Tam quốc chiến: Nga và biển Đông

LTS: Biển Đông đang trở thành sân chơi thu nhỏ giữa hợp tác và cạnh tranh của các cường quốc thế giới và Nga cũng không phải là ngoại lệ. Chính những đặc thù về địa kinh tế và địa chính trị đã biến khu vực này thành “con bài chiến lược” từ góc nhìn của Nga. Dưới đây là loạt bài phân tích về chiến lược này của Nga trong bức tranh tranh chấp biển Đông phức tạp này.

Bài 1: Nga trở lại biển Đông

Sau thời gian “ngủ đông”, những tuyên bố và động thái gần đây của Nga đã hé lộ ý đồ chiến lược của nước này đối với biển Đông và khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Quốc gia ngoài khu vực Đông Nam Á đánh dấu sự hiện diện đầu tiên tại biển Đông chính là Nga. Vào năm 1905, trong cuộc hải chiến với phía Nhật, hàng trăm tàu chiến của Nga hoàng đã tập trung ở cảng Cam Ranh để chuẩn bị cho việc tham chiến.

Ngược dòng quá khứ

Sau nhiều giai đoạn thăng trầm của hai cuộc thế chiến, đến thập niên 1980, Liên Xô tiếp tục đánh dấu sự hiện diện của mình ở đây bằng cách tích cực hợp tác với Việt Nam trong việc khai thác mỏ dầu Bạch Hổ cùng một số mỏ khác. Về mặt hiện diện quân sự, Liên Xô chính thức đánh dấu sự có mặt của mình ở đây từ năm 1979 theo hiệp định được ký kết với Việt Nam.

Theo đó thì cảng Cam Ranh được dùng làm căn cứ hậu cần. Tên gọi đầy đủ là Điểm cung cấp vật liệu – kỹ thuật số 922 (PMTO) của Hạm đội Thái Bình Dương, với diện tích khoảng 100 km2, trong thời hạn 25 năm, phục vụ một đơn vị thường trực chiến đấu mang tên Liên đội tàu chiến đấu số 17 của Hạm đội Thái Bình Dương.

tau ngam

Tàu chiến Liên Xô tại cảng Cam Ranh năm 1982. Ảnh tư liệu

Đến năm 1991, Liên Xô tan rã khiến cho Nga buộc phải bước vào thời kỳ “ngủ đông”, thực hiện sự rút lui chiến lược khỏi châu Á-Thái Bình Dương. Với tình thế suy yếu lúc đó, chính phủ Nga buộc phải thực hiện chính sách nghiêng hẳn về phương Tây (hay còn được gọi là “chính sách Đại Tây Dương”) với mục đích chủ yếu là có được viện trợ kinh tế.

Tuy nhiên, việc vẫn mang tư tưởng nước lớn đã khiến cho các nhà hoạch định chính sách Nga muốn tiếp tục có sự can dự ở một khu vực trọng yếu ở Thái Bình Dương. Vì thế, từ năm 1993, Nga thực hiện chính sách “đại bàng hai đầu”. Một “đầu” thì tiếp tục hướng về Đại Tây Dương, “đầu” còn lại hướng về châu Á.

Như một “chú gấu ngủ đông”, Nga khó lòng có đủ “sức khỏe” để thực hiện tất cả kế hoạch. Thế nên trong vấn đề biển Đông, Nga đã giữ “khoảng cách” nhất định để không phá vỡ thế cân bằng lợi ích của các nước lớn. Bằng chứng là đến năm 2001, Việt Nam và Nga đã nhất trí chấm dứt sớm thỏa thuận 1979 về vấn đề sử dụng cảng Cam Ranh. Đến năm 2002 thì việc này chính thức diễn ra với sự kiện Đại tá chỉ huy trưởng Eryomin là người Nga cuối cùng rời Cam Ranh lên tàu Sakhalin 9, chấm dứt 23 năm tồn tại của căn cứ Cam Ranh của Hạm đội Thái Bình Dương.

Từ đó đã chính thức chấm dứt sự hiện diện của các lực lượng quân sự Nga tại cảng Cam Ranh nói riêng và toàn bộ biển Đông nói chung. Đồng thời, Nga cũng giữ thái độ trung lập trong tranh chấp giữa các nước liên quan trong suốt những năm sau đó.

“Gấu” Nga đã hết ngủ đông

Thế nhưng mọi chuyện bắt đầu có chiều hướng thay đổi kể từ khi ông Putin bắt đầu tiến hành những kế hoạch táo bạo nhằm phục hưng vị thế. Bên cạnh việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia thì nước Nga cũng bắt đầu tiến hành vươn dài “chiếc vòi” chiến lược của lực lượng hải quân của mình ra bên ngoài.

Theo Putin tuyên bố thì “nếu từ bỏ chiến lược xây dựng hải quân, Nga sẽ đánh mất quyền phát ngôn trên vũ đài quốc tế”. Vì thế, việc quay trở lại biển Đông không chỉ tạo thuận lợi cho quyết tâm chấn hưng cường quốc biển của Putin mà còn là một trong những nước cờ then chốt nhằm khôi phục sức mạnh chiến lược trước đây của hải quân viễn dương.

6-box-a293c

Bộ trưởng Quốc phòng Liên bang Nga Sergei Shoigu thăm chính thức Việt Nam 

hồi tháng 3 năm nay theo lời mời của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh. Ảnh tư liệu

Phát biểu trên của Putin càng đáng chú ý hơn khi nhìn lại những động thái của Moscow liên quan đến biển Đông dạo gần đây. Động thái chính thức đầu tiên nổ ra vào ngày 23-3-2010, khi hãng thông tấn Nga đưa tin Bộ trưởng Quốc phòng Nga Anatoly thông báo rằng Hải quân Nga sẽ giúp Hải quân Việt Nam trong việc xây dựng căn cứ đồn trú tàu ngầm, có thể là tại Cam Ranh.

Đến ngày 6-10-2010, chẳng biết vô tình hay cố ý, Bộ Tham mưu Hải quân Nga để lộ thông tin về việc Hải quân Nga đã hoàn thành những kế hoạch cơ bản cho việc khôi phục căn cứ hải quân ở vịnh Cam Ranh. Cơ quan này còn “thòng” thêm một thông tin bán tín bán nghi rằng “trong vòng ba năm tới họ có thể quay trở lại sử dụng căn cứ hải quân tại vịnh Cam Ranh của Việt Nam”. Thậm chí tờ báo Độc Lập của Nga còn dẫn một nguồn tin thân cận cho biết “lần này Nga sẽ quay trở lại vịnh Cam Ranh theo hình thức cho thuê. Thời gian thuê ít nhất là 25 năm, sau khi kết thúc hợp đồng có thể thương lượng kéo dài”.

Điều chỉnh chiến lược

Vào ngày 5-4-2012, Tập đoàn khí đốt Gazprom của Nga còn tuyên bố tham gia dự án khai thác khí đốt tại hai lô 5.2 và 5.3 ở biển Đông mà công ty Anh BP đã phải từ bỏ. Nhưng sự kiện cao trào nhất có lẽ chính là lời phát biểu chính thức của ông Nicholas Kudashefu – Đại sứ Nga tại Philippines khi trả lời phỏng vấn tờ Công Báo Manila vào ngày 21-5-2012. Ông này đã thể hiện quan điểm rằng “Nga phản đối bất kỳ nước nào không có tranh chấp can thiệp vào vấn đề biển Đông… Nga cũng sẽ không nằm ngoài cuộc vì cũng như các nước khác, đều quan tâm đến quyền tự do hàng hải tại khu vực”.

Nếu xâu chuỗi chúng lại và đặt trong toàn văn tuyên bố của ông Putin thì rõ ràng là có một sự trỗi dậy ngấm ngầm. Trong những năm trở lại đây, Nga còn tích cực chủ động phát triển quan hệ với các nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc bằng cách cung cấp những gói trang bị quân sự hiện đại với giá trị không nhỏ.

GS Vitaly Naumkin, Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Chính trị Moscow, nhận định trong một bài viết rằng: “Hiện nay, sự mất cân bằng đối ngoại giữa phương Tây và phương Đông đã bắt đầu được Nga điều chỉnh. Một nước Nga mạnh mẽ và tự tin hơn đang tác động đến những thay đổi tích cực trên thế giới, đồng thời Nga đã xuất hiện với tư cách như một tác nhân quan trọng tại các điểm nóng khu vực. Biển Đông cũng sẽ không ngoại lệ”.

Động thái cho can dự của Nga vào biển Đông đã dần dần hiện rõ. Tuy nhiên, tại sao Nga trở lại biển Đông và dựa trên những lợi ích gì? Trả lời được câu hỏi này chính là cách thức để mở ra cách tiếp cận hiểu được chính sách của Nga tại khu vực đang trở thành điểm nóng của thế giới.

Bài 2: Nga có lợi ích tại biển Đông

Sự quay trở lại trong mối quan tâm đến châu Á-Thái Bình Dương của Nga còn được thể hiện qua việc nước này đã thành lập Bộ Phát triển Viễn Đông.

Nhiều học giả đã ví von biển Đông như là Địa Trung Hải của châu Á. Điều này cũng dễ dàng giải thích cho việc biển Đông liên tục nổi sóng trong nhiều thập niên qua. Vào thời điểm hiện tại, Trung Quốc đã mạnh miệng tuyên bố biển Đông là lợi ích cốt lõi của họ. Còn Mỹ cũng đã phản hồi với tuyên bố biển Đông là lợi ích quốc gia. Vậy còn đối với Nga, biển Đông đóng vai trò là lợi ích gì đối với nước này?

Từ kinh tế…

Thứ nhất, xét về mặt lợi ích kinh tế, GS Vitaly Naumkin – Chủ tịch Trung tâm Chiến lược và Chính trị Moscow (Nga) cho rằng với nhu cầu phát triển như hiện nay, rõ ràng Nga rất quan tâm việc mở lối thoát ra thị trường mới tại châu Á, mở rộng cơ sở cung cấp nguyên liệu thô. Bên cạnh đó, Nga còn muốn đa dạng hoạt động của các tập đoàn dầu khí trong nước, giảm chi phí sản xuất và giành thêm những lợi thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu.

Với đặc thù về các yếu tố địa kinh tế thì biển Đông đã biến thành một cửa ngõ trọng yếu mà Nga muốn tận dụng để hiện thực hóa những nhu cầu trên. Cạnh đó, cũng theo GS Vitaly Naumkin, việc hợp tác với các nền kinh tế đang phát triển tại Đông Nam Á như Việt Nam cũng tạo điều kiện rất tốt cho Nga đa dạng phương thức hơn để Nga tham gia vào mạng lưới quan hệ kinh tế và quan hệ quốc tế toàn cầu.

 tau san tau ngam

Tàu săn tàu ngầm cỡ lớn Shaposhnikov của Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Nga. Ảnh: Internet

Không chỉ thế, Nga còn có những hợp đồng khai thác dầu khí đang tiến hành tại khu vực. Xét ra thì những con số từ đây mang lại chỉ là một phần trong tổng lợi nhuận dầu khí khổng lồ trên toàn thế giới mang lại cho Nga nhưng nếu mất đi thì tổn thất lại không hề nhỏ. Chính bởi tầm quan trọng của những lợi ích kinh tế này mà ông Sergei Pravosudov – Giám đốc Viện Năng lượng Quốc gia Nga đã tuyên bố rằng: “Nếu Trung Quốc cứ tiếp tục gây hấn và xâm phạm tới biển Đông thì chắc chắn họ sẽ gặp phải sự phản ứng của Mỹ và Nga là hai quốc gia đang có nhiều tập đoàn dầu khí làm việc tại thềm lục địa của Việt Nam”.

Đến ảnh hưởng chính trị

Thứ hai, xét về mặt chính trị ngoại giao, bên cạnh mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc, hiện nước Nga còn có quan hệ hữu nghị truyền thống và lợi ích hợp tác với Việt Nam. Từ những năm 70 của thế kỷ trước, Liên Xô (sau này là Nga) đã đầu tư, thăm dò khai thác dầu khí ở biển Đông. Vì thế, Nga sẽ không muốn tình hình tranh chấp ở đây ảnh hưởng xấu đến quan hệ với các nước. Theo chia sẻ của GS-TS Vladimir Kolotov (Trưởng khoa Sử Viễn Đông, ĐH Quốc gia St. Petersburg, Nga) thì “đối với Nga, cả Việt Nam và Trung Quốc đều là đối tác chiến lược”.

Hơn nữa, với tư cách là một nước lớn, đang trên đường phục hồi vị thế vốn có của mình, nước Nga khó có thể bỏ qua những lợi ích chiến lược mang tính toàn cầu, cả hiện tại cũng như lâu dài. Biển Đông cũng nằm trong lợi ích chiến lược của họ. Không phải ngẫu nhiên mà Nga đã điều trung đoàn tên lửa S-400 đến đóng ở Viễn Đông, bán vũ khí tàu ngầm hiện đại, máy bay chiến đấu Su 30, tên lửa hành trình Bastion cho Indonesia, Malaysia và Việt Nam. Nga cũng thường xuyên đưa tàu chiến lui tới nhiều nước Đông Nam Á có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc. Sự quay trở lại trong mối quan tâm đến châu Á-Thái Bình Dương của Putin còn được đánh dấu qua việc Nga đã thành lập Bộ Phát triển Viễn Đông.

Trong bối cảnh Moscow đang tích cực thực hiện chính sách ngoại giao đa phương, khu vực biển Đông có ý nghĩa ngày càng quan trọng. Theo nhận định của chuyên gia Aleksey Fenenko (đăng trên báo Độc Lập của Nga) thì: “Nga quan tâm tới việc hội nhập vào khu vực này trên nhiều không gian và trong mọi cơ chế, tổ chức khác nhau như ASEAN, APEC, EAS nhằm sử dụng tiềm năng khu vực để nâng cao phát triển vùng Siberia và Viễn Đông”. Vì thế, có thể thấy việc can thiệp nhằm giữ cho tình hình biển Đông ổn định sẽ giúp cho Nga có đủ uy tín và vị thế hiện thực hóa được những điều này.

Và tầm nhìn chiến lược

Thứ ba, xét về mặt phát triển chiến lược quân sự, điều kiện địa lý của Nga rất không thuận lợi, làm hạn chế nghiêm trọng sự phát triển sức mạnh trên biển, sức mạnh hải quân của Nga.

Nhìn vào bản đồ địa lý có thể dễ dàng nhận thấy phần lớn đường bờ biển Nga thuộc khu vực lạnh giá, trong năm có thời gian đóng băng rất dài, tỉ lệ sử dụng bờ biển tương đối thấp. Khu vực biển Baltic và biển Đen đều có bờ biển ấm áp, có tương đối nhiều cảng không đóng băng nhưng độ dài của tuyến đường bờ biển không lớn, khó trở thành căn cứ chủ yếu để phát triển quyền kiểm soát biển.

Nhưng khu vực biển Đông thì khác, đây là vùng biển nhiệt đới, không bao giờ đóng băng. Đặc biệt, như một nhà quan sát ví von, quân cảng Cam Ranh được đánh giá như là “yết hầu” trong bản đồ chiến lược quân sự khu vực. Vì thế, Nga rất cần thông qua những đồng minh lâu năm của mình (như Việt Nam) để có thể mở thêm một hướng mới cho việc phát triển lực lượng hải quân.

Cuối cùng, nếu nhìn về sự cạnh tranh vị thế chiến lược thì Nga hiện có hai cường quốc cạnh tranh: Trung Quốc và Mỹ. Moscow hiện đang nhì n nhận sự trỗ i dậ y củ a Bắ c Kinh ở  châu Á -Thá i Bì nh Dương vớ i một thái độ nghi ngạ i, với sự lo sợ về vị thế của mình. Vì vậy, dĩ nhiên “chàng gấu” Nga đang rất muốn đẩy lùi vị thế của người khổng lồ tại tất cả khu vực mà Nga có lợi ích.

Theo nhận định của TS Subhash Kapila (Tổ chức Phân tích Nam Á tại Ấn Độ) thì “tranh chấp biển Đông có thể làm thay đổi cục diện khu vực, thúc đẩy sự cân bằng cơ cấu quyền lực ở châu Á-Thái Bình Dương”. Từ đó, TS Subhash Kapila cho rằng việc can thiệp tích cực vào vấn đề tranh chấp tại biển Đông sẽ giúp cho tham vọng thay đổi trật tự quyền lực khu vực của Nga mau chóng được hiện thực hóa.Dù đang gặp nhiều vấn đề xấu về kinh tế, xã hội trong nước nhưng để bảo vệ những lợi ích và chứng minh cho cái gọi là vị thế cường quốc của mình, Nga bắt buộc phải hiện diện tại biển Đông – điểm nóng hiện tại của thế giới. Tuy nhiên, kịch bản nào cho sự quay trở lại của Nga tại biển Đông nói riêng và châu Á-Thái Bình Dương nói chung còn phải phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau.

Bài cuối: Nga sẽ chọn thái độ nào?

Mục đích lớn nhất của Nga hiện nay là tạo nhiều mối quan hệ để hòa nhập sâu rộng vào guồng quay của nền kinh tế năng động khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Theo nhiều chuyên gia, hiện tại có thể dự đoán bốn kịch bản chính cho tương lai biển Đông. Một là tình hình tranh chấp sẽ diễn biến theo chiều hướng tốt hơn. Hai là tình hình vẫn sẽ giữ như hiện nay với sự hợp tác và đấu tranh đan xen lẫn nhau. Ba là tình hình trở nên xấu hơn, xung đột, tranh chấp nhiều hơn hợp tác nhưng vẫn chưa có xung đột quy mô lớn. Bốn là các bên liên quan đều muốn giải quyết vấn đề bằng các biện pháp quân sự và dẫn đến xảy ra xung đột lớn.

Những bất ổn trong tương lai biển Đông chắc chắn sẽ gây ra nhiều thách thức cho an ninh của Nga trong những năm tới. Và điều này cũng sẽ gây ra nhiều tác động chiến lược cho chính sách Viễn Đông của Nga. Vì thế Nga phải tiếp cận vấn đề này một cách khôn khéo, đồng thời phải tung ra những biện pháp can thiệp mang tính giải quyết thật sự đối với vấn đề này. Vậy đâu là sự lựa chọn khả dĩ nhất cho Nga?

Quan hệ tay ba Nga – Trung – Mỹ

Theo ý kiến của chuyên gia Evgeny Kanaev (Trung tâm Nghiên cứu châu Á-Thái Bình Dương) thì “Nga không nhất thiết phải lựa chọn chính sách xoay quanh bất cứ kịch bản nào. Bởi vì kịch bản cho vấn đề can thiệp của Nga mang một bản chất khác biệt, không phụ thuộc vào diễn biến của tranh chấp”. Thêm nữa, Moscow có đủ khả năng cũng như vị thế để xây dựng và tiến hành một chiến lược can thiệp theo kịch bản riêng của mình.

 14-chot-8f0c8

Chiếc tàu ngầm Kilo này đã hoàn tất các bài thử nghiệm lặn và các hành trình trên biển trước khi giao cho khách hàng. Ảnh:shipspotting.com

Cũng theo vị chuyên gia này thì trong xu thế phát triển chung như hiện nay, kịch bản cho vấn đề “Nga và biển Đông” chỉ nên được lựa chọn xoay quanh những từ khóa như “can thiệp tích cực”, “đẩy mạnh hợp tác”, “biện pháp hòa bình”… Và đó chỉ có thể là một kịch bản mà trong đó Nga sẽ cố gắng sử dụng tất cả con bài chiến lược mà quốc gia này đang sở hữu. Kịch bản tốt nhất là Nga nên đi theo xu hướng can thiệp mà không can dự với ba “con bài” chiến lược cụ thể như sau:

Một là Nga chủ động kết hợp khéo léo quan hệ với Mỹ và Trung Quốc trong vấn đề biển Đông. Theo nhận xét của cựu đại sứ Ấn Độ M K Bhadrakumar thì “sự hợp tác giữa ba ông lớn này để giải quyết bất cứ một tranh chấp là cả một sự mong đợi to lớn của thế giới”. Vấn đề biển Đông thật sự cũng không thể được giải quyết một cách độc lập chỉ với tam giác Nga – Trung – Mỹ.

Thực tế thì việc ba ông lớn này phối hợp với nhau sẽ làm cho không gian hợp tác tăng lên chứ không hề giảm đi. Mà khi hợp tác càng nhiều thì tổn hại càng ít, lợi ích tăng lên. Biển Đông cũng đang là sân chơi cần sự hợp tác của ba ông lớn này. Việc Mỹ kiềm chế Trung Quốc gần đây đã dẫn tới tình trạng “bằng mặt không bằng lòng” giữa hai quốc gia này. Nhưng với Nga lại khác. Thời gian qua, Nga đã khôn khéo từng bước thể hiện quan điểm đối với vấn đề biển Đông nên Trung Quốc chỉ dừng lại ở mức quan ngại, dè chừng.

Phía Mỹ cũng đã không ít lần kêu gọi và khuyến khích Nga thể hiện nhiều hơn trong vấn đề tranh chấp này. Vì thế việc Nga xuất hiện với vai trò cầu nối giữa hai ông lớn (Mỹ và Trung Quốc) để cùng tạo ra tam giác quyền lực nhằm giải quyết vấn đề biển Đông là một tương lai nên hướng tới. Các chuyên gia phân tích cũng đánh giá rằng “đây là thời điểm thích hợp nhất để Nga thể hiện vị thế và vai trò của mình”.

Sử dụng bàn đạp năng lượng

Hai là Nga tận dụng yếu tố năng lượng như là bàn đạp để can thiệp vào khu vực. Hiện nay năng lượng vẫn là nhân tố quan trọng định hình tương lai của khu vực cũng như thế giới. Theo ý kiến nhận định của hai chuyên gia người Trung Quốc, Xu Ping và Liu Shouxu, đăng trên tạp chí Nghiên Cứu Vấn Đề Quốc Tế thì “với tư cách là cường quốc năng lượng có liên quan đến hầu hết mối liên kết năng lượng tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Nga có đủ khả năng để sử dụng ngoại giao năng lượng để gây áp lực và kiềm chế sự hung hăng của Trung Quốc, tiến tới giúp đỡ các quốc gia đang phát triển như Việt Nam”. Thông qua các hợp đồng khai thác năng lượng với các nước trong biển Đông, con đường hiện diện tại khu vực của Nga cũng sẽ rút ngắn lại. Việc Tập đoàn khí đốt Gazprom của Nga tuyên bố tham gia dự án khai thác khí đốt tại hai lô 5.2 và 5.3 ở biển Đông có thể coi là một khởi đầu cho việc sử dụng con bài chiến lược này.

Ba là Nga đẩy mạnh và hiện thực hóa các điều khoản trong mối quan hệ hợp tác với ASEAN và các nước thành viên như một phương thức để can thiệp vấn đề. Sau đó Nga sẽ chủ động hơn trong việc thể hiện tiếng nói của mình tại các diễn đàn lớn như APEC, EAS, ARF… Theo phân tích của chuyên gia Evgeny Kanaev, “trong tuyên bố hợp tác giữa Nga với ASEAN có nội dung mong muốn tăng cường hợp tác với ASEAN, bao gồm các vấn đề an ninh. Tranh chấp biển Đông là một vấn đề an ninh, nếu không muốn nói đó là vấn đề an ninh cấp thiết. Vì thế để thể hiện vị thế của mình và đi sâu hơn nữa trong mối quan hệ với ASEAN, Nga cần phải biến điều này thành thực chất, không thể nói suông”. Việc hiện thực hóa các điều khoản vừa giúp Nga nâng cao uy tín, vừa giúp “danh chính ngôn thuận” cho sự có mặt của mình.

Bên cạnh đó, ông Evgeny Kanaev cho rằng Nga cần đẩy mạnh hơn nữa các chiến lược ngoại giao với những quốc gia có liên quan trong tranh chấp. Nga cần dựa vào mối quan hệ chủ lực ở Đông Nam Á với Việt Nam nhằm lèo lái vấn đề theo hướng mà đa số mong muốn. Nga cần biết tận dụng cơ hội của mình ở những thời khắc quyết định. Đồng thời, Nga phải chú ý tách bạch các mối quan hệ với nhau và xử lý khéo léo những khúc mắc giữa các mối quan hệ tay ba như Nga – Trung – Việt.

Can dự nhưng không can thiệp

Điều đặc biệt là Nga cần phải tránh xa những động thái có thể dẫn đến căng thẳng. Nga cần biến mình thành một tác nhân tích cực nhằm can thiệp đến tình hình chứ không phải biến mình thành một đối tượng can dự trực tiếp trong vấn đề này.

Theo GS Vladimir Kolotov (Trưởng khoa sử Viễn Đông, ĐH Quốc gia St. Petersburg, Nga), “mục đích lớn nhất của Nga hiện nay là tạo nhiều mối quan hệ tốt đẹp để hòa nhập sâu rộng vào guồng quay của nền kinh tế năng động của khu vực. Những lợi ích xuất phát từ việc bán vũ khí không đóng vai trò là nguồn thu chính cho cả nền kinh tế to lớn của Nga cũng như bảo đảm cho tương lai phát triển của quốc gia”.

Từ đó có thể khẳng định rằng Nga sẽ xây dựng cho mình một kịch bản với những chiến lược can thiệp nhất định vào khu vực tranh chấp biển Đông để hướng tới lợi ích ngắn hạn và dài hạn của mình, dù hiện tại nước này chưa có nhiều động thái tích cực lắm. Vấn đề chỉ là sớm hay muộn mà thôi.

Tất nhiên, vấn đề giải quyết tranh chấp tại biển Đông là một bài toán rất khó, không thể giải quyết rốt ráo trong một sớm một chiều. Vì thế, nếu Nga tham gia đóng góp tích cực cho việc giữ ổn định và giải quyết tranh chấp bằng hòa bình thì sẽ nhận được sự chào đón nhiệt tình của các quốc gia liên quan và cả dư luận thế giới.

NGHĨA HUỲNH (Irys

Biển Đông – con đường huyết mạch thế giới

Trong số 10 tuyến đường hàng hải chính trên thế giới thì có năm tuyến đi qua khu vực biển Đông. Hơn 90% thương mại quốc tế được vận chuyển bằng đường biển, trong đó 45% đi qua khu vực này. Theo GS Bronson Pervcival, cố vấn cao cấp Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược CNA (Mỹ),  “có khoảng 80% lượng dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc, 60% của Nhật Bản và 66% của Hàn Quốc đi qua biển Đông; có tới 42% hàng xuất khẩu của Nhật Bản, 55% hàng xuất khẩu của các nước Đông Nam Á, 26% hàng xuất khẩu của các nước công nghiệp mới và 40% hàng của Úc đi qua biển Đông”. Điều này lý giải vì sao các cường quốc, trong đó có Nga, lại đặc biệt quan tâm và muốn hiện diện tại khu vực này.

Nga thỏa thuận bán khí đốt cho Trung Quốc

Theo Đài Tiếng nói nước Nga: Nga và Trung Quốc đã loại bỏ một trong những chướng ngại vật trên đường đi đến ký kết thỏa thuận về khí đốt. Việc cung cấp khí đốt của Nga sang Trung Quốc sẽ được thực hiện mà không cần tham chiếu đến mức giá của Trung tâm Kinh doanh khí đốt tự nhiên Henry Hub ở Mỹ. Giám đốc Viện Năng lượng Quốc gia Nga Sergey
Pravosudov cho biết: Cuộc đàm phán về giá khí đốt của Nga xuất khẩu sang Trung Quốc dường như đã tiến về phía trước. Điều đó xảy ra dưới ảnh hưởng của tình hình trên thị trường năng lượng của châu Á.

Với một quyết định thuận lợi về giá cả, việc cung cấp khí đốt của Nga sang Trung Quốc có thể bắt đầu vào năm 2018.

Đây là một trong những hướng đi của Nga nằm trong chính sách năng lượng hướng đông của quốc gia này.

(Theo nangluongvietnam.vn

Điểm đến của vũ khí Nga

“Nguy cơ xung đột tại châu Á-Thái Bình Dương khiến nhiều quốc gia trong khu vực tăng ngân sách quân sự. Những yếu tố ấy khiến nhu cầu về vũ khí Nga tăng cao. Trong những năm gần đây, nhiều hợp đồng bán các gói tổng thể đã được ký” – The Voice of Russia dẫn lời ông Igor Korotcheko, Tổng Biên tập tạp chí National Defense.

Xem Tiếp Trang 2

hvln