lào của mùa hè khói lửa. Tôi và người chị, ngày ấy thực sự bị cuốn vào những cơn ác mộng, nhất là khi chị tôi biết được rằng mình vừa khó ở, chưa thông báo cho Mike biết về đứa con vừa thành hình trong bụng chị.
Sau khi miền Nam lọt vào tay phương Bắc là một quãng đời địa ngục trần gian đến với chúng tôi. Nhất là chị với đứa con lai đã hứng chịu trăm đắng ngàn cay bởi vì sự dè bỉu, khinh khi cũng như phân biệt đối xử của người cai trị mới. Chị tôi bị hành hạ, bị lăng nhục, bị đe dọa đưa vào cái trại gọi là phục hồi nhân phẩm mà thực chất là tước đoạt hết nhân phẩm con người. Chịu đựng bao nhiêu đắng cay khổ sở nhưng chị tôi vẫn cắn răng làm việc nuôi dạy con khôn lớn nên nguời. Có một điều làm tôi lạ lùng là tình yêu của chị dành cho anh hơn hẳn những thường tình. Chị luôn nhắc tới anh với những lời yêu thương trang trọng, với sự bùi ngùi thương tiếc của một người góa phụ tưởng nhớ thương chồng. Chị không đòi hỏi gì ở anh cũng như đất nước anh. Khi chương trình tái định cư những người con lai bắt đầu, tôi cũng tưởng chị vui sướng lắm. Nhưng không, chị từ chối ra đi chỉ vì còn nặng lòng với mảnh đất được sinh ra và đứa cháu tôi cũng vui vẻ vâng theo lời mẹ. Tôi không giống và cũng không chịu đựng được như chị. Tôi chọn ra đi để đưa các con tôi về với tự do. Khi con thuyền mong manh đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm cầu nguyện ơn trên cho chúng tôi vượt sóng đươc bình an. Tôi đã chọn tự do hay là chết và chân thành cầu xin đó là một sự chọn lựa đúng đắn và may mắn nhất trong đời…
Cứ mải suy nghĩ và đi theo con đường hoa, tôi đến trước bức tường đá đen tự bao giờ. Con đường dần xuống thấp để những dòng tên trắng hiện ra. Một cặp vợ chồng người Mỹ trắng đã già lắm, run rẩy dắt tay nhau bước lên bực thang. Mắt người đàn bà còn ướt đỏ. Tôi đoán rằng bà vừa mới khóc. Gặp nhau trên bực thang đầu tiên, tôi vui vẻ chào hai người rồi hỏi lớn:
-Ông bà từ đâu tới.
-Chúng tôi từ Ohio, còn cô.
– Thưa ông bà tôi từ Texas.
Người đàn ông râu dài nhưng cắt tỉa gọn gàng, dáng vẻ hiền từ thân thiện. Ông ta mỉm cưởi hỏi lại.
-Tôi muốn hỏi cô người nước nào. Phi, Tàu, Nhật hay Thái lan.
-Thưa ông tôi là người Việt Nam.
Bỗng nhiên tôi thấy gương bặt người đàn bà dường như đổi sắc. Hình như một sự giận dữ bất ngờ chợt làm bà ta vùng vằng cố bước lên bậc thang ngắn tiến về phía trước. Tôi ngạc nhiên nhìn ông già chờ đợi một lời giải thích về cử chỉ bất thường của bà. Chắc có một điều gì không ổn vì tôi biết đa số người Mỹ thường lịch sự, ít ai bày tỏ ngay những điều khó chịu trong lòng. Như đóan được ý nghĩ của tôi ông buồn rầu giải thích.
-Cô đừng buồn với thái độ của vợ tôi. Bà ấy đang buồn rầu. Chúng tôi mất đứa con trai duy nhất ở Việt Nam, nên mỗi khi thấy người Việt Nam vợ tôi lại xúc động, không ngăn được cảm xúc nên có những cử chỉ bất thường.
Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống chiếc ghế đá bên lối đi, đang run rẩy cố chống hai tay lên đùi, mắt vô hồn nhìn vào quãng không gian phía trước. Nếu tôi mất con cho một cái xứ sở xa lạ nào chắc gì tôi còn giữ được bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt rào niềm thương xót để nói với ông rằng tôi thông cảm tâm tình của những bà mẹ mất con cho một dân tộc họ không hề mảy may biết tới. Trong lúc xúc động tôi cũng nói với ông là chính tôi và gia đình tôi cũng mất mát rất nhiều trong cuộc chiến chống cộng sản xâm lăng đó. Và đau đớn hơn thế nữa, chúng tôi đã mất cả quê hương, tổ quốc. Ông già Mỹ luôn luôn lập đi lập lại rằng tôi biết, chúng tôi biết, rồi xin phép tôi chạy đến săn sóc cho bà đã ngồi xuồng ghế đá cách đó không xa lắm. Ông nói lớn, chào từ giã khi tôi đi lần xuống phía dưới để dò tìm những hàng chữ mang tên người anh rể ngoại chủng năm xưa đã nằm xuống ở Việt Nam.
Tôi biết vần W sẽ nằm ở hàng cuối cùng nhưng cũng mất một lúc lâu mới tìm thấy cái tên Mikes Wright, tên người anh rể tôi năm kia, khiêm nhường giữa tên của bao nhiêu người. Nhỏ bé và đơn giản trong một không gian bao la, nhưng thật hào hùng độ lượng như cuộc đời anh và đất nước đang cưu mang chúng tôi đây. Tôi lặng chìm trong những giấc mơ xưa về một gia đình hạnh phúc mà nhớ đến chồng tôi. Tên của Mikes người ta còn nhớ chứ tên của chồng tôi kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả miếng đất nhỏ bé mà chồng tôi an nghỉ người ta cũng đang toan tính cướp mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Nhớ đến giây phút vật vã khóc lóc nhìn thi hài anh được gắn lon giữa hai hàng nến. Nhớ đến những khuôn mặt lầm lỳ, chai sạn vì gió bụi của những nguời lính bồng súng chào chồng tôi lần cuối khi đưa chàng về với đất mẹ năm xưa.
Giữa lúc lặng yên tưởng nhớ thì mấy bà bạn tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên tôi ơi ới, trách tôi xé lẻ tìm vui một mình. Cả bọn trầm trồ, chỉ trỏ reo vui với những cái tên lạ, nói cười vui vẻ như không cần biết gì về những niềm đau. Ôi nhân thế thường mau quên để sống, chỉ có mình tôi hay đi ngược thời gian về những dòng sông cũ. Chúng tôi lại rủ nhau đi thăm viện bảo tàng không gian gần đó. Một đoàn người vừa đi vừa cười, vừa hỏi thăm đường rộn vui lên góc phố. Ở đây người ta quen mắt với những cái lố lăng của du khách từ khắp mọi miền trên thế giới nên chẳng thấy phiền hà.
Đến trưa lúc sắp ra về tôi lại gặp cặp vợ chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một điều là tôi thấy ông già có nét gì rất quen. Lần này bà có vẻ vui hơn, mỉm cười khi tôi chào gặp lại. Chắc ông đã giải thích cho bà biết rằng ai cũng có những nỗi buồn, những mất mát khác nhau chứ không phải riêng bà. Chúng tôi đứng ngoài hành lang nói chuyện. Ông bà cho tôi biết sẽ về lại Ohio chiều mai, một nông trại xa xôi nằm sát biên giới tiểu bang Indiana. Ông nói thế nhưng tôi chẳng hình dung được gì ngoài những con số mà tôi đoán rằng đất đai chắc là rộng lớn. Tôi cũng cho ông biết chúng tôi còn ở đây thêm vài ngày, đi thăm một vài nơi nữa rồi chào từ giã theo dòng người thăm viếng.
Buổi sáng hôm sau tôi có thói quen thức dậy thật sớm trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi mở cửa bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi tình cờ bước dần về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá nhưng tôi thấy dưới chân bức tường thấp thoáng bóng ngươi. Bước tới gần hơn tôi bất ngờ nhận ra ông bà già Mỹ hôm qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngồi hẳn xuống đưa tay sờ lên những hàng tên như vuốt ve một vật gì quý giá.
Gặp lại nhau tôi lên tiếng:
-Chào ông bà. Ông bà ra đây sớm quá. Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi đi bộ trong khu này..
Ông ôn tồn giải thích:
-Chiều nay chúng tôi trở về lại Ohio rồi nên thu xếp thời gian thăm lại nơi đây lần nữa.
Bà vẫn không nói, đưa tay sờ lên phiến đá. Tôi chắc bà thương yêu người con và đau đớn lắm khi nhìn lên hàng chữ có tên con mình. Mắt tôi tò mò nhìn theo và ngạc nhiên thấy tay bà đang đặt trên hàng chữ của vần W. Như có một linh tính báo trước chuyện lạ lùng tôi buột miệng hỏi ông:
– Con trai của ông bà tên là gì nhỉ. Anh ấy mất ở Việt nam năm nào?
– Con trai tôi tên là Mikes Wright, Tử trận ở Việt Nam năm 1972. Tên nó đây, ngay đây này…
Vừa nói ông vừa chỉ về phía tay bà đang xoa xoa che khuất cái tên mà trước đây tôi đã đặt tay vào. Chính đó là tên anh rể của tôi. Cha của đứa cháu mồ côi mà chị tôi yêu quý như báu vật của cuộc đời mình. Tôi đứng lặng người nhìn ông rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời lại có sự tình cờ kỳ diệu đến thế này. Để chắc chắn mình không nằm mơ tôi hỏi lại những chi tiết rất chung chung mà tôi còn nhớ về anh.
– Anh Mikes của ông bà rất nhiều râu và vui tính lắm phải không.
– Cô nói gì tôi không hiểu. Dĩ nhiên ngày ấy Mikes còn trẻ lắm nên râu ria mọc là thường.
Tôi nhìn lại ông và mơ hồ thấy nét quen thuộc mà tôi chợt khám phá ra hôm qua, là ông trông rất giống Mike ở cái cằm vuông vức và bộ râu rậm dài. Ông già bùi ngùi nói tiếp.
– Vợ tôi buồn một điều là đáng lẽ ra Mikes đã hết hạn phục vụ ở Việt nam trở về Mỹ nhưng vì yêu thương một người con gái bản xứ nên tình nguyện phục vụ thêm một thời hạn nữa và cái thời hạn đó không bao giờ chấm dứt…
– Thế ông bà có biết tin tức gì về người con gái ấy không.
– Mikes có gởi cho chúng tôi một tấm hình, thông báo là đã thành hôn. Lâu quá rồi nhưng chúng tôi còn giữ tấm hình ấy trong tập ảnh gia đình ở Ohio. Chỉ có thế mà thôi.
Tôi muốn nói với ông chính tôi là em người con gái Việt Nam ấy nhưng sợ rằng mình nhận lầm, vì biết đâu có một anh Mike nào khác nữa nên chỉ nói với ông:
– Hơn ba mươi năm trước đây tôi cũng có một người anh rể tên là Mike Wright, quê quán ở miền trung bắc Mỹ. Tôi chỉ biết thế không biết có phải là anh Mikes con của ông bà không. Tôi từ Texas lên đây chơi nhưng chính là để nhìn thấy tên anh Mikes Wright một lần trên tấm bia đá này.
Ông mở mắt nhìn tôi kinh ngạc rồi kéo bà lên, nói với bà tin tức quan trọng đó. Ông luống cuống, mời tôi ngồi xuống tấm ghế đá trong khi bà cứ há miệng ra thẫn thờ chờ đợi. Rồi ông dồn dập hỏi.
– Tôi chắc là đúng rồi. Đấy cô coi có cái tên Mikes Wright nào khác đâu. Thế chị cô bây giờ ở đâu. Tôi muốn hỏi thăm tin tức về Mikes trong những ngày cuối cùng.
– Thưa ông bà, chị tôi vẫn còn ở Việt Nam. Chắc rằng chị tôi cũng chẳng biết gì hơn ông bà.
Như chính tôi đây chẳng biết gì hơn tin tức cuối cùng của chồng tôi và Mikes. Đầu tiên người ta chỉ thông báo cho chúng tôi là hai người đã mất tích sau một đợt tấn công của địch và cả tuần lễ sau mới tìm thấy xác mang về.
– Thế thì đúng như cô nói, chắc đúng là Mikes rồi. Khi chúng tôi đến nhận xác Mikes thì đã không mở ra được nữa vì những điều kiện vệ sinh.
– Nhưng tôi có một tin quan trọng về anh Mikes, không biết ông bà có muốn nghe không?
– Tin gì vậy, thưa cô. Chúng tôi không còn gì trên đời này ngoài hình ảnh của Mikes và những gì liên quan đến đứa con yêu thương của chúng tôi.
– Chị tôi có một người con với anh Mikes. Chính anh Mikes cũng không biết vì lúc vừa mới có thai, chưa kịp thông báo thì anh Mikes và chồng tôi đã không về nữa.
Ông bà liên tục kêu lên những lời thống thiết, không rõ là lời đau khổ hay mừng vui.
– Chúa ơi, thật thế sao! Chúa ơi! Chúa ơi!
– Thật thế thưa ông bà. Cháu giống Mikes lắm. Nếu ông bà thấy cháu là nhận ra ngay thôi.
– Thế bây giờ cháu ở đâu thưa cô.
-Cháu vẫn còn ở Việt nam. Vì thương mẹ nên cháu không về Mỹ theo chính sách trở về quê cha của những đứa con lai.
Tôi và ông bà Wright cùng bước đi như trong cơn mơ vì sự gặp gỡ bất ngờ. Tôi cho ông bà địa chỉ, số điện thoại của tôi và nhận lại địa chỉ số điện thoại của ông bà ở Ohio để tiện bề liên lạc. Những thông tin ban đầu mặc dù đã chính xác, nhưng tôi muốn biết chắc tấm ảnh ngày xưa có phải là của chị tôi hay không. Chiều hôm đó ông bà Wright về lại Ohio. Tôi đoán ông bà vui vẻ lắm. Mất một đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi nhưng ông bà sẽ được nhận lại một đứa cháu ngoan ngoãn và đứa con dâu còn giữ đúng truyền thống Việt Nam. Tôi biết chị tôi là một người đàn bà Việt Nam hiền thục. Tôi đã đoán không sai vì ba hôm sau khi tôi còn ở khách sạn thì tiếng điện thoại lại reo. Lần này ông bà Wright theo xe trở lên, mang cả gia đình đứa con gái gồm con rể và hai đứa cháu. Họ lái một chiếc xe van lớn mang theo cả tấm ảnh ngày xưa.
Gặp nhau tại công viên ông bà đưa tôi tấm ảnh và giải thích:
– Vội quá nên chúng tôi không book được vé máy bay. Vả lại Nathalie, em gái của Mikes và chồng con nó ở gần đó cũng muốn đi nên chúng tôi lái xe cho tiện.
Tấm ảnh chụp cách đây hơn ba mươi năm giờ đã ố vàng. Màu sắc phai theo thời gian nhưng vẫn còn sắc nét. Tôi cầm tấm ảnh như đưa tay chạm vào một phần quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi người con dâu đất Mỹ, e ấp đứng bên người chồng râu tia xồm xoàm, đang đưa cánh tay khỏe mạnh ôm vòng lấy người con gái như ôm ấp chính cuộc đời cô.
– Đúng là chị tôi rồi….
Ông bà Wright mừng vui như mở hội. Bà như trẻ trung hẳn lên. Bao nhiêu bệnh tật gần như tan biến. Mấy người đi theo cũng lộ nét mừng vui hớn hở. Bà hỏi tôi những chuyến bay về Việt Nam với những dự định đi thăm viếng đứa cháu, con của người con tưởng như đã mất, bỗng dưng còn để lại trong cuộc đời này cả một phần huyết nhục. Tôi thưa với ông bà rằng tôi đã nói chuyện với chị tôi qua điện thoại. Chi cũng rất vui mừng về sự gặp gỡ này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê nội cũng như chính chị sẵn sàng về làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông bà trong lúc tuổi già đúng như truyền thống của người Việt nam. Tôi đã biết tình yêu của chị dành cho Mikes nên không ngạc nhiên với quyết định này. Ông bà chăm chú nghe tôi giải thích phong tục Việt Nam là người vợ phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ chồng. Ông kêu Chúa ôi liên tục sau mỗi câu nói làm tôi có cảm tưởng như đang kể cho ông bà nghe về chuyện phong thần, nhưng tôi biết bây giờ đối với ông bà, đất trời là cả một mùa xuân.
Sau đó một thời gian dài, tôi lại bận bịu vì phải lo lắng dẫn ông bà Wright về lại Việt Nam. Bận bịu nhưng lòng tôi sung sướng. Tôi không giấu được xúc động khi nhìn thấy ông bà lần đầu tiên gặp lại đứa cháu nội sau hơn ba mươi năm thương nhớ người con đã khuất. Ông bà cứ kêu lên những lời vui mừng vang một góc sân và làm ngạc nhiên những người hàng xóm Việt Nam vốn không thiếu sự tò mò.
-Oh my God! He just looks like his father! Oh my God!
Bây giờ chị tôi, một người con gái Việt nam về làm dâu muộn màng trên đất Mỹ, đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp ở Ohio với đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội trong cuộc chiến Việt Nam.
LƯU HỒNG PHÚC
Người Tù Kiệt Xuất
Tôi đã nhiều lần định viết về những người tù kiệt xuất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa: những anh em Biệt Kích Dù, những người “từ trên trời rơi xuống,” nhưng tôi cứ lần lựa mãi. Lười biếng thì chỉ có một phần. Lý do chính yếu là những người bạn tù mà tôi bội phần cảm phục ấy đang ở trong một tình trạng hết sức khó khăn. Chúng tôi đi cải tạo sau tháng 4 đen 1975, dù đớn đau, khổ nhục đến đâu, vẫn có tên, có tuổi, hằng tháng, hằng quý vẫn còn liên lạc được với gia đình. Anh em, bè bạn ở nước ngoài vẫn còn có chút âm hao để mà theo dõi. Những anh em Biệt Kích Dù thì đúng là “thượng diệt, hạ tuyệt” – không có quân bạ, quân số, không có tên có tuổi nào được đăng ký, không có chính phủ nào, quân đội nào công nhận có những con người ấy ở dưới tay.
Mùa Xuân-Quê Hương và Khói súng
Ðầu năm Dương Lịch, tôi có một tuần được nghỉ bù cho những ngày làm việc phụ trội mùa Giáng-Sinh. Tôi lên nhà đứa con gái thứ nhì, chơi với thằng cháu ngoại Maxwell hai tuổi. Bố mẹ nó đi làm tới tối mới về. Tuổi cháu Maxwell bây giờ bằng tuổi mẹ nó ngày ông ngoại nó thua trận năm xưa, ngày Sài-Gòn thất thủ, tháng tư 1975.
Thằng bé bập bẹ:
“Ong…ong… ong ngại…”
Tôi vuốt tóc nó. Nó toét miệng ra cười. Nụ cười của thằng bé thật là trong sáng, hồn nhiên. Mùa Xuân đời nó mới bắt đầu…
Tôi ôm thằng cháu ngoại vào lòng. Bồi hồi nhớ lại những mùa Xuân đã qua trong cuộc đời mình.
Thuở ấu thơ, Xuân về, tôi chỉ thấy buồn nhiều hơn vui: vì tôi là một đứa trẻ mồ côi cha khi chưa đầy sáu tuổi.
Tuổi hai mươi, tôi vào Trường Võ-Bị. Ra trường, tôi lặn ngụp trong chiến trận mười năm, tiếp theo là mười ba năm khổ nhục trong lao tù Cộng-Sản. Giờ đây tôi đang bước sang năm thứ mười ba của kiếp sống tha phương nơi đất lạ quê người.
Tới mùa Xuân 2006 này là chẵn bốn mươi năm kể từ ngày tôi trình diện đơn vị.
Tới mùa Xuân này là chẵn bốn mươi năm sau ngày tôi tham dự trận đánh lớn đầu tiên.
Trận đánh này tôi xem như bài khảo hạch thực tế quá khắt khe và quá phũ phàng đối với một sĩ quan trẻ vừa rời quân trường. Nó đã ghi sâu trong lòng tôi một kỷ niệm rất buồn, khó quên. Nó cũng là một bài học quý giá giúp tôi thành công những năm sau, trên cương vị một người chỉ huy, sống và chiến đấu sát vai với thuộc cấp của mình.
o O o
Mùng Mười Tết năm Bính-Ngọ 1966, tôi mãn phép ra trường. Vài ngày sau đó tôi trình diện Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/ Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. Chuẩn tướng Nhuận bắt tay tôi, chúc cho tôi một đời binh nghiệp thành công.
Lòng phơi phới, hân hoan tôi rời Sài-Gòn với cái sự vụ lệnh bổ sung quân số cho Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân đồn trú ở Phú-Lộc, Ðà-Nẵng.
Ðoạn đường ngắn ngủi từ Ban Ðại-Diện Biệt Ðộng Quân Quân Khu 1 ở gần cầu Trịnh Minh Thế, tới hậu cứ Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân ở xã Hòa-Khánh ngoại ô Ðà-Nẵng, cũng chiếm vài ngày, vì thủ tục giấy tờ nhiêu khê.
Thiếu úy Nguyễn Giáp, sĩ quan quân số của Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân, nói với tôi rằng ông Ðại úy Tiểu đoàn trưởng đang hành quân ở Hội-An. Tôi có thể đi tìm ông ta bằng phương tiện tự túc.
Hạ tuần tháng Giêng Âm-Lịch, hơi hướm Tết còn vương. Vào Xuân, đường phố Hội-An rực rỡ. Những đóa hoa mai nở vàng sau vườn. Những câu đối đỏ còn đong đưa trên nêu tre trong phố cổ.
Trong nắng ấm, phấp phới những tà áo màu sặc sỡ. Phố hẹp, người đông. Người dân Hội-An đang sống trong một không khí thanh bình tạm bợ. Khói lửa chiến tranh vẫn ngùn ngụt nơi vùng quê. Từ ngoại ô, tiếng đại bác vẫn ì ầm vọng về…
Khoảng mười giờ sáng ngày 10 tháng 2 năm 1966 tôi rời nhà, lên phố tìm ông tiểu đoàn trưởng để trình diện.
Từ chùa Âm-Bổn, tôi thả bộ theo đường Nguyễn Duy Hiệu, vừa đi vừa ngắm cảnh phố phường.
Khi tôi tới cổng trường Trung học Tư thục Diên-Hồng thì sau lưng tôi có một chiếc xe GMC từ hướng Ðế-Võng chạy lên. Thấy trên xe có cái quan tài phủ quốc kỳ Việt- Nam Cộng- Hòa, tôi dừng lại, đứng nghiêm, giơ tay chào vĩnh biệt người chiến sĩ vừa tử trận.
Bốn anh Biệt Ðộng Quân hộ tống xe tang ngồi hai bên quan tài, dõi mắt quan sát khách qua đường. Khi nhận ra tôi cũng là một Biệt Ðộng Quân, với bông mai vàng trên ve áo, họ giơ tay chào. Tôi tò mò,
– Ai đó mấy chú?
Một anh lính nghẹn ngào,
– Thiếu úy Gia, Thiếu úy Gia Ðại Ðội 2 đó Thiếu úy!
Tôi chột dạ, hỏi thêm,
– Thiếu úy Nguyễn Vĩnh Gia khóa 19 Ðà-Lạt phải không?
– Dạ phải!
Tim tôi nhoi nhói đau. Khóa 19 Ðà-Lạt ra trường trước khóa 20 Ðà-Lạt của tôi vừa tròn một năm. Tôi đứng lặng nhìn theo chiếc GMC chạy về hướng chợ.
Chiếc xe từ từ lăn bánh giữa hai hàng cây xanh. Những cành phượng vỹ mềm mại trĩu xuống, vướng vào mui xe, quệt trên lá cờ vàng ba sọc đỏ, như níu, như kéo. Khi chiếc xe đi qua, những cành cây bật qua, bật lại trông như những cánh tay vẫy chào biệt ly…
Tới đầu chợ Hội-An, tôi gặp một toán quân nhân Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân đang tụ tập chờ xe đón về đơn vị. Tôi hỏi thăm họ nơi nào ông tiểu đoàn trưởng đóng quân, thì họ nói ông Ðại úy ngày nào cũng loanh quanh ở mấy quán cà phê đâu đó gần chùa Cầu.
Tôi tìm được Ðại úy tiểu đoàn trưởng trước cửa tiệm chụp ảnh Huỳnh Sỏ. Ông Ðại úy và đoàn tùy tùng của ông đang ngồi xẹp, tán dóc giữa đường Nguyễn Thái Học. Ông không cần đọc cái sự vụ lệnh của tôi. Ông nheo mắt quan sát tôi một phút rồi phán,
– Còn sữa quá! Làm ban 3 tiểu đoàn!
Tôi đứng nghiêm. Nhìn thẳng vào mặt ông tiểu đoàn trưởng, tôi dõng dạc,
– Thưa Ðại úy, tôi muốn ra đại đội tác chiến!
Ông tiểu đoàn trưởng nhìn sững tôi một giây, rồi phá lên cười,
– Ð! M! Chứ ban 3 tiểu đoàn không tác chiến sao? Oui! Toa về Ðại Ðội 3 thay Thiếu úy Vinh. Thằng Vinh lên làm ban 3.
Khi nói chuyện, Ðại úy Nguyễn Thừa Dzu , Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân thường chêm tiếng Tây; sau này tôi biết ông xuất thân từ quân đội Tây. (Oui! = Ðược rồi!)
Xế trưa hôm đó, tôi quá giang xe đò tới xã Thanh-Quýt, quận Ðiện-Bàn, để giữ chức Ðại Ðội Phó kiêm Trung Ðội Trưởng Trung Ðội 1/Ðại Ðội 3/ Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân.
Sĩ quan Ðại Ðội Trưởng 3/11 là Trung úy Lê Bá Ngọ đi chơi vắng. Người tiếp tôi là Chuẩn úy Nguyễn Văn Vinh, sĩ quan trực đại đội, anh cũng là người sẽ bàn giao Trung Ðội 1 cho tôi.
Khi bàn giao trung đội cho tôi, Vinh cười,
– Sao mày ngu quá? Làm ban 3 có xe Jeep lại không chịu. Chịu làm trung đội trưởng, để đi bộ.
Chuẩn úy Nguyễn Văn Vinh là con bác Bạo, y tá của Bệnh Viện Hội-An. Anh Vinh là bạn học cùng lớp Trung học Trần Quí Cáp của tôi. Vinh đi khóa 17 Thủ-Ðức. Khóa 17 Thủ Ðức nhập trường sau khóa 20 Ðà-Lạt vài ngày, ra trường trước khóa 20 Ðà-Lạt hơn một năm.
(nguồn: http://baotreonline.com/)(
Ngày tiếp nhận sự vụ lệnh của tôi, Thiếu úy Giáp còn cho tôi biết khóa 20 Ðà-Lạt có ba người được bổ sung quân số cho Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân, nhưng chỉ có mình tôi tới đơn vị đúng ngày, hai người kia thì chưa thấy đâu.
Hồi đó tôi còn thư sinh, trắng trẻo lắm, binh sĩ trong đơn vị cứ lầm tôi với Thiếu úy Hồng Dũ Thiều, khóa 19 Ðà-Lạt, cấp chỉ huy cũ của họ. Tôi thấy họ tỏ ra rất tin tưởng, vâng lời và thương yêu những sĩ quan xuất thân từ Ðà-Lạt.
Ðã có nhiều niên trưởng của tôi phục vụ đơn vị này trước khi tôi ra trường. Nhưng cùng với đà khốc liệt của chiến tranh tăng nhanh, sĩ quan Ðà-Lạt ở Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân cũng hao hụt nhanh. Trừ Thiếu úy Nguyễn Vĩnh Giám (K19) còn sống sót, nhưng đang là thương binh loại 2, những niên trưởng khác của tôi đều tử trận cả rồi.
Thiếu úy Hồng Dũ Thiều (K19) và Trung úy Nguyễn Văn Hùng (K18) chết trong trận Việt-An, Quảng-Ngãi khi tôi đang tập dượt lễ mãn khóa 20 trong Trường Võ-Bị. Thiếu úy Nguyễn Vĩnh Gia (K19) chết ở Cẩm-Kim, Hội-An, ngày tôi trình diện tiểu đoàn.
Vì thế đầu Xuân 1966, ở Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân, nhìn tới, ngó lui, chỉ có một bông mai vàng Ðà-Lạt cô đơn, đó là tôi.
Thời gian này Quân Ðoàn I đang trong chiến dịch “Hỏa Tuyến Vùng Lên”. Ðơn vị tôi thường xuyên đi hành quân tảo thanh quanh thị xã Hội-An và vùng ven biển Quảng-Nam.
Tôi là cựu học sinh Trung học Trần Quí Cáp. Tôi không lạ gì hai con chó đá và hai con khỉ đá Chùa Cầu. Tôi cũng rất quen những địa danh Cẩm-Kim, Xuyên-Quang, Phước-Trạch, Thu-Bồn, Cửa-Ðợi, Câu-Lâu… vân vân.
Mỗi khi hành quân về, đại đội tôi lại đóng quân ở nghĩa trang Triều-Châu, gần miếu Ông Cọp, ngoại ô thị xã Hội-An.
Căn lều của ban chỉ huy Trung Ðội 1 dựng gần mộ nhạc sĩ La Hối, tác giả bài “Xuân và Tuổi Trẻ”. Ông La Hối là người của thành phố Fai-Foo, tên xưa của Hội-An.
Căn lều ấy chứa năm thầy trò chúng tôi. Gồm có tôi (Thiếu úy Vương Mộng Long), Hạ sĩ Nguyễn Hồng Phong, người nấu cơm cho trung đội trưởng, Binh nhất Lý Thí, người mang đồ ngủ, lều võng cho trung đội trưởng, Binh nhất Mai Ðăng Vinh, hiệu thính viên của Trung Ðội 1, và Hạ sĩ nhất Nguyễn Mầu, xạ thủ trung liên BAR, hỏa lực chính của Trung Ðội 1.
Mặc dù gia đình tôi ở ngay trong phố Nguyễn Duy Hiệu, Hội-An, nhưng tôi thích sống tại đơn vị, gần gũi với những quân nhân dưới quyền.
Những buổi trở trời, mưa phùn bay mênh mang trên những đụn cát xa xa, Binh nhất Lý Thí lại mò ra đầu xóm, rinh về một đĩa lòng heo luộc và một bi-đông rượu trắng. Thầy trò tôi ngồi tán dóc chuyện dưới biển, trên trời.
Khi men cay đã thấm, ông Mầu và thằng Thí gân cổ, vụng về ca những câu vọng cổ chẳng đâu vào đâu, làm cho thằng Vinh lăn bò ra cười. Khi nó cười, miệng nó óng ánh hai cái răng vàng quê ơi là quê!
Vào những chiều mưa buồn như thế, đám đàn em của tôi thường nài nỉ tôi cụng ly với họ.
Sau mỗi lần tôi chịu “dzô!” một ly, thế nào họ cũng bắt tôi kể cho họ nghe một câu chuyện văn chương hay lịch sử.
Không biết họ có hiểu ý nghĩa của những câu chuyện tôi kể, thơ tôi ngâm hay không, nhưng tôi thấy họ ngây người nghệt mặt, miệng há tròn như chữ “O”, họ nhìn tôi với ánh mắt đầy cảm kích.
“Sĩ quan Ðà-Lạt, văn võ kiêm toàn!”
Thằng Thí chỉ biết gục gặc cái đầu, tán tụng một câu như vậy, mỗi khi tôi ngừng đọc một bài Ðường Thi, hay kết thúc một chuyện tình của Nã Phá Luân Ðại-Ðế.
o O o
Mờ sáng 22 tháng 2 năm 1966 đại đội tôi được thiết vận xa chở từ Hội-An lên Vĩnh-Ðiện để cùng với Ðại Ðội 1 và Ðại Ðội 4 đi giải vây cho đồn Kỳ-Ngọc, Ðiện-Bàn. Vì Ðại Ðội 2/11 của Trung úy Tôn Thất Trực đang tăng cường cho chi khu Quế-Sơn, nên lần hành quân này Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân chỉ tham chiến với ba đại đội.
Vừa rời ngã ba Quốc Lộ 1 được một đỗi, đơn vị tôi bị khựng lại vì đoàn người chạy loạn ngược chiều cản đường. Ðồng bào bồng bế dắt díu nhau ùn ùn dồn về thị trấn Vĩnh-Ðiện để lánh nạn chiến tranh.
Gần tới tháp Bằng-An, tôi gặp Trung úy Nguyễn Ngại, đại đội trưởng đơn vị Ðịa Phương Quân phụ trách vùng Tây Vĩnh-Ðiện. Trung úy Ngại xin gặp Trung úy Ngọ. Hai ông đại đội trưởng trao đổi tin tức cùng nhau vài phút. Sau đó, tôi được lệnh triển khai đội hình một hàng dọc, theo lộ tiến về hướng Tây.
Trung Ðội 1 do tôi dẫn đầu vừa qua khỏi tháp Bằng-An thì đằng sau có tin báo, khẩu súng Colt của Trung úy đại đội trưởng bị “cướp cò” khiến cho một viên đạn “dính” vào cẳng ông. Ông Trung úy đã được y tá khiêng lên xe cứu thương chở đi mất rồi!
Hạ sĩ Phụng, hiệu thính viên đại đội chạy hộc tốc từ hậu quân lên tìm tôi để đưa cái ống liên hợp máy PRC10 cho tôi,
– Thiếu úy! Ðại Bàng muốn nói chuyện với Thiếu úy!
Ðây là lần đầu trong đời lính, tôi có dịp đàm thoại với “Ðại Bàng” trên máy PRC10.
Buổi ấy là thời cực thịnh của những danh xưng truyền tin dữ dằn, đầy hơi hướm giang hồ hảo hớn như “Sơn Vương”, “Phi Hổ” ,”Mãnh Sư”, “Ðại Bàng”…
Mãi về sau, khi bọn thư sinh hào hoa may mắn sống sót, ngoi lên được những vị trí chỉ huy chiến trận, thì tên của những nữ minh tinh, ca sĩ thủ đô mới được “trực thăng vận” ra chiến trường. Từ đó, bất cứ chốn nào có súng nổ, đạn bay, thì các nàng Thái Thanh, Kiều Chinh, Phương Dung, Hoàng Oanh, Thanh Thúy… lại gọi nhau ơi ới.
Trận này chỉ có một “Ðại Bàng” Mũ Nâu, Nguyễn Thừa Dzu. Còn “Ðại Bàng” Mũ Ðen Nguyễn Văn Của, Chi Ðoàn Trưởng Thiết Kỵ thì vắng mặt. Người chỉ huy đơn vị thiết kỵ ngày hôm đó là Trung úy Lào, Chi Ðoàn Phó.
Ông Ðại úy tiểu đoàn trưởng cho lệnh tôi đảm đương chức vụ Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 3/ Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân, vì đại đội tôi chỉ còn hai sĩ quan là tôi và Chuẩn úy Ðạt.
Từ phút đó, trên máy truyền tin, tôi không còn là “Giới Chức 1” nữa mà tôi được quyền xưng danh là “Thẩm Quyền 3”.
“Ðại Bàng! Ðây Thẩm Quyền 3 tôi nghe!”
Tôi chưa ổn định được đội hình đại đội thì Ðại úy đã thúc hối,
– A lê! Tiến lên cho kịp mấy con cua sắt! Ð! M! Cứ lù đù như gà mắc dây thun thì đến tối cũng chưa tới mục tiêu!
Quả thực, từ lúc khởi hành cho tới giờ đó, tôi có biết mục tiêu ở chỗ nào đâu! Trung úy ra đi không để lại một lời! Ðại úy ở chỗ nào tôi cũng chẳng hay! Tôi chỉ nghe được tiếng nói của người trên máy. Tôi định xin Ðại úy chỉ cho tôi mục tiêu ở chỗ nào, và nhiệm vụ của đại đội tôi làm gì, nhưng tôi lại sợ Ðại úy nổi giận!
Thấy đoàn M113 đang hàng dọc bò chầm chậm theo con lộ, tôi vội vàng ra lệnh cho quân mình dàn hàng ngang hai bên đường tiến lên phía trước đoàn xe.
Những tia nắng mai bắt đầu lóng lánh trên mặt nước đồng chiêm. Nếu không có những tiếng động cơ M113 rú lên từng chập trên con đường đá dăm gập ghềnh, thì toàn vùng đồng không mông quạnh này sẽ im ắng như tờ. Không cả tiếng chó sủa, mèo kêu. Tôi cảm thấy lạnh lưng, rùng mình trước cái im lặng ghê rợn ấy.
Tôi sử dụng đội hình “Tam Giác Mũi Trước”; ban chỉ huy đại đội đi sau Trung Ðội 2 bên trái đội hình. Tôi cẩn thận cho một toán tiền thám ba người đi dò đường một đoạn khá xa phía trước.
Khi chúng tôi đến gần một con dốc, nơi có cái miếu thổ địa bên đường, thì anh trưởng toán tiền thám là Binh nhất Trần Quy chạy ngược lại, hớt hải,
– Hướng Nam con lộ có rất nhiều người cài lá ngụy trang đang di chuyển ngược chiều quân bạn!
Tôi cho lệnh đại đội ngừng lại bố trí sẵn sàng. Tôi báo cáo sự việc cho Ðại Bàng.
Ông Ðại úy cằn nhằn,
– Ð! M! “Toa” cứ theo mấy con cua! Nó ngừng, “toa” ngừng. Nó tiến, “toa” tiến. Ðừng có lôi thôi!
Tôi thận trọng tiến lên cùng toán tiền sát để thăm dò tình hình. Tôi đã thấy những cành lá ngụy trang đang di chuyển từ Tây sang Ðông.
Chúng ẩn hiện sau những bờ đất hướng Nam con lộ. Tôi ra dấu cho Chuẩn úy Ðạt, Trung Ðội 3, và Thượng sĩ nhất Huỳnh, Trung Ðội 2, sẵn sàng chiến đấu.
Thế rồi…
“Ðùng! Ðùng! Oàng! Oàng! Chiu! Chíu!…” mìn nổ, đạn bay…địch khai hỏa!
Ðạn địch, trung liên, đại liên, AK47 từ trên dốc và khu ruộng khô bên trái lộ bắn xối xả về hướng đại đội tôi và đoàn xe sau lưng tôi.
Vậy là, chỉ mười hai ngày sau khi đáo nhậm đơn vị, tôi có dịp nếm mùi “Công Ðồn Ðả Viện”.
Mới mở màn mà trận này đã có vẻ sẽ là một trận lớn!
Cũng may, địch đang vận động lực lượng, mà chưa sẵn sàng! Tôi vào trận không đến nỗi bất ngờ lắm, vì tôi đã kịp thời thấy rõ tuyến dàn quân của địch. Tôi biết mình phải làm gì khi bị rơi vào một tuyến phục kích.
Lần đầu chạm địch với cương vị một đại đội trưởng, tôi cảm thấy hơi khớp. Nhưng những con mắt thuộc cấp nhìn tôi đầy tin tưởng đã khiến tôi vững tâm hơn.
Tôi nhủ thầm:
“Ta là Ðà-Lạt! Ta là một cấp chỉ huy!”
Tôi la lớn:
“Phục kích bên trái đường! Hai bên trái, Ba bên phải, xung phong!”
Những người lính già còn sót lại từ thời Chiến Tranh Ðông-Dương (1945-1954) như Thượng sĩ Huỳnh và Hạ sĩ Mầu đã chứng tỏ sự lợi hại của họ trong những tình huống hiểm nghèo như thế này!
Ông Huỳnh và ông Mầu cùng hô to:
“Xung phong bên trái!”
Nhưng ông Mầu thì kẹp khẩu trung liên BAR vừa bắn, vừa tiến lên trước mở đường, miệng ông oang oang,
– Theo tui! Theo tui! Biệt Ðộng! Sát! Biệt Ðộng! Sát!
Còn Thượng sĩ Huỳnh, thì xoay ngang khẩu Carbine ngáng sau lưng những anh lính trẻ đang bàng hoàng chần chừ, để đẩy họ chạy lên xung phong. Ông hạ sĩ quan già không ngần ngại xách cổ áo, đá đít những Biệt Ðộng Quân nhát gan đang nằm úp mặt, núp mình bên vệ đường. Ông lùa họ chạy theo đồng đội.
Thoáng chốc, trên cánh đồng mênh mông, từng cụm khói bốc cao, tiếng súng đã vang rền, hòa cùng những tiếng thét “Biệt Ðộng! Sát! Biệt Ðộng!Sát!…” kinh hoàng.
Tôi cùng Trung Ðội 2 vừa kiểm soát xong khu gò đất hướng Nam và cái miếu thổ địa thì Trung Ðội 3 của Chuẩn úy Ðạt cũng hoàn tất nhiệm vụ làm chủ con dốc hướng Tây.
Sau đó, tôi xua quân nhanh chân chạy lên chiếm giữ khoảng bờ đất cao tới ngực phân chia hai vùng ruộng khô và ruộng nước.
Thế là, chỉ vài phút sau, chúng tôi đã có một địa thế vô cùng thuận lợi để chiến đấu.
Ðoàn xe M113 vừa qua khỏi giai đoạn lúng túng ban đầu, cũng đã bình tĩnh trở lại. Họ xoay thành hình cánh cung sau lưng chúng tôi. Họ bắt đầu tác xạ tiếp tay cho Biệt Ðộng Quân.
Nép mình sau miếu thổ thần, tôi nhận định trận địa.
Khu ruộng thấp trồng lúa trải dài, cặp hai bên con lộ, theo hướng Ðông, Tây. Ruộng cao chạy song song với ruộng nước từ chân tháp Bằng-An tới ga Kỳ-Lam.
Khu ruộng cao trồng đậu phọng, khoai lang, hoặc thuốc lá.
Hết ruộng cao, xa về hướng Nam, là khu nhà dân với vườn phi lao và bãi mía um tùm.
Ðầu xóm là ngôi trường học cũ. Tường bao quanh trường, chỗ còn, chỗ sập. Từ bờ rào ngôi trường, và khu rừng phi lao, đạn địch đủ loại bắn ra đường tới tấp như mưa…
Rõ ràng địch đang vận động một cánh quân lớn từ hướng Tây qua hướng Ðông trường học để đánh bọc sườn Nam của lực lượng bạn.
Trước mắt tôi, những cán binh Việt-Cộng di chuyển thật lộ liễu nơi khoảng trống giữa hai bức tường đổ. Những cái bia sống cài lá ngụy trang, ẩn hiện chậm chạp hơn những cái bia “B” ở Trường Sình Lầy, Dục-Mỹ.
Chúng ẩn hiện sau những bờ đất hướng Nam con lộ. Tôi ra dấu cho Chuẩn úy Ðạt, Trung Ðội 3, và Thượng sĩ nhất Huỳnh, Trung Ðội 2, sẵn sàng chiến đấu.
Thế rồi…
“Ðùng! Ðùng! Oàng! Oàng! Chiu! Chíu!…” mìn nổ, đạn bay…địch khai hỏa!
Ðạn địch, trung liên, đại liên, AK47 từ trên dốc và khu ruộng khô bên trái lộ bắn xối xả về hướng đại đội tôi và đoàn xe sau lưng tôi.
Vậy là, chỉ mười hai ngày sau khi đáo nhậm đơn vị, tôi có dịp nếm mùi “Công Ðồn Ðả Viện”.
Mới mở màn mà trận này đã có vẻ sẽ là một trận lớn!
Cũng may, địch đang vận động lực lượng, mà chưa sẵn sàng! Tôi vào trận không đến nỗi bất ngờ lắm, vì tôi đã kịp thời thấy rõ tuyến dàn quân của địch. Tôi biết mình phải làm gì khi bị rơi vào một tuyến phục kích.
Lần đầu chạm địch với cương vị một đại đội trưởng, tôi cảm thấy hơi khớp. Nhưng những con mắt thuộc cấp nhìn tôi đầy tin tưởng đã khiến tôi vững tâm hơn.
Tôi nhủ thầm:
“Ta là Ðà-Lạt! Ta là một cấp chỉ huy!”
Tôi la lớn:
“Phục kích bên trái đường! Hai bên trái, Ba bên phải, xung phong!”
Những người lính già còn sót lại từ thời Chiến Tranh Ðông-Dương (1945-1954) như Thượng sĩ Huỳnh và Hạ sĩ Mầu đã chứng tỏ sự lợi hại của họ trong những tình huống hiểm nghèo như thế này!
Ông Huỳnh và ông Mầu cùng hô to:
“Xung phong bên trái!”
Nhưng ông Mầu thì kẹp khẩu trung liên BAR vừa bắn, vừa tiến lên trước mở đường, miệng ông oang oang,
– Theo tui! Theo tui! Biệt Ðộng! Sát! Biệt Ðộng! Sát!
Còn Thượng sĩ Huỳnh, thì xoay ngang khẩu Carbine ngáng sau lưng những anh lính trẻ đang bàng hoàng chần chừ, để đẩy họ chạy lên xung phong. Ông hạ sĩ quan già không ngần ngại xách cổ áo, đá đít những Biệt Ðộng Quân nhát gan đang nằm úp mặt, núp mình bên vệ đường. Ông lùa họ chạy theo đồng đội.
Thoáng chốc, trên cánh đồng mênh mông, từng cụm khói bốc cao, tiếng súng đã vang rền, hòa cùng những tiếng thét “Biệt Ðộng! Sát! Biệt Ðộng!Sát!…” kinh hoàng.
Tôi cùng Trung Ðội 2 vừa kiểm soát xong khu gò đất hướng Nam và cái miếu thổ địa thì Trung Ðội 3 của Chuẩn úy Ðạt cũng hoàn tất nhiệm vụ làm chủ con dốc hướng Tây.
Sau đó, tôi xua quân nhanh chân chạy lên chiếm giữ khoảng bờ đất cao tới ngực phân chia hai vùng ruộng khô và ruộng nước.
Thế là, chỉ vài phút sau, chúng tôi đã có một địa thế vô cùng thuận lợi để chiến đấu.
Ðoàn xe M113 vừa qua khỏi giai đoạn lúng túng ban đầu, cũng đã bình tĩnh trở lại. Họ xoay thành hình cánh cung sau lưng chúng tôi. Họ bắt đầu tác xạ tiếp tay cho Biệt Ðộng Quân.
Nép mình sau miếu thổ thần, tôi nhận định trận địa.
Khu ruộng thấp trồng lúa trải dài, cặp hai bên con lộ, theo hướng Ðông, Tây. Ruộng cao chạy song song với ruộng nước từ chân tháp Bằng-An tới ga Kỳ-Lam.
Khu ruộng cao trồng đậu phộng, khoai lang, hoặc thuốc lá.
Hết ruộng cao, xa về hướng Nam, là khu nhà dân với vườn phi lao và bãi mía um tùm.
Ðầu xóm là ngôi trường học cũ. Tường bao quanh trường, chỗ còn, chỗ sập. Từ bờ rào ngôi trường, và khu rừng phi lao, đạn địch đủ loại bắn ra đường tới tấp như mưa…
Rõ ràng địch đang vận động một cánh quân lớn từ hướng Tây qua hướng Ðông trường học để đánh bọc sườn Nam của lực lượng bạn.
Trước mắt tôi, những cán binh Việt-Cộng di chuyển thật lộ liễu nơi khoảng trống giữa hai bức tường đổ. Những cái bia sống cài lá ngụy trang, ẩn hiện chậm chạp hơn những cái bia “B” ở Trường Sình Lầy, Dục-Mỹ.
Từ tuyến dàn quân, chúng tôi dồn hỏa lực cắt ngang trục tiến quân của địch.
Hồi còn học trong trường Võ- Bị, tôi cũng được lãnh bằng thiện xạ. Hôm tôi đeo cái bằng đó trên túi áo vào chợ Ðà-Lạt, chị Chúc vừa nhìn thấy nó đã khen ngay,
– Thằng em của chị bắn giỏi quá nhỉ?
Chị Chúc bán tạp hóa trong chợ Ðà-Lạt. Chị thương chúng tôi lắm. Chị có rất nhiều em là sinh viên sĩ quan. Ðứa em nào cũng có tên trong sổ nợ của chị.
Nghe chị tôi khen, tôi vênh mặt lên, cứ tưởng mình là tay súng bá vàng John Wayne! Thực ra, tôi bắn Garand không giỏi lắm đâu! Khóa tôi còn khối người có bằng thiện xạ!
Thấy địch đi ngời ngời trước mắt ngon quá, tôi giành khẩu Garand M1 trên tay Binh nhì Nguyễn Truyền. Chú Truyền thành người nạp đạn cho tôi.
Giờ này là lúc tôi chứng tỏ bản lãnh của một Sinh Viên Sĩ Quan Ðà-Lạt có bằng thiện xạ!
Khi chạm trận, tôi mới phát huy được những gì thầy Khuê, thầy Cung, thầy Thạch đã dạy cho. Tôi điều chỉnh đường ngắm: Từ lỗ chiếu môn… qua đỉnh đầu ruồi … rồi tới … đầu thằng Việt Cộng!
Xạ trường nằm giữa hai bức tường đổ. Bờ đất cao tới ngực tôi là chỗ tỳ tay.
“Kẹp đạn tám viên nạp đạn! Thế bắn đứng có tỳ, thủ thế!”- “Bắn!”
Một thằng giặc gục, thằng thứ hai, thằng thứ ba… mỗi viên một đứa! Cứ tám tên, một kẹp đạn!
“Coong!”
Kẹp đạn rỗng văng ra khỏi buồng đạn. Binh nhì Truyền lại vội trao cho “Thiếu úy Sữa” kẹp đạn khác.
Không có hiệu lệnh, “Bên trái sẵn sàng! Bên phải sẵn sàng!” của sĩ quan giám xạ. Thầy trò tôi mạnh ai nấy bắn. Tiếng đại liên 30 của ban chỉ huy đại đội, hòa tấu với tiếng trung liên BAR của ba trung đội. Góp vui là những trái cối 60 ly và những quả phóng lựu từ súng Garand M1.
Thời này, vũ khí của Biệt Ðộng Quân còn hủ lậu lắm, đi sau vũ khí địch một bước khá dài. Chúng tôi có đủ loại súng. Trẻ nhất là khẩu Carbine M2. Cổ lỗ già nua nhất là khẩu Thompson 45. Có khi mới bắn được vài chục viên Thompson thì nòng súng đã nóng đỏ, dãn nở, làm cho đạn không thèm bay, mà rơi ngay trước mặt xạ thủ. Lựu đạn M26 còn rất hiếm hoi, mỗi khi trang bị cho ai, tôi phải đắn đo. Lựu đạn có khía, loại MK2 có tuổi đời già hơn tuổi tôi thì ê hề! Bao nhiêu cũng có! MK2 vừa nặng, vừa chậm nổ so với M26. Hình dạng nó cũng… xấu xí hơn.
Tiền quân của địch đã quấy động được phần đuôi của lực lượng hành quân, nơi Ðại Ðội 1 của Thiếu úy Lý Phát Tân đang bảo vệ bộ chỉ huy tiểu đoàn.
Chú Binh nhất hiệu thính viên Mai Ðăng Vinh giao cái ống liên hợp cho tôi. Trong máy, ông Ðại úy ra lệnh,
– “Toa” nhào lên bẻ cổ con gà mổ nhanh cho “moa”!
Tôi ớ ra, chẳng biết “con gà mổ nhanh” là cái gì!
Ðại úy lại hối,
-Ð!M! Tao bảo nhào lên! Bất cứ giá nào! A lê! Vít! Vít! (A lê! Vít! Vít!= Ði! Mau lên! Mau lên!)
Tôi hỏi Vinh,
– Con gà mổ nhanh là cái gì vậy Vinh?
– Dạ, con gà mổ nhanh là khẩu “đum đum” đó Thiếu úy!
Tôi đoán khẩu “đum đum” chắc là khẩu 12.7 ly?
Rõ khổ! Trong trường, tôi đã học ám danh đàm thoại nhuần nhuyễn hai năm ròng, mà đến khi hữu sự lại cứ như thằng ngố! Ám danh đàm thoại ở ngoài đơn vị quả là ngộ!
Nhận lệnh, tôi gọi Chuẩn úy Ðạt lại dặn dò anh bảo vệ hông phải và phía sau đại đội. Tôi để lại cho Trung Ðội 3 của Ðạt khẩu cối 60 ly và khẩu đại liên 30. Tôi cùng hai Trung Ðội 1 và 2 xung phong lên mục tiêu.
Tiếng kèn xung phong của bộ chỉ huy tiểu đoàn từ rặng tre ngoài đường phía sau xa, vọng tới nghe đứt quãng. Có lẽ anh Ngữ, lính kèn, bị đạn Việt-Cộng bắn dữ quá nên không kịp hít hơi cho đầy phổi để thổi kèn cũng nên?
Tiếng kèn cứ “Pèm pẹp! Pèm pẹp!” như tiếng kèn xe ngựa đi, về, giữa chợ Ðà-Lạt và ấp Thái-Phiên.
Giờ này, sao tôi thấy thèm tiếng kèn xung phong của anh lính “kà” trường Võ-Bị quá đi!
Ngày đó, vào giờ học chiến thuật, trong rừng thông Ðà-Lạt, tiếng kèn xung phong âm vang, lanh lảnh, dội đi, dội lại, trong vách núi. Tiếng kèn làm người nghe lạnh gáy.
“Te! Te tí! Te tò! Tò! Tò! Te tí!…Tí!Tí! Tí!…Tí! …Tí!…”
Tiếng kèn ấy đã khiến khẩu trung liên BAR trên tay tôi nhẹ hẳn đi, khi tôi xung phong lên đồi 1441 sau miếu Thần Hổ, dưới chân núi Lap Bé Nord, Ðà-Lạt, trong những lần thực tập.
Tôi xung phong nhanh đến nỗi anh tải đạn Nguyễn Văn Cơ, cùng là sinh viên sĩ quan của Trung Ðội 6, Ðại Ðội B với tôi, phải vứt cả thùng đạn xuống đường mà theo chân tôi vẫn không kịp. Tiếng kèn thúc quân ma quái ấy thúc đít chúng tôi tiến ào ào lên đồi thông để tiêu diệt ổ đại liên bắn đạn …mã tử của mấy anh lính “kà” giả địch.
“Khói súng và kèn, còi xung phong, cũng chiếm một phần quan trọng trong các cuộc hành quân.”
Ðó là lời thầy Nguyễn Cửu Nhòng mới từ mặt trận Quân Khu 1 trở về trường năm 1965, làm phụ tá huấn luyện viên chiến thuật. Thầy nói rất đúng!
Khoảng trống hai trăm mét đồng cao trồng đậu phộng và khoai lang từ bìa ruộng nước tới bìa làng quả là đáng sợ. Chẳng có sách vở nào dạy rằng tuyến xung phong lại cách xa mục tiêu tới mấy trăm mét. Không đào đâu ra một điểm che giấu cho tôi tiến quân từ bờ ruộng tới khu xóm nhà có cái trường học, và khẩu đại liên 12.7 ly. Khẩu 12.7 ly này lại không bắn đạn mã tử!
Trời nắng, đồng trống. Mặt ruộng bằng phẳng. Lác đác đó đây có vài cái mả, trên mặt mả là dây lang. Ðạn địch đan lưới trước mặt. Ðạn cày đất bụi mịt mù. Mấy người lính có đạo làm dấu thánh giá. Những khuôn mặt đanh lại. Những đôi mắt rực lên, long lanh. Họ nhìn tôi chờ đợi.
Tôi sực nhớ bài thực tập phản phục kích vừa học xong tháng trước trên đồi Rọ-Tượng, Dục-Mỹ trong Khóa 23 Rừng Núi Sình Lầy mà tôi đóng vai đại đội trưởng.
Tôi xin Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn cho pháo binh đánh bốn trái khói ngay trên cái trường học. Ông tiểu đoàn trưởng lấy làm lạ tại sao tôi xin tới bốn trái khói thay vì chỉ cần một trái thôi? Ông chỉ thuận cho tôi một trái.
Tôi nài nỉ anh đề-lô, hắn cũng là người Hội-An, đi khóa 10 Thủ-Ðức, vì tình riêng, anh ta cho tôi bốn trái.
Chờ cho màn khói vừa phủ mục tiêu, tôi đứng dậy, leo lên trên một gò mả, mặt hướng về phía địch, tay trái phất cao, tay phải kẹp khẩu Carbine M2, bóp cò.
Miệng tôi hét lớn:
“Xung phong!… Xung phong!…”
Tiếng súng Carbine lẹp bẹp khiêm nhường, nghe thật lép vế so với tiếng trung liên, đại liên, và Bazooka 57 ly của Việt-Cộng.
Tiếng súng lệnh của tôi loãng nhanh trong tiếng 106 ly trên M113 của ta, và tiếng đại bác 105 ly, 155 ly của Mỹ đang nổ đùng đùng tứ phía.
Nhưng những chiến sĩ dưới quyền tôi chỉ chờ có thế.
Thấy tôi đứng hiên ngang hô xung phong, họ hăng hái hẳn lên.
Họ bắn. Họ la hét. Họ ném lựu đạn. Họ chạy ào ào trên ruộng khô. Họ tràn lên những bờ ruộng nơi những chùm lá ngụy trang đang nhúc nhích. Họ nhào vào khu khói trắng,
“Biệt Ðộng! Sát!…Biệt Ðộng! Sát!…”
Mục tiêu trước mắt là cái trường học có khẩu phòng không cài lá ngụy trang. Khẩu phòng không đang ngóc lên ngóc xuống. Tôi cố gắng phóng lên cho ngang với những người lính tiên phong của Trung Ðội 1.
Chạy trước tôi là Hạ sĩ Nguyễn Hồng Phong, người nấu cơm cho tôi. Chạy sau tôi là Hạ sĩ Nguyễn Mầu, xạ thủ trung liên BAR của Trung Ðội 1.
Chúng tôi đã lướt qua năm sáu cái gò mả. Cả chục xác Việt- Cộng nằm phơi trên đó. Chúng tôi đạp đầu giặc mà tiến! Khí thế bừng bừng, chúng tôi đuổi theo quân thù đang rút chạy.
Tôi theo sát gót thuộc cấp. Họ biết tôi đang ở bên cạnh họ. Không ai ngoảnh cổ lại đàng sau.
Anh hiệu thính viên Mai Ðăng Vinh cũng móc cái ống nghe bên hông ba lô, lượm vội một khẩu AK 47 bên xác giặc, chạy theo tôi bén gót (Vinh chỉ có súng Colt 45).
Bên trái tôi, một Biệt Ðộng Quân la thất thanh, “Ối cha!” rồi té nằm xoài bên luống khoai.
Trước mặt tôi, một Biệt Ðộng Quân vừa trúng đạn; viên đạn đẩy anh ngã ngửa về phía sau. Người đó đội béret đỏ.
Tôi thót ruột:
“Chắc là thằng Thí?”
Binh nhất Lý Thí là người đồ đệ mang đồ ngủ cho tôi. Nhưng tôi không thể ngừng lại để săn sóc cho nó. Ngừng lại là chết ngay! Tôi chỉ có một việc phải làm, bắt buộc! Ðó là vừa bắn, vừa lao tới khẩu phòng không khốn kiếp!
Bom Mỹ đánh vùi trước mặt. Trực thăng võ trang, Phantom, F.5, Sky-Raider chúi xuống, ngóc lên; tiếng động cơ rú điếc tai; khói bụi mù trời. Tai tôi đã “O!…O!…” vì tiếng nổ của bom đạn quá gần. Tôi chỉ nhìn thấy miệng khẩu phòng không chớp chớp, phà khói trắng.
Một trái lựu đạn hất khẩu 12.7 ly lăn quay. Chúng tôi tràn vào sân trường học. Những chiếc nón cối cài lá xanh vỡ toang. Óc người văng trên mặt sân, thoáng chốc đã trở màu ngà ngà như đậu hủ pha tương ớt.
Một tràng AK quét sát hông tôi, làm tung bức tường vôi lớp học trước mặt tôi. Từ dãy lớp hướng Tây, một tên địch đã nhắm bắn tôi nhưng không trúng.
Hạ sĩ Mầu ria một tràng trung liên BAR vào nơi phát ra tiếng súng. Tiếp theo là hai quả M26. Có nhiều tiếng rên la thảm thiết đồng loạt trong căn phòng đó. Ông Mầu bóp cò tiếp khẩu trung liên BAR. Chú Phong bồi một quả M26 nữa. Căn phòng đổ sụp.
Phong nhanh như con sóc; chỉ ba bước nhảy, chú đã tới bên lớp học. Chú bắn cạn ba mươi viên Carbine M2 rồi lăn sang núp sau một cây rơm. Phong vội vàng trở đầu băng đạn đôi. (Hai băng đạn nối ngược chiều nhau bằng băng keo. Mỗi lần nhồi đạn, có sáu chục viên sẵn sàng).
Căn lớp vừa đổ là nơi chứa thương binh của địch. Có khoảng trên dưới hai mươi thương binh địch trong căn nhà đó. Chúng vừa chết hết. Nơi góc nhà có mười mấy khẩu súng, vừa B40, vừa AK. Những cục cơm vắt văng trên nền gạch. Máu đỏ thấm ướt những hạt cơm vãi tung toé đó đây…
Khi Hạ sĩ Phong bận thay băng đạn khác thì B1 Vinh ngồi thủ thế khẩu AK 47 bảo vệ an ninh cho bạn.
Nghe có tiếng Ðại úy lè xè trong máy, tôi gỡ cái ống liên hợp, áp nó vào tai. Tôi nghe Ðại úy giận dữ,
-Ð!M! Anh là Ðà-Lạt! Anh không lên, tôi lột lon anh!
Nản quá, tôi không muốn nói chuyện với Ðại úy. Tôi đưa ống nghe cho Vinh,
– Em báo cho ổng biết rằng mình đang lục soát cái trường học.
Vinh nhìn tôi áy náy,
– Cứ chạm trận là Ðại úy lại chửi thề “Ð!M!” quen rồi! Thiếu úy đừng để bụng làm gì cho mệt!
Tôi bố quân theo hình chữ “L”. Trung Ðội 1 giữ mặt Nam, Trung Ðội 2 giữ mặt Tây trường học.
Tôi gọi Chuẩn úy Ðạt cho Trung Ðội 3 của anh tiến lên. Trên đường, Trung Ðội 3 có nhiệm vụ thu nhặt chiến lợi phẩm, chuyển những người bị thương và chết ra đường.
Bãi cỏ có cái miếu thổ địa bên đường đã thành nơi tập trung thương binh và chiến lợi phẩm của đại đội tôi. Tôi giao cho Trung sĩ Vũ, y tá đại đội, chỉ huy cái trạm này.
Trung sĩ Vũ báo cho tôi biết, tính tới giờ đó, trạm cứu thương của anh có hai chục áo vàng (bị thương) và năm áo đỏ (chết). Tôi hỏi Vũ về tình trạng của Binh nhất Lý Thí.
Vũ nghẹn ngào,
– Thằng Thí mặc áo đỏ rồi! Thẩm Quyền ơi!
Tôi lặng người, cúp máy, không hỏi thêm.
Mới chiều hôm trước, khi chiếc xe Dodge của tôi từ phố về ngang miếu Ông Cọp, Hội-An, thì Binh nhất Lý Thí (quê quán Miếu-Bông), đang đứng chờ tôi trước cửa quán cháo lòng. Tôi nhận ra nó ngay, vì lúc nào nó cũng đội cái béret đỏ chói.
Nó chận đầu xe tôi lại. Giọng nó lè nhè hơi men,
-Thiếu úy ơi! Vào đây cụng với em một ly! Ngày mai ra trận. Biết đâu em không về!
Tôi đã đậu xe dưới gốc cây đa bên cạnh miếu Ông Cọp.
Tôi đã “dzô!” với đồ đệ của mình một ly. Lúc ấy tôi không hề nghĩ tới chuyện ngày mai nó không về. Bởi vì chiều qua, từ Phòng 3 Tiểu Khu Quảng-Nam ra, trên tay tôi có cái phóng đồ hành quân tùng thiết vùng ven biển Phước-Trạch, Cửa-Ðợi. Cuộc hành quân đó dự trù sáng đi, chiều về. Tôi nói với Thí rằng, sáng mai em không cần mang theo đồ ngủ cho anh. Chúng mình sẽ chỉ sáng đi… chiều về!
Tôi không ngờ hỏa châu rơi suốt đêm. Mờ sáng, lệnh đổi hướng hành quân. Ðoàn thiết vận xa M113 đã không đưa chúng tôi ra bãi biển, mà nhắm hướng Tây, đi về vùng núi. Mờ sáng, thầy trò tôi cùng ra đi. Tới chiều… đồ đệ của tôi đã không về!
Sau khi báo cáo sơ lược thành quả vừa thu lượm được cho Trung úy Trung, tiểu đoàn phó, tôi giao nhiệm vụ củng cố mục tiêu cho Chuẩn úy Ðạt và ông thường vụ đại đội.
Chiếc L.19 lướt sát nóc trường học. Chiếc đầm già lắc cánh về trái và về phải hai cái để gửi cho chúng tôi lời chúc mừng của phi công. Tôi đề nghị với sĩ quan điều không cho không yểm di chuyển xa về hướng Tây Nam nơi những rừng mía um tùm rậm rạp. Tôi đoán địch đang rút lui hướng đó.
Không yểm đã di chuyển. Tôi cần pháo binh yểm trợ gần để tảo thanh khu vực hướng Tây trường học. Tôi liên lạc thẳng với sĩ quan đề-lô của tiểu đoàn để đơn xin được thỏa mãn kịp thời. Áp dụng kinh nghiệm hiếm hoi học hỏi được từ Ðà-Lạt và Dục-Mỹ, tôi thực hành nghề chọi pháo.
Cầm tấm bản đồ Kỳ-Lam và quyển “Cẩm Nang Ða Hiệu” trên tay, tôi vững tâm đánh những quả đạn 155 ly trên từng gò mả, từng gốc đa. Tôi điều chỉnh tầm đạn từ 100 mét, rồi 50 mét. Sau cùng, tôi dám chỉnh độ chính xác tới 20 mét trên mục tiêu. Những quả delay chui xuống hầm moi xác địch lên mặt đất. Những quả nổ cao chặn đầu chúng không cho chạy thoát thân về những đồi sim hướng Tây.
Tôi đã hoàn toàn làm chủ tình hình mặt Tây Nam của trận địa. Tôi định cho anh em lấy cơm vắt ra ăn thì bên hướng Bắc con lộ, pháo nổ ầm ầm. Thiếu úy Bửu Chuyển và Ðại Ðội 4 của anh đang bị địch tấn công từ hướng Bắc xuống. Ðịch bám trụ bên kia cái đầm cói rộng. Cái đầm nuôi cá vuông vức, mỗi chiều cỡ trăm thước, có bờ đất cao bao quanh. Ðầm nước nằm cách con lộ chừng ba, bốn trăm thước về hướng Bắc.
Ðại úy tiểu đoàn trưởng ra lệnh cho Ðại Ðội 1 từ phía sau di chuyển thật nhanh lên trám chỗ cho đơn vị tôi. Tiếp đó, ông ra lệnh cho đại đội tôi lui ra con đường lộ để tiếp viện cho anh Chuyển.
Khi tôi lội ngược ra tới đường thì đại đội của Chuyển và những chiếc thiết quân vận đang bám sát bìa đường chịu trận những đợt pháo ào ào của địch.
Vừa gặp nhau, Thiếu úy Bửu Chuyển đã dúi vội vào tay tôi tấm bản đồ có vẽ sẵn sơ đồ mục tiêu và ranh giới hành quân của tiểu đoàn. Tấm bản đồ tôi đang dùng là của cấp trung đội, không có những chi tiết trên.
Anh Chuyển cầm tay tôi ân cần,
– Cẩn thận nghe em!
Rồi anh hối hả lui quân; vì Ðại úy đã ra lệnh cho anh rút về bảo vệ bộ chỉ huy.
Ðại Ðội 4 chưa đi hết, Ðại úy đã ra lệnh cho tôi cùng một thành phần của chi đoàn thiết quân vận đánh thẳng lên hướng Bắc tiến chiếm khu gò mả và thôn xóm đằng sau đầm cá.
Lệnh của Ðại úy thật rõ ràng,
– Thẩm Quyền 3! Ðây là Ðại Bàng! Tôi ra lệnh cho anh nhào lên thanh toán cái xóm nhà bên kia hồ cá! Nghe rõ chưa?
Tôi ngạc nhiên vì quyết định của ông Ðại úy.
Tại sao ông phải chuyển Ðại Ðội 1 lên thay tôi trấn giữ khu trường học tôi vừa vất vả chiếm xong?
Tại sao Ðại úy phải lôi đại đội tôi từ Nam lên Bắc để theo chân M113 đánh vào cái hồ cá? Anh Chuyển và Ðại Ðội 4 của anh đang ở sẵn nơi đây cùng với đoàn xe kia mà?
Tôi im lặng thi hành lệnh, nhưng tôi biết thuộc cấp của tôi không vui…
Tôi nghe tiếng máy gọi nhau oang oang từ các thiết vận xa; rồi đoàn M113 bắt đầu nhúc nhích. Chúng tôi bì bõm tiến sau lưng M113.
Lúa cao tới nách tôi. Và nước thì cao tới háng tôi.
Bên kia cái đầm nước là nơi những ổ đại liên, trung liên đang khạc lửa. Khói từ khẩu 57 ly của Việt-Cộng lúc thì phụt ra ở đầu xóm, lúc cuối xóm. Phải công nhận tụi xạ thủ 57ly của Việt-Cộng chuyển dịch vị trí rất nhanh!
Một chiếc M113 vừa trúng đạn! Nó bị bắn đứt xích! Chiếc xe nằm bất động giữa ruộng lúa. Viên trưởng xa và xạ thủ đại bác đang lo gỡ khẩu 106 ly để chuyển sang chiếc xe khác. Từ bờ hồ, địch cài lá ngụy trang ào ạt xông về hướng đoàn xe. Chúng tính chuyện bắt sống chiếc M113 bị thương!
Ðạn 57ly và B40 nổ ùng oàng tứ phía. Vũ khí chống tank của địch thật là đáng sợ! Chúng bắn nà quá khiến đoàn thiết quân vận chùn bước, phải lui về phía sau.
Một chiếc M113 giật lùi để tránh B40 đã đè Hạ sĩ Nguyễn Mầu xẹp xuống bùn trong ruộng lúa. Tôi bị xe cán hụt.
Tôi kéo ông Mầu từ dưới bùn lên, rồi vội vàng vuốt bùn trên mặt cho người lính già.
Tôi thấy miệng ông mấp máy. Phải ghé tai sát mặt ông, tôi mới nghe được tiếng ông thều thào,
– Thiếu úy ơi! Em đi!
Máu miệng ông trào ra. Ðầu ông ngoẹo trên ruộng nước…
Ðoàn cơ giới tụt lại đằng sau. Chúng tôi lòi ra phía trước. Ðạn rơi “chủm! chủm!” trên ruộng lúa nước trước mặt.
Trong lúc tôi đang phân vân không biết làm cách nào vượt qua cái đầm nước rộng, thì ống liên hợp truyền tin lại xè xè tiếng của Ðại úy,
– Ð!M! Nhào lên! Bộ tụi mi ngủ sao? Nhào lên!
Tôi phóng nhanh sang phía Trung Ðội 1, bên trái tuyến xung phong. Tôi tránh đánh trực diện với tổ hỏa lực địch. Tôi và Trung đội 1 của Trung sĩ 1 Nguyễn Khê (vốn là trung đội phó của tôi) chạy thục mạng lên chiếm xóm nhà hướng Tây cái đầm. Ðại đội trừ (-) thì nằm sát mép đường chờ tôi lập đầu cầu.
Tôi có người bạn khóa 17 Thủ-Ðức là Chuẩn úy Dương Quang Tú, chi đội trưởng của chi đoàn thiết kỵ đang tham chiến sát cánh với tôi. Tôi nhờ Tú bắn tối đa vào khu nhà bên hướng Bắc hồ nước để chia lửa cho tôi. Ðầu cầu lập xong, vài Biệt Ðộng Quân chết và bị thương.
Khi quả khói vàng bốc lên nơi đám sầu đông đầu xóm, thì trực thăng võ trang can thiệp. Dưới hỏa lực yểm trợ hùng hậu của trực thăng võ trang, chúng tôi ào ào chạy lên chiếm những ụ đất nơi rặng tre. Tôi ra dấu cho chi đội thiết kỵ tiến lên để quân tôi theo sau. Hai Trung Ðội 2 và 3 dàn hàng ngang cùng M113 tiến lên tiếp tay Trung Ðội 1.
Ðạn bay khắp hướng. Không phân biệt được đạn của ta, hay của địch.
Chiếc thiết quân vận của Chuẩn úy Tú vừa đè sập một cái chuồng trâu thì hai quả B 40 bay sượt qua đuôi xe, nổ tung trong bụi chuối. Chiếc xe lùi vội ra ngoài ruộng lúa. Hai khẩu đại liên 30 và đại liên 50 trên xe bắn ào ào vào căn nhà lợp lá dừa, vách ván giữa xóm. Tôi và anh Binh nhì Truyền nấp sau cây rơm đàng trước căn nhà lá dừa, vách ván đó.
Tôi vừa ra sức ném được quả M26 qua nóc nhà để nó rơi nổ hướng sau nhà thì Truyền la to,
-Thiếu úy ơi! Súng em kẹt đạn rồi!
Tôi sợ địch nghe được tiếng anh ta la hoảng, vội đưa tay bịt miệng anh lại.
Cái vụ kẹt đạn thì tôi đã gặp nhiều lần trong hai năm còn thụ huấn trong trường. Khốn nỗi, khẩu Garand của Truyền không có lưỡi lê, biết lấy cái gì để cạy vỏ đạn khỏi cơ bẩm bây giờ?
Tôi chợt nhớ ra trong túi mình có cái bấm móng tay. Tôi giao khẩu Carbine cho Truyền để anh quan sát gác giặc. Chưa đầy một phút sau khẩu Garand lại tốt trở lại.
Tôi ném thêm một quả M26 nữa qua mái nhà. Hai thầy trò tôi nhào vào nấp sau cái cối xay lúa nơi đầu hiên. Có tiếng người rên bên hiên sau. Tôi thấy một khẩu trung liên nồi RPD nằm chỏng gọng trên nền đất. Hai cán binh Việt-Cộng mình mẩy bê bết máu đang cố lần lưng tìm kiếm cái gì đó. Tôi nhắm ngay đầu chúng, ria qua ria lại một băng M2.
Trung Ðội 2 của Thượng sĩ Huỳnh cũng vừa ào tới. Chúng tôi hàng ngang tiến sang khu mấy cái chòi nuôi vịt trên bờ Tây của cái đầm nước. Ðoàn thiết vận xa theo sát bên yểm trợ.
Chúng tôi giờ này đang ở sau lưng những tên Việt-Cộng bám trụ quanh hồ. Chúng ngụp lặn xuống nước giấu mình. Những khẩu đại liên trên xe bắn tung xác chúng. Những thân hình rũ xuống như những trái chuối nát. Nước hồ trở thành màu đỏ, thẫm dần, thẫm dần…
Chúng tôi còn phải tiếp tục thanh toán cái xóm nhà bên hướng Bắc cái đầm. Ðạn réo tứ tung. Khói súng, khói bom, khói lựu đạn, khói nhà cháy mù mịt.
Chú Hạ sĩ Phong, người nấu cơm của tôi, bị thất lạc từ lúc khởi đầu cuộc xung phong qua đường, giờ này mới tìm gặp lại được ông thầy.
Tôi và chú Phong nhảy vào một nhà có những cái lu bằng sành thật to dựng sát vách dùng để chứa lúa giống. Có mấy khẩu AK vứt trên sàn nhà. Dấu chân ướt bùn còn rất mới in trên mặt cái sập gỗ nơi góc nhà, cạnh một cái cót chứa lúa.
Hai khẩu Carbine M2 nổ giòn, những cái lu bể. Tôi rợn tóc gáy khi thấy từ trong vài cái lu chưa vỡ có người nhảy ra!
Tôi bị trượt chân té ngửa giữa sàn.
Tôi nằm ngửa bóp cò. Những người áo đen tay cầm AK trúng đạn gục xuống. Có vài cái xác đè ập trên người tôi.
Trong khi đó, chú Phong bắn ào ào vào căn phòng gỗ cửa đóng kín mít.
Vì nằm ngửa, tôi nhìn thấy một thanh mã tấu sáng loáng quơ lên từ cót chứa lúa nơi góc nhà sau lưng chú Phong. Tôi la thất thanh,
– Phong! Ðằng sau!
Thanh mã tấu hạ xuống! Phong chỉ kịp dang hai tay đưa khẩu súng Carbine lên đỡ nhát chém. Chú khuỵu xuống vì nhát chém quá mạnh. Người chém chú mất đà, lộn cổ xuống đất.
Phong hoàn hồn, nện một đế súng vào đầu kẻ địch.
“Bốp!”
Cái đầu vỡ sụm. Óc pha máu phọt ra, văng lên ngực Phong. Phong la lớn,
– Chạy thôi! Thiếu úy!
Tôi hoảng quá, bắn cạn băng đạn rồi lăn tròn ra hướng sân. Chú Phong theo sát bên.
Ra tới sân, chú Phong ném với vào kho một trái M26. Hai thầy trò tôi ù té chạy ngược ra bờ ruộng.
Hai chiếc M113 án ngữ dưới ruộng từ nãy tới giờ không dám can thiệp sợ bắn lầm quân bạn, nay thấy thầy trò tôi chạy ra, thế là họ tưới đạn trùm lên cái nhà kho.
Một quả lựu đạn lân tinh khiến cái nhà kho bốc cháy.
Chuẩn úy Tú nhảy xuống xe, giọng anh lạc đi,
– Long ơi! Toa bị thương có nặng không?
Tôi cúi nhìn quần áo mình. Áo quần tôi đầy máu!
Tôi đưa tay xoa mặt, mặt tôi cũng có máu! Máu đỏ cả cái thẻ bài, ướt đẫm cả cuốn Lăng Nghiêm Chú nhỏ xíu tôi đeo trước ngực.
Tôi dang tay sờ khắp người; chẳng có chỗ nào đau. Hóa ra máu trên người tôi là máu địch! Khi bị bắn hạ, xác chúng đè lên người tôi trong sàn kho lúa.
Giờ này bộ chỉ huy tiểu đoàn và một thành phần của Ðại Ðội 4 đã tiến lên hỗ trợ mặt sau cho đơn vị tôi. Tôi nhìn thấy Ðại úy đang cầm gậy chỉ trỏ ra lệnh cho anh Bửu Chuyển bố quân trên các gò đất dọc theo hai bên đường.
Người lính thổi kèn của tiểu đoàn sau khi chạy như bay qua hai vạt ruộng, vừa thở, vừa níu áo tôi,
– Ðại Bàng ra lệnh cho em đi theo Thiếu úy!
Nơi cuối thôn còn một mục tiêu cần thanh toán gấp trước khi địch có thể tái tụ hội, tái phối trí.
Bây giờ là lúc tôi dùng tới lực lượng trừ bị của đại đội. Từ đầu trận tới giờ, Trung Ðội 3 của Chuẩn úy Ðạt là ít bị tôi sử dụng nhất. Tôi phải phòng hờ một sĩ quan để thay thế mình, nếu mình có mệnh hệ gì.
“Dù ít, dù nhiều, phải có trừ bị” (huấn luyện viên chiến thuật, Ðại úy Mỹ và Trung úy Ðức căn dặn như thế!)
Tôi gọi Chuẩn úy Ðạt lên, giao cho anh nhiệm vụ thanh toán nốt mục tiêu cuối cùng.
Lúc này gió thổi từ Nam lên Bắc. Tôi biết M113 của Tú có đem theo nhiều lựu đạn lân tinh. Tôi nhờ Tú làm cho Ðạt một màn khói che để quân của Ðạt an toàn áp sát mục tiêu. Sau đó, Tú và tôi dồn hết hỏa lực bắn yểm trợ hông trái cho Trung Ðội 3.
Vậy mà những ổ kháng cự của địch vẫn còn rất mạnh. Cánh quân của Chuẩn úy Ðạt bị cầm chân nơi vườn chuối phía trước xóm nhà lá có những cây cau và bể chứa nước mưa. Ðạt gọi tôi xin tiếp tay.
Tôi dàn quân hàng ngang, ào lên bên trái chòm nhà mà Trung Ðội 3 đang giành giựt với địch.
“Biệt Ðộng! Sát!… Biệt Ðộng ! Sát!…”
Quân tôi xung phong lên khu mả lạng.
Tới đây thì Hạ sĩ Ngữ, lính kèn, tách ra khỏi hàng. Anh leo lên trên một gò đất, đứng dang hai chân, ưỡn ngực, ra sức thúc quân:
“Te! Te! Te! Tí! Tí! Te!Te!…”
Theo gió, tiếng kèn xung phong sắc như nước, cuồn cuộn, lanh lảnh, xé không gian. Chúng tôi cưỡi lên tiếng kèn mà phóng mình tới trước!
Nhưng chỉ một phút sau tiếng kèn bỗng tắc tị! Quay đầu nhìn lại, tôi thấy Ngữ đang ôm bụng, quằn quại trên mặt đất, một tay anh ôm vết thương đang phun máu, tay kia còn cố giữ cây kèn đồng không chịu buông.
Ngữ không có súng, cây kèn đồng buộc lá quốc kỳ đuôi nheo nho nhỏ là vũ khí của anh. Giờ đây, cả cây kèn lẫn lá quốc kỳ đều đã ướt đẫm máu đào.
Chi đội M 113 của Chuẩn úy Tú không thể vượt qua lớp rào bằng tre đực của Ấp Chiến Lược nên đành phải dừng lại ngoài ruộng khoai. Cũng may có nhiều lỗ trâu, bò chui qua rào, nên Biệt Ðộng Quân tiến sát mục tiêu không đến nỗi khó khăn lắm.
Căn nhà có những cây cau cao có vẻ là chỉ huy sở hành quân của Việt-Cộng, vì có nhiều đường dây điện thoại và chòi gác bao quanh. Xung quanh chòm nhà này là vườn tược, với hệ thống giao thông hào chằng chịt. Khu này được địch bảo vệ bằng những tổ tam tam. Mỗi tổ tam tam có hai AK47 và một B40.
Chúng tôi phải dùng lựu đạn cay xen kẽ với lựu đạn miểng MK2 để thanh toán từng mắt lưới giao thông hào. Chiếm được đoạn giao thông hào nào, chúng tôi phải chia người bám trụ, sợ địch phản công giành lại.
Tôi phải vào tần số không lục của chiếc L19 trên trời để xin không yểm tiếp cận. Sĩ quan điều không tiền tuyến hôm ấy là Thiếu úy Thành, gốc Ðịa Phương Quân của Tiểu Khu Quảng-Nam; anh quen với gia đình tôi.
Trực thăng võ trang yểm trợ tiếp cận thật hữu hiệu. Chúng tôi tiến chiếm từng thước đất một sau những tràng đạn trải xuống từ trên không. Cuộc giao tranh giằng co, kéo dài khoảng hơn nửa giờ mà vẫn chưa ngã ngũ. Có lúc gió bất chợt đổi chiều, quân bạn cũng khổ vì hơi lựu đạn cay.
Khi cánh quân của tôi vào tới giữa vườn thuốc lá thì tiếng kèn xung phong của Việt Cộng bỗng nổi lên lanh lảnh từ cuối thôn hướng Tây. Rồi tôi nghe súng địch rộ lên đồng loạt khắp mọi hướng. Tôi ra lệnh cho đại đội ngừng lại bố trí tại chỗ, cảnh giác chờ đợi một cuộc phản công của địch.
Mấy phút sau súng địch thưa dần, rồi ngừng hẳn. Tôi chợt nghiệm ra, tiếng kèn xung phong của Việt-Cộng lại là hiệu lệnh rút lui của chúng!
Tôi yêu cầu máy bay di chuyển tác xạ về những mục tiêu xa hơn, hướng Tây Bắc.
Khoảng xế trưa, đại đội tôi hoàn toàn kiểm soát được lằn ranh Bắc trên bản đồ hành quân.
Hướng Bắc đại đội tôi là vùng trách nhiệm của Thủy Quân Lục Chiến Hoa-Kỳ.
Chúng tôi lấy được khá nhiều vũ khí, cả trăm súng AK, và B40. Trung Ðội 3 tịch thu được một máy truyền tin Trung Cộng, một khẩu đại liên 12.7 ly, và một khẩu 57 ly không giật mà địch đã vùi vội trong đống rơm trước khi tháo chạy.
Việc cấp bách phải làm của tôi lúc đó là tản thương quân bạn. Tôi nhờ Chuẩn úy Tú cho một xe M113 chuyển vận giùm những Biệt Ðộng Quân chết và bị thương ra ngoài đường. Chiếc xe liên tục đi về như con thoi.
Tôi nhìn quanh, kiếm cái máy truyền tin đại đội để báo cáo kết quả xung phong cho Ðại úy tiểu đoàn trưởng. Tôi không thấy Binh 1 Mai Ðăng Vinh đâu cả.
Hạ sĩ Phong nước mắt dầm dề, cầm tay tôi, kéo tôi lui về khu vườn trồng đậu đũa. Thi thể Mai Ðăng Vinh nằm vắt ngang trên lối mòn. Ðầu của Vinh mất một mảnh sọ bằng bàn tay. Óc Vinh văng vãi trên đất. Ruồi nhặng bu đen hút máu người chết. Hai mắt Vinh mở trừng trừng. Miệng Vinh há hốc. Tôi nhìn rõ hai cái răng vàng óng ánh. Ngực Vinh cũng đầy máu.
Cái ống liên hợp của chiếc máy truyền tin PRC10 bị bắn văng đâu mất. Vì thế suốt giai đoạn chót của cuộc tấn công, tôi không nghe tiếng Ðại úy chửi thề.
Chuẩn úy Tú gỡ cái băng ca bên hông xe xuống. Tôi và Tú khiêng xác người đồ đệ của tôi lên thiết vận xa. Tình thầy trò giữa tôi và Vinh chỉ kéo dài có mười hai ngày. Tôi còn nhớ mãi tiếng nói, tiếng cười của Vinh cho tới ngày hôm nay.
Bốn mươi năm rồi, anh không quên hai cái răng vàng của em, lúc em cười. Vinh ơi!
Bên luống đậu, tôi ngồi thẫn thờ, hồi tưởng lại những lần chấm dứt hành quân trước đây, thầy trò tôi về quây quần trong căn lều nhỏ ngoài ngoại ô Hội-An.
Có lần tôi đã ngâm bài từ “Lương Châu” của Vương Hàn cho đàn em của mình nghe. Qua lời bình giải của tôi, những người lính Biệt Ðộng Quân ấy đã thấy trong ý thơ, cuộc đời của chính họ:
“Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu.
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Vương Hàn)
Dịch:
“Trên chiến địa, ta say mèm, mặc người cười chê.
Vì xưa nay ra trận mấy ai về?”
Chiếc M113 vừa rời điểm tải thương; chiếc xe đem đi những cái poncho; những cái poncho cuốn gọn những thuộc cấp của tôi vừa nằm xuống…
Trên đồng lúa chiêm xuân, khói vẫn còn mịt mù, nhưng tiếng súng đã dứt. Tàn quân của địch đang rút chạy về hướng Kỳ-Lam. Có hai cánh quân, một của Thủy Quân Lục Chiến Hoa-Kỳ, một của Trung Ðoàn 51 Biệt-Lập đang truy lùng chúng.
Tôi kiểm lại quân số, thấy đại đội mình hụt đi quá nửa.
Trận này, cả Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân có 17 người chết, đại đội tôi chiếm 13. Số người bị thương của đại đội, vì lâu quá rồi, trong trí tôi chỉ còn mang máng giữa hai con số 46, hay 64 (?) – Riêng anh Ngữ, lính kèn, thì bị Việt-Cộng bắn lòi ruột. Sau khi xuất viện, anh không còn thổi kèn được nữa, nên được giao cho nhiệm vụ giữ kho xăng của tiểu đoàn. Năm 1973 anh Ngữ giải ngũ với cấp bậc trung sĩ nhất.
Tôi nhủ thầm:
“Ðây mới chỉ là trận đầu tiên trong đời một sĩ quan hiện dịch!”
Chúng tôi được lệnh rút ra đường, chờ đón phái đoàn từ trên xuống thị sát chiến trường.
Ðại tá Ðàm Quang Yêu, Tư Lệnh Biệt Khu tới thăm trận địa. Ðại tá xuống vài phút, nói vài lời, rồi Ðại tá bay đi.
Chúng tôi lại chờ Trung tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Khu tới thăm trận địa. Trung tướng cũng xuống vài phút, nói vài lời, rồi Trung tướng bay đi.
Khi bắt tay tôi trước lúc lên tàu, Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn nhìn sững quân phục của tôi. Chắc ông thấy lạ? Áo quần tôi bê bết bùn và máu. Hai ống quần của tôi tả tơi; chú Phong phải lấy ba, bốn cái kim băng cứu thương gài nó lại, nếu không, sẽ rất khó coi.
Tôi nghĩ, chắc có phép mầu nào đó che chở cho tôi. Hoặc linh hồn các niên trưởng của tôi đã khôn thiêng phù hộ cho tôi. Nếu không, tôi khó sống sót qua trận này.
o O o
Bốn mươi năm sau ngày đó, ở một nơi rất xa Hội-An, tôi ngồi nhìn mưa tuyết rơi chầm chậm. Một khúc phim đời mình đang quay lại rõ nét, từ từ…
Một mùa Xuân có mai vàng, nêu cao, đối đỏ. Một mùa Xuân quê hương khói súng mịt mù. Một cánh đồng lúa nước, và những đợt xung phong. Bên tai tôi như còn nghe những tiếng thét “Biệt Ðộng ! Sát!” vang rền…
Thằng cháu ngoại choàng tay qua cổ tôi. Nó đòi ẵm.
Tay trái nó vô tình chạm vào cạnh sườn phải của tôi. Tôi giật mình. Nơi cháu tôi chạm tay là chỗ viên đạn AK đã chui vào, nằm cách trái tim tôi chừng một đốt tay. Viên đạn nằm đấy đã ba mươi tám năm, kể từ trưa Mùng Một Tết Mậu-Thân. Một cảm giác tê tê, nhột nhột nơi vết thương cũ khiến tôi bật cười.
Thấy tôi cười, cháu tôi cũng toét miệng cười theo.
Thằng bé bập bẹ:
“Ong…ong… ong ngại…”
Nụ cười của nó thật là trong sáng, hồn nhiên.
Tôi cầu mong ơn Trời ban cho cháu tôi những mùa Xuân bình yên…
Vương Mộng Long- K20
Xuân Bính-Tuất (2006)
Seattle
KẺ SĂN VÀNG
(nguồn: https://baotreonline.com/)
Một chiều đầu mùa Hè 1989, bên bờ hồ đập thủy điện Trị-An, gió nhẹ và mây quang, mặt hồ gợn sóng, tôi ngồi hàn huyên cùng một ông bạn già cựu hạ sĩ quan Lực Lượng Ðặc Biệt của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa.
NGÀY TẾT NHỚ MÁ TÔI
Ngày Tết nhớ Má tôi
(Thân tặng những người không còn mẹ)
Sau năm 1954, gia đình tôi sa sút.Phần đất của ông cố ngoại tôi (Lê Phùng Xuân)- hơn mười mấy mẫu vườn dừa, để lại cho các người trong gia đình- chia cho má tôi thì bà đã bán sạch đi từ hồi nào để nuôi đàn con nheo nhóc.Má tôi là
Một đề nghị cải cách chính tả
Một đề nghị cải cách chính tả :
viết liền, chính xác và trong sáng
Hà Dương Tuấn
Viết liền một số từ phức(*) trong tiếng Việt không phải là một ý tưởng mới. Theo hiểu biết của người viết thì học giả Hoàng Xuân Hãn đã đề xướng việc này từ những năm 40, và cho đến gần cuối đời còn có những bài trong đó ông đã viết liền nhiều từ phức. Trong những năm 60 một tập san tại Việt Nam cũng thử nghiệm việc này, và nói chung đã không được hưởng ứng. Hiện nay trên mạng Internet tại Việt Nam, Mỹ, Pháp, Đức… một số ý kiến về việc viết liền đã lại nảy ra.
Cho người lính sau cuộc chiến…
SỐ PHẬN CỦA NGƯỜI
THƯƠNG PHẾ BINH MIỀN NAM VIỆT NAM.
* Yoshigata Yushi *
Trong khi nhiều tờ báo lớn trên thế giới đến Việt Nam trong hai tháng 3 và 4 vừa qua để tìm hiểu và viết về những thay đổi tại Việt Nam sau 30 năm kết thúc chiến tranh, thì ký giả Yoshigata Yushi của Nhật Bản, cũng đến Việt Nam nhưng với tâm tư khác. Ông đến Việt Nam để tìm hiểu điều mà Hà Nội hay nói là ” xoa dịu vết thương quá khứ ” trong lòng ngưới dân miền Nam. Bài viết sau đây của ông đề cập về số phận chung của những Thương Phế Binh Miền Nam.