Đánh máy: Lê Thy
Trước khi vào truyện
Đã từ lâu, tôi muốn viết về truyện tình của hai người. Tôi cứ hẹn với mình mãi. Truyện tình của Phượng và Dương là một truyện tình đẹp, có thể sống mãi với muôn đời. Cuộc đời của tôi mới đi hết một nửa quãng đường, thành ra tôi nhiều khi tự nhủ thầm ngày còn rộng, tháng còn dài, vội gì!…
Nhiều lúc, tôi đã ngồi vào bàn viết, viết lên vài trang khởi đầu. Khi chấm dứt vài trang ấy, tôi xếp lại định ngày mai lại tiếp tục. Nhưng cái ngày mai ấy, không bao giờ đến. Cái nhất định, ít khi nằm bất di bất dịch trong tôi. Chỉ một thời gian ngắn nào đó, cái nhất định lại biến thành nhị định, rồi tam tứ định…
Có lẽ tôi cần phải thú thật một điều. Tính tôi vốn lười…Những người thân thiết với tôi thường trách tôi nhiều về tật xấu ấy. Hồi còn làm việc ở phi trường Biên Hoà, tôi làm việc ở Đài Kiểm-soát Phi-trường. Làm việc hai mươi bốn giờ rồi nghỉ bốn mươi tám giờ. Trong cái thời gian bốn mươi tám giờ nghỉ ngơi ấy, tôi làm thiên hạ khiếp sợ về tài ngủ.
Tôi ngủ liên miên giờ này qua giờ khác, trừ những lúc bị những cần thiết của cơ thể thúc bách. Tôi chỉ giật mình thức dậy vào những giờ ăn, rồi lại tiếp tục nằm dài, như Gia Cát Lượng ngày xưa nằm gối đầu cao, chờ công danh trên đỉnh Ngọa Long Cương. Nhưng Gia Cát Lượng mang tật ngủ ngày, còn được đặt tên là con Rồng Nằm chứ tôi chỉ là một thằng lười, lười chẩy ra, lười đến không thấy ai lười hơn nó nữa.
Đó là lời phê bình của Dương, mỗi buổi chiều đến rủ tôi đi ra quán A la Plague, ngồi uống cà-phê, đấu tiếng Tây với ông chủ quán Tây già, sống lủi thủi như một thứ anh hùng thấm mệt.
Tôi đã hẹn với mình nhiều lần sẽ viết truyện về Phượng và Dương mà chưa viết. Hôm nay tôi bắt đầu đây.
Sàigòn, năm nay mùa mưa tới sớm, những buổi chiều, lạc lõng trên nền trời mây xám đã trôi đi chầm chậm. Nhưng đám mây chưa sũng nước, mong manh quá, cố gắng lắm cũng chỉ rơi được xuống hè phố, lác đác vài giọt nước mắt vô duyên. Những lúc đó, trời đầy hơi khó thở. Lá cây nằm im lìm bất động.
Trong những lúc giao mùa, vỉa hè vắng khách nhàn du. Cái sung sướng nhất là ngồi trong một phòng lạnh, áp ly nước đá lên mặt nhìn qua cửa kính để thấy màu nắng úa vàng.
Chiều nay, tôi nhìn thấy Phượng đi trong màu nắng úa ấy. Màu áo đen nổi bật trên hè phố vốn rực rỡ nhiều màu. Bước chân thẫn thờ như kéo lê đôi dép thấp.
Phượng ngừng lại bên kia đường, khi đèn xanh bật lên. Giòng xe cộ ào ạt chạy qua, che khuất Phượng rồi lại để lộ ra hình Phượng. Trong một giây, tôi tưởng như Phượng đã biến đi, nhưng khi giòng xe cuồng lũ qua đi, tôi vẫn thấy Phượng đứng sừng sững , vẫn với một dáng im lìm, bất động, như tượng đá đầu non. Sau một giây ngơ ngác, Phượng đặt chân xuống đường và từng bước, từng bước, chậm chạp qua đường. Tôi mở cửa đi ra để gặp Phượng .
Tuy rằng, đã lâu lắm rồi mới gặp nhau, nhưng tôi không bắt gặp một nét ngạc nhiên nào trên mặt Phượng. Hình như từ lâu, Phượng đã giữ một khuôn mặt nước đá, mà hồi xưa, tôi và Dương thường chế diễu, mỗi khi Phượng có chuyện gì giận dỗi, là một khuôn mặt tủ lạnh. Bây giờ thì khuôn mặt tủ lạnh ấy thường trực đóng khung. Chuyện của Dương và Phượng thật buồn.
Tôi như một chứng nhân, có mặt từ lúc đầu cho tới lúc hạ màn, vở bi kịch có tiếng cười, có nước mắt. Sân khấu trường đời thật phũ phàng. Có những diễn viên, không được học vở kịch từ trước nhưng đã bị những diễn tiến của vở kịch lôi cuốn đi, rồi cứ như thế, sân khấu đã bắt diễn viên phải khóc, phải cười. Phượng là một diễn viên của cái sân khấu ma quái ấy.
Tiếng hát của nhà thu băng Tiếng Hát Đôi Mươi bên kia đường tình cờ bắt đầu một bản nhạc nức nở. “Như giòng đời đó, cuốn người theo”. Cưỡng lại làm sao hở Phượng?…
Tôi mời Phượng vào quán. Ở quán này là nơi tụ họp nhiều nhà báo và nhất là nhạc sĩ và ca sĩ.
Thói quen mỗi buổi chiều của tôi là phải tới quán này, uống vài ly rượu, đấu láo vài chuyện nhảm. Khi gặp đông bạn bè, thì chỉ trở về nhà khi quán đóng cửa. Hôm nào mệt tôi về sớm, nhưng cái sớm ấy cũng phải là lúc thành phố lên đèn.
Tôi mời Phượng ngồi xuống ghế. Ở đây, Phượng khác hẳn những nàng ca sĩ, vẫn thường ghé ngồi đây chờ giờ đi trình diễn. Phượng vẫn đẹp như ngày xưa, nhưng cái đẹp hồn nhiên, nhí nhảnh học trò đã nhường chỗ cho một thứ đẹp liêu trai, rất buồn, buồn đến não nùng. Cặp mắt hay chớp ngày xưa, bây giờ mở lớn, bất động, làm cho chiếc trán thanh tú ẩn hiện vài nếp hằn suy tư. Tôi hỏi Phượng :
– Hôm nay đi đâu mà lại chỉ có một mình?
Phượng cười buồn:
– Còn ai nữa mà hai mình? Hay là anh đi chơi với Phượng để chúng mình có hai đứa. Bằng lòng không?
Phượng vẫn còn nhớ được những cái thẳng băng của lối nói chuyện ngày xưa. Ồ, tại sao tôi cứ hay nhắc tới ngày xưa, hai tiếng mà nói lên cứ như kể chuyện cổ tích?…
Ngày xưa, những ngày ấy đẹp lắm, ngày có tôi, có Dương, có Phượng, có Tâm, có Thư Hương.
Tới bây giờ tôi vẫn không hiểu Thư Hương là một cô gái đáng thương hay đáng trách. Tất cả chúng tôi đều coi Thư Hương như em gái, mà thật ra thì Thư Hương chính là em gái của chúng tôi…Thư Hương là em gái của Tâm…
Bây giờ Tâm đã nằm yên dưới ba thước đất. Nấm mộ Tâm, cỏ đã mọc xanh rì. Ngày còn sống, Tâm thường hãnh diện với cái tên mình bằng một câu trong truyện Kiều: “Một vầng trăng khuyết ba sao giữa trời”. Ba ngôi sao, thêm một vầng trăng là tên của Tâm. Căn cứ vào đó, Tâm cho rằng cuộc đời binh nghiệp của Tâm sẽ sáng lắm.
Chắc chắn rồi đây Tâm sẽ là tướng 3 sao mà! Nhưng cố gắng lắm thì Tâm cũng chỉ thành một cố Đại Úy với ba hoa mai đặt lên bàn thờ, một đám tang với nhiều tiếng nức nở và để lại trên cõi đời này ba cuộc đời oan nghiệt, gồm cuộc đời của Dương, của Phượng, của Thư Hương.
Vầng trăng khuyết là Tâm đó chăng? Và ba ngôi sao nằm cạnh vầng trăng là Phượng, là Dương, là Thư Hương đó chăng? Sao không thấy ai trả lời? Tâm nằm im lìm ngoài đó, nơi Bắc Việt Nghĩa-trang với những lối đi đầy xác lá, với tiếng thông reo vi vu như ngàn tiếng thì thầm và thở dài của những người nằm dưới mộ.
Mỗi buổi chiều, nơi nghĩa trang này đều có vài ba bóng dáng những nàng quả phụ trẻ, thầm lặng thắp lên vài ba nấm mồ những nén hương tưởng nhớ. Không khí nghĩa trang thật yên lặng dù chỉ cách đại lộ một quãng đường mà lúc nào xe cũng chạy nhộn nhịp không ngừng . Nhìn tấm bia của từng nấm mộ ít ai có được một cái chết già.
Làm một cái tính trừ của năm mà người sống đưa người chết ra tới nghĩa trang, với năm mà người đó được đẩy ra dưới ánh mặt trời, sao thấy con số nhỏ quá. Nhiều nhất là khoảng tuổi từ hai mươi tới ba mươi. Tâm cũng vậy. Chàng đã chết lúc vừa hai mươi tám tuổi.
Những ngày buồn, tôi lại tới Bắc Việt Nghĩa-trang. Nhiều người bạn của tôi đang nằm ở đây…Nơi đây ngoài những tiếng động âm thầm của Nghĩa-trang, còn vang vọng tiếng động cơ từ phi trường Tân Sơn Nhất. Từng chuyến phi cơ vận tải phản lực cất cánh và hạ cánh, đôi cánh che rợp trời, loang loáng lướt qua từng nấm mộ.
Những chiếc phi cơ ấy, không phải của bạn tôi, của Tâm hay của Dương. Vì dưới cánh, không mang theo bom đạn, để gợi cho mọi người nhớ tới cái chiến tranh đang kéo dài mấy chục năm trên đất nước này.
Tôi nhìn vào mắt Phượng …
Đôi mắt sâu thẳm chứa đầy u buồn hơn cả bao nghĩa trang. Ly nước để trước mặt, lấm chấm vài giọt nước đọng. Phượng thẫn thờ đặt lên môi uống một hơi hết nửa ly, rồi như bàng hoàng tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài. Lần đầu tiên từ lúc gặp, tôi được nhìn một nụ cười thoải mái nở trên môi Phượng:
– Thế nào anh? Cuộc đời ái tình sự nghiệp của anh hồi này ra sao?…Chuyện cơm áo vất vả lắm không?…Làm nhiều nghề như anh thì giàu là cái chắc rồi.
Như cất đi được những tảng đá nặng chĩu xuống đôi vai, tôi cười theo Phượng:
– Cũng đều đều. Ngày hai bữa ăn và một giấc ngủ. Làm sao mà giàu được? Phượng còn lạ gì tính tôi. Có tiền thì phải tiêu xài cho hết, chỉ sợ tiền thành rắn thành rết bò ra cắn chết. Bởi vậy chẳng bao giờ giàu.
Phượng hỏi thăm tới vợ tôi và con tôi và những người mà hai người cùng quen biết.
Cuộc gặp gỡ Phượng chỉ ngắn ngûi có thế. Nhưng như thế cũng đủ rồi. Đủ để tôi bắt đầu cho truyện Phượng và Dương…
Và bây giờ, bắt đầu vào truyện….
CHƯƠNG I
-Lần nào phát thư, cũng chẳng có thư của hai ông.
Dương và Tâm ngồi ở đầu hè trước phòng Hành quân, nghe câu nói ấy đều giật mình quay lại. Người Trung sĩ Bưu tín viên nhìn hai chàng cười, lấp lánh vài chiếc răng vàng.
Người Trung sĩ nầy rất chịu khó. Mỗi buổi sáng, chừng hơn tám giờ, khi nắng đã trải rộng lên phi đạo tràn lan khắp sân đậu, soi rõ những hạt sương đọng trên cockpit của phi cơ, là người Trung sĩ Bưu tín viên xuất hiện đúng giờ, cứ y như một chiếc đồng hồ loại tốt.
Trước phòng Hành-quân của Phi-đoàn X. có treo một hàng dài hộp thư, bên trên đề tên từng phi công của Phi-đoàn. Hộp thư nào cũng có khoá cẩn thận. Riêng chỉ có hai hộp thư của Trung-úy Dương và Trung-úy Tâm là bỏ ngỏ.
Cánh cửa nhỏ mở toang hoác. Ai đi qua, buồn tay cũng đập một phát. Cánh cửa đập vào thành bên trong, bật lên một tiếng động nhẹ, rồi lại bật trở ra như một cánh cửa tự động.
Chẳng bao giờ người bưu tín viên được hân hạnh bỏ vào đấy một phong thư. Lâu lắm rồi, hình như ở đấy cũng có một phong thư màu xanh, được dán cẩn thận, nhưng buồn thay lá thư đó không lấy một lời âu yếm mà chỉ thấy đầy những con số. Đó là thư đòi thuế của sở Thuế Lương Bổng mà mỗi tháng phát lương, Sở Tài Chánh quên khấu trừ thẳng vào tiền lương.
Tâm cũng cười:
– Không được phát thư cho chúng tôi, bạn có buồn không? Nhưng xét ra mỗi lần bạn đi từng phần sở, với cái cặp da đầy nhóc tâm tình kia, mang phát tâm tình cho mọi người thì kể cũng mệt. Bởi vì thương cái thân ốm yếu của bạn, nên chúng tôi không thèm viết thư mà cũng chẳng thèm nhận thư.
Người Trung sĩ Bưu tín viên thấy Tâm nói vậy thì có vẻ không bằng lòng ra mặt. Như vậy là nghi ngờ thiện chí của hắn ta. Đáng lẽ ra hắn chỉ ngồi một chỗ, nhắc cái “tô lô phôn” lên, gọi về phòng Văn Thư của các phần sở, cho biết là có giấy tờ thư tín.
Phòng Văn Thư có phận sự phải cho người lên lấy về phân phát lại. Nhưng hắn muốn được làm cái công việc mang niềm vui cho mọi người mỗi buổi sáng. Cái sung sướng hắn thật giản dị. Một lời nói cám ơn rất suông tình. Một khuôn mặt rạng rỡ hẳn lên, khi run run bóc lá thư của người yêu. Nét mặt sầu thảm khi nhận tin xấu về gia đình. Với những kẻ nhận được thư tình, hắn thường nói đùa một câu:
– Đọc thư đứng cười một mình như thế thì chó nó cũng biết là thư của ai rồi.
Với những người nhận được thư rồi sau khi đọc thư, biểu diễn một khuôn mặt táo bón, hắn cũng nói lên vài lời an ủi. Hắn cũng buồn theo với người bạn và nhiều khi cũng có một ít nước mắt, nếu người bạn ấy nhận được tin nhà, báo tin trong nhà có người vừa nằm xuống.
Từ ngày làm phận sự bưu tín viên, một điều ngạc nhiên đến khó chịu là chẳng bao giờ hắn có hân hạnh phát thư cho hai ông Trung-úy trẻ và cũng đẹp trai chẳng kém gì ai. Theo ý nghĩ của hắn thì hai anh chàng này ít ra cũng phải có hàng tá người yêu, lâu lâu cũng phải biểu diễn nhiều đường bay bướm viết thư tán nhảm về trăng sao hoa bướm, kể lể vài phát về không gian trời xanh mây trắng.
Nhưng không hiểu sao thư đi cũng không có, thư về cũng không có nốt. Hắn đã định một ngày đẹp trời nào đó, hắn sẽ mời hai anh chàng “đầy bí mật” này nhậu một bữa, rồi sau khi trà dư, tửu hậu, hắn sẽ hỏi rõ nguyên nhân.
Cái gì dù bí mật tới đâu, nhưng chỉ cần vài phát la-de là bao nhiêu tâm sự sẽ phọt ra hết. Hắn đã hăm doạ như thế nhiều lần. Hắn hỏi thêm:
– Còn Trung-úy Dương ?…Đẹp trai như ông mà không có lấy một người viết cho “vài hàng gửi anh trìu mến” thì kể như hạ màn mất rồi!
Dương nháy một bên mắt:
– Tôi tên là Dương nhưng bị …liệt dương. Cứ em nào gần tôi một ít lâu, là “còn tình chi nữa mà thù đấy thôi”. Lý do chính là không thoả mãn được những gì mà em đòi hỏi. Cứ tới chợ là hết quà hay nói nôm na là cứ lên lưng ngựa là bị tuột xích.
Tiếng cười vang lên trong nắng sớm. Anh chàng bưu tín viên vẫn lắc đầu:
– Tôi không tin như vậy…
– Tin hay không là tùy bạn.
Người Trung sĩ Bưu tín viên cũng ngồi xuống bực thềm. Ở cái quân chủng nầy, người ta sống rất thân mật, ít có chất kỳ thị cấp bậc. Thắc mắc của chàng Trung-sĩ vẫn chưa được giải đáp. Hai anh chàng Trung-úy nầy vẫn còn đầy bí mật, dù rằng cái bí mật ấy chẳng đến nỗi quan trọng như những bí mật quốc phòng…
Ba người ngồi trên bực thềm. Lúc này thì sinh hoạt ngoài phi đạo đã tấp nập. Một vài chuyên viên leo lên phi cơ cho nổ máy để kiểm soát. …Cánh quạt quay chầm chậm, rồi một làn khói xanh biếc cuồn cuộn toả về phía sau phi cơ. Cánh quạt được trớn, quay tít thổi làn khói xanh bay toả lên không gian rồi tan biến…
Cảnh đó thật quen thuộc mỗi sáng. Người Trung sĩ Bưu tín viên vẫn còn thắc mắc thật nhiều. Tâm và Dương là hai kẻ, tính tình gần như trái ngược ấy vậy mà lại thân nhau như chồng vợ. Có thể vì vậy mà hai anh chàng phi công trẻ tuổi này ít có những mối tình lẩm cẩm?…
Nhưng chẳng lẽ xảy ra …những chuyện vớ vẩn như những chuyện đọc được trên các báo Tây, báo Mỹ. Anh chàng Trung-sĩ này không tin như vậy nên hỏi lại:
– Các ông không có người yêu nào để viết thư sao?…
Câu chuyện lại trở về lúc đầu. Dương thản nhiên:
– Túi rỗng, chẳng có đồng xu mẹ nào, thì sao có được người yêu. Bạn hỏi câu đó hơi…bết đấy nhé.
Người Trung-sĩ bực tức:
– Nếu như vậy thì các ông làm xấu mặt lính tàu bay rồi. Các ông không thấy nhiều tên lính của mình?..Tiền không có, lon lá cũng không có, ngay đến bộ quần áo mặc trên người cũng phải đi mượn, ấy vậy mà ái tình cứ ùa đến chật phòng. Còn các ông thì dầu sao cũng cao ráo, sáng sủa, lái tàu bay, lại có tí lon lá…Thiên hạ bì sao được mấy ông. Tôi thấy cứ hễ buổi chiều, là đã có vài ba người đứng ngoài cổng để đón “bóng người phi công” rồi…
– Rất may là trong đó, không có chúng tôi…
Dương cười vang, nói tiếp:
– Nhiều người đang chờ bạn đấy. Tiếp tục làm việc ban phát tâm tình đi thôi chứ.
Người Trung sĩ Bưu tín viên chợt nhớ nhiệm vụ, đứng lên, chào hai người rồi đi về phía Ban Kiểm Kỳ.
Bóng dáng lủi thủi, câm nín đã quen mắt trong mỗi buổi sáng. Trời hôm nay thật đẹp, chỉ lảng vảng vài ba đợt mây mỏng và lặng gió. Dương ngước nhìn lên trời….Hai chiếc phi cơ khu trục nghiêng cánh, đưa bụng về phía mặt trời làm thủ tục hạ cánh.
Tâm ngước mắt nhìn theo rồi hỏi:
– Chúng nó cất cánh từ hồi nào vậy?
– Từ sáu giờ sáng.
Chiếc phi cơ thứ hai nghiêng cánh vòng theo. Hai bên cánh vẫn còn bom đạn chưa thả hết.
Hai làn khói trắng xẹt ra từ hai đầu cánh, chỉ một thoáng rồi loãng tan dần.
– Gió yếu thế nầy mà nó cho hạ cánh hướng về phía mặt trời làm chi cho chói mắt?
– À, vùng bên kia sông, nơi đầu phi đạo ấy vẫn còn trong thời gian xạ kích của pháo binh…
Chiếc xe của Đoàn vũ-khí chạy qua trước mặt. Người lính đứng bám vào cửa cạnh tài xế nhìn Tâm và Dương toét miệng ra cười. Hai chiếc phi cơ ngừng lại nơi đầu phi đạo, gỡ hạt nổ rồi di chuyển vào bến đậu. Tiếng rồ máy thật mạnh rồi tắt hẳn. Hai người phi công tiến về phía Phòng Hành Quân.
– Bay sớm nhìn mặt trời mọc chắc khoái lắm. Thằng An thi sĩ chắc là thế nào cũng làm thơ?…
Người phi công trả lời Dương:
– Đừng xúi dại tao chứ mày!… Đạn nó đan lên như pháo bông, làm thơ để mà chết mất xác. Tao phải tới thùng thư, coi xem hôm nay có thư của em không? Cứ hai ngày mà không có thư, cuộc đời ôi sao là buồn….
Nghe câu than cải lương ấy, Tâm và Dương cũng thấy vui lây. Khi yêu, con người dễ trở thành con nít và pha một chút xíu cải lương trong lối nói chuyện. Câu “anh yêu em, em yêu anh” nghe trên màn bạc bằng tiếng Tây, tiếng Mỹ thì không sao, nhưng nghe phát ngôn bằng tiếng Mít thì thật buồn nôn hết chỗ nói.
Có nhiều lúc, Dương không hiểu rằng, các cụ ngày xưa, không biết đã nói gì tới tiếng “yêu” không . Chắc là phải có, vì đọc cả một rừng ca dao, tục ngữ đều thấy có nhắc nhở tới chữ yêu:“Yêu nhau cởi áo cho nhau. Về nhà, mẹ hỏi qua cầu gió bay”. Cũng thắm thiết lắm đấy chứ!
Nhưng chữ yêu của các cụ ngày xưa nghe bàng bạc mà đằm thắm, không sống sượng và nặng chất tống tình như bây giờ.
Nhìn thấy người bạn mình, vừa làm một chuyến bay trở về, chạy vội lại thùng thư, thấy lá thư và mắt sáng lên, Tâm và Dương cũng thèm có một lá thư.
Chàng phi công tên An, hấp tấp xé bao thư, moi ra một tập giấy màu xanh, chữ viết dày đặc. Dương hỏi:
– Bao nhiêu lâu chúng mày không gặp nhau rồi?…
– Hai ngày!
– Trời, mới có hai ngày mà chị đã gửi thư cho anh, mà viết ngần đó chữ. Chắc là sẽ mở đầu bằng câu “anh hãy đếm lá thư này có bao nhiêu chữ, thì tình của em yêu anh là…ngần đó”.
An nhìn được kính phục:
– Mày tài quá! Đúng thật! Câu mở đầu của em đúng y như …”dậy”. Không biết rằng cái tư tưởng đó, em thuổng của mày, hay mày thuổng của em.
An cầm lá thư, đi vào phòng nghỉ. Hành lang lại chỉ còn có Tâm và Dương. Hai người ngồi đây chờ phi vụ, lúc nào cũng sẵn sàng sửa soạn lên đường. Một vài chiếc xe chạy vụt qua. Trên trời, dưới đất vang động tiếng động cơ ồn ào. Một vài cơn gió thoảng nhẹ, vừa đủ bay bay mái tóc và làm rung động chiếc ống gió.
Tâm hỏi:
– Mày đã viết thư cho người yêu bao giờ chưa…
– Nhiều lần.
– Tại sao không viết nữa…
Dương cau mặt:
-Vì bây giờ , không còn yêu nhau.
Tuy rằng nói không còn yêu nhau nữa, nhưng khi nói với câu này, bỗng chợt thấy bâng khuâng. Như một cái gì chợt mất mát. Như ngày xưa còn thời mơ mộng; đọc thơ Tản Đà “cái hạc bay lên vút tận trời”.. Cái bâng khuâng hiện nay, cũng mơ hồ như thế. Chàng thấy như người câm lặng hẳn đi, quên rằng mình đang ngồi đây, chỉ chợt giựt mình khi nghe Tâm hỏi:
– Sao không thấy bao giờ mầy nói chuyện nầy cả?…
– Tại vì tao yêu Phượng từ trước khi đi lính.
– À, thì ra tên cô nàng là Phượng.
Dương muốn nhắc nhiều lần tên Phượng. Tên của em, muốn gọi cứ phải mím chặt môi lại, khi cái tên thoát được ra ngoài, có thể là một tiếng reo vui, có thể là một tiếng thở dai.
Anh còn nhớ ngày xưa, em hay mặc áo đỏ, màu của hoa phượng nở thắm sân trường, mà anh thường gọi màu áo đỏ mà em hay mặc, là màu xe chữa lửa. Anh đã nói đùa với em là nếu em cứ hay mặc áo đỏ, thế nào cũng bị bò húc mà coi. Bò vốn ghét màu đỏ mà. Rồi em hỏi anh rằng anh có phải là bò không.
Chỉ vì anh không phải là bò, nên anh mới yêu em, yêu người con gái mặc áo đỏ, để mỗi lần đi đâu với em, là làm nhức mắt thiên hạ.
Dương cười một mình…Chiếc phi cơ phản lực cất cánh từ đầu phi đạo, tiếng máy nổ ầm ầm làm rung cửa kính. Tâm đưa hai tay lên bịt chặt lấy tai:
– Mấy thằng mọi da đỏ này ồn ào quá.
Buổi sáng nay, Tâm và Dương không có một phi vụ nào để lên đường. Ngồi nhìn cảnh sân đậu thì ngày nào cũng thế. Chỉ lâu lâu đổi khác một chút, khi có chiếc phi cơ gặp trục trặc. Phi trường nhốn nháo hẳn lên vì xe chữa lửa, cứu thương chạy tấp nập. Rồi tới khi phi cơ chạm bánh về được tới sân đậu, sinh hoạt lại trở nên bình thường như mọi ngày.
Hai người rủ nhau xuống Câu Lạc Bộ. Mới hơn mười giờ, hơi nóng mặt nhựa đã bốc lên rát mặt. Mỗi khi một cơn gió nổi lên là hơi nóng lùa vào người, làm mồ hôi chảy ra, ướt đẫm lưng . Đang đi, tự nhiên, Dương ngừng lại.
Chàng nhìn thấy trên mặt nhựa, để trơ ra màu xám đất lẫn lộn vài viên đá nhỏ. Rồi ở giữa khoảng đất ấy, một thân cây nhỏ bé èo uột mọc lên, chiếc lá xanh dầy đóng đầy bụi, trên ngọn, nở một bông hoa màu tím với những cánh mỏng manh. Chàng nói với Tâm:
– Không ngờ khoảng đất như thế nầy mà cũng nở được một bông hoa. Mầy có biết bông hoa nầy tên là gì không?
Tâm cười:
– Làm sao mà biết được. Nhưng khi những bông hoa nào không biết được tên, cách gọi tên tiện nhất, gọi luôn nó là bông hoa dại.
Dương ngồi hẳn xuống, vuốt ve từng cánh hoa. Chắc chỉ một ngày, với cái nắng này, với sức nóng hun đốt mặt nhựa, bông hoa này cũng sẽ tàn.
Ai đã gieo một hạt giống nơi đây để mọc thành cây, để cho cây có được một bông hoa? Chỉ có Trời mới làm được công việc ấy. Nhưng Trời đã để cho cây ra đời, rồi lại tước đoạt đi sự sống, để cho sự sống mong manh quá. Dương thấy thương cho bông hoa lạc lõng.
Chàng cúi xuống hái lấy bông hoa gài lên túi áo. Thân cây nhỏ, mất đi bông hoa màu tím lại trở thành một kiếp cỏ hoang rồi sẽ nát đi dưới vết bánh xe, gót giày.
Giờ này Câu Lạc Bộ vắng người…Anh chàng chủ Câu Lạc Bộ đang giải trí bằng cách đập ruồi.
Cô bé trong quầy hàng, ngồi đọc một tờ báo phụ nữ, mà tờ bìa ngòai in hình cặp tài tử cải lương đang áp má vào nhau cười toe toét. Dương gõ lên mặt quầy:
– Cô Thu đang đọc chuyện gì vậy?…
– Bức thư tình…
Dương nháy mắt:
– Trong đó có bức thư nào tôi viết cho cô không? nếu có làm ơn đọc lớn cho thiên hạ nghe chơi.
Ngồi bán hàng ở những Câu Lạc Bộ của lính, hình như cô em gái nghe những lời tán tỉnh cũng đã nhiều, nên ít khi xảy ra một vụ cảm động. Cô này bĩu môi một phát rất điệu:
– Đừng có nham nhở. Uống gì đây mấy cha nội!….
Tâm không có tật tán gái. Đối với chàng thì đàn bà chỉ là một phương tiện để giải quyết những gì ứ đọng trong người. Những đứa con gái dễ dãi ở nơi trà đình, tửu quán, nếu phải đối thoại, thì chúng cũng làm như một thủ tục cho phi cơ hạ cánh “xin phép vào vòng phi đạo”. Khi được chấp thuận, chàng làm đủ thủ tục, buông hai hai cái cẳng lớn và thò cẳng giữa ra, hỏi lại lần cuối: “Xin phép được hạ cánh”. Khi được được hạ cánh, hai cẳng trên và cẳng giữa ôm chầm lấy phi đạo, để rồi cứ lăn đi, từ từ cho tới khi ngừng chạy. Ấy thế là xong một phi vụ. Chỉ có như vậy thôi. Làm chi những cái khác, cho rườm rà, lôi thôi rắc rối.
Ý nghĩ về đàn bà của Tâm chỉ giản dị như thế. Ừ tại sao không coi một lần gần đàn bà, là một lần cho phi cơ hạ cánh? Cũng chỉ ngần đó thủ tục, làm theo thói quen. Lúc tắt máy, cũng như lúc xong công việc, đều thấy nhẹ nhàng, thanh thản, dù rằng người nhớp nháp một chút mồ hôi.
Tâm và Dương ngồi vào một cái bàn kê gần cửa sổ. Người chủ quán hỏi mà tay không ngừng đập ruồi:
– Cái ghế đó chắc trung úy Tâm mua đứt rồi, lần nào tới Câu Lạc Bộ này cũng thấy ông ngồi cái ghế đó.
Tâm không trả lời, nhìn qua khung cửa hẹp. Đằng sau Câu Lạc Bộ còn sót lại vài cây cao su xanh mướt lá.
Cả một rừng cao su, ngày xưa nổi tiếng là miền Biên Hoà đất đỏ nầy, chỉ còn lại có thế. Những ngày còn nhỏ ở ngoài Bắc, đã một dạo, Tâm nghe thấy người ta tuyển mộ phu vào làm đồn điền cao su ở mãi tuốt tận trong xứ Nam Kỳ. Rồi bao nhiêu chuyện thê thảm được viết thành sách, tả kiếp con người khổ ải, đầy đoạ trong những nơi mà người ta đặt tên là đồn điền.
Ở làng Tâm, cũng có mấy người ra đi, mà người đi thì có, người về thì không. Khi mới đổi về Biên Hoà, Tâm mới biết rằng căn cứ nầy, được tạo dựng trên một đồn điền cũ của Tây. Di tích còn sót lại cũng nhiều. Những dãy nhà thấp, trần nhà nám đen đầy bụi và mạng nhện, ngày trước là nơi cư ngụ của phu đồn điền, nay đã biến thành Trại Gia-binh Hùynh Hữu Bạc với những gia đình vợ con lính sống lúc nhúc.
Trước cửa và sau lưng cư xá độc thân, trong đó có phòng của Tâm và Dương, là những bóng cao su cổ thụ, xanh mướt lá. Những cây cao su trông thật hiền hoà, giống như tất cả mọi cây khác, chỉ khác một điều là chưa bao giờ Tâm thấy những cây này có lấy một bông hoa.
Tâm thích ngồi ở chỗ này trong Câu Lạc Bộ nhìn ra khoảng sân sau. Trời thu hẹp trong một khung vuông vắn. Thỉnh thoảng một chiếc lá bay vèo qua khung cửa sổ, lảo đảo lọt qua khung cửa, nằm tênh hênh trên nền xi-măng phẳng bóng.
Dương nhìn Tâm:
– Mầy nghĩ gì vậy?…
Tâm lơ đãng, chớp mắt:
– Tao đang thắc mắc, không hiểu những cây cao su nầy sống đã bao lâu. Ít ra thì tuổi thọ của nó, phải hơn tuổi tao, hơn tuổi mầy là cái chắc.
Dương gật gù cái đầu:
– Cái đó chắc phải hỏi cô Thu ngồi trong quầy hàng kia mới được. Cô ta là một quảng cáo rất ăn khách cho nghề trồng cao su.
Tiếng cười của hai người bạn vang lên. Cô bán hàng Câu Lạc Bộ, thấy vậy bỏ tập báo xuống, cũng cười. Thế ngồi của cô ta bây giờ rất hớ hênh. Lưng tựa vào thành ghế, ưỡn ngực ra, hai chân gác lên một chiếc ghế khác.
Trên đầu, một chiếc quạt quay tít làm nhấp nhô, phập phồng làn vải mỏng. Dưới chân còn để thêm một chiếc quạt nữa để làn gió vô tình thổi lùa vào ống quần rộng. Biên Hoà, hồi này đang lúc giao mùa. Những lúc gần buổi trưa, trời thật nắng.
Dù có hai cái quạt trên đầu, dưới chân, Tâm và Dương vẫn thấy cô hàng đổ mồ hôi. Những giọt mồ hôi lấm tấm trên cổ, làm thành một khoang ở hai bên nách. Lâu lâu, cô hàng lại dùng tờ báo quạt phành phạch.
– Tao đang có một dự định…
Dương ngạc nhiên nhìn Tâm:
– Dự định gì vậy?…Lấy vợ chăng…?
– Còn lâu…Tao đang phác hoạ một chương trình giải trí lành mạnh. Muốn giải trí thì phải có tiền mà tao với mày đều không có tiền. Tao nghĩ rằng mình chỉ còn một cách giải trí là ghi tên học thêm. Đó cũng là một cách giải trí, một cách giết thì giờ rất linh nghiệm…
– Nhưng thời giờ thì đâu có tội tình gì mà mầy định giết nó?…Mầy không sợ nó báo thù sao?…
Khi mà thời giờ nó đã báo thù, thì thật kinh khủng. Ban ngày, có việc làm còn có thể quên đi. Nhưng ban đêm, sao mà nó dài lê thê. Bao nhiêu tiếng thằn lằn tắc lưỡi trên trần nhà, là phải đếm hết. Mỗi chiếc là kho rơi trên mặt sân là một sự khắc khoải, hành hạ người những đêm dài khó ngủ.
CHƯƠNG II
Dương sợ nhất là những đêm khó ngủ… Thường thì thời gian khó ngủ ấy hay xảy ra trong mùa nóng như mùa này. Những đêm đó, chàng lăn lộn trên giường. Chiếc nệm trũng xuống, hai bên nệm nhô cao, như muốn ôm chặt lấy Dương, và cái hơi nóng âm ỷ từ chiều, chưa được hơi lạnh ban đêm xua đuổi đi hết, cứ như còn lảng vàng trong căn phòng nhỏ và hẹp.
Mỗi lần trở mình, chiếc giường sắt lại phát ra những tiếng kêu nghe ghê tai, như tiếng nghiến răng. Tâm nằm ở giường phía bên kia, rất khổ sở vì những tiếng động ấy, nên đã nhiều lần van nài:
– Tao lạy mày, xin mầy đừng trở mình nữa. Thà mày hét vào tai tao. Tiếng la tiếng hét ấy còn dễ chịu hơn là tiếng giường sắt nghiến vào nhau.
Dương thở dài :
– Nhưng tao khó ngủ quá !
– Mầy không ngủ được rồi mầy bắt tao cũng phải thức như mầy hay sao ? … Biết vậy sao mầy không xin một chút dầu, cho vào khe giường sắt, có phải đỡ làm khổ lỗ tai thiên hạ biết mấy.
Dương biết lỗi của mình, nằm yên mà trong lòng như có một bó lửa âm ỷ cháy. Cái cháy ấy, nếu bùng lên để cho con người thành cây đuốc, chắc còn sung sướng hơn là sự cồn cào rỗng tuếch của chiếc đầu đeo đá. Chàng nằm yên rồi một lát, lại thèm một cái trở mình, để cho lồng ngực dễ thở hơn.
Chàng cố cựa nhẹ mình, mong chiếc giường đừng phát ra tiếng kêu, để Tâm có thể dễ được chìm vào giấc ngủ. Không ngờ lại nghe thấy tiếng Tâm hỏi :
– Mày vẫn chưa ngủ sao …
– Ừ, ngủ không được.
Ngoài phi đạo, tiếng động cơ nổ mạnh. Một chiếc phi cơ đang thử máy. Khu nhà sĩ quan độc thân, cách xa sân đậu phi cơ và phi đạo, nhưng buổi tối, không gian thật yên tĩnh, nên những tiếng động phi trường vẫn văng vẳng vọng âm. Lâu dần, tiếng động ấy trở thành quen thuộc. Tiếng lá rơi trên mái ngói, nghe còn rõ rệt hơn tiếng động cơ. Những cơn gió làm xạc sào xác lá và khua động thân cành.
Phi trường Biên Hòa ngày đó còn nhiều chất âm u. Cây cao bóng cả, che lấp mái ngói rêu phong. Dương cố dỗ giấc ngủ. Chàng đếm thầm. Từ 100 chàng nhẩm đếm liên miên rồi đến khi chợt bừng tỉnh hẳn, chàng mới thấy rằng mình đã đếm gần tới số một ngàn.
Con cắc kè còn sót lại nơi vươn cao su, chợt tắc lưỡi kêu lên vài tiếng. ” Bắc Kỳ, Bắc Kỳ, Bắc Kỳ… ”
Từng tiếng một mang theo một sự may, rủi. Cũng đã có nhiều đêm, Dương đếm từng tiếng may, tiếng rủi cho tới khi con tắc kè tắt tiếng, chỉ còn tiếng ọc ạch đoạn chót, như tiếng của chai nước dốc ngược.
Cũng vui mừng khi thấy tiếng tắc kè dừng lại ở tiếng may. Và cũng lo sợ vẩn vơ, khi tắc kè ngừng lại khi tiếng rủi... Và ngày hôm sau, cứ thấy lo lắng khi phải leo lên phi cơ làm những cuộc dấn thân lửa đạn. Những người phi công như Dương, như Tâm ai cũng có một tí mê tín, vừa đủ để cho mình không thành một thứ… dị đoan như đàn bà.
Sau khi một người bạn chết, những người bạn còn lại thường ngồi nói chuyện với nhau, nhắc lại những lời nói sau cùng của người đã chết, để rồi ai cũng phải nhận rằng đấy là những lời nói gở, lời nói của những người biết rằng mình sắp từ bỏ cuộc sống.
Một con đường chưa được đặt tên trong căn cứ, thằng nào đi qua buột miệng nói ra câu “con đường này sẽ mang tên tao” thì thằng đó đã có điềm báo trước là sắp sửa “về quê”.
Còn nhiều nhiều, nữa. Một anh chàng Trung úy, khoe rằng kỳ thăng thưởng đặc cách nầy, mình sẽ lên Đại úy. Nếu có kẻ đùa dỡn, nói một câu :
– Ừ, mầy sẽ lên Đại úy, nhưng mà là cố Đại úy…
Thì sự đùa rỡn ấy, được kể như một lối đùa vô ý thức. Người nhận được câu nói đó, cảm thấy như bị một ám ảnh khó quên.
Văn minh cơ giới chưa đuổi đi được hết những bóng đen huyền bí. Sợ rằng, khi nền văn minh cơ giới phát triển tới cùng cực, thì sự tôn sùng và nghiên cứu khoa học huyền bí cũng theo đà ấy mà tiến tới những nấc cao hơn.
Không phải chỉ có một mình Dương là có tật sợ ma. Gần như hầu hết những anh chàng phi công khu trục, đều có cái tật đáng yêu đó. Họ đưa ra những lý luận thật vững để bào chữa cho sự “có ma”, mà bao nhiêu người phủ nhận. Cái gì mà ngôn ngữ loài người đã có tên để gọi, thì cái đó chắc chắn phải có. Mà không phải chỉ có ngôn ngữ Giao Chỉ, mới có tiếng để gọi những kẻ chết chưa siêu thoát. Mà tiếng Tây tiếng Mẽo cũng có những danh từ để gọi hồn ma. Như thế thì ma có thật là cái chắc.
Dương cứ trằn trọc trong căn phòng hẹp, trong cái tối đen của đêm khuya cư xá, ý nghĩ vẩn vơ đuổi theo liên tiếp, để cho giấc ngủ không chịu đến. Về khuya cơn nóng đã dịu bớt. Dương nhớ tới những căn nhà phía bên kia, nơi các sĩ quan có gia đình trú ngụ. Một buổi tối, trong căn nhà Đại úy Hoàng phát ra những tiếng khóc nỉ non đến rợn người. Vợ của Đại úy vừa chết.
Những ngày sau, chàng được nghe thật nhiều những chuyện ly kỳ, do bạn bè phịa ra quanh cái chết ấy.
– Mầy có biết không ?… Tháng trước, tao nghe chị Hoàng kể chuyện, tối nào đi ngủ, cứ vừa chợp mắt là thấy một ông cụ già… tới nắm chân kéo, đòi lại nhà… Chị kể lại với anh Hoàng, nhưng anh Hoàng không tin. Thế rồi chị bị chết đấy. Tao chắc là ngôi nhà ấy thế nào cũng có ma…
– Tao lại còn nghe kể, mấy đứa con của anh Hoàng nằm ngủ ở trên giường đàng hoàng, mà sáng nào cũng tìm thấy ngủ ngoài vườn. Ngôi nhà đáng sợ thật.
Dương đã co rúm người lại, khi nghe kể những câu chuyện đó. Thì đã nói rằng, căn cứ này vốn là một đồn điền cao su. Không thiếu gì những kẻ chết oan vì chính sách dã man của Tây và cặp rằng.
Những căn nhà để gia đình sĩ quan trú ngụ, đều xây theo lối cổ, với những chiếc cột to lớn, nền nhà làm trên những cái hầm, mà người ta không hiểu rằng, trong đó còn sót lại bộ xương khô nào không. Chính căn nhà mà Dương và Tâm đang ở, cũng là di sản để lại của Tây.
Tất nhiên là cũng có những căn phòng của một anh chàng phi công Tây nào đó, nằm ngủ một giấc, sáng dậy đi làm một phi vụ rồi bay luôn, không trở về. Chẳng cần nói đâu xa… Cạnh ngay văn phòng của Dương là văn phòng của Bạc, của Xuân ở cũ. Đã một thời kỳ để trống, không ai dám ở vì “sợ thằng Bạc”.
Ngày mà Bạc chết ở Nha Trang, lúc thâu lượm xác kiếm mãi không ra miếng xương đầu gối. Muốn cho bạn bè không dám đi tiểu ban đêm, Dương chỉ cần chờ cho khuva một chút, gõ lạch cạch vào từng chiếc cửa sổ, rồi làm ra giọng rên rỉ:
– Trả cái đầu gối lại cho tao … Tao là Bạc đây!…
Nhưng có một đêm, vừa diễn xuất trong trò đó, Dương bỗng sợ tái người, vì nghe thấy trong phòng có tiếng lên đạn lách cách. Tâm đã trách Dương nhiều, vì tính thích nghịch dại. Chúng nó sợ quá, chúng nó phơ cho một phát thì toi mạng. Rồi Tâm nhắc lại cho Dương nghe chuyện của Đăng.
Một ngày đẹp trời, Đăng thi hành một phi vụ huấn luyện. Hồi đó chiếc phi cơ F8F được mang danh là chiếc quan tài bay, tính tình bất thường cứ như một cô con gái đẹp con nhà giàu. Quay máy ở sân đậu bốn chiếc, thì lúc di chuyển chỉ còn lại hai.
Ra đến đầu phi đạo, thử máy lần chót, thì chỉ còn lại một chiếc. Anh chàng cô đơn ấy, bay một mình thì buồn mà cũng chẳng làm được trò gì, cũng quay đầu lại, về luôn. Ngày nào cũng xảy ra vài ba vụ bay hụt. Lco lên tàu bay rồi lại leo xuống, cứ y như anh chàng thích lấy le, nặng về phần trình diễn.
Chiếc phi cơ ấy, với bánh đuôi thật thấp, đầu ngước lên thật cao, nên lúc di chuyển, chẳng nhìn được gì phía đằng trước. Không hiểu sao mà cũng gây được bão táp trong kỳ… đệ nhị thế chiến.
Hôm đó, Đăng bay huấn luyện để thử máy. Chiếc phi cơ tự nhiên mất dần cao độ, lúc đang bay trên vùng trời Vĩnh Bình.
Cánh quạt quay như nghẹn thở, như có ai bóp chặt cổ họng, rồi cuối cùng, Đăng đành làm một phát cho phi cơ tắm mát dưới dòng sông Vĩnh Bình. Mở được cửa, thoát được ra ngoài, Đăng đứng trên bờ nhìn nước lên, che khuất dần chiếc phi cơ thân yêu, cho đến lúc mặt nước trở lại phẳng lì.
Đăng đã nhìn giòng nước lấp đi con tàu. Người phi công coi chiếc phi cơ như một người yêu. Khi thì ngoan ngoãn, cúi đầu lễ phép vâng lời trước tay ga, cần lái. Khi thì bướng bĩnh, phẫn nộ và ương ngạnh. “Cùng với em, làm những phát ngao du sơn thủy, từ trên cao nhìn xuống non sông cẩm tú, anh cảm thấy yêu nước mình hơn”.
Bây giờ thì chiếc phi cơ đã nằm tắm mát dưới lòng sông, nước đã phủ trùm lên, xóa hết không còn đấu tích. Đăng biết rằng, nếu những người bạn đi tìm kiếm, chắc cũng chẳng thể thấy được. Bay thử máy và huấn luyện cho phi cơ khu trực, bao giờ cũng phải thực hiện trên vùng không phận phi trường, với một chiều cao được xin phép trước.
Nhưng một phút yêu đời, Đăng đã mang phi cơ quá xa. Tuy rằng mới có mười lăm phút bay, nhưng vùng trời nầy đã là Vĩnh Bình. Đăng móc túi, lấy ra tấm bản đồ ướt nhẹp. Ngón tay đưa theo đường bộ. Con đường đi nầy dùng xe đò, ít ra cũng phải mất nửa ngày.
Bây giờ là mười giờ. Đăng nằm dưới gốc cây, gối đầu lên chiếc dù đẫm nước, chờ nghe một tiếng động cơ, chờ nhìn một chấm đen trên nền trời. Ngày đó, trực thăng là một thứ phi cơ quí và hiếm, nên có nhìn thấy Đăng, thì Đăng cũng phải về bằng đường bộ. Đồng quê thật yên tĩnh.
Đăng nghe thấy cả tiếng xè xè của một con chim đang đập cánh để đuổi bắt cào cào Lâu lâu, mới nghe thấy một vài thứ tiếng động cơ từ xa, thật xa vẳng lại rồi tất cả lại chìm vào một sự yên lặng mênh mông.
– Không hiểu ở nhà, chúng nó có nóng lòng không ?…
Đăng thầm hỏi như vậy… Quả thật, ở nhà, tại Phi Đoàn nầy, đang mở cuộc tìm kiếm qui mô. Chiếc F8F, với thời gian bay chừng một giờ rưỡi, nếu quá giờ đó mà chưa thấy trở về, thì cuộc đời anh chàng phi công kể như hạ màn mất rồi.
Hàng chục phi cơ quan sát cất cánh, bay như đan đi, đan lại trên vùng trời. Phòng Hành Quân, điện thoại lên Đài Kiểm Soát để hòi câu nói cuối cùng của Đăng. Vẫn chỉ là thủ tục vô tuyến đàm thoại thông thường. Điện thoại về Saigon, cũng chẳng có gì mới lạ.
Tới buổi chiều cuộc tìm kiếm chấm dứt, và người ta kết luận rằng Đăng đã đi một đường tàu suốt rồi. Nhiều sự thương tiếc, không biểu diễn ầm ỹ, nhưng cũng tạo ra trên khuôn mặt những người bạn, thật nhiều nét buồn.
Nằm chung phòng với Đăng là An, anh chàng phi công thi sĩ. Tối hôm đó, An đi ngủ nhờ, nhưng phòng nào cũng đầy người. Sang tới phòng của Dương và Tâm, An chỉ xin được trải một tấm vải xuống nền nhà, để ngáo một giấc cho đỡ sợ. Một cuộc điều đình xảy ra liền tức khắc. Bằng lòng cho ngủ nhờ, nhưng sáng mai An có quyền mời Tâm và Dương đi ăn sáng. An đau khổ :
– Lâu lâu mới nhờ tới chúng mầy một lần. Hai thằng chúng mầy mà xúm lại ăn sáng, cuộc đời tao sắp tàn trong ngõ hẹp rồi… Thôi thì dù sợ, tao cũng vẫn về phòng ngủ… Thà rằng vì sợ mà thành… đau tim, còn hơn đau tim vì nhìn thấy chúng mầy ăn sáng bằng tiền của tao…
Chừng mười một giờ đêm, chợt một tiếng la hét thất thanh, rồi một tiếng súng nổ chát chúa, cả cái cư xá độc thân hốt hoảng vùng đậy, chạy ra ngoài, thắy Đăng đứng trước cửa phòng, mặt tái mét không còn một tí máu. Tất cả bọn reo lên:
– A, thằng Đăng về !…
– Mầy làm sao vậy ?…
Lúc đó Đăng mới nói được :
– Thằng An nó bắn tao. Tao vừa gõ cửa phòng nó run run hỏi ai đó, tao trả lời, ấy thế là nó hét lên một tiếng rồi bắn ra cửa một phát. May mà không trúng, chứ trúng thì đời tao hết rồi…
Lúc đó An mới mở cửa ra ôm chầm lấy Đăng :
– Tao xin lỗi. Tao tưởng mầy chết rồi, mày là ma về dọa tao chơi. Cũng may tao không ở phòng thằng khác, lúc nửa đêm thức giấc, chợt nhớ rằng chưa khóa nước hay quên cái gì, trở về phòng lấy, thấy mầy nằm chình ình ở trên giường, chắc là tao té xỉu… Tao xin lỗi mày… Mầy có sao không ?… Đã ăn uống gì chưa…
Dương mỉm cười trong bóng tối. Chàng nhớ tới khuôn mặt hốt hoảng và hối hận của An ngày đó, chỉ một tí tẹo nữa, là làm cho thằng bạn mình hóa thành ma. Rồi Dương lại bùi ngùi nhớ tới những người bạn đã chết, lúc còn sống rất sợ ma, nhưng không ngờ bây giờ đã thành ma cả rồi…
Đăng may mắn hơn, thoát được sự vùi xác dưới lòng sông, đi hai ba chuyến xe đò, về tới nhà, tớí cửa phòng, tưởng rằng sẽ được nằm dài, nhớ lại những giây phút hiểm nguy vừa trải qua, không ngờ chút xíu nữa thì được nằm yên nghỉ luôn. Lúc bạn bè xúm quanh, hỏi về những chi tiết của vụ thoát nạn, Đăng kể xong rồi dặn đò :
– Nếu vô phước có một lần nào chúng mày phảỉ hạ cánh ép buộc xuống nước thì nhớ đóng chặt “cockpit” lại. Đầu máy nóng lại thêm có dầu chảy ra; trong vài giây, đầu máy chạm mặt nước, nước sẽ sôi lên ào qua người chúng mày. Lúc đó chúng mày sẽ bị luộc chín như con heo. Vậy tao dặn thêm một lần nữa. Nhớ đóng kín cửa lại…
Từ ngày gặp tai nạn ấy, Đăng bị ngưng bay. Những lần Dương muốn dọa ma đám bạn bè, Tâm lại nhắc tới chuyện Đăng, là để nhắc tới viên đạn ghim vào nền nhà. Dương nói thầm :
– Ấy thế mà đã bốn năm.
Bốn năm trời qua đi thật mau. Dương nhận thấy những ngày trong quân ngũ, chỉ những năm đầu là trôi qua thật chậm. Chiếc kim đồng hồ chạy như nhích đi từng giây, từng phút. Tấm lịch treo trên tường cứ như nằm ì ra đó, chẳng ai thèm bóc đi tờ nào. Rồi sau vài ba năm, những năm về sau, trôi qua thật mau, đúng với câu “bóng ngựa qua cửa sổ”. Vừa mới hôm nào là Tết, mà đã lại thấy người ta sửa soạn ăn Tết. Nhưng đêm nay, đêm khó ngủ của Dương, thời gian sao mà quá dài…
Đèn ngoài đường vụt tắt. Dương nhìn vào chiếc đồng hồ dạ quang, thấy kim chỉ năm giờ sáng. Trời tối đen hẳn lại, một cái tối sẫm khi trời chuyển sang ban ngày. Tự nhiên Dương cảm thấy mệt mỏi ghê gớm. Ngoài đường đã có tiếng xe chạy của những người đi làm sớm. Đằng sau lưng cư xá, những người trong Câu Lạc Bộ đã lục đục thức dậy, sửa soạn để bán hàng buổi sáng.
Anh chàng chủ Câu Lạc Bộ bước đi những bước nặng nề, và ngáp một phát rất ồn ào. Tiếng nước chảy ào ào trong phòng tắm và có tiếng cô Thu, bán hàng ở Câu Lạc Bộ, ca một bản cải lương rất mùi… Dương thiếp đi trong những tiếng động đó. Bên tai chàng còn nghe thấy tiếng động cơ thử máy ở sân đậu và bắt đầu tiếng xe chạy qua đầu nhà rầm rập.
Ông trời hình như có một luật lệ riêng biệt, không muốn cho ai được ngủ những giấc vào khoảng chín, mười giờ sáng. Bởi thế chàng thức dậy.
Chàng vào nhà tắm, mở nước cho chảy mạnh. Nước mát tỉnh táo hẳn người. Tự nhiên Dương bật ra tiếng hát. ” Tại sao mình bết quá vậy nhỉ ? Chẳng thuộc được một bài hát nào cho trọn bài.” Chàng hát lên mấy câu hát, bài nọ chạy sang bài kia một cách rất ư là mất trật tự.
Ông chủ Câu Lạc Bộ mở mạnh cửa sổ:
– Hôm nay, Trung úy Dương có vẻ yêu đời đấy nhé. Lại còn hành hạ thiên hạ bằng cái giọng hát nhà cháy nữa, thì nhất ông rồi…
Dương nói vọng sang:
– Một tô phở, một ly cà phê. Làm sẵn đặt lên bàn, tôi sẽ sang ngay bây giờ. Nhớ bỏ thêm vài ba con ruồi vào phở để đớp cho ngọt …
Tiếng ông chủ quán :
– Có ngay tức khắc!…
Dương mặc quần áo trong có một phút. Uống xong ly cà phê, chàng không biết phải làm gì cho tới mười hai giờ. Bây giờ mà mò lên Phi Đoàn thì “chuế” quá. Chắc là thằng Tâm nó đã phịa ra một căn bệnh gì của mình, ghê gớm lắm, để xin phép cho minh nghỉ hôm nay.
Thế nào cũng được vài ba lời thăm hỏi. Thế rồi lại thấy mình vác cái bản mặt lù lù dần xác tới, khoẻ mạnh như thường lệ, chắc là thằng Tâm sẽ uất ức lắm. Lần sau, chắc chẳng bao giờ xảy ra một sự xin phép nữa. Chẳng nên chơi dại. Và Dương lại có ý định đi khám bệnh, để thử coi mấy anh tu-bíp có được thử thuốc gì chữa cái bệnh mất ngủ của mình hay không…
Lâu lâu, không nhìn thấy cái mặt con heo của anh chàng “tu-bíp”, Dương cũng thấy nhớ. Anh chàng thầy thuốc mang tên con heo ấy, heo từ bộ mặt cho tới bộ lòng.. Khám bệnh cho vợ lính, chưa cần biết là khai bệnh gì, đau ở đâu, cái lệnh đầu tiên, bao giờ cũng là bắt vợ lính cởi áo ra …
Có một lần, ngồi ở nhà một người bạn có gia đình trong căn cứ, Dương và vài ba người bạn nữa, xúm lại nói về đốc tờ Heo. Khi nói về cái màn bắt vợ lính cởi áo, thì bà vợ người bạn tình cờ ở trong nhà đi ra, nghe được câu chuyện, vội phản đối ngay :
– Chẳng bao giờ ông ta bắt tôi cởi áo.
Tâm vốn tàn nhẫn với đàn bà, dù là vợ bạn, phang ngay một câu:
– Chỉ tại bà chị của tôi …”via” quá đấy! Bà thử trẻ lại chừng một chục tuổi nữa coi.
Vợ người bạn vừa già lại vừa xấu, nên quan đốc heo tha cho sự cởi áo khi khám bệnh. Hình như cặp vợ chồng này kết duyên với nhau từ lâu lắm, vì Dương thấy con họ đã lớn. Đứa con gái đầu lòng đã biết giúp mẹ làm bếp. Dương nhiều lúc nghĩ thầm, chắc chỉ cần vài bao gạo nữa, là con bé có quyền làm điên đảo nhiều người mà biết đâu trong đó có cả mình.
Tưởng tượng tới lúc đang chơi với bạn lại thành con rể của bạn, chắc hẳn tình cảnh phải éo le lắm. Lần đầu tiên, Tâm và Dương được bạn mời tới chơi nhà, gặp người đàn bà nầy lại cứ tưởng là mẹ của bạn, nên ăn nói rất mực lễ phép.
Người đàn bà thản nhiên trả lời :
– Nhà tôi vừa mới chạy qua hàng xóm… Mời hai anh vào chơi. Nhà tôi cũng cho biết là hôm nay mời hai anh tới dùng cơm. Con Lan đâu rồi… Rót nước mời hai bác đi con !…
Tâm và Dương nhìn nhau mìm cười ngượng ngập. Từ tiếng bác, đổi được sang tiếng chị, lối xưng hô đã thấy khó khăn. Rồi chừng ít lâu thì quen đi…
REPORT THIS AD
Trên đường đi tới bệnh xá Dương bỗng đổi ý. Chàng lại chẳng muốn đi khám bịnh. Quanh đi quẩn lại, chỉ có ngần ấy thứ thuốc. Anh đốc heo vốn chẳng có thiện cảm gì với dân “pilot”. Lỡ một cái, anh đè ra, lụi cho một phát sưng mông thì thật dại, mà chuyện ấy rất dễ xảy ra. Cứ ngồi mà nhìn anh ta lựa chiếc kim nào lớn nhất, dài nhất ra để xài, cũng đã lạnh xương sống rồi
Ngoài cái tật sợ ma, Dương còn sợ chích thuốc. Cứ nhìn thấy cái kim đâm vào thịt là Dương bỗng thấy ghê ghê. Bệnh viện của lính hơi hiếm nữ y tá. Chỉ toàn là đực rựa, nên bàn tay chẳng mềm mại tí nào. Nhân đi qua một trại gia binh, chàng rẽ vào, đi thơ thẩn dọc theo mấy nhà cũ và thấp.
Trại Gia-binh mang tên Huỳnh Hữu Bạc. Tên ngưòi bạn chàng được đặt cho chỗ nầy. Bạc là người phi công khu trục đầu tiên gãy cánh, nên có nhiều nơi dành lấy tên của người bạc mệnh. Từ một Câu Lạc Bộ đầy chất lộng lẩy, xa hoa, cho tới một trại gia binh nghèo nàn. Mỗi lần đi vào trại gia binh, chàng lại thấy nguội lạnh ý định lấy vợ.
Những gia đình sống trong trại gia binh phần lớn đều nghèo. Ngày đó người Mỹ chưa sang nhiều, nên chưa xảy ra những vụ kiếm ăn dễ dãi. Nhiều gia đình phải kiếm thêm bằng cách nấu cơm tháng, bán hàng và giặt đồ. Những đứa trẻ không người trông nom, đi chơi lủi thủi với nhau như một lũ gà con kiếm ăn nơi vườn rộng. Không ngày nào là không xảy ra những vụ cãi lộn, phần nhiều là tại vì lũ trẻ con.
Chơi với nhau thân thiết đấy, nhưng chỉ vì một cục kẹo, một đồng bạc, là sẵn sàng đấm đá nhau đến sưng mặt.
Vác cái mặt sưng u lên về nhà, được bố mẹ hỏi tới, bao giờ đứa trẻ con cũng phải thuật chuyện bằng cách đổ hết lỗi cho bạn. Ấy thế là những người lớn vì bênh con mình lại quay ra gây lộn với nhau, nhiều khi còn xảy ra những vụ đáng tiếc. Nói về những vụ đáng tiếc xảy ra ưong Trại Gia-binh thì nhiều lắm. Để nước chảy qua nhà nhau, rút trộm của nhau vài thanh củi, để chó ị bậy trước cửa nhà hàng xóm, là cũng đủ gây ra những vụ ẩu đả ác liệt.
Con người vốn ích kỷ, ít khi có thể nhường nhịn được nhau. Trại Gia-binh nào thì cũng thế thôi, dù rằng trại dành cho sĩ quan hay binh sĩ…
Trên một tấm ván để ngoài hàng hiên chật hẹp, Dương thấy bốn người vợ lính đang sát phạt nhau bằng bài tứ sắc. Những ông tướng xanh, tướng đỏ nằm phơi tênh hênh trên chiếu.
Đằng sau lưng một người đàn bà có một đứa trẻ vừa biết bò, đang ngoạc mồm ra khóc. Người mẹ đang dí vào tận mắt những con bài, mặt không lộ vẻ gì động tâm khi nghe con khóc. Vài ba quân bài lại được quặt xuống chiếu.
Rồi có lẽ không chịu nổi với tiếng khóc xa xả ấy, chị nắm lấy cánh tay đứa con, lôi thốc nó lên, thản nhiên vạch ngực ra.
Đứa nhỏ, ôm lấy ngực mẹ, bú một cách tham lam. Người đàn bà lại tiếp tục đánh bài. Dương nhìn một người đàn bà trong đám ấy thấy có nhiều nét quen thuộc.
Chừng vài giây sau, chàng chợt nhớ tới một người con gái, nổi tiếng là hoa khôi của một trường nữ Trung Học, nằm trên một con đường đầy xác lá vàng. Trường của chàng ở gần trường nữ trung học ấy, và ít ra thì trong lớp chàng, cũng có tới hàng chục anh si mê người con gái này…
Ấy vậy mà người con gái ấy bây giờ đã thành một người đàn bà, đang ngồi đây đánh tứ sắc còm, năm cắc một lệnh. Người đàn bà cũng cảm thấy có người nhìn, vừa ngừng mặt lên thì gặp đôi mắt của Dương.
– Xin lỗi Trung úy, muốn kiếm ai ?
Dương cười buồn:
– Chị… Chị… Hằng phải không…?
Người đàn bà sững sờ vì nghe thấy có người gọi tới cái tên cùa mình thời con gái. Cái tên Hằng, đã có một dĩ vãng oanh liệt, đã từng gây điên đảo cho đám học trò con trai.
Từ trường Trưng Vương, quay một vòng tròn, đường bán kính không rộng lắm; đã có tới ít nhất là ba trường con trai. Gần trường lại có khu Đại Học nằm cạnh Viện Bác cổ phía bờ sông, tấp nập ra vào những chàng sinh viên đạo mạo.
Từ mấy năm nay, cái tên Hằng gần như chết ròi. Chỉ còn lại bà Hậu, bà Trung sĩ nhất Hậu, với một ngôi nhà nhỏ trong trại Gia-binh và tới những người bạn gái mới, thuộc đủ thành phần xã hội. Sau vài giây sững sờ, chị chớp mắt :
– Dạ, tôi là Hằng… Trung úy cần hỏi việc chi ?…
– Chị Hằng không nhớ tôi sao ? Dương đây mà ?…
Người đàn bà thốt lên một tiếng reo vui. Khi mà người con gái tên Hằng còn là hoa khôi của trường nữ trung học ; thì Dương là anh họ của một người bạn gái mà Hằng thường lui tới, học chung với nhau trong mỗi kỳ thi lục cá nguyệt. Nhiều lúc Hằng cũng để ý tới anh chàng con trai lừng khừng, lúc nào cũng có vẻ như chán đời ấy.
Rồi những năm mới di cư, còn nằm ở nhà Hát Tây, Hằng gặp lại Dương. Lúc đó thì Dương với Phượng đang gắn bó với nhau.
Hằng lại là bạn thân của Phượng. Không ngờ gặp nhau ở đây. Đã năm năm nay rồi còn gì. Chị Hậu, bây giờ phải gọi Hằng là chị Hậu. Chị Hậu niềm nở:
– Mời anh vào nhà tôi chơi. Nhà tôi ở ngay bên cạnh đây. Mời anh, mời anh vào chơi…
Dương đi theo chị Hậu vào nhà. Vào đến trong nhà rồi, chàng thấy thương những gia đình phải vào sống trong trại Gia-binh. Căn nhà hẹp, kê ngang một chiếc giường, là chỉ còn có một lối đi chật hẹp.
Trong nhà, chỉ có một cái giường là đẹp nhất, có lẽ là kỷ niệm của ngày cưới. Hậu với chàng cũng là hai người bạn khá thân. Hồi trước, khi xuất ngoại, Dương chọn nghề lái tàu bay, còn Hậu đi học nghề thợ máy. Một chuyên viên ở bên Tây về, mà cuộc sống khốn khổ như thế nầy sao ?
Chàng nhìn tấm hình của Hậu và Hằng treo trên tường, vẫn còn giữ được nhiều nét yêu đời của thời mới cưới. Chị Hậu đặt con luôn xuống nền nhà, rồi cười, nói với Dương :
– Nhà chỉ có nước lọc… Anh uống gì, để tôi chạy đi lấy… Mới dọn vào ở trong này được một tháng nay, nên nhà còn bề bộn quá…
Dương từ chối
– Thôi, chị đừng mua gì cả. Nhà Hậu ở đây mà hôm nay tôi mới biết. Có lẽ tôi sẽ tới chơi luôn.
Chi Hậu trợn mắt:
– Anh cũng quen biết nhà tôi ?…
Rồi chị thở dài:
– Tính gàn quá, anh Dương ạ ! Nếu anh ấy mà chịu khó sống như người ta, thì đâu có đến nỗi nghèo quá như thế này. Nhiều lúc thấy chán đời chỉ muốn tự tử, nếu không có thằng bé này.
Dương nhìn theo ngón tay của chị chỉ vào thằng bé đang bò lê la dưới đất. Chú nhỏ thản nhiên, bỉnh ra một đống giữa nhà. Một chú khuyển, không biết nấp ở đâu từ trước, nhảy xổ ra, đớp liền, vừa đớp vừa gừ gừ, như sợ bị ai dành mất phần ăn quí báu. Tới lúc liếm cái nền nhà đã nhẵn bóng, chú khuyển lại rút lui về vị trí cũ, như một tay đánh du kích thiện nghệ.
Chị Hậu bế thốc thằng nhỏ; mang ra phía đằng sau rửa ráy, rồi xin lỗi Dương :
– Anh coi… Tụi nầy sống bê bối quá !..
Trong lúc đó thì Hậu về. Bóng dáng chịu đựng, cúi gò lưng trên chiếc xe đạp. Hậu dựng xe ngoài cửa, nhìn thấy Dương ở trong nhà thì reo ầm lên :
– Trận gió nào thổi mày tới nhà tao thế này ? A, hôm nay quan hai lại đi có một mình. Thằng Tâm đâu rồi ? Mọi khi đi đâu, hai thằng chúng mày cũng dính với nhau như hai vợ chồng. Hôm nay, phải ở lại đây, ăn cơm với tao.
Ở quân chủng này, ít khi xảy ra vụ kỳ thị cấp bực. Đã là bạn bè với nhau thì dù bất cứ ở cấp bực nào ở địa vị nào, cũng vẫn xưng hô như thường lệ. Thằng nào mà muốn biểu diễn oai quyền, thì những thằng đó nên xin ra khỏi quân chủng. Chị Hậu thấy chồng mời Dương ở lại ăn cơm thì vội kéo chồng tới gần thì thầm :
– Ăn uống có gì đâu, mà mời anh Dương ở lại ăn cơm.
Hậu gắt nhặng lên :
– Muốn nói cái gì thì nói lớn lên. Có khách tới nhà, không có lối nói thì thầm. Cần phải có một tí teo lịch sự. Giấy rách cần phải giữ lấy lề…
Anh chàng Trung sĩ nhất này, vẫn còn nhớ những phép lịch sự, học được từ ở bên Tây. Khi có khách lạ trong nhà, không nên nói thì thầm, sợ khách cho là nói xấu. Gửi thư ngỏ, nhờ ai chuyển tay, không bao giờ được dán kín. Thì ở bên Tây về, chỉ hơn người được có thế. Dương hỏi lại :
– Nhưng mà “ma đàm” của mầy nói gì vậy ?…
– Em trách tao đã mời mày ở lại ăn với tao một bữa cơm thanh đạm. Mà thanh đạm thật đấy, Dương ạ. Đã từ mấy tháng nay, chúng tao tập làm phù thủy Ấn độ. Chỉ sợ rằng với “rề-dim” này, chẳng mấy lúc, tao sẽ hơn chúng mày là biết bay mà không cần tới phi cơ.
Câu khôi hài của Hậu nhuốm đầy vẻ cay đắng. Không cần phải hỏi, Dương cũng hiểu được cuộc tình của Hậu và Hằng. Người con gái, hoa khôi của trường Trưng Vương, liệu có chịu đựng mãi được cảnh sống này không ? Hay là rồi đây, sẽ bỏ cái Trại Gia- binh này, chạy theo cái nếp sống xa hoa ?… Dương không tin rằng Hằng sẽ như thế, và Dương cũng không mong như thế. Chàng từ chối :
– Thôi để tao về. Bữa cơm nào tao cũng ăn với thằng Tâm. Không có tao, nó nhớ không ăn được…
– Thì gọi nó tới đây… Lâu lâu họp mặt một bữa. Để tao nhờ một thằng nhỏ đi gọi dùm… Còn cô, chạy sang nhà thằng Luận, kêu nó qua đây, mang cả cơm nhà nó sang đây, ăn cùng một thể luôn. Còn bao nhiêu tiền, mang ra mua lade„ rồi coi xem có thứ gì đớp được thì mua mang về đây…
Hậu ra lịnh như một ông tướng chỉ huy ba quân. Chị Hậu tuân lời, không có một tí tẹo phản đối. Khi nghe hết lịnh, mới cười :
– Cuối tháng thì nhớ chạy tiền đấy nhé !…
Hậu không trả lời, đi ra ngoài cửa, đưa tay vẫy một thằng nhỏ để nhờ đi gọi Tâm. Chàng đưa nó lên cao hướng về căn nhà ba tầng lầu, lẫn trong đám lá cây cao su xanh mướt:
– Thấy cái phòng thứ ba kia không?…Đếm lại cho bác nghe coi, một, hai, ba., đúng rồi. Leo lên phòng đó, hỏi Trung úy Tâm. Nói rằng bác Hậu con mời bác tới nhà, có cả bác Dương ở đây rồi. Nếu thấy bác Tâm chưa về, thì cứ ngồi ngoài cửa mà đợi.. Nhắc lại cho bác nghe. À được rồi, thằng này cũng khá thông minh đấy. Nếu đón được ông Trung úy Tâm về đây, là có quyền bắt năm tì…
Thằng bé được thả xuống chạy đi… Con nít xóm nầy cứ có năm tì, mười tì là sai được hết. Sống ở trong Trại Gia-binh, mới đầu thì khổ tâm và nhức đầu vì những chuyện eo sèo, nhưng rồi dần đần cũng quen đi. Thằng nhỏ được việc thật. Chỉ mới năm phút nó đã ngồi đằng sau xe của Tâm để được chở về. Việc đầu tiên là đòi tiền. Hậu trả cho nó năm đồng, nhưng lại bị đòi thêm :
– Bác còn nợ con năm đồng hôm nọ, sai con trèo lên hái tầm ruộc…
– Tao đâu có ăn tầm ruộc?..
– Bác gái sai con mà…
Hậu phải xùy ra thêm năm đồng nữa mà mặt buồn xo. Không phải buồn vì mất thêm năm đồng nữa, mà buồn vì vợ ăn tầm ruộc. Chắc là có chuyện rồi. Tối nay phải hỏi cho ra lẽ. Mụ mà mang thêm một cái bầu nữa, thì “thật là đại bất hạnh”.
Tâm vào nhà thấy Dương đã ngồi trong đó thì mắng yêu :
– Bố mày !.. Bắt tao xin phép nghỉ, tưởng là đau ốm gì ghê gớm lắm, không ngờ lỉnh đi chơi. Biết vậy, lần sau thì đừng hòng… Quả thực buổi sáng, nhìn thấy cái mặt đỏ bừng của mầy, tao cũng lo lắm, nên về sớm, thăm mầy xem ra làm sao.. Hôm nay, có chuyện gì vậy Hậu ?
Hậu đưa chân lên chiếc ghế ọp ẹp, rung đùi:
– Cứ hễ ăn là có chuyện gì hay sao ?… Tại hôm nay thằng Dương lạc đến nhà tao. Tao bắt nó ở lại ăn cơm. Chỉ có thế thôi..
Luận cũng đã sang, mang theo một chai rượu thuốc và một lọ cà.
Uống rượu với cà là một thú vui của những dân nhà nghèo. Cà với Tâm, Dương, Hậu và Luận, được đặt tên là “Ô-liu Giao Chỉ”. Vừa nhìn thấy những trái cà trắng phau, Hậu mừng rỡ :
– Nếu để cho tao chọn lựa giữa 2 lọ cà và ô liu, nhất định tao sẽ chọn lọ cà. Nhưng này Luận, rượu thuốc của mày được ngâm theo toa thuốc nào vậy ?…
Luận lừng khừng :
– “Nhất dạ lục giao, sinh ngũ tử..”
Tâm và Dương cùng cười vang. Chỉ có Hậu là không cười. Có lẽ Hậu vẫn bị ám ảnh bởi những trái tầm ruộc, và cái bầu của vợ, nếu thực tình Hằng thèm ăn của chua, vì đã mang bầu…
Hậu và Luận cũng là đôi bạn thân như Tâm và Dương. Chỉ khác là Hậu và Luận đều có gia đình, còn hai chàng phi công thì độc thân. Vợ con Hậu và Luận đều dẹp, đã từng là hoa khôi của những trường nữ trung học. Một điều đáng ngạc nhiên của cái quân chủng nầy, là những người đẹp không phải là vợ sĩ quan, mà thường là vợ hạ sĩ quan. Đó cũng là một mối hoài nghi khó giải.
Hậu tự nhiên buồn, vì sợ rằng vợ mình mang bầu thêm một lần nữa. Cuộc sống hồi nầy rất chật vật. Số tiền mượn để làm đám cưới, đã gần bốn năm rồi, mà trả vẫn không xong. Tiền lương mỗi tháng lĩnh về, được tiêu xài có một nửa, còn một nửa phải mang ra trang trải nợ nần. Những ngày mới cưới, Hậu chê nhiều nhất cái Trại Gia-binh, coi Trại Gia-binh như một thứ nhà tù.
Theo ý Hậu, thì căn nhà cũng như con người. Trong một xóm, một dãy phố, những căn nhà phải khác nkau, cũng như hàng trăm người đi trên đường phải có những khuôn mặt khác nhau. Trại Gia-binh thì không thế. Căn nhà nào cũng giống như căn nhà nào, nếu trông ở bề ngoài. Chỉ có bên trong là chưng dọn khác, tùy theo tình trạng tài chính của chủ nhân.
Khi phải rời căn nhà ngoài phố vào ở trong trại, Hậu rất khổ sở nhưng vì tình thế bắt buộc. Ở trong này tiết kiệm được mỗi tháng ngàn bạc tiền nhà, và với tình trạng kiệt quệ như hiện nay, thì một ngàn bạc cũng là một con số đáng kể.
Lúc đó thì vợ Hậu trở về, tay ôm một mớ đồ làm món nhậu cho lũ đàn ông. Hậu tò mò nhìn xuống bụng vợ, thì thấy vẫn không khác gì. Chàng cũng thấy yên chí phần nào, và vui vẻ trở lại:
– Cô mua được gì thế ?
– Mua được cái lưỡi heo và một miếng đầu heo. Chờ đó, em đặt nồi nước lên bếp. Chỉ chừng nửa giờ, là có quyền… đớp.
Dương nhìn điệu bộ lếch thếch của vợ Hậu, bồng con đi mua bán và bồng con xuống bếp. Dương nghĩ thầm rằng chắc Hằng phải yêu Hậu lắm, mới chịu đựng được cái cảnh này. Chàng lảng xuống bếp bồng lấy thằng bé :
– Ra bác bồng một chút, để cho mẹ làm bếp mau lên. Bác đói rồi…
Thằng bé được theo mẹ đi chợ, có lẽ cũng đã được ăn một cái gì no nê rồi, nên dễ tính. Dương bồng nó lên tay mà nó không khóc, đòi mẹ. Vợ Hậu cười:
– Anh yêu con nít như vậy, sao không lấy vợ đi. Tưởng rằng anh với Phượng, lấy nhau từ lâu rồi, trước cả tụi này… Anh với Phượng thì đẹp đôi quá rồi còn ngần ngại gì nữa…
Vì là căn nhà nhỏ, nên những câu chuyện dưới bếp vẫn vọng lên được tới trên nhà. Hậu nói vọng xuống :
– Nó lấy vợ rồi mà cô không biết sao ?..
– Có thật không ?.. Thế thì hôm nào phải giới thiệu cho em biết mới được.,.
– Cần gì phải giới thiệu… Vợ nó là thằng Tâm đang ngồi chình ình một đống ở đây này.
Tiếng cười vang lên trong căn phòng hẹp. Không phải tới bây giờ, thiên hạ mới gọi Tâm và Dương là hai vợ chồng. Hai anh chàng nầy, đi đâu cũng dính với nhau, nên nhiều khi, bạn bè thường đùa rỡn gọi là đôi uyên ương. Nhưng ai là chồng, ai là vợ ?… cả hai đứa đều không thể trả lời. Hậu gọi :
– Dương à, lên đây uống hết ly của mầy đi !..
Dương bồng đứa cháu nhỏ lên nhà. Chàng ực một hơi hết một ly rượu thuốc, và thấy cổ họng nóng ran lên, phải hà một tiếng, như đệ tử lưu linh chính hiệu. Chàng đưa ly cho Luận rót thêm. Vợ Hậu từ dưới bếp bưng theo một tô lớn thịt heo, khói bốc lên nghi ngút. Vợ Hậu vẫn còn thắc mắc về câu chuyện chồng vợ của Dương:
– Tại sao anh với Phượng lại xa nhau vậy ?..
Dương trả lời buông xuôi :
– Tôi cũng không biết nữa.
– Chủ nhật này về Sàigòn, tôi sẽ lại nhà Phượng, hỏi chuyện về anh. Để câu chuyện chẳng có đầu, có đuôi như thế nầy, tức muốn chết. Nếu cần tôi sẽ tác hợp lại cho hai ông bà…
Dương nói đùa :
– Dạ, xin nhờ chị… Rồi sau nầy, vợ chồng có sinh năm đẻ bẩy được cũng là nhờ cái… mồm của chị…
Tiếng cười, tiếng nói như muốn phá vỡ căn nhà, phá vỡ những trái tim con người, thực sự thương yêu nhau, dù rằng gặp nhau chỉ với những ly rượu…
CHƯƠNG III
Những người đã quen biết với Phượng và Dương từ trước, rồi thấy hai người xa nhau, ai cũng nhắc tới Phượng. Thì Phượng đang nằm đây, coi lại những bức hình cũ, kỷ niệm của những ngày tháng đã qua đi rồi..
Phượng nằm trên chiếc ghế sa-lông dài, kéo một tấm nệm để tựa lưng xuống làm gối. Mẹ là chúa ghét những đứa con gái nào trong nhà, nằm trên ghế. Cái ghế là để ngồi. Những chỗ nào đã đặt cái mông lên rồi thì không được đặt cái đầu lên đó…
Nhất là lại nằm ngoài phòng khách. Đang nằm trong một cái thế rất hớ hênh, lỡ có khách vào thì tha hồ mà đẹp mặt. Tiếng đồn ra ngoài thì ế chồng là cái chắc, lại chỉ ở nhà… với mẹ. Phượng cũng muốn ngồi để coi lại mấy tấm ảnh ngày xưa, nhưng mỏi lưng quá đành nằm nghiêng xuống. Rồi thân người cứ đè mãi cho tới lúc phải nằm dài ra cho thoải mái.
Hôm nay mẹ đi thu họ. Chắc là phải tới chiều mới về, nhưng biết đâu, mẹ lại không về sớm. Nghĩ tới chuyện bị mẹ mắng, Phượng chợt thấy rùng mình. Bà cụ có một lối mắng đặc biệt. Khi phạm một lỗi gì, bà cụ không mắng một tội đó, mà lôi những tội đã phạm từ tám mươi kiếp trước ra mà kể. Vừa dọn dẹp vừa nói… Từ nhà trong ra tới nhà ngoài…
Cững may là hồi nầy bà cụ bận chuyện buôn bán nên không có thời giờ để mắng nên Phượng nhiều khi cũng thấy nhớ cái điệp khúc được nhắc đi nhắc lại nhiều lần ấy…
Phượng có đông anh em… Những người anh trai thì đã có gia đình cả rồi, nên sống riêng biệt. Nhà chỉ còn ba cô con gái và một đứa em trai nhỏ. Bố Phượng mất từ ngày em Vinh mới lên ba và Phượng lên tám.
Năm nay, Phượng hăm hai, em Vinh mười bảy. Còn chị Yến, chị Loan, thì ba chị em có vẻ xung khắc. Loan học thật chăm, cứ thi là y như đỗ. Chị Yến và Phượng thì vì làm bài hay quá, nên thi đến bốn lần cái Tú Tài, mà các ông giám khảo chấm bài đều chê, không muốn cho đậu, để cho hai nàng cứ phải thi hoài, để các ông có việc làm.
Tức mình, Yến và Phượng không thèm thi nữa, tới hội Việt Mỹ, ghi tên học tiếng Mỹ chơi. Loan lên Đại Học, thấy mình là sinh viên, có lẽ lớn quá rồi, nên dần dần xa cách. Đã vậy, mẹ lại bênh Loan. Anh Thịnh, ông anh cả của Phượng, thường chế hai cô con gái:
– Hai cô là quan tư, hơn anh hẳn một lon rồi. Anh mới là đại úy…
Phượng hỏi:
– Tại sao em lại là quan Tư ?…
– Chỉ vì cô thi đến bốn lần mà không đậu…
Bị chế như vậy, Phượng tức lắm, và định làm thêm vài chức nữa, cho lên tới quan Năm, quan Sáu. Nhưng rồi nhìn thấy Loan gầy guộc, xanh xao mỗi kỳ thi, Phượng lại thấy nản. Chẳng ăn được cái gì để mà phải đi vào con đường tàn phá dung nhan.
Phượng tự bảo thầm mình như vậy. Chị Yến ngừng lại thì đúng quá rồi. Đã gần ba mươi tuổi, ở nhà, trông nom cơm nước, rồi còn chờ một ông nào tới rước đi… Nhưng ba chị em Phượng cứ sống mãi với mẹ, năm này qua năm khác, và cái ngõ ấy, chẳng thấy bao giờ hân hạnh được đón một chuyến xe hoa…
Trong ba chị em, thì Phượng là một con người quá khổ. Phượng hơi cao, nếu so với một người con gái bình thường. Chỉ có một thước sáu mươi, mà trông lênh khênh như cây tre dựng lên ở đầu miễu… Cũng chỉ vì cái thân hình khác người ấy mà Phượng chịu thua thiệt. Trong lúc mà Yến và Loan có thể mặc chung áo của nhau, dùng chung với nhau cả những thứ đồ lót, thì Phượng được kể như con người cô đơn.
Những thứ mà Phượng dùng, không ai dám mượn. Phượng nhớ có một lần, chị Yến mượn của Phượng cái sú-chiêng, mặc mà phải gài đằng sau lại mấy nấc. Lúc đi vào chợ, chen lấn làm sao mà một phía ngực đằng trước bị lõm vào, rồi nhất định không thèm phồng ra nữa. Thiên hạ thấy vậy, nhìn chị Yến cười… Mãi một hồi sau. Yến mới biết, đi về nhà, tức đến phát khóc mất nửa ngày…
Phượng kéo chiếc bàn nước gần sát vào ghế, đè những tấm hình lên trên đó, rồi lần lượt coi lại. Phượng cũng bùi ngùi, nhìn một tấm ảnh vàng khè, chụp đã từ lâu lắm. Phượng đứng trước cửa nhà thờ, miệng còn mút ngón tay. Tấm hình này, anh Thịnh chụp lén đây. Quê Phượng ở tận mãi Bùi Chu, nơi có tháp chuông cao vút. Mỗi buổi sáng, buổi chiều, tiếng chuông vang dội mãi tới tận xa…
Con gái của xứ này, phần nhiều có đôi mắt đẹp, đôi mắt mở lớn như mắt nai màu biếc… Cũng có nhiều người khen mắt Phượng đẹp. Nhà thờ của xứ Phượng thật cổ kính, với những, cửa sổ ở trên cao, lắp toàn là kính màu xanh, màu đỏ, để giữ bên trong có được không khí trang nghiêm.
Thuở nhỏ, Phượng được mẹ dạy mỗi lần đi qua cửa chính nhà thờ phải quỳ một chân xuống làm lễ, rồi mới được tiếp tục di… Làng Phượng, có một giọng nói đặc biệt địa phương, mà Phượng cứ tiếc mãi rằng mình không sao giữ được.
Tiếng nói đặc biệt của quê Phượng, còn sót lại trong vùng xóm đạo Hố Nai. Lâu lâu một bà cô, một bà thím lên chơi, Phượng cũng phải mất vài giây ngớ ngẩn mới hiểu rõ được câu nói. Nhưng Phượng thấy người nói thứ tiếng đó, khuôn mặt tỏa ra sự vô tư, chất phác, làm cho Phượng phát thèm.
Nếu mình cứ sống mãi quê hương Bùi Chu, Phát Diệm, thì chắc rồi đây, mình cũng lại trở thành một thứ bà cô, bà thím, mỗi lần đi Saigon trở về nhà, mua quà cho con cháu, chỉ mua toàn 1à bánh mì. Còn như ở đây, thì Phượng sợ bánh mì quá. Việc làm bếp được chia phần. Một ngày của Phượng, một ngày của Yến. Còn Loan thì được miễn, vì bận học.
Yến và Phượng uất ức vì sự miễn trừ nầy lắm, nhưng khi mẹ đã bênh Loan, cho Loan được hưởng một quyền lợi đặc biệt như vậy, thì còn ai dám cãi. Nhưng Yến và Phượng lại nhường cho Loan một cái hân hạnh, là dọn đẹp chiến trường. Sau khi ăn, Loan có nhiệm vụ phải lau bàn, rửa bát đĩa nồi niêu. Công việc cũng chẳng nhẹ nhàng gì thành ra được kể như huề cả làng.
Còn về chuyện làm bếp được phân chia, thì cũng xẩy ra lắm chuyện. Phượng đề nghị với Yến, là dùng lối xe hơi đậu ngoài đường, theo ngày chẵn, ngày lẻ, để làm tiêu chuẩn:
– Phượng sẽ làm bếp vào ngày lẻ. Còn chị Yến vào ngày chẵn. Thì là công bằng quá rồi còn gì …
Mới nghe thì có vẻ công bằng lắm, nên Yến bằng lòng ngay. Được vài ngày mới thấv Phượng khôn như con mẹ ranh. ” Khôn như mẹ ranh ” đó là lời của Yến kết tội Phượng.
– Mầy khôn quá Phượng ạ!
– Tại sao chị Yến lại nói là Phượng khôn. Mỗi đứa một ngày, đã được phân chia ra chẵn, lẻ. Chẵn với lẻ thật riêng biệt như đen với trắng, như ngày với đêm…
Yến nổi giận :
– Ai mà nói cho kịp cái mồm của mầy. Những tháng có ba mươi mốt ngày như tháng nầy, tao phải làm bếp hai ngày liền, trong lúc đó thì hai ngày mầy phây phây ra, thật khoẻ cái thân xác. Khôn như con mẹ ranh!…
Yến nói như vậy nhưng cũng chẳng hiểu con mẹ ranh hình dáng nó như thế nào. Cả Phượng cũng vậy. Bị Yến khám phá ra cái sự khôn của mình, luật lệ trên đành phải bãi bỏ. Thay vào đó là cứ việc theo tuần tự. Ngày hôm nay Yến thì ngày mai tới lượt Phượng. Chẳng ai được hưởng một ân huệ nào. Nhưng cứ hôm nào Phượng biết là mẹ không ăn cơm nhà chỉ có bốn chị em, mà lại tới phiên Phượng làm bếp, là Phượng bèn đi một đường đóng kịch :
– Hôm nay Phượng thấy người cứ ngây ngất khó chịu, chẳng muốn ăn cơm…
– Lại giở trò rồi. Ốm đau ra làm sao ? Chê cơm thì chắc là ốm nghén rồi…
Phượng biểu diễn một bộ mặt đau khổ :
– Chị Yến chỉ nghi bậy, Phượng đau thiệt mà ! Không tin thì chị Yến cứ sờ tay lên trán Phượng mà coi. Thật nóng hơn cái lò lửa.
Yến cũng đưa tay sờ lên trán Phượng. Chẳng thấy nóng một tí tẹo nào, dù rằng Phượng đã quệt một khối dầu cù là. Nhưng khi thấy Yến đã sờ tay lên trán Phượng la om sòm :
– Đấy chị Yến coi! Coi chừng không chị Yến phỏng tay. Thôi, chị Yến sai Vinh đi mua bánh mì ăn một bữa. Lâu lâu chúng mình ăn một bữa bánh mì cho đổi khác di. Ăn cơm hoài chán quá…
Ấy thế là cứ lâu lâu một lần, tới phiên Phượng làm bếp là Phượng bắt cả nhà ăn bánh mì cùng với Phượng. Nhà Phượng ở ngay gần chợ nên việc mua bánh mì cũng chẳng nặng nhọc gì… Bà bán bánh mì cũng đã quen mặt với Vinh và quen thân với gia đình Phượng đến nỗi cứ buổi trưa nào mà Vinh đi mua bánh mì lại được bà ta tủm tỉm cười, hỏi một câu :
– Hôm nay tới phiên chị Phương làm bếp phải không…?
Nhiều lúc, Yến cũng tức lắm, nhưng phải tự an ủi rằng, thà ăn bánh mì, còn hơn phải ăn cơm nấu buổi sáng, dùng luôn cho cả buổi chiều. Bữa cơm chỉ thấy có giò, chả. Món canh là một tô nước phở mua của chú Xích. Vinh đã phải phàn nàn:
– Chị Phượng cứ cho ăn giò, chả với thịt quay, chẳng mấy lúc mà em thành cậu ấm con quan. Chị cho ăn cái gì bốc hơi đi chị Phượng !…
Thấy Vinh phàn nàn là không được ăn những thứ bốc hơi, Phượng cũng thấy thương hại. Thằng bé đang tuổi chóng lớn, cần phải đớp kỹ để nhổ giò nhổ cẳng. Nhưng đã nói nhiều lần, Phượng rất ngại xuống bếp, bày vẽ ra nhiều món ăn. Nói vậy, không phải là Phượng vụng về trong việc chế tạo những món ăn cầu kỳ. Phượng rất khéo, nhưng chỉ phải cái tội lười.
Mới đầu Phượng làm bếp vì thấy thích, nhất là khi ăn xong một món gì do Phượng làm, cả nhà xúm lại khen ngon. Về sau nầy thấy rằng chăm chỉ là thiệt vào thân, nên Phượng tới phiên làm bếp là phóng xe “xô-lếch” ra đầu phố, bắt vài chục giò chả và thịt quay. Chỉ còn phải nấu có nồi cơm thì Phượng nấu một bữa thật nhiều, để ăn được cả ngày. Ấy thế là một ngày của Phượng qua đi một cách nhàn hạ.
Phượng lơ đãng cầm từng tấm hình lên coi. Hình như tất cả những người con gái của đất Saigon đều tốn rất nhiều thi giờ trong công việc chụp hình. Riêng Phượng thì có cả đống. Phượng đã định rằng hôm nào đi mua dăm bảy cuốn “album”, bỏ ra hẳn một ngày làm công việc lựa chọn và dán vào tập ảnh. Nhưng cứ đi qua tiệm sách thì lại quên, rồi về nhà mới lại nhớ tới. Thật không còn ai dễ lú lẫn hơn là Phượng.
Yến từ trong bếp đi ra, tay còn cầm đôi đũa. Thấy Phượng nằm đài trén ghế sa-lông, Yến kêu lên :
– Ngồi dậy ! Mầy nằm trên ghế, mà lại nằm ngoài phòng khách, mẹ về bắt gặp là lại ầm nhà, ầm cửa. Con gái gì mà cứ như không có xương sống…
– Thôi mà chị Yến! Phượng mỏi lưng quá!
Yến vẫn lắc đầu :
– Làm cái gì mà mỏi lưng ? Cứ làm như bà lão tám mươi ? Mày thử nhìn cái thân xác mày coi. Dài thườn thượt ra mà còn nằm chinh ình ở đó thì ai mà chịu được. Hai cái cẳng dài như hai cây tre.
Phượng nhìn xuống hai chân mình, cố tạo bộ mặt vui vẻ để có thể ” sống chung hòa bình ” với Yến :
– Ừ, mà hai cái cẳng của Phượng dài thật. Chị Yến cũng thấy là nó dài chứ… “Trường túc bất tri lao “.
Yến bật cười:
– Cái con nhỏ này ăn nói bậy quá…
Nói xong Yến bỏ vào trong bếp. Phượng lại vẫn nằm dài, lật từng tấm ảnh, rồi cầm lên một tấm chụp toàn thể gia đình.
Trong hình, mẹ cười thật tươi. Anh Thịnh, anh Vượng, anh Đạt đứng hai bên mẹ. Còn ở hàng dưới là Yến, Loan, Phượng và chú Vinh, lúc đó còn là nhóc tì. Phượng thấy nhớ lúc gia đình còn đoàn tụ, các anh chưa lấy vợ, đi ở riêng. Có các anh ở nhà, lâu lâu Phượng lại được nghe các anh kể chuyện về bố. Theo lời anh Thịnh kể, thì ngày mới sinh Yến, bố mừng lắm vì là cô gái đầu lòng.
Lúc đó thì bố lại bắt đầu đam mê vào một thú chơi nguy hiểm là hút thuốc phiện. Bởi thế bố mới đặt tên cô con gái đầu lòng là Phi Yến. Nơi bàn đèn mà bố hay lui tới, có treo một bức tranh, vẽ một con chim yến bay trên khu rừng mùa thu, bên cạnh có bốn chữ nho Phi Yến thu lâm, có nghĩa là yến bay rừng thu.
Nhưng bốn câu chữ nho ấy, nếu phát âm theo giọng các ông Tây, không bỏ dấu, thì lại có nghĩa là Phiện thú lắm… Anh Thịnh kể chuyện đó, làm cho Phượng và cả nhà cười, nhưng rồi sau khi cười, lại bâng khuâng nhớ bố
Anh Thịnh còn kể tiếp:
– Về sau này, thấy liên tiếp mẹ phát ra ba cái hĩm, bố cũng chán nản trong việc đặt tên. Tên của Loan và Phượng là do mẹ đặt. Đáng lẽ thì tên của Phượng là Phụng cơ đấy. Nhưng mà anh thấy cái tên Phụng, có vẻ nhà quê quá, bèn nói với mẹ đổi lại là Phượng. Phượng có nghĩa là một loài chim, cũng có nghĩa là hoa mùa hè. Vậy Phượng phải cám ơn anh.
Lúc đó thì Phượng cũng chẳng nghĩ ngợi gì…Tên là Phụng hay là Phượng thì cũng vậy. Nhưng rồi về sau nay, khi đi học, Phượng thấy mấy đứa bạn gái mang tên Phụng, mặt mũi có vẻ đần đần, ít tìm được chất sáng nào trong đôi mắt. Phượng thấy cần phải cám ơn anh Thịnh bằng cách một buổi chiều, Phượng đi chợ làm một bữa cơm tuyệt hảo.
Tiếng Yến vọng gọi từ trong nhà bếp :
– Phượng ơi vào đây chị nhờ Phượng một chút
Phượng nghĩ thầm :
– Ăn nói mà dịu dàng như vậy, thì chém chết cũng sắp sửa nhờ vả chuyện gì đây.
Nghĩ vậy Phượng tảng lờ như chưa nghe thấy gì. Cái gì chứ chuyện giả điếc, thì đó là nghề của Phượng. Lại có tiếng Yến :
– Phượng vào kho dùm nồi cá kho đi. Chị biết là món cá kho với tương, thì không ai qua mặt được Phượng. Có đầy đủ dụng cụ, đã sắp sẵn rồi, chỉ còn chờ Phượng ra tay nữa thôi… Phượng mà để chị kho thì thật là phí mớ cá nầy đi…
Một chuyến tàu chạy ầm ầm qua… Tiếng động cơ xe gắn máy ồn ào một lát, rồi khu phố đó lại trở về với sinh hoạt và tiếng động bình thường. Chuyến tàu mười một giờ đã đi qua…
Nhiều lúc, tới giờ xe lửa đi qua, Phượng cũng náo nức chờ một tiếng còi tàu hú lên tận đằng xa và tiếng bánh xe nghiến trên đường sắt làm rung rinh nhà cửa. Những gia đình ở đây phần nhiều đông con. Khi đọc một chuyện vui cười ngoại quốc, Phượng mới hiểu lý do về mẩu đối thoại chuyến tàu năm giờ sáng.
– Tại sao làng nay đông con nít quá vậy ?.,
– Vì có chuyến xe lửa chạy qua làng lúc năm giờ sáng.
– Xe lửa đâu có dính dáng gì tới con nít ?
– Tại sao lại không. Chuyến xe lửa ấy chạy qua rầm rầm, hú còi ầm ỹ, đánh thức cả làng dậy. Năm giờ sáng mà thức dậy sớm quá, chờ tới giờ đi làm thì hơi lâu. Mà ngủ lại thì rất dễ xảy ra một sự dậy trễ. Vậy thì chỉ có một cách cho thì giờ qua mau là làm chuyện vợ chồng. Bởi vậy con nít ở làng nầy mới đông như thế…
Phượng đã cười nhiều với câu chuyện ấy. Xóm nầy cũng có một chuyến xe Saigon – Biên Hòa chạy qua lúc năm giờ sáng. Có lẽ vậy mà con nít mới đông tới mức ghê gớm. Phượng chưa có chồng nên vào cái giờ ấy, chợt giật mình thức dậy, muốn ngủ lại mà ngủ không được, cảm thấy cô đơn và trống lạnh mênh mông. Ba cô gái nằm trên căn lầu đó, trở mình thở dài mà nghe thấy rõ cả tâm sự của nhau, nặng nề như đeo từng phiến đá…
Căn phòng ba cô gái ở trên lầu, nhìn ra đường có thêm một chiếc ban-công. Mẹ nằm ở phòng ngoài, còn Vinh thì nằm ở nhà dưới, vì Vinh vẫn tự phụ, cả nhà chỉ có một Vinh là đàn ông, tuy rằng chỉ là một thứ đàn ông nhóc tì. Vinh ở dưới nhà, để trông nhà nhưng hôm nào mà buổi tối được nghe kể chuyện ma, thì Vinh lại nhảy lên gác, nằm ở phòng ngoài. Nhiều đêm, ba người con gái, thức rất khuya nói chuyện rì rầm đến nỗi ở phòng ngoài, mẹ phải mắng :
– Mấy đứa nầy sao mà lắm chuyện nói thế ?.. Đi ngủ đi! Nói chuyện cả ngày rồi không chán hay sao mà còn để dành tới tận khuya lơ, khuya lắc…
Mẹ chẳng bao giờ hiểu được tâm sự con gái. Chuyện nói về ban ngày, khác xa với những câu chuyện về ban đêm, nhất là cả ba cô con gái đều chưa có chồng và có đến hàng đống chuyện yêu đương. Loan thì ít chuyện hơn là Phượng và Yến, vì năm nào cũng phải thi, học đến độn cả người. Tuy cùng ghi tên học ở hội Việt Mỹ, nhưng mỗi tuần lễ, Phượng và Yến chỉ học có hai buổi tối.
Tối học cũng chỉ là ngồi chơi đấu láo, để thoát ra một chút ra khỏi không khí quá quen thuộc của gia đình.
Phượng xếp lại những tấm ảnh để bừa bãi trên bàn nước, rồi đi vào trong bếp, làm lành với Yến :
– Chị Yến cần Phượng làm gì, để Phượng làm giúp.
Yến biết rằng khi Phượng đã ngỏ lời làm giúp, thì dù có đuổi, có mắng, Phượng cũng cứ xông vào làm.
Bởi vậy Yến mát mẻ :
– Thôi, tôi chẳng dám nhờ tới bàn tay ngà ngọc của cô. Mời cô lên nhà trên ngồi chơi, khi nào cơm làm xong tôi sẽ lên mời cô ăn.
Phượng cười tươi :
– Chị Yến giận Phượng đấy à ?… Vậy tối nay, chị Yến đi học bằng xích-lô nhé…
Câu nói của Phượng thật công hiệu. Đi đâu, Yến cũng phải dính với Phượng, vì phải nhờ Phượng chở đi bằng xe “xô-lếch”. Chiếc xe xô-lếch, là gia tài của Phượng, là quà sinh nhật của anh Thịnh tặng cho cô em gái út, sau một chuyến đi Mỹ học, để dành được một ít đô la.
Nhưng anh Thịnh đặt ra nhiều điều kiện. Phải cho Vinh mượn. Phải chở Yến, Loan – nếu Yến, Loan cần đi đâu. Nếu mẹ muốn phải chở luôn cả mẹ nữa… Phượng, trong lúc cần có xe để chạy vung vít, đã bằng lòng. Từ lâu, Phượng vẫn ao ước có một chiếc “xô-lếch” mới, để có thể cho “tà áo tung bay khắp các nẻo đường”, thì điều kiện gì mà Phượng lại không chịu.
Nhưng rồi khi lấy xe ở hãng ra, Phượng mới dở trò yêu sách . Hóa đơn xe đề tên Phượng, nên Phượng có toàn quyền muốn làm gì cũng được. Cái gì chớ chuyện đóng kịch thì đó là nghề của Phượng. Cần đến Phượng đưa đi đâu, Phượng chỉ cần biểu diễn một màn nhức đầu, chóng mặt là xong xuôi hết. Cả nhà đều biết như vậy, nên phải xuống nước vói Phượng.
Phượng thận trọng đặt từng con cá vào nồi, rắc một lượt muối lên mỗi lớp cá. Những lát khế thái thật mỏng. Phượng cho thêm một ít riềng, một vài miếng thịt mỡ. Đổ thêm một chút nước, rồi đặt lên bếp. Cái bí quyết về kho cá, Phượng vẫn giữ kín. Vinh đi học về, vừa vào đến nhà, dựng xe, đã chạy ngay xuống bếp hô hoán rất ồn ào :
– Cơm xong chưa, chị Yến, chị Phượng ? Đói quá, đói gần chết rồi…
Yến dịu dàng:
– Làm cái gì mà la lối đữ vậy ? Từ từ một chút nào ! Sao mặt chú đầy mồ hôi, mà tái mét thế kia ?
Vinh mở máy nước đưa cả cái đầu vào :
– Tại cái xe của chị Phượng. Máy nhất định không thèm nổ, em phải đạp bằng chân hoài, mệt qúa!…
Nghe Vinh nói, Phượng thấy hối hận. Nàng đã cho giấy vào chỗ cắm “bu-di”, đề máy không nổi, cho Vinh phải đạp hộc xì dầu ra. Thằng bé cũng kém thông minh thật. Thấy máy không nổ, thì phải biết chứ. Nhưng đâu ai có thể ngờ được kẻ hại mình, lại là bà chị thân mến của mình.
Cậu con trai út của gia đình, vì sống chung với đàn bà con gái, từ nhỏ tới lớn nên không có cái tháo vát và hăng tiết vịt của một anh con trai mới lớn. Ngày Vinh còn nhỏ, chị Yến, chị Loan và Phượng thường tinh nghịch, may quần áo đầm mặc cho Vinh, bắt Vinh để tóc dài rồi dắt đi chơi tới những nhà bạn gái….
Vinh là một trò chơi của các cô con gái. Bộ mặt xinh xắn của Vinh, được “trang bị” thêm mớ tóc dài cắt ” bôm bê “, lại còn được chị Phượng đánh móng chân, móng tay màu đỏ, chẳng khác gì một cô gái xinh đẹp dễ thương nữa mới đau chứ.
Chị Yến, chị Phượng thường dắt Vinh đi tới những chỗ tụ họp toàn là con gái làm cho Vinh quen với mùi phấn son, mùi tóc ngai ngái và lâu lâu, bị những phát ôm thật chặt đến nghẹt thở. Nếu có một cô gái nào lạ, thế nào Vinh cũng biến thành một trò đố vui để… chơi. Vinh thường được chị Yến hay chị Phượng dẫn tới trước mặt cô gái này rồi hỏi :
– Tao đố mầy, em tao là con trai hay con gái ?…
Người con gái lạ ngắm nhìn Vinh, làm cho Vinh thẹn, phải quay mặt dụi vào lòng chị. Cử chỉ đúng là em bé gái, nên cô gái lạ không ngần ngại trả lời :
– Là con gái chứ con trai sao được…
Ấy thế là cả bọn cười vang lên. Chị Phượng kéo cái “xì-líp” của Vinh tuột xuống chân, để lòi “con chim” của Vinh ra. Thì con trai và con gái, chỉ khác nhau ở cái đó. Ảnh hưởng của các chị và mẹ, tính của Vinh cũng có phần nào giống đàn bà. Thuở nhỏ, Vinh thích chơi búp bê, chơi những trò khâu vá, trong lúc những người bạn cùng lứa tuổi chỉ thích đánh bi, đánh đáo, trèo cây, bắt chim…
Có một thời, Vinh còn bắt chước các chị, lúc đi tiểu là ngồi xuống, không đứng thẳng để làm thành cầu vồng như những đứa con trai khác. Vì đi theo các chị nhiều lần, nên Vinh có thói quen, gặp đàn bà con gái là gọi bằng chị.
Ở trong lớp học của Vinh cũng có mười cô con gái, ngồi ở hai đầu. Vinh gọi bằng chị hết. Trong lúc mà những người bạn cùng lớp, quấy phá chọc ghẹo những cô bạn học cùng lớp, thì Vinh lại lễ phép với các cô, một thứ lễ phép làm cho các cô bực mình. Con gái thời nay, còn ngổ ngáo hơn Vinh nhiều lắm. Đến sự nghịch ngợm ở trong nhà, Vinh cũng còn thua xa chị Phượng, hay bị chị Phượng đùa cho nhiều vố rất cay.
Có một lần, Vinh ngủ trưa, bị chị Phượng vẽ râu, rồi đánh thức dậy, nhờ chạy đi mua một tờ tuần báo điện ảnh, với lời hứa là sẽ để cho Vinh đọc trước. Mừng quá Vinh cầm tiền, chạy ra ngoài nhà, phóng xe “xô-lếch” chạy một mạch tới hiệu sách. Bị thiên hạ cười, Vinh nhìn vào tấm gương mới biết và lúc về đến nhà, cũng biểu diễn một màn giận dỗi, y như một nàng con gái chính hiệu. Hôm đó, mẹ đã mắng chị Phượng :
– Mày nghịch dại như thế, vẽ râu lúc nó ngủ, lỡ hồn nó về thấy mặt khác, không nhập vào xác, nó ngủ luôn thì sao… ?
Phượng lè lưỡi ra dài đến cả tấc vì sợ. Nàng vẫn nhí nhảnh hỏi mẹ :
– Thế thì cứ thấy mặt khác, thì hồn không nhập xác nữa hả mẹ… ?
Mẹ Phượng lại kể ra vài ba câu chuyện mà chắc là cũng chỉ nghe người ta kể lại. Gia đình này tuy theo đạo Thiên Chúa nhưng cững vẫn tin những chuyện hồn ma bóng quế. Nhà có mấy mẹ con phần đông là đàn bà con gái, mà buổi tối được nghe chuyện ma thì thật rùng rợn hết chỗ nói. Tối hôm đó, ba chị Yến, Loan, Phượng nằm ngủ ôm chặt lấy nhau.
Phượng được coi là nghịch ngợm nhất nhà… Buổi chiều, người bỏ báo tháng cho nhà, thường đứng ngoài đút tờ báo qua khe cửa. Cả bốn chị em, đều bỏ hết công việc, chạy thi ra phía cửa để cố chiếm lấy tờ báo đọc trước. Phượng nhờ cái chân dài, bao giờ cũng chạy lẹ hơn hết mọi người, nên thường chiếm được độc quyền đọc báo trước.
Bởi vậy, cứ tới giờ đưa báo là Vinh, vì nhàn rỗi nhất nhà, thường ngồi chầu chực ngoài ngoài phòng khách. Tờ báo chỉ vừa ló ra khe cửa, là Vinh đã vồ ngay lấy. Biết được chuyện này, Vinh lại bị Phượng lừa. Đợi tới gần giờ đó Phượng lấy một tờ báo cũ dấu trong người rồi ra đứng ngoài cửa.
Đoán là Vinh đang ngồi chờ báo, Phượng đút tờ báo qua khe cửa. Vinh vồ ngay lấy, nhưng lúc dở ra thì lại là tờ báo cũ…
Lúc đó, Pnưọng mới mở cửa vào nhà, nhìn bộ mặt ngẩn ngơ của Vinh rồi ôm bụng mà cười đến gần ngạt thở. Tuy bị chị Phượng đùa đai nhiều lần, nhưng Vinh yêu quí chị Phượng nhất nhà…
Vinh vừa lau mặt cho tỉnh táo, vừa nói :
– Chị Phượng à, em vừa gặp chị Hằng…
– Hằng nào ?…
– Hằng có ông chồng là lính tàu bay ấy mà…
Phượng reo lên:
– A, con Hằng Tí Nai ! Vinh gặp nó ở đâu ? Trông nó hồi nầy có khá không ? Sao Vinh không mời nó về nhà chơi?
Phượng hỏi dồn dập thêm mấy câu nữa. Tính của Phượng vốn ồn ào như vậy, cả nhà ai cũng biết rõ. Chờ cho Phượng hỏi đến câu chót, Vinh mới tà tà hỏi lại:
– Chị Phượng nói đã hết chưa ? Em sẽ trả lời từng câu. Chị gọi chị Hằng bằng cái tên Tí Nai ngày xưa e rằng không đúng nữa rồi. Nai vàng ngơ ngác ấy bây giờ gần như một thứ nai đồng quê, nhưng vẫn còn giữ được đôi mắt tinh nghịch, chẳng kém gi chị Phượng đâu. Còn việc mời chị Hằng về nhà chơi, thì em chẳng cần mời, chị Hằng cũng về. Nhưng xe “xô-lếch” phải đạp, chị lại còn bồng thêm một cháu nhỏ. Em mà để cho chị Hằng ngồi về đến nhà, thì chắc đôi chân của mình phải xin phép đi chỗ khác chơi….
Vinh ngó đầu vào bếp, nhìn qua các món ăn mà hai bà chị đang sửa soạn, hít vài ba cái; rồi lên nhà trên, vừa đi, vừa nói :
– Em phải nằm nghỉ mệt, để lát nữa còn thưởng thức món cá kho của chị Phượng…
Mọi khi được nịnh một câu, Phượng đã vui cười hể hả. Nhưng hôm nay, Phượng nhe Vinh nói mà hồn cứ như ở mãi tận đâu. Nhắc tới Hằng, là nhắc tới cả một thời xa xôi, mấy năm về trước, ngày mới di cư vào Nam. Bước chân từ một con tàu bồng bềnh, nghiêng ngả, xuống tới đất liền, đoàn người ấy, trông thật tả tơi hoa lá, vì bị mấy ngày sóng biển hành hạ. Ngày đầu tiên, còn lạ với trời, mây, nước, đám con gái còn ríu rít, nói với nhau bằng những lời hót sơn ca.
Qua ngày thứ hai đã có vài ba nàng kềnh… Ngày thứ ba thì những người con gái đẹp của thủ đô ngàn năm văn vật, chỉ còn là những khối thịt được phủ lên người đống quần áo bèo nhèo, sau khi đã trải qua những trận cho cá ăn chè rất kịch liệt. Nghĩ tới đó Phượng lại thấy ghê ghê.
Khi con tàu vào tới cửa sông, cảnh vật hai bên bờ, lướt chạm trước mắt. Đám người ấy hít thở được không khí đất liền, đã như dần hồi tỉnh. Rồi rời con tàu xuống bến, bước đi trên đất mà sao cứ thấy chông chênh, cảm thấy đất ở dưới chân mình như không được vững. Đoàn người đứng tụ tập dưới đất, gia đình nào đứng vào gia đình đó, kiểm soát lại người, đồ vật, rồi lếch thếch xếp hàng lãnh tiền như một đám hành khất chính hiệu.
Trong đám người đó có gia đình Phượng, gia đình Hằng và còn nhiều, nhiều lắm. Thnh thoảng, gặp lại nhau, nhắc với nhau vài ba kỷ niệm rồi lại thấy bâng khuâng….
Bây giờ thì mỗi người con gái có một nếp sống riêng. Có người đã chết như Diệu, nàng ca sĩ thơm mát như trái xoài tượng miền Nam.
Diệu yêu một nam ca sĩ lớn tuổi. Chàng ca sĩ này, đã một thời là thần tượng của những người con gái học trò thuộc cỡ tuổi của Phượng, của Hằng, của Diệu. Khi Diệu cũng đã trở thành ca sĩ, được gần thần tuợng của mình, ấp ủ thương yêu từ những ngày còn thơ ấu, thì nhất định tình ái bắt buộc phải xảy ra.
Người đàn ông vốn tham lam. Có được một đứa con gái thơm như thế, ngã vào vòng tay, ai mà ngu dại từ chối. Chàng ca sĩ đã phát cho Diệu một bụng, lại còn bị vợ chàng ca sĩ, là một nghệ sĩ của đài phát thanh, tới đánh ghen nên sau một phút chán đời, Diệu tự tử… Ngày đó bạn bè di cư, sống chung nơi nhà hát Tây, đã tụ họp đông đủ nhất để đưa đám Diệu. Nước mắt đã thấm ướt hết khăn mùi xoa, ướt hết những vạt áo dài.
Nhớ lại những ngày sống ở nhà hát Tây, là nhớ lại một quãng đời nghèo mà vui. Buổi chiều, lũ con gái mượn được chiếc xe đạp, bèn đưa nhau ra đường giữ cho nhau tập đi xe. Cô nào cũng biểu diễn màn té xe đến vài ba phát. Đầu gối, khuỷu tay, còn lờ mờ vết sẹo, là kỷ niệm những này mới di cư, tập đi xe đạp. Đám con trai buổi chiều cũng đứng vỉa hè, bên đường, phì phèo điếu thuốc lá, tập làm người lớn. Mỗi lần có cô nào đạp xe ngang qua chỗ chúng đứng nói chuyện, thì lại có một tên la lên :
– Đạp khỏe nữa đi. Ngồi thẳng lên, đừng nhích qua nhích lại mà rụng hết.
Có tên khác, nham nhở hơn :
– Tháo cái yên ra mà đạp thì dễ tập hơn.
Nhiều lần Phượng đã ngừng xe xuống chửi nhau với chúng nó một trận. Phượng vẫn có tiếng là ngổ ngáo. May là Phượng đẹp, nên dù có mắng chửi chúng nó thậm tê tới đâu, dùng những danh từ nặng nề đến thế nào chăng nữa, chúng nó cũng chỉ cười.
Phượng gọi lũ con trai hay đứng ở đầu hè chọc gái, là một lũ mất dậy. Không ngờ rằng trong số này về sau cũng có vài ba thằng thi đậu phăng phăng, lúc ra đời, được làm những chức lớn. Người con trai ở vào cái tuổi nào đó, thấy con gái đẹp là nói trêu vài câu, chọc giận một tí, nhưng không phải có tính tình xấu. Chỉ có Phượng là khắt khe như vậy thôi, chứ Yến, Loan, Hằng hay Diệu, thì có bao giờ để ý tới những sự trêu chọc ấy đâu.
Hằng nhiều khi còn đối đáp lại vài ba câu cho vui câu chuyện. Bởi thế, Phượng được lũ con trai di cư, ngụ chung tại nhà hát Tây, đặt tên là Phượng quả ớt. Đặt tên là ớt có lẽ vì Phượng cay quá và có lẽ cũng vì cái màu áo đỏ mà Phưọng hay mặc.
Phuợng hỏi vọng lên trên nhà:
– Chị Hằng có nói chuyện gì nữa không Vinh ?
Vinh trả lời, mà vẫn nằm trên giường :
– Chị Hằng hỏi thăm chị Yến, chị Loan và hỏi thăm về chị Phượng. Em có cho biết số nhà. Chị Hằng hứa là chiều nay sẽ tới chơi. Nếu xe “xô-lếch” không phải đạp, thì em đã đưa chị Hằng về nhà rồi… Cái xe khốn nạn quá.
Phượng lại thấy hối hận vì đã nhét giấy vào đầu “bu-di” xe, để cho Vinh phải đạp. Nếu cái xe cứ chạy phom phom như mọi khi, thì bây giờ, Phượng đã gặp Hằng. Lâu quá, không gặp bạn, Phượng thấy nhớ chúng nó quá. Nhất là gặp Hằng, coi xem người con gái, sau mấy năm lấy chồng, có khác đi cái gì không.
Tính của Phượng vốn tò mò…. Đi dự một đám cưới của người bạn gái, Phượng hay hỏi thăm những chuyện vớ vẩn. Sau đêm tân hôn của vợ chồng người ta, Phượng hay kiếm cớ quên một cái gì ở nhà bạn, để sáng hôm sau trở lại thật sớm. Lúc đó, người bạn gái phải ra tiếp khách.
Phượng nhìn ngắm người bạn gái đó hơi kỹ. Mà lần nào cũng vậy, Phượng thấy những người bạn ấy, từ thời kỳ con gái, bước sang đến thời kỳ đàn bà, đều như khác ngày hôm qua. Phượng đem chuyện này ra nói với chị Yến, chị Loan, lần nào cũng bị mắng, “muốn biết từ lúc con gái tới lúc làm đàn bà, sự khác nhau như thế nào, sao không mang thân ra mà tự thí nghiệm thử xem “.
Chị Yến mắng Phượng câu này, làm cho Phượng đỏ mặt, nhưng cũng thì thầm hỏi lại :
– Thế chị Yến đã thành đàn bà chưa ? …
Chị Yến hét lên một tiếng, tưởng sập đổ cả căn nhà, vớ lấy cái chổi lông gà, định phang Phượng vài cái cho hả tức. Nhưng mà khi Phượng đã chạy thì đố ai mà đuổi được.
Mà cùng chẳng cần phải chạy đâu xa. Cứ chạy ra ngoài cửa, thì cho kẹo, chị Yến cũng không dám vác chổi lông gà, đuổi đánh em ở ngoài đường. Sau khi thấy chị Yến đã hết giận, treo cái chổi lông gà lên cái đinh trên tường, Phượng mới lại tà tà đi vào, cười rất tươi, và nói vài ba câu chuyện về trời mưa, trời nắng.
Cái gì chứ, câu chuyện làm quà, thì Phượng có nhiều lắm. Chỉ cần kể một tai nạn thật rùng rợn của chuyến xe lửa vừa chạy qua, chiếc xe hơi đụng gắn máy, hay chuyện mấy bà bán hàng đánh xé nhau ngoài chợ, cũng đủ để chị Yến hai tay ôm chặt lấy ngực, mắt thao láo nhìn Phượng, rồi dục kể cho hết câu chuyện.
Nhưng chuyện của Phượng, bao giờ đoạn kết cũng vui vẻ, nghĩa là chẳng chết một thằng Tây đen nào cả. Chị Yến thở một hơi thật dài như trút được một gánh nặng :
– Thế mà làm tao hết cả hồn …
Tới lúc đó, thì Phượng biết là câu chuyện đã êm, Phượng chọc tức người ta đã gỉỏi mà dàn hòa lại còn giỏi hơn.
Chị Yến, chị Loan còn hay bị mẹ mắng, chứ Phượng thì mẹ ít khi mắng được, vì chỉ mới mắng được có hai câu thì Phượng đã làm cho bà cụ phì cười, thì còn mắng làm sao được nữa.
Vinh lại gọi :
– Chị Phượng à, chị Hằng có nhắn một tin rất hay cho chị..
– Tin gì vậy ? …
Vinh đã bước ra ngoài, tới gần Phượng thì thầm :
– Chị Hằng nói là đã tóm được anh Dương cho chị Phượng rồi. Anh Dương đang làm tài xế tàu bay, cũng ở một đơn vị với anh Hậu, chồng của chị Hằng. Mấy ngày hôm trước, đã tụ họp ở nhà chị Hằng. Chị Hằng hứa là chiều nay tới chơi, sẽ ngủ lại ở đây để nói chuyện với chị Phượng về anh Dương. Chiều nay, chị Phượng ở nhà, đừng có đi đâu cả. Chị Hằng dặn như thế…
Cả một câu chuyện ngày xưa, hiện ra trước mắt Phượng. Hình ảnh của Dương hiện ra lừng lững, nụ cười ngạo nghễ nhưng rất trẻ thơ, mái tóc buông xõa xuống trán, đôi mắt tinh nghịch nhưng hơi dữ. Dương là một loại con trai bất cần đời, chẳng coi việc gì là quan trọng. Ngày di cư sống nơi nhà hát Tây ấy, Dương là người của tất cả mọi gia đình. Ai mời ăn cơm cũng ngồi xuống, ăn uống rất kỹ, rất tận tình. Một lần Phượng hỏi Dương :
– Gia đình của anh đâu ?…
Dương thản nhiên trả lời :
– Ở ngoài Bắc…
– Thế anh vào đây một mình ?
– Ừ, chỉ có một mình. Tôi xuống Hải Phòng chơi với một thằng bạn. Rồi thấy thiên hạ kéo nhau lên tàu, tôi cũng lên theo. Đến lúc hỏi, mới biết té ra là mình di cư. Đi làm một chuyến chơi xa như thế này, cũng vui.
Nghe Vinh nói đến tên Dương, Phượng thấy choáng váng cả người. Tim tự nhiên đập mau hơn. Lúc cầm đôi đũa để gắp từng con cá, Phượng mới nhận thấy tay mình run run. Chuyện yêu đương đã qua đi lâu quá rồi, mà sao lần nầy nhắc lại, vẫn thấy xốn xang trong lòng. Tình yêu thuở mười bäy mãnh liệt đến như thế đó.
Mới đầu, Phượng chỉ tưởng rằng Dương là một anh chàng vô gia cư sống bê bối như tất cả những anh chàng con trai mà mỗi chiều tập xe đạp, Phượng vẫn thấy đứng ở vỉa hè, đối diện với một nhà hàng lớn, thấy gái đi qua là chọc. Mãi về sau, Phượng mới biết Dương là một sinh viên, đi dậy học ở một trường Trung học tư thục lớn.
Số tiền mà Dương kiếm được không nhiều lắm, nhưng cũng đủ để cho Dương sống một mình thật huy hoàng. Nhưng đã nói, đối với Dương, chẳng có gì là quan trọng. Chàng thường than với Phượng về nghề dạy học :
– Cái nghề này chỉ hợp với đàn bà, con gái. Là đàn ông, làm cái nghề dạy học, không hiểu sao cứ thấy yếu xìu. Nhất là không được sống đúng theo ý mình. Thấy một món ăn ngon bày bán ngoài chợ, nếu ngồi được ngay xuống đó mà ăn thì thú vị biết mấy. Nhưng khi đã làm cái nghề nầy, phải giữ gìn. Ngồi xuống đó ăn thì khoái khẩu, nhưng lại lo ngại học trò. Nếu gặp học trò con gái, thì mất hương vị đi nhiều lắm.
Hình như dưới mắt Phượng, thì Dương chỉ coi có một việc quan trọng nhất là ăn. Khi nào thấy Dương vui vẻ, cười luôn miệng, lâu lâu lại còn đi một đường ca hát, thì thế nào Phượng cũng hỏi:
– Anh Dương chắc là lại khám phá ra một chỗ nào ăn ngon rồi…
Được người hỏi như vậy thì Dương sẽ tâm sự hết mình. Kể cả những câu chuyện nhỏ nhất như buổi đầu tiên đi ăn mì của Dương. Ngày mới vào đây, Dương tới một tiệm mì, kêu một tô mì, được một chú Ba tới hỏi:
– Ông ăn mấy “dắc” ? .
Vì chưa quen với tiếng địa phương, nên Dương tưởng “dắc” là tiếng tây được đọc khác đi một chút, ở chữ một đồng bạc, nên Dương thản nhiên :
– Cho năm “dắc” đi… !
Chú Ba ngạc nhiên nhìn Dương tưởng rằng tên này là một anh mới nhịn đói vài ba ngày ở đâu mới mò về. Chú chẳng cần hỏi lại, vì chiều khách vẫn là nghề của chú Ba. Chú bình tĩnh gọi vào nhà bếp :
– Một tô mì năm ” dắc ” !…
Chú nhấn mạnh con số năm. Lát sau, chú đem ra một tô mì khổng lồ mà Dương tưởng rằng phải mấy người ăn mới hết. Hôm đó, không muốn tỏ lộ cái nhà quê của mình, Dương đã hì hục đớp hết một tô mì năm “dắc” để rồi no cả ngày.
Khi nào Dương có tiền, thường rủ cả bọn, bất kể là đàn ông, con trai, con gái hay con nít, đi ăn một bữa. Có những kẻ hẹp hòi thì cho rằng Dương định trả nợ những bữa cơm ăn ở nhà họ. Nhưng thật ra thì Dương không nghĩ như thế bao giờ. Dương chỉ nghĩ rằng, ăn uống càng đông thì càng vui, nhất là giữa những người bạn đã chia xẻ với nhau những ngày say sóng trên con tàu lênh đênh ngoài biển cả, đi về một phương trời xa lạ.
Tình yêu giữa Phượng và Dương tới lúc nào, Phượng cùng chẳng nhớ rõ được thời gian. Chỉ biết một ngày đi ăn, chỉ có Phượng và Dương, rồi chẳng cần tỏ tình họ ôm lấy nhau thật chặt, bỡ ngỡ hôn nhau, trên băng sau một chiếc tắc-xi dập dình lắc lư, chòng chành như con thuyền tình ái. Cái hôn đầu tiên của đời Phượng đấy !…
Buổi tối hôm đó, trời mưa ào ạt. Bầu trời mù mịt, giăng mây xám, và những cây nước từ trên trời cao đổ xuống, đập vào mái tôn, lên mặt đường, lên nóc mui xe, một thứ âm thanh hỗn độn, chập chùng. Phượng và Dương, hai đứa chỉ có một chiếc áo mưa, đứng nơi hàng hiên, cố tránh những hạt mưa làm ướt lạnh người.
Dương đưa hai ngón tay lên miệng, thổi lên một tiếng còi, vẩy được một chiếc xe tắc-xi. Hai đứa đội mưa, khoác chung nhau một chiếc áo chạy ra xe. Cửa xe mở ra, đóng lại thật vội vã. Chiếc xe lăn trên đường ướt át, đầy những vì sao vỡ tung, và phản chiếu ánh đèn đường mờ ảo. Nhìn xuống dưới nệm xe, hai bàn tay vẫn còn nắm lấy nhau, chưa kịp buông ra…
Trong cái bóng tối mờ mờ, Phượng nhìn thấy đôi mắt Dương sáng long lanh, Phượng cảm thấy như đôi mắt dã thú nhìn người thợ săn mà Phượng được đọc trong những chuyện tả về đường rừng. Rồi như có một tiếng mời gọi văng vẳng vọng lại từ xa xôi, dục dã hai kẻ tìm đến nhau. Động tác tới với hai người cùng một lúc. Hai bàn tay nắm lấy nhau thật chặt, và họ dính với nhau bằng một cử chỉ thật mạnh bạo.
Hai cái mặt đã kề sát gần nhau. Hai ánh mắt bây giờ thật mênh mông sâu thẳm. Cơn mưa lạnh ngoài trời như không còn đủ lạnh để thấm vào người Phượng. Tóc Phượng phủ xòa xuống mặt, và Dương để làn môi của mình phiêu lưu trên từng thớ thịt, từ đôi môi, đôi mắt, ngậm từng sợi tóc. Phượng nhìn qua vai Dương chỉ thấy ánh đèn đường loang loáng, và từng cụm lá me ướt át, buông rủ lướt thướt.
Bàn tay của Phượng bấu chặt lấy lưng Dương, và nghe thấy cả tiếng đập của tim mình. Phượng lại nhắm mắt, mà tưởng rằng trong cái xe ngột ngạt mùi xăng ấy, có nhiều hương thơm của vườn hoa tình ái.
Tiếng hỏi của ông tài xế tắc-xi làm Phượng và Dương choàng tỉnh :
– Cô cậu về đâu ?
Dương thở một hơi dài :
– Cho tôi về đường Ca-ti-na.
Rồi Dương thò tay lên túi áo ngực :
– Em làm nát hết gói thuốc của anh rồi…
Chàng lấy ra một điếu thuốc cong queo, vuốt cho thẳng lại, bịt ngọn lửa đốt thuốc. Trong ánh lửa yếu ót vừa bùng lên ấy, Phượng nhìn thấy khuôn mặt Dương như rạng rỡ hẳn lên.
Khi ánh lửa tắt lịm, Phượng thấy mùi thuốc lá ngai ngái luồn vào da thịt, tẩm vào từng mảng tóc, làm Plurợng ngây ngất cơn say. Từ đó về đến nhà, hai người không nói với nhau một lời nào, và từ hôm đó, họ yêu nhau.
o O o
Nồi cá kho sùi bọt, trào ra ngoài, chảy xuống, đụng vào lửa, thành tiếng kêu sèo sèo. Phượng như vừa thoát khỏi cơn mơ êm dịu.
Những âm thanh ấy, như điếu thuốc hút đến hơi cuối, được Dương ném vào vũng nước.
Cửa ở nhà trên vừa được mở ra. Chắc Loan cũng đã về, nhưng hình như theo sau Loan còn những bước chân khác nữa. Phượng chưa kịp hỏi, thì đã thấy Hằng hiện ra từ khung cửa trông xuống nhà bếp. Yến vừa thấy Hằng đã la lên :
– Ồ kìa, cái con trời đánh ! Mầy hẹn đến chiều, mà sao bây giờ đã vác mặt tới.
Hằng là bạn của cả ba chị em Yến, Loan và Phượng, vì Hằng ở vào cái tuổi khoảng giữa. Hơn Loan một tuổi, hơn Phượng bốn tuổi và kém Yến hai tuổi. Bởi vậy, Hằng xưng mầy, tao với tất cả ba chị cm.
– Tao cũng định buổi chiều tới chơi với tụi mầy. Nhưng sau khi gặp chú Vinh, tình cờ tao gặp con Loan. Nó nói rằng, buổi chiều mày tới chơi thì ít khi gặp chúng mầy lắm, nên tao bèn theo nó về nhà. Lâu lâu, không gặp chúng mầy, tao chớ chúng mầy quá…
Gặp được bạn cũ, Hằng ríu rít nói chuyện luôn miệng. Bây giờ thì cái trại gia binh đầy bóng cây cao su cổ thụ, đầy những lũ trẻ hỗn và bẩn, đã lùi xa trong trí của Hằng, thằng bé thì được Vinh bồng đi chơi. Vì là con út, không có em nên Vinh rất khoái con nít. Mà thằng nhỏ, không hiểu sao cũng thích Vinh, được Vinh bồng đi chơi mà không có môt chút phản đối. Phượng để ngọn lửa thật nhỏ, giữ cho nồi cá kho còn nóng, rồi bảo Hằng:
– Lên nhà chơi đi mầy…
Hằng từ chối :
– Tao ở dưới này làm bếp cho vui. Lát nữa tao ăn cơm mà không giúp được việc gì, ngồi ăn cứ áy náy, mất ngon…
Phượng cười tươi:
– Hôm nay là phận sự của bà Yến. Số của bà ấy thật đỏ. Tao đã làm giúp, bây giờ lại thêm có mày. Nhưng mọi chuyện đã… an bài cả rồi, chỉ còn có việc ngồi đợi cho cơm chín.
Yến trở lại giọng mát mẻ:
– Làm giúp có một chút mà khoe hơi nhiều đấy nhé. Thôi thì mời các cô lên hết trên nhà, để dưới bếp này một mình tôi…
Tính của Yến vẫn khó chịu nhất nhà. Mẹ đã nhiều lần mắng Yến mà Yến vẫn chịu, không bỏ được cái tính ưa nói mát mẻ, như một bà cô già.
Loan từ trên lầu đi xuống, tay vừa cài mấy hàng khuy áo trên ngực, vừa hỏi:
– Hôm nay mẹ không ăn cơm nhà sao chị Yến ? Không có mẹ ở nhà thì chị Yến cho ăn bánh mì cũng được rồi.
Loan và Phượng rất đồng ý ở mục ăn bánh mì. Phượng thì lười làm bếp, còn Loan thì lười rửa bát, đĩa, chùi nồi. Ai cũng chỉ rnuốn được nghỉ ngơi. Nếu không vì những người trong gia đình thì Loan và Phượng có thể ăn bánh mì thay cho cơm hàng tháng cũng được.
Bữa cơm qưa thật vui vẻ vì có Hằng. Chẳng bù với những bữa cơm khác, chỉ có một mình chú Vinh nói chuyện. Vinh thì nhiều chuyện để nói lắm. Chuyện ở trường, chuyện ở ngoài đường, chuyện về những cô con gái học cùng lớp. Nhưng hôm nay xướng ngôn viên của đài phát thanh là Hằng, vì xa vắng bao lâu rồi có nhiều chuyện phải nói. Nhìn thằng bé bò lê dưới sàn gạch đá hoa, Phượng hỏi Hằng :
– Đi đâu mầy cũng mang con đi à ? Không mang con đi có phải khoái hơn không ?…
Hằng cười buồn :
– Nhưng để ở nhà thì ai coi sóc nó ?… Bố nó thì đi làm cả ngày, mà có trông con thì chỉ chừng mười lăm phút là nổi giận tưng bừng. Hàng xóm lại phải điếc tai vì tiếng la hét với tiếng khóc. Tao đã để thử con ở nhà một ngày nhưng rồi lúc về, nghe “ráp-bo” của hàng xóm, thật khổ hết chỗ nói.
– Mầy không có người làm ?
– Sức mấy mà có tiền mượn người làm…
Hằng nói chuyện và trong khi nói chuyện, thêm rất nhiều ngôn ngữ của lính tàu bay, làm cho Yến, Loan và Phượng mất đến vài giây phút ngẩn ngơ, nhưng vẫn thích thú như thường. Hằng tuy than phiền về cái tính gàn dở của chồng, nhưng nhìn ánh mắt âu yếm mỗi lần nhắc đến tên Hậu, Phượng biết rằng Hằng rất yêu chồng.
Phượng nôn nóng chờ Hằng nói chuyện về Dương . Chẳng lẽ lại mang ra hỏi trước. Ánh nắng đã nghiêng chênh chếch, chiếu qua khung cửa sổ, bò dần vào trong nhà. Chiếc sân hẹp nầy chỉ cho một tí nắng vào buổi xế trưa. Hằng bắt đầu nói chuyện về Dương :
– Phượng còn yêu Dương không ?…
Phượng cười :
– Yêu chứ ! Yêu bỏ mẹ đi ! Mày nói với chú Vinh rằng nói chuyện về Dương, làm tao choáng váng cả người.
Hằng nghiêm hẳn mặt lại:
– Tao nói chuyện đứng đắn, thì mày cũng chẳng nên đùa cợt. Nếu mà hai người còn yêu nhau, tao sẽ đóng vai bà mai, làm một phát giảng hòa. Nhưng ngày xưa sao hai đứa lại bỏ nhau ?…
Nhìn bộ mặt nghiêm nghị của Hằng, Phượng buồn cười quá. Nhưng chợt nghe Hằng hỏi tới lý do của sự xa nhau, thì khuôn mặt Phượng bỗng tối hẳn lại. Phượng nhớ câu thơ Xuân Diệu “Tình vêu tới tình yêu đi ai biết ? Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt… ” Một cuộc giận dỗi giả vờ tự dưng biến thành giận dỗi thật, rồi một kẻ một đường…
Vinh hằn học ;
– Em không hiểu sao chị Phượng lại bỏ anh Dương?… Với em anh Dương là nhất rồi. Em chẳng thấy một người bạn trai nào của chị Phượng ra hồn cả…
Phượng quát lên :
– Thằng chó, im ngay ! Chỗ đàn bà con gái người ta nói chuyện, mày là con trai mà cũng leo vào. Ai cho phép mày phê bình bạn tao.
Vinh hậm hực bỏ chén cơm xuống. Chuyện của Phượng và Dương vẫn hấp dẫn Vinh. Phượng nói với Hằng :
– Ngày đó con Diệu đi hát ở đăng-xinh, phòng trà. Tao theo nó đi cho có bạn. Nó cứ rủ tao đi, nói rằng lúc hát xong về khuya một mình, buồn lắm.
Tao đi theo nó, một phần vì thương nó, một phần thì thích cái không khí mờ ảo của đăng-xinh phòng trà. Mẹ tao cũng mắng nhiều lần, nhưng con Diệu đến tận nhà xin phép. Cứ ngồi dài người ra chờ nó, cũng buồn, nên gặp người quen, tao cũng ra nhảy một vài bản cho qua thời giờ.
Dương gặp tao trong lúc đang nhảy nhót tưng bừng. Anh chàng không hỏi gì tao, nói gì với tao, chỉ ngồi ở một góc tối, uống rượu liên miên.Tao thì vì tự ái, cũng chẳng muốn giải thích. Với lại, ngày đó tao còn con nít quá, cứ tưởng rằng, ngày mai gặp lại nhau, cười với nhau là hòa cả làng. Ai ngờ…
Phải rồi, những chuyện xảy ra ở trên đời, nào ai có thể ngờ. Nói đến câu nầy, Phượng nghẹn ngào. Ô kia, Phượng khóc đấy à ?… Một người con gái nghịch ngợm láu lỉnh như Phượng mà cũng khóc sao ?… Thì ra người con gái nào cũng vậy, khi đụng chạm với tình ái cũng chỉ vẫn là một người con gái, dù người con gái ấy là Phượng, đứa con gái mà mẹ thường mắng “chỉ thiếu có cái đó thôi là thành con trai”.
Cái vui cười, đùa rỡn chỉ là bề ngoài, còn con tim đang đập trong bộ ngực xinh xắn kia, cũng có những sợi tơ mong manh, chỉ khẽ đụng là bật lên những tiếng tơ chùng. Hằng hỏi :
– Hình như có một thời, mày tàn phá cuộc đời ghê gớm lắm ? Có một thời, tao đã nghe nổi tiếng Phượng đuôi ngựa.
– Tại Dương cả… Có một thời kỳ, tao la cà khắp các quán rượu, khắp các “bum” với mục đích là gặp mặt Dương. Nhưng không gặp đâu cả. Người con gái có lẽ chỉ yêu được có một lần. Những đứa con trai đến với tao sau này có đứa làm tao khinh bỉ. Rất may là cái thời kỳ lang thang ấy không kéo dài. Chỉ có sáu tháng, rồi tao giật mình nhìn lại quá khứ, rồi sau một đêm không ngủ, tao quyết trở lại cuộc sống cũ. Thắc mắc rất lớn trong tao là không biết Dươg đã đi đâu, mà vắng mặt quá lâu ở Sàigòn.
– À, theo như Dương kể thì lúc đó Dương đi lính, học lái tàu bay ở bên Tây.
Phượng thở dài:
– Thì ra thế !….
Về cuối bữa cơm, không khí như trầm hẳn lại. Chuyến tàu xế trưa lại xình xịch chạy qua, rồi văng vẳng đâu đây có tiếng gà gáy.
Vùng Phú Nhuận nầy là ranh giới của hai vùng thành phố và thôn quê. Những buổi trưa mùa hè, nhiều khi Phượng nghe thấy cả sự êm ả của tiếng gió rì rào luồn vào lùm cây, và lạc lõng bay chập chờn ngoài khung cửa sổ, một cánh bướm vàng hoe. Từ chiếc giường của Phượng nhìn thấy nóc chuông nhà thờ. Nơi đây đã gần như trở thành một xóm đạo, với tiếng cầu kinh rì rầm mỗi buổi chiều.
Tiếng của Loan cắt đứt câu chuyện :
– Các bà đã ăn xong chưa để tôi còn làm phận sự ? Chiều nay, tôi còn mấy giờ học nữa đấy.
Hằng vui vẻ :
– Thôi, để tao làm cho. Mày cứ đi nghỉ, lấy sức đến chiều còn đi học.
Yến và Vinh nhao nhao lên phản đối:
– Không được. Hằng là khách mà !..
Hằng gắt yêu:
– Yêu cầu chúng mày cất dùm tao chữ “khách” đi, nếu như chúng mày muốn lần sau, tao còn tới chơi với chúng mày. Biết được nhà rồi, tao sẽ tới chơi luôn. Chúng mày dùng chữ “khách” có vẻ đuổi tao rồi đấy…
– Nhưng dù sao thì hôm nay cũng là ngày đầu…
– Ngày đầu hay ngày cuối cũng thế!…
Không ai nỡ nhẫn tâm bắt Hằng phải rửa bát đĩa, Loan làm việc dẹp bàn và rửa bát đĩa thật mau. Yến và Vinh đã bỏ lên lầu. Phượng vẫn còn ngồi trầm ngâm trên ghế, và Hằng vẫn còn ngồi bên cạnh Phượng. Mọi buổi trưa, Phượng ngủ rất kỹ, nhưng hôm nay, tự nhiên không thấy buồn ngủ một chút nào. Phượng hỏi Hằng:
– Mầy có hạnh phúc không ?…
– Biết thế nào là hạnh phúc ? Vì hạnh phúc không phải là một thứ sờ được, nắm được. Chỉ biết rằng, sống thiếu thốn rất nhiều, nhưng vui. Hậu là một người tốt. Nhưng nếu có tiền thêm một chút nữa thì chắc vui hơn.
Nghe Hằng nói, Phượng mới nghĩ tới những chuyện thực tế chua cay. Những người yêu nhau, ít khi để ý đến chuyện tiền, nhưng khi lấy nhau, thì cuộc đời lại đổi khác. Số người khổ sở, nhưng yêu nhau thì chịu đựng vẫn dễ dàng hơn. Hằng nói tiếp:
– Nếu tao biết như thế này thì ngày cưới chẳng làm linh đình làm chi cho tốn tiền, để đến bây giờ phải è cổ ra mà trả nợ. Nhưng ngày đó lại nghĩ khác. Đời người con gái, chỉ có một lần đi lấy chồng. Hậu cũng nói đến chuyện đó, chuyện tổ chức một đám cưới đơn giản, nhung rồi bị “đòn nước mắt” của tao, đành chịu thua. Nếu ngày đó tao thua, thì bây giờ sống sung sướng và đỡ lo nhiều lắm.
Trong chuyện tình ái, nhiều khi sự thua, lại làm cho con người thoải mái hơn. Chỉ có ở mặt trận tình yêu, là không thể bàn được chuyện thắng hay bại, vì thắng hay bại cũng chẳng vinh dự gì.
Không hiểu Hằng nói đến chuyện thua và thắng với Phượng để làm gì ? Chắc có lẽ Hằng muốn khuyên Phượng nên thua, nên dẹp tự ái lại. Với những người yêu nhau, tự ái chẳng giúp được gì, nhiều khi chỉ đưa tới sự chóng tan vỡ.
Trong phòng, hai người ngồi yên lặng, để chợt nghe hai tiếng chuông đổ ngân rè của chiếc đồng hồ treo tường. Đã hai giờ trưa…
Phượng hỏi :
– Hằng có cần ngủ trưa không ?…
Hằng đưa mắt quanh phòng kiếm đứa con nhỏ nhưng đứa con nhỏ đã được Loan hay Yến đưa lên gác, dỗ cho ngủ rồi. Trong một giây phút cảm động đến rưng rưng, Hằng muốn được bế con về đây, sống mãi với bè bạn ngày xưa. Nhưng còn Hậu thì sao ? Hai đứa không thể sống thiếu nhau. Trông khuôn mặt khắc khổ của Hậu, nhiều khi Hằng cũng ái ngại, nếu bỏ đi chơi tới mấy ngày không về nhà.
Được hàng xóm cho biết là những ngày Hằng đi vắng, tối nào Hậu cũng uống say. Hằng cũng trách Hậu chuyện đó, nhưng Hậu nói rằng không uống say thì không ngủ được. Nhớ đến câu chuyện Phượng vừa hỏi, Hằng trả lời:
– Có bao giờ tao ngủ trưa đâu ? Ngồi đây một lát, nói chuyện với mày cho đỡ nhớ.
Tuy Hằng nói là ngồi đây để nói chuyện, nhưng cả hai đều nghĩ tới Dương. Hằng hỏi tiếp:
– Tại sao ngày đó mày không viết thư cho Dương?,..
– Biết gửi tới đâu mà viết ?… Tao và Dương đều ghét những trò viết thư lẩm cẩm. Với lại hồi đó, tao nghĩ rằng, nếu Dương muốn bỏ mình, thì dù mình có van xin cũng bằng vô ích. Tao chưa tập được tính “chịu thua”. Nhưng lần này, tao sẽ viết thư cho Dương. Mày cho địa chỉ…
– Sao mày không gửi tao để đưa tay cho Dương ? …
– Thôi, không dám phiền tới mày. Có lẽ tao chỉ viết thật vắn tắt và gửi bằng đường bưu điện, để thời gian chờ đợi trả lời lâu hơn một chút. Nếu Dương trả lời còn yêu tao, có lẽ tao hối thúc Dương làm đám cưới trong năm nay. Chúng mày cứ sửa soạn trước mà ăn cưới…
Tiếng trẻ con khóc vang lên ở trên lầu… Có tiếng dỗ dành, tiếng ru bằng một bản ca tân nhạc, rồi tiếp theo còn có tiếng dọa dẫm.
Tiếng khóc mỗi lúc một lớn hơn. Hằng mỉm cười… Thằng bé chắc là chợt giật mình thức dậy, nhìn quanh không có mẹ, rồi lại chỉ nhìn thấy chung quanh toàn người lạ, nên biễu diễn một màn khóc la rất kỹ. Tiếng chân chạy thình thịch xuống thang gác, rồi thấy Yến hiện ra ở khung cửa sổ, vừa thở vừa nói :
– Hằng, lên mà dỗ con mày. Nó khóc, khiếp quá, chẳng làm sao cho nó nín được cả.
Hằng nháy mắt:
– Mày mà không dỗ được đứa con nít cho nó nín hay sao ?… Cứ cho nó bú là nó nín ngay đấy mà. Mày cũng có cái để cho con nít bú, sao mày không dùng mà dỗ nó.
– Lại mày nữa. Một mình con Phượng ưa đùa nham nhở, thêm mày nữa, chắc là loạn nhà lên mất. Thôi đi lên gác, ở đó tâm sự gì mà lòng thòng quá vậy ?…
Hằng uể oải đứng dậy, theo Yến lên gác. Tiếng trẻ con nín khóc liền, khi nhìn thấy mẹ. Có gì đâu, cu cậu đói quá và thèm hơi mẹ nữa. Nhà dưới chỉ còn lại một mình Phượng.
Chung quanh thật vắng lặng và cô đơn, Phượng nhúng ngón tay vào ly nước, vẽ lên mặt bàn đủ các hình tròn, hình vuông. Nhưng rồi chỉ một lát sau, Phượng lại viết tên Dương. Một nỗi buồn mênh mang len vào Phượng thật nhẹ, để thành một tiếng thở dài. Phượng nghĩ tới những dòng thư sẽ viết cho Dương. Có lẽ chẳng cần viết dài. Phượng sẽ viết thật ngắn, chỉ vài hàng.
“Phượng vẫn nhớ tới anh, yêu anh lắm. Phượng thua anh thật rồi. Nếu những giòng này tới được tay anh, Phượng sẽ chờ trong ba tháng. Nếu qua thời gian ba tháng, không được anh trả lời, Phượng coi như anh đã chết. Anh sẽ chỉ còn là một kỷ niệm, một kỷ niệm đau đớn khó quên. Nhưng Phượng chắc rằng anh sẽ trả lời, vì theo như Hằng nói, thì anh vẫn yêu Phượng.
Trời không nỡ chia rẽ những người yêu nhau như anh với Phượng đâu. Phượng sẽ xin với anh, là không nhắc lại những chuyện cũ. Chúng mình trở lại với nhau, hãy coi như mới bắt đầu yêu nhau, như thuở ban đầu yêu nhau. Từ ngày hôm nay, Phượng sẽ tự tay bóc từng tờ lịch, để biết là buổi sáng hôm nay, thời gian đã đi mất một ngày trong ba tháng chờ mong.”
CHƯƠNG IV
Những buổi sáng không phải đi bay, chàng phi công tên An, thường đứng phất phơ ở cửa Phòng Hành-quân, như chờ đợi một ai. Thì chính là chàng đang chờ đợi một lá thư của người yêu.
Thấy người Trung sĩ Bưu tín viên từ đàng xa đi tới, An thấy hồi hộp lạ. Chàng giơ nắm tay ngang đầu, đưa lên đưa xuống, như làm động lệnh, dục dã của cơ bản thao diễn, hối thúc người bưu tín viên đi mau.
Nhưng tiếc rằng, nơi nầy không phải là quân trường. Người bưu tín viên vẫn tà tà, chậm rãi, bước từng bước một, rất khoan thai, rất từ tốn. Nhiều khi, như muốn chọc tức An, người bưu tín viên còn làm ra cái điều ngắm trời, ngắm mây, ngắm cả cái ống gió hãy còn rủ ướt sương đêm, ngắm ngôi lầu gương của Đài Kiểm Soát sừng sững nổi bật giữa phi trường .
Lúc đó thì An thật khổ sở, nhưng không thể làm gì được. Nổi giận với người Trung sĩ Bưu tín viên là một điều tối kỵ. Hắn chỉ cần vài ba ngày không tới, là cũng làm cho An phải khắc khoải, chờ đợi trong cả mấy ngày ấy.
Khi người Trung sĩ bước chân lên bực thềm, An sửa lại bộ mặt, cố lấy giọng tươi cười:
– Chân của cụ đi mà cứ như đếm bước thời gian…
Người Trung sĩ Bưu tín viên cũng cười nháy mắt:
– Già rồi mà, Thiếu úy! Thấy ông có vẻ sốt ruột chờ thư, nhưng đôi chân già không cho phép chạy nhanh. Bước chỉ cần mau một chút là đầu gối văng ra ngoài ngay. Nhưng mà Thiếu úy đọc thư chậm vài phút, hay sớm vài phút thì đã có sao?
Nói chuyện với anh chàng này hơi bực mình đấy…An tự nhủ thầm như vậy, và định bụng rằng sáng ngày mai thấy anh chàng từ đàng xa, không thèm tỏ ra nôn nóng nữa. Nhưng rồi sáng hôm sau cảnh chờ đợi vẫn cứ diễn ra đúng như ngày hôm nay. Sáng nay, An cũng chờ một lá thư. Thư người yêu của An, viết rất đều đặn. Không hiểu sao mà họ nhiều chữ nghĩa đến thế. Ngày nào cũng viết thư, mà viết rất dài.
Những người bạn của An cứ lẩn thẩn nghĩ rằng nếu lấy hết tất cả những lá thư tình của cặp tình nhân này, mang in thành sách, thì cuốn sách ấy phải dầy bằng cuốn tự điển. Ở trong phòng, An có một va-li thật đẹp để giữ tất cả những lá thư. An đánh dấu từng ngày, từng tuần, từng tháng, vì vậy tập thư của An có giá trị như một tập nhật ký tình yêu.
Người Trung sĩ Bưu Tín viên vẫn có một dáng điệu quen thuộc như mọi ngày. Vừa thấy anh ta cầm xấp thư bỏ vào từng hộp thư, An đã hỏi:
– Hôm nay có thư của tôi không?…
– Có là một sự bắt buộc…
Rồi người bưu tín viên thắc mắc:
– Bồ của thiếu úy ở đâu?…
– Ở Sàigòn!…
Người bưu tín viên trợn mắt:
– Ở Sàigòn…? Trời ơi đây tới Sàigòn cách nhau có ba chục cây số, sao không chạy xe về gặp mặt nói chuyện cho đã đời, tội tình gì mà mất thì giờ viết thư cho tốn sức lao động…?
– Thì vẫn gặp nhau luôn.
– Vậy còn viết thư làm chi?
Nhưng rồi người Trung sĩ cười lên hô hố:
– À, tôi hiểu rồi! Gặp nhau thì đâu có nói chuyện. Nói chuyện bằng tay chắc nhiều hơn.
An nổi giận:
– Đừng có bậy bạ! Tôi mà không nể ông già, thì tôi đã tặng ông một cú đấm rồi. Nói chuyện là một chuyện khác. Có nhiều chuyện, chỉ có thể viết cho nhau, kể cho nhau nghe ở trong thư. Ông đã hiểu chưa?…
– Tôi…tôi hiểu rồi!…
Người Trung sĩ Bưu tín viên, tuy rằng trả lời là hiểu rồi, mà kỳ thực, anh chàng chẳng hiểu cái con mẹ gì cả. Tuổi trẻ thật nhiều chuyện rắc rối, lẩm cẩm. Anh ta tưởng lại thời mình bằng tuổi An. Đâu có sự viết lách nhung nhăng như thế này. Hình như mình chưa bao giờ nói chữ “yêu” với ai, kể cả cô nàng mà bây giờ thành mụ gái xề, vợ của mình, vô địch về đẻ.
Mặt anh chàng Trung sĩ Bưu tín viên chợt tươi lên, vì anh ta có một tin, cần phải báo cho An biết:
– Thiếu úy à, hôm nay có chuyện lạ lắm.
– Chuyện gì?…
– Trung úy Dương, Trung úy Tâm đều có thư. Mà lại thư của con gái cẩn thận. Thiếu úy thấy như thế có lạ không?…
Vừa nghe người Trung sĩ Bưu tín viên nói tới đó, An ngạc nhiên tới nỗi phải giật mình. Từ ngày đổi về phi đoàn này, thời gian ít ra là cũng ba năm, chưa thấy bao giờ hai cái thằng lạnh lùng này lại nhận được một lá thư. Điều này thì cả làng, cả nước đều biết rồi. Ấy thế mà bây giờ lại có thư cho Tâm, cho Dương, mà lại là của con gái cẩn thận. Thật là một sự vô lý có thật. An cuống quít hỏi lại:
– Có thật không? Đâu, ông đưa cho tôi coi!
Người Trung sĩ Bưu tín viên đưa cho An hai lá thư. Bao thư màu xanh, chữ viết tròn và ngắn, không viết tắt một chữ nào, với kinh nghiệm của An, thì đúng là chữ của con gái rồi, không thể nào giả mạo. Người đề tên gửi cho Dương là Phượng . Còn tên người gửi cho Tâm là Thư Hương. An nói:
– Phượng và Thư Hương, hai cái tên cùng đẹp. Không hiểu hai thằng này xuất hành hồi nào mà tìm được của thơm thế này…
Hai lá thư dù đã qua bao nhiêu chặng đường, không biết đã bao nhiêu bàn tay cầm tới, vẫn thấy thoang thoảng mùi nước hoa đắt tiền. Những mùi, những hương đó, rất quen thuộc với An.
Chàng có thể gọi tên từng loại nước hoa mà người con gái nào đã dùng, khi chỉ thoáng qua. Cái mùi êm dịu nầy, không thể là con gái con nhà rách. Nếu là con gái nhà rách thì mùi của nước hoa gay gắt, nặng mùi phàm tục.
An hỏi người Bưu tín viên:
– Tôi có thể mang tới cho chúng nó được không?…
– Không được!…
Người Bưu tín viên lắc đầu. Đó là một luật lệ. Không ai được nhận thư hộ ai, vì đã xảy ra nhiều cảnh cười đau khóc hận. Những anh chàng lính tàu bay thường có hàng triệu máu tếu ở trong người. Thấy thư của con gái, gửi cho bạn mình, anh chàng sẽ dùng bàn tay khéo léo của “diệu thủ thư sinh” bóc ra coi lén. Rồi lại dán lại y nguyên như cũ.
Những câu nói, những lời viết trong thư, giữa những cặp tình nhân, thường là lẩm cẩm và ngớ ngẩn. Những anh chàng ấy sẽ trở thành phê bình gia, phê bình văn chương một cách rất ồn ào, rất kỹ lưỡng thảo luận hết về nghĩa đen, nghĩa bóng. Nhiều khi, những lời phê bình ấy, pha chất tục tĩu, và kết quả xảy ra có khi rất đáng tiếc.
Bởi vậy đã có một luật lệ khi bắt đầu làm ra những hộc đựng thư nầy, là khuyến cáo thiên hạ nên mua một cái khóa, và không ai được nhận thư cho người khác. Nhưng vẫn bị những kẻ tinh nghịch lấy que khều ra đọc trộm được như thường.
An phẫn nộ:
– Hộp thư của chúng nó không có khoá. Ông để trong đó thì cũng như không.
Người Bưu tín viên bình thản:
– Nhưng luật lệ đã đặt ra, không thể nào làm trái luật. Thiếu úy có thể báo cho Trung úy Tâm, Trung úy Dương biết để hai ông đó tới nhận thư. Còn Thiếu úy cầm dùm thì quả thực tôi không dám đưa.
Anh chàng phi công tên An, hậm hực quay đi. Mọi khi, chàng được thư người yêu, là mở ra đọc ngấu nghiến, đọc như nhai, như nuốt từng giòng chữ. Nhưng hôm nay, vì hai lá thư của hai thằng Dương và Tâm đã làm cho An ngẩn ngơ. Hai cái thằng lạnh lùng với đàn bà, như hai tảng nước đá, vẫn thằng chế diễu chàng mỗi khi chàng nôn nóng như gà mắc đẻ vì chậm thư, ấy thế mà cũng có thư của đàn bà, con gái gửi tới. Mà lại là con gái thơm như hai cái tên Phượng và Thư Hương, thì cũng lạ.
An lừng khừng đi về phía phòng nghỉ của nhân viên phi hành. Đó là một gian phòng được đặt trên bốn bánh xe, có đầy đủ tiện nghi, một căn nhà lưu động thường thấy ở bên Mỹ. Nắng ở bên ngoài phi đạo đã bắt đầu chói chang. Những giọt sương khuya đã biến đi để lại ở đây chỉ còn nắng và gió. Chàng đẩy cửa bước vào. Hoi lạnh làm mát dịu hẳn.
Dương và Tâm đang nằm dài, đọc truyện kiếm kiệp. Tiếng âm nhạc ở đầu phòng vẳng lên nhè nhẹ. Nơi bàn viết, có vài thằng đang đi những đường xe pháo thật quyết liệt. Bàn cờ có vẻ tới hồi gây cấn, nên mấy kẻ đứng ngoài, im thin thít, không dám mách nước. An ghé nằm xuống một cái giường bên cạnh Dương :
– Mầy có quen cô nào tên là Phượng không?…
Dương bỏ quyển tiểu thuyết xuống, nhìn An:
– Có! Nhưng có chuyện gì vậy?
An không trả lời Dương lại hỏi Tâm:
– Còn mầy có quen ai tên là Thư Hương hay không?
Khi nghe An hỏi đến tên Thư Hương thì phản ứng của Tâm dữ dội hơn Dương nhiều. Thư Hương là em gái Tâm.
Chuyện gia đình của Tâm, thì Tâm đã kín miệng không kể cho ai nghe hết, cả người bạn thân nhất là Dương . Đến bây giờ lại có kẻ hỏi tới đứa em gái của chàng . Tâm ngồi bật dậy mặt lộ vẻ hốt hoảng:
– An, mầy nói gì?….Tại sao mầy biết Thư Hương là em gái tao?…
– Tao đâu biết cô Thư Hương là em gái mầy. Tao chỉ hỏi mầy có quen biết người con gái nào tên là Thư Hương hay không mà. Nghe mầy hỏi lại, tao mới biết. Chẳng có chuyện gì đâu. Mày với thằng Dương, hai đứa có thư. Thư của thằng Dương thì nàng Phượng gửi tới, còn thư của mầy, thì thấy đề ngoài bao thư là cô Thư Hương.
Tâm thở dài một tiếng, lại nằm xuống giường. Lần này, chàng không đọc nổi thêm một giòng chữ nào trên trang tiểu thuyết kiếm hiệp, dù đã tới hồi gây cấn, tả mối tình rất đẹp của Quang Minh Tả sứ Dương Tiêu, một nhân vật quan trọng của Ma giáo, với một nữ đệ tử của danh môn chính phái là Kỷ Hiểu Phù.
“Nghe tin nàng đã chết, Dương Tiêu ngửa mặt lên trời hú một tiếng đau thương. Lá cây rừng thi nhau rơi rụng lả chả chốc lát phủ đầy mặt đất.” Truyện kiếm hiệp mà tả đến như thế thì tuyệt, không còn chất bi thảm nào hơn thế nữa. Nhưng Tâm không đọc nổi, vì chàng tự nhiên thấy nhớ tới gia đình.
Không biết con bé viết gì trong thư? Tâm tự hỏi như vậy. Thì cứ ra ngoài hộp thư, cầm lấy, xé toạc ra, đọc hết lá thư, thì hiểu ngay chứ còn gì nữa. Nhưng chàng cứ nằm đó, trong đầu óc liên miên suy nghĩ. Tại sao mà con bé lại biết được địa chỉ phi đoàn của chàng? Ở nhà, không biết đã xảy ra chuyện gì?…
Chàng không phải là một kẻ bất hiếu, quên công ơn cha mẹ. Ở nhà, cha mẹ của chàng cũng chẳng ghét bỏ gì chàng, mà trái lại nữa là đằng khác. Chàng bỏ nhà ra đi, không muốn về nhà, cũng chỉ vì được cưng chiều quá. Chàng muốn đi vắng vài ba năm, không cho gia đình biết tin tức, để cho sự vắng mặt của chàng được coi là đã quen thuộc với gia đình, rồi mới trở về, xin lỗi tất cả. Chàng nhắm mắt lại, nghĩ lại những ngày xưa.
Lúc đã lớn tồng ngồng rồi mà khi tắm, vẫn bị mẹ ngồi bên cạnh kiểm soát, vì bà mẹ chàng cho rằng, chàng mà tắm thì thế nào cũng còn bỏ sót lại bọt xà-bông ở đằng sau tai. Chàng đã phải năn nỉ, van lạy mẹ nhiều lần, để chàng được sống như những đứa con trai thường, một đứa con trai sắp biến thể, để trở thành một người đàn ông.
Lúc chàng đau ốm, mẹ chàng cuống quít hẳn lên. Bố chàng thì dù trời mưa, cũng xách ô đi bộ tới nhà một ông bác sĩ là bạn của bố, mời tới nhà cho bằng được, để coi bệnh cho chàng, dù rằng cái bệnh ấy chỉ là một hứ cảm mạo xoàng. Sống ở gia đình chàng có cảm tưởng như người mình được chế tạo bằng pha lê, dễ vỡ, không dám đụng chạm mạnh.
Bởi vậy chàng đã quyết định đi xa nhà một thời gian, chọn một nghề thật nguy hiểm, để coi xem mình có còn là một đứa con trai, một thằng đàn ông hay không.
Ở giường bên cạnh, Dương đột nhiên la lên:
– Vô lý!…
Tâm giật mình:
– Mày nói cái gì vô lý?…Đọc truyện kiếm hiệp mà cứ muốn thấy sự có lý trong đó, thì một là mầy nhà quê, hai là mầy “tốc”.
Dương nhăn mặt:
– Tao nói vô lý là chuyện khác. Vô lý là ở cái lá thư của Phượng . Tại sao gần năm năm nay rồi, tự nhiên lại “phang” cho tao một lá thư thế này. Tao nghi thằng An quá.
Dương nghi như vậy vì nghĩ tới tính tinh nghịch của lũ bạn bè. Chúng nó dò la được chuyện tình của chàng và Phượng , dám làm giả mạo một lá thư lắm. Đã nhiều lần, chúng nó dùng đáy mấy lọ thuốc “pê-ni-ci-lin” bôi dầu xe rồi in nhòe nhoẹt lên bao thư, là giả con dấu nhà bưu điện, để đóng lên bao thư giả mạo. Thằng nhận thư tưởng thật, hí hửng bóc ra coi.
Trong thư cũng có những lời âu yếm, và một nơi hẹn nào đó, vào đúng một ngày nghỉ. Được một em gái hẹn hò, tất nhiên kẻ kia không thể bỏ lỡ một cơ hội bằng vàng. Mặc một bộ đồ thật đẹp, phóng xe như bay tới nơi hẹn trước cả nửa giờ rồi bồn chồn ngồi đợi. Em gái chẳng bao giờ tới, vì có hẹn gì với anh đâu. Chỉ có một lũ bạn bè quỷ sứ, đang nấp kín một chỗ, theo dõi một màn độc diễn rất hào hứng và lý thú.
Đợi cho tới khi người phải chờ đợi đã hành hạ cái đồng hồ hơi kỹ, cả bọn mới cười ồ lên, kéo ra, nói cho tên kia biết là nên đi về, vì đây chỉ là một sự đùa dai. Một màn chửi bới được biểu diễn rất kịch liệt, nhiều khi đưa tới sự đấm đá, nhưng rồi cũng huề cả làng. Lũ bạn bè đã từng sống chết với nhau, sống với nhau những ngày nhiều tiền và những ngày đói rách, không thể nào giận nhau được lâu.
Chính Dương cũng đã là thủ phạm của nhiều vụ đùa dai được mệnh danh là “cá tháng tư”. Bởi vậy nên lần nầy, thấy An báo tin mình có một lá thư, người gửi đề ngoài bao thư là Phượng, thì Dương bắt buộc có một tí nghi ngờ. Nhưng còn lá thư của Tâm?….Em gái Tâm, cô nàng Thư Hương, ngay đến cả Dương là người bạn thân nhất, cũng còn không biết, thì cái thằng An thi sĩ làm sao biết được.
Nhất định là Tâm có thư gửi tới từ gia đình. Dương vừa ngồi dậy thì Tâm nói:
– Có ra lấy thư thì lấy hộ tao luôn. Cái thằng An thật tệ. Thấy thư của chúng mình, nó cũng không thèm lấy giúp. Mầy mang hai lá thư mà nặng lắm sao An?…
An cãi:
– Tao cũng đã năn nỉ với lão già phát thư để cầm hộ chúng mầy. Nhưng lão nói tới luật lệ, làm tao chịu thua. Tao có thiện chí, tới bảo cho mà biết, còn trách nỗi gì.
Dương để mặc hai thằng lời qua tiếng lại , mở cửa chiếc “trailer” đi ra ngoài. Hơi nóng phả mạnh vào mặt.
Căn phòng kín, chỉ có tiếng máy lạnh chạy rì rầm, tiếng nhạc êm nhẹ, tiếng nói chuyện vui vẻ, chợt bị những âm thanh sinh hoạt ồn ào của phi trường ùa vào. Phía “hăng-ga” của Công xưởng, tiếng máy khoan và máy cưa, rít lên từng hồi dài chói tai. Một chiếc phi cơ đang thử máy ngoài sân đậu, quay những vòng cánh quạt thật mau, tạo nên tiếng ầm ỹ động cơ.
Sinh hoạt của phi trường thì ngày nào cũng thế. Chàng bước lên bực thềm hè của Phòng Hành Quân. Hai chiếc hộp thư, đề tên chàng và Tâm vẫn bỏ ngỏ, trong đó nằm trơ trẽn lá thư của Phượng và Thư Hương. Không biết Phượng viết gì đây?…Chàng run run cầm lá thứ, vụng về bóc ra xem.
Chất keo của bao thư không chắc lắm, nên chàng bóc ra thật dễ. Chàng mỉm cười, nghĩ tới lúc Phượng thè lưỡi liếm lên chất keo nầy, rồi dán chặt lại. “Nàng đã dùng nước miếng của nàng để đóng kín tâm sự của nàng. Nào thử đọc coi nàng tâm sự gì đây. Rõ thật là rắc rối”.
Một chiếc phi cơ di chuyển qua, anh chàng phi công ngồi trên đó, thấy Dương đang đứng đọc thư, dở trò tinh nghịch, xoay đuôi lại, tống thêm một tí ga cho gió thổi bụi mù tung, rồi lại di chuyển thẳng theo đường cũ. Bụi cát bay cả vào mắt vào mồm Dương. Lá thư tuột ra khỏi tay bay đi, chàng phải chạy theo lượm lại.
Anh chàng kia quay lại, nhe hàm răng trắng nhởn ra cười. Khuôn mặt đen sạm và chiếc mũ bay màu trắng, lấp loáng dưới ánh mặt trời, đã gần tới đỉnh đầu. Dương nắm tay doạ theo:
– Thằng đểu! Lát nữa bay về, thế nào tao cũng đá đít cho mầy dăm bảy phát.
Chàng đọc tiếp xuống dưới. “Phượng chịu thua anh rồi”. Tại sao em chịu thua anh? Chúng mình có đánh nhau, cãi nhau đâu mà tính đến chuyện được thua. Nhưng dù thế nào chăng nữa thì em chịu thua cũng phải. “Con quan đô đốc, quận công, lấy chồng cũng phải gọi chồng bằng anh”. Em chỉ là em Phượng dù cho có là Phượng ớt hiểm, Phượng đuôi ngựa, Phượng áo đỏ cũng chỉ là một đứa con gái. Công lực chưa tu luyện đủ mức hoả hầu.
Dương mỉm cười, lòng chàng lâng lâng như được một cơn gió mát thổi tới, đưa chàng bay bổng vào trong những đám mây màu xanh biếc. Chàng đã tìm lại được Phượng. Chàng chưa mất Phượng.
Rồi thoáng trong một giây, hình ảnh một đám cưới có lũ bạn bè tinh nghịch, có ông Chỉ Huy Trưởng còn rất trẻ mà cố làm ra vẻ đạo mạo cho hợp với cái nón “cát-kết” hoa lá cành, có cô dâu tên Phượng, có chú rể tên Dương . Cũng có những màn ca hát rất lẩm cẩm, và thế nào cũng có vài ba thằng say sưa, lên máy vi âm kể chuyện tục cho cả làng cười chơi. Chàng nói một mình:
– Chiều nay phải tới cám ơn vợ chồng thằng Hậu mới phải dạo làm người….
Dương biết rằng mối tình của chàng và Phượng được nối lại một cách êm đẹp như thế này, là cũng nhờ Hằng. Người đàn bà đã lấy chồng lính, thường muốn bạn gái thân thiết của mình cũng kết duyên với lính.
Đấy không phải là tính ích kỷ, mà chỉ muốn có chị, có em để chạy tới, chạy lui cho vui. Vợ của Luận, đối với Hằng thì cũng thân thiết đấy, nhưng dù sao cũng chỉ mới quen, quen từ lúc lấy chồng. Phượng thì lại khác. Hơn nữa, việc kết hợp giữa Phượng và Dương đối với Hằng được coi như là một bổn phận. Dương đọc lại lá thư.
Cũng chỉ có ngần đó chữ, không thêm được một chữ nào. Nhưng càng đọc, Dương càng thấy như hiện lên trước mặt khuôn mặt đẹp của Phượng, đôi mắt tròn, đen láy mỗi lúc ngạc nhiên, nụ cười thật sáng, thật tươi. Những ngày đầu gặp Phượng, Dương đã thấy khuôn mặt ấy như quen quá. Nghĩ mãi, mới biết rằng Phượng thật giống Đức Mẹ được dựng trong khắp các nhà thờ.
Thấy lá thư của Tâm còn nằm đó, Dương cầm lấy. Đã được Tâm nhờ lấy thư, nên Dương không còn e ngại ở luật lệ. Dương liếc nhìn tên người gửi và giòng chữ đề ngoài bao thư. Cô Thư Hương nầy, chắc cũng nhiều tính nghệ sĩ. Chữ viết chân phương, đều đặn, có một chút gì bay bướm. Tự nhiên Dương thấy giận Tâm.
Có một gia đình, có một cô em gái mà cũng không thèm về thăm. “Cái thằng kín đáo thật. Gần nó cả mấy năm nay, mà chẳng bao giờ được nghe nó kể chuyện về gia đình. Thằng này thật chúa gan.” Dương chợt buồn, nhớ tới gia đình mình, hiện còn đang ở miền Bắc. Nhiều đêm, Dương đã thức giấc vào quãng nửa đêm ra ngoài đầu hè, ngồi hút thuốc cho tới tận khuya, để nhớ nhà, nhớ người thân.
Những đêm đó, Dương cố tìm vì sao Bắc Đẩu đang sáng lập lòe, mà mơ ước ngày nào đó, được mang một cánh chim hoà bình, bay hướng về phía sao Bắc Đẩu, để rồi từng phút, từng giờ, nhìn thấy sao Bắc Đẩu cao dần…Ngày đó chắc còn xa lắm…
Tiếng phi cơ cất cánh, rú lên từ đầu phi đạo. Hai thằng bạn, hồi nãy di chuyển qua mặt chàng, bây giờ mới cất cánh đây. Dương nhìn theo hai chiếc phi cơ, vừa nhấc lên khỏi mặt đất, mấy bánh xe xếp vội vã. Bom đạn mang nặng chĩu dưới cánh…Trận giặc này có vẻ kéo dài còn lâu. Phi trường hoạt động nhộn nhịp với từng loạt phi cơ, mang bom đạn nặng chĩu ra đi, rồi lúc trở về, thênh thang nhẹ nhàng. Chàng bước xuống bực thềm, trở về phòng nghỉ.
Mở cánh cửa phòng, chàng vẫn thấy lại những cảnh cũ. Bàn cờ lại đầy quân. Chắc ván cờ hồi nãy đã kết thúc, hai đối thủ bày lại bàn cờ khác. Máy phát thanh ở đầu giường đã ngưng chương trình nhạc êm dịu và người xướng ngôn viên đang đọc tin chiến sự. Tâm bỏ cuốn tiểu thuyết xuống ngực, nhìn Dương:
– Không phải đồ mạo hoá chứ?
Dương cười:
– Thứ thiệt! Không hiểu nghĩ ngợi gì mà em lại gửi tới một lá thư đòi chịu thua, không dám “thi gan cùng tuế nguyệt”. Em chờ một sự trả lời…
– Mầy có trả lời không?
– Trả lời là một sự bắt buộc.
Tâm cười buồn:
– Như vậy chắc tao mất mầy rồi. Có em thì mầy đi chơi với em, chứ đâu còn đi chơi với tao nữa…
Tâm nói vậy với luyến tiếc thật tình…Những buổi rong chơi, phóng xe không có một mục đích gì, dọc theo bờ sông Đồng Nai, hay những lúc tới nhà hàng À la Plage, đấu tiếng Tây bồi với ông chủ quán, một ông Tây già còn sót lại miền đất này. Từ nay , chắc chẳng còn những buổi tối, ngồi ở nhà hàng, uống cà-phê để nhìn ra ngoài sông nước, ngắm những con thuyền qua lại bên kia sông.
Những buổi chiều, đi về phía núi Bửu Long, rồi dựng xe, xuống ruộng, nói với chú bé chăn trâu mấy câu để cỡi trâu, cho tâm hồn trở lại với thời trăng sao hoa bướm.
Dương chớp mắt:
– Thì có khác gì trước đâu. Trước kia, mình đi chơi hai người, bây giờ thì đi chơi ba người. Thêm Phượng nữa, cũng chẳng hại gì…À, thư của mầy đây.
Chàng móc túi, quăng cho Tâm lá thư. Nhìn mặt Tâm, chàng thoáng thấy có một chút thảng thốt. Khi Tâm bóc lá thư, Dương nhận thấy bàn tay của Tâm còn hơi run. Chàng nghĩ rằng, nếu mà chàng nhận được thư nhà, chắc chàng còn hốt hoảng hơn Tâm nhiều lắm. Tuy vậy, chàng vẫn nói đùa:
– Mày có vẻ cảm động, phải không? Thì ra người hùng, chỉ có thể nói cứng được những lúc khác, còn những lúc như thế nầy thì vẫn yếu đuối như thường ….
Tâm không trả lời, mở lá thư ra. Hai trang giấy viết dày đặc những chữ. Những giòng chữ chạy dài, ngay ngắn như một toán lính đứng xếp hàng duyệt binh, diễn qua trước mắt Tâm. Cô em gái Thư Hương của chàng, đã viết hết chuyện tâm sự của cả mấy năm trong một lá thư…
Tâm đọc những giòng chữ mà nước mắt rưng rưng. Tới những đoạn mà Thư Hương viết cảm động quá, Tâm thấy những giòng chữ ấy mờ đi.
Chàng phải đặt tờ thư xuống, nhắm mắt lại. Dương liếc nhìn sang bạn thì thấy hai giọt nước mắt trào ra ở hai bên đuôi mắt rồi từ từ chảy xuống phía tóc mai…
Người đàn ông mà khóc thì lặng lẽ, không ồn ào như đàn bà. Nỗi buồn của đàn ông, thường đau đớn và thấm thía hơn đàn bà. “Đàn ông nông nỗi giếng khơi, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu” là thế.
Người đàn bà, khóc ồn ào đấy, nhưng mà quên ngay đấy. Nhưng người đàn ông, khi đã phải trào nước mắt, là đã chứng tỏ một nỗi đau canh cánh bên lòng. Có thể là một sự hối hận. Có thể là một sự thương cảm. Cả hai thứ, chỉ có thể có với những người đàn ông đầy ắp lương tâm.
Dương nằm im lặng, kính trọng nỗi buồn của bạn. Tâm đọc tiếp lá thư:
“Biết được địa chỉ của anh, em lặng lẽ viết thư cho anh, không dám cho mẹ biết. Mẹ mà biết được anh chỉ cách xa mẹ có ba chục cây số, thì không có một sức gì ngăn cản được bà cụ chạy lên với anh. Dù không có xe, không có phương tiện nào, bà cụ cũng dám cơm nắm, muối vừng, đi bộ suốt dọc xa lộ, để tới nơi mà anh đang sống. Ngày anh mới bỏ nhà đi, mẹ khóc nhiều lắm, nhưng bây giờ, mẹ không khóc nữa.
“Nhưng em không dám bảo đảm là mẹ đã cạn nước mắt. Gặp anh, mẹ chắc lại biểu diễn một trận mưa tháng bảy. Anh nên về nhà. Anh phải về nhà, sống với bố mẹ. Không khí gia đình bây giờ thật là buồn, thật nản, và rồi đây chắc sẽ buồn nản hơn, và em báo cho anh biết một tin vui: em sắp sửa lấy chồng!”
Tâm để lá thư xuống, nói một mình:
– Thế ra con bé sắp sửa lấy chồng.
– Con bé nào?
Nghe Dương hỏi, Tâm giựt mình, nhìn Dương cười gượng gạo. Đưa bàn tay kéo mạnh lên mắt để lau những giòng nước mắt chưa kịp khô. Chàng không ngờ câu nói ấy mà Dương lại nghe được.
– À, tao muốn nói tới con bé em gái tao. Thư Hương nó sắp sửa lấy chồng…
Chàng nói đến tên Thư Hương với một giọng thật âu yếm. Coi như Dương đã là người của gia đình chàng, đã quen biết với Thư Hương. Dương lại hỏi:
– Mày có mấy anh em?…
– Chỉ có hai anh em. Tao với Thư Hương.
– Thế thì bắt buộc mầy phải về rồi. Chẳng lẽ để cho hai cụ sống lủi thủi với nhau, trong những ngày tháng cuối của cuộc đời như thế này. Con gái, chúng nó có cuộc đời riêng của chúng nó. Khi đi lấy chồng là chúng nó phải lo cho gia đình bên chồng, đâu có thì giờ mà săn sóc tới bố, tới mẹ. Mầy phải về nhà.
Tâm nó bằng một giọng buồn:
– Mầy đuổi tao đấy à?…Có được em Phượng rồi, mầy đâu có cần tới tao nữa. Tao tiếc cái thời hai đứa chúng mình thênh thang, không có một tí bụi trần nào dính dáng vào người…
Dương phản đối ngay:
– Tao không đồng ý mầy nói câu đó. Tao không có gia đình, nên tao biết được những cái đau khổ của sự thiếu tình thương . Mầy thì có sẵn mà không biết hưởng. Gia đình mầy có bạc đãi mầy không?
Tâm thở dài:
– Nếu bạc đãi, ghét bỏ thì sung sướng cho tao biết mấy. Đằng nầy thì trái lại. Tao bỏ nhà đi, vì mẹ tao vẫn cứ tưởng như tao còn bé tí xíu, được tạc bằng pha-lê, chỉ cần đụng nhẹ cũng vỡ. Lớn xác tần ngần ra mà vẫn bị mẹ tắm. Đi đâu mà qua đường, cũng bị bà mẹ dắt tay dẫn đi. Ngày mới vào lính, mầy biết đấy. Tao không ăn được rất nhiều thứ. Thịt mỡ, xào nấu có hành, có tỏi là tao chê. Vì ở nhà, tao đã quen sống kiếp cậu ấm, chỉ ăn giò, chả, thịt rim…Bây giờ, nhờ đi lính tao đớp được hết. Tao lại còn chọn nghề lái tàu bay khu trục này, để thử lại từng con ốc ở trong người, coi đã lỏng lẻo hay chưa?…
Tâm muốn nói, nói thật nhiều về kiếp sống cậu ấm của mình, khi còn là một sinh viên trẻ tuổi. Sống với một ông bố già khoa cử, thèm làm cách mạng nhưng vì già rồi đành sống câm lặng như một cây cổ thụ. Và bà mẹ, đã già rồi, mà còn giữ được vẻ đẹp của một mệnh phụ khả kính thời xưa…
Nhớ tới mẹ, là nhớ tới cả một quãng đời xa xưa thời kỳ thơ ấy, nơi căn nhà rộng lớn gần hồ Trúc Bạch. Căn nhà như một viện bảo tàng, với đầy đủ những thứ đồ cổ. Từ những bức hoành phi, câu đối, cho tới những chiếc tủ chè, sập chân quì khảm xa cừ. Chiếc ghế tràng kỷ lót đá, vào mùa hạ, nằm lên mát lạnh người. Những thứ đó, sau khi di cư đã phải bỏ lại tất cả.
Tâm tiếc nhiều lắm, tiếc từ cái gối da, bố hay tựa tay đọc sách, cái cơi trầu đen, nhẵn bóng của mẹ, cho tới cái tủ đứng, mỗi lần mở, khóa kêu leng keng. Lá thư của Thư Hương đã kéo Tâm trở về với cái quá khứ dịu dàng, đầy tiếng thông reo trưa hè và gió lạnh heo hút mùa đông. Giang sơn của gia đình Tâm xây dựng đã bao nhiêu đời. Giòng họ này không phải là giòng họ đa đinh, mỗi đời chỉ có một người con trai.
Mẹ chàng đã cố tu nhân, tích đức, lễ hết các đền các chùa, để mong cho giòng họ thêm người. Nhưng rồi chỉ có được Tâm, rồi Thư Hương, rồi thôi. Cũng chính vì vậy mà Tâm được quí mến đặc biệt. Mà chính sự qúi mến ấy đã ám ảnh rất nhiều. Ngày còn nhỏ đã học đến lớp nhất rồi mà vẫn được cõng đi học. Lên trung học, đòi mẹ mua cho một chiếc xe đạp mà không được. Đi xích-lô thì chẳng thú vị gì.
Những giờ nghỉ vì giáo sư vắng mặt, hay vì một lý do gì, Tâm được chở trên xe hơi đi chơi quanh Hà-nội. Nhờ đó Tâm mới tập đi xe đạp và tập bơi tại bến sông nhà Bác Cổ.
Có một lần Tâm đã làm cho mẹ xuýt xoa. Một ông bạn của bố tới chơi, dựng cái xe đạp ở đầu nhà. Tâm đã trèo lên, đạp chạy phăng phăng. Mẹ Tâm nhìn thấy giật mình:
– Con tập đi xe hồi nào vậy?….
– Con chẳng cần tập cũng biết đi…
Rồi Tâm khoe với mẹ là mình còn biết bơi nữa. Mẹ Tâm đã ôm chặt lấy Tâm rồi…bà cụ khóc. Từ đấy những lúc Tâm đi học là lúc mẹ ở nhà thấp thỏm không yên. Nếu có thể bắt con ở nhà, hay theo con tới trường, thì chắc mẹ Tâm cũng làm rồi.
– Thế mà bây giờ, mình lại làm cái nghề nguy hiểm này. Nếu bà cụ biết được mình lái tàu bay khu trục, mang bom đạn đi giết người, chắc là bà cụ khóc thét lên được. Nhưng biết làm thế nào, khi bản chất của mình không giống mẹ…
Tại sao mình lại không thể giống mẹ?….Các bà cô, bà dì mỗi lần tới chơi nhà, đều khen Tâm giống mẹ đặc biệt. Cũng có đôi mắt hiền dịu, chớp chớp luôn. Cũng có khuôn mặt trắng trẻo, hai má có những đường gân xanh. Tâm sờ tay lên mặt mình. Chắc bây giờ, những đường gân xanh đã biến mất rồi. Cả màu trắng trên mặt cũng không còn nữa.
Nắng gió quân trường, súng đạn chiến trường đã biến Tâm thành một người khác. Trung úy Tâm, phi công khu trục, không thể là cậu Tâm được người cõng đi học, nhong nhong, ếp ếp trên lưng một anh người làm khoẻ mạnh. Tất cả mọi diễn biến thoáng qua như một sự đổi đời.
Dương hỏi Tâm:
– Mầy thức hay ngủ đấy?
Tâm giật mình, choàng tỉnh. Lá thư của Thư Hương đã rơi xuống đất. Chàng nhặt lên, gấp gọn lại cho vào bao thư, đút lá thư vào túi áo bay.
Dương nói tiếp:
– Đi ăn cơm! Hôm nay tao với mầy trực hành quân nên ăn cơm sớm một chút.
Tâm uể oải:
– Ừ thì đi! Không có gì nản bằng phải đi bay buổi trưa nắng đến cháy lưng áo. Lúc bay ở trên trời thì còn dễ chịu, chứ lúc di chuyển ở dưới đất, cái dù áp vào lưng, cái nón bay ôm chặt lấy tai, nhiều lúc làm tao nóng đến phát điên…
– Thì cũng đành chịu chứ biết làm sao!…
Tâm và Dương đi ra cửa. Nhìn sang An thấy tên phi công này đọc thư của em gửi tới, thỉnh thoảng trên môi lại nở một nụ cười. Cái thằng thế mà sướng! Dương nói vậy, thì được Tâm chỉnh ngay:
– Tụi mầy rồi cũng thế…Tao sợ rằng em Phượng của mầy ít nữa còn viết thư lẩm cẩm hơn con bồ của thằng An nhiều lắm.
Dương cãi:
– Cái đó thì không phải nghề của Phượng. Mày chưa biết Phượng đấy thôi. Lát nữa, lúc chờ cơm, tao sẽ đưa cho mầy coi lá thư của Phượng viết cho tao. Hơn năm năm xa nhau, lúc gửi thư mà chỉ viết vừa đúng một trang giấy. Không thừa, không thiếu một chữ.
Phượng, lúc nào cũng nhắc tới Phượng. Thấy Dương cứ nhắc tới tên Phượng hoài, Tâm muốn chửi một phát. Bao nhiêu năm đi lính rồi, nhưng khi trở về với tình yêu, con người vẫn ngây thơ một cách tức cười. Tâm nghĩ rằng, chắc cặp này nói chuyện với nhau , như các cậu học trò mới lớn, vẫn xưng tên thay cho những tiếng “anh, em” . Nắng đã lên thật chói mắt.
Từ ngoài phi trường thiếu bóng cây, vào tới vùng trong căn cứ, bóng cây cao su cổ thụ thật rợp mát.
Hai người chở nhau trên chiếc xe. Tâm ngồi đằng sau lưng Dương mà nghe thấy gió lộng ào ào.
– Chạy chậm thôi mầy! Tao không muốn què một cẳng, gãy năm bảy cái răng vì cái thứ xe chỉ có hai bánh…
Dương nói trong tiếng gió:
– Tao đang yêu đời…
– Vậy thì càng nên chạy chậm.
Chiếc xe chạy chậm lại một chút, nhưng rồi lại vọt đi. Tới một ngã ba, Dương làm một phát lượn vòng thật đẹp, như mỗi lần ở trên trời làm những vòng bắn hẹp, nghiêng hẳn phi cơ đi để có một bề mặt thật nhỏ, tránh đạn phòng không. Tâm hét lên:
– Phần nào thôi Dương! Mầy có điên hay không?
Dương cười vang thích thú. Chàng lại có Phượng, có được mối tình đẹp như thuở xưa. Chiếc xe ngừng lại, Tâm đã nhảy xuống đất rồi mà Dương vẫn còn ngồi trên xe, rú máy xe ầm ầm. Tâm nhìn Dương lắc đầu rồi cười tha thứ. Nó đang sung sướng, thì để cho nó tận hưởng hết những thú vị của tình yêu.
Tâm ngồi vào bàn ăn. Cũng vẫn là chiếc ghế nhìn thẳng ra cửa sổ. Đúng như anh chàng chủ Câu Lạc Bộ đã nói. Tâm nhìn thấy lá cây cao su lấp loáng phản chiếu ánh nắng, những tảng mây trắng nõn lững lờ trôi hay đứng im chết sững trên nền trời. Vào mùa mưa, thì Tâm được nhìn thấy những hạt nước mưa rơi thẳng đứng, vì nơi đây, bốn bề là nhà che khuất nên vắng gió.
Dương cười đùa với cô nàng ngồi ở quày hàng. Thằng nầy đang vui nên đùa có vẻ hơi quá lố, nên Tâm thấy mặt cô hàng nặng như đeo một tảng đá.
Bữa ăn hôm nay, chỉ có Dương nói nhiều…Anh chàng đưa cho Tâm đọc lá thư, kể về chuyện Phượng. Chuyện của chúng nó ly kỳ, hấp dẫn như thế, mà đến hôm nay mới được nghe. Nhưng rồi câu chuyện cũng hết. Lúc đó mới là lúc Tâm buồn, thật buồn.
– Còn về chuyện lá thư của mầy. Mầy vẫn chưa kể cho tao nghe về chuyện gia đình của mầy…
Tâm đăm chiêu nhìn vào ly nước trà đá đã tan hết. Phía bên ngoài ly, nước đọng từng giọt lạnh buốt, thấm vào lòng bàn tay. Chuyện gia đình của Tâm là thế đó. Lạnh và đọng nước như ly nước đá nầy.
Tâm nói về một gia đình quan lại, không có một chút hãnh diện nào, mà chỉ có những bực bội, vì những người nuối tiếc thuở “vang bóng một thời”. May mà Tâm thoát ra khỏi đấy sống như một người thường. Nhưng lúc nào cũng nghĩ tới những người thân yêu.
– Tao sẽ về thăm nhà vào chủ nhật tuần nầy. Tao muốn mầy phải về cùng với ao, để mầy làm cái thắng ngăn chặn bớt lại. Khi nào mẹ tao khóc nhiều quá, tao sẽ lấy mầy ra để làm cái cớ ngăn bà cụ nín khóc. Tao sẽ nói “mẹ đừng làm vậy thằng Dương nó cười con”. Bố tao sẽ thở dài thật nhiều, rồi nói đến chuyện thánh hiền, lúc đó tao sẽ nói “có thằng Dương, bố phải vui vẻ lên, hôm nay nó là khách của nhà ta”. Gia đình tao, dù cho chuyện gì buồn đến thế nào chăng nữa nếu có người lạ, sẽ cố dấu tất cả. Có như vậy tao mới có thể về thăm nhà.
– Nhưng tao không muốn làm người lạ. Tuy mới quen biết, nhưng tao đã tự coi như một đứa con trong gia đình của mầy. Tao muốn như vậy.
– Mầy giúp tao một lần thôi.
Dương thở dài…Cái vui hồi nãy như biến đi khỏi con người Dương. Thì đã nói, Dương chỉ là một đứa trẻ con, cười ngay đấy, rồi khóc ngay đấy. Đã từ lâu, chàng thèm được hưởng một chút không khí gia đình. Chàng cũng mong Tâm đưa chàng về gia đình Tâm, sống ở đó để nhớ lại những ngày xưa thơ ấu. Chàng sẽ coi cha mẹ Tâm như cha mẹ chàng, và cô em gái Thư Hương như cô em gái của chàng. Dương uống cạn ly nước rồi thẫn thờ đứng dậy. Lúc trở về phi đoàn, chàng chạy xe rất chậm…
Khi Tâm và Dương về tới phi đoàn, thì tiếng còi hụ đặt trên nóc hồ nước rú lên một hồi thật dài báo hiệu giờ tan sở. Mọi công việc như ngừng hẳn lại. Tiếng động cơ xe hơi, xe gắn máy thay thế cho tiếng phi cơ. Nơi nhà để xe ồn ào lên một lúc, rồi tất cả trở về với vắng lặng.
Trên sân đậu, chỉ còn lại vài ba bóng dáng những cơ khí viên trực đi lủi thủi giữa những dẫy phi cơ nằm im lìm, bất động.
Dương nhìn thấy một người thật quen đi trong cái ánh nắng ấy. Chàng cất tiếng gọi lớn:
– Hậu!….lại đây mầy!…
Hậu vẫn lừng khừng đi tới không vội vã. Vừa thấy Hậu đặt chân lên bực thềm trước Phòng Hành Quân, Dương đã vội khoe ngay:
– Tao mới nhận được thư của Phượng.
– Ừ…
Hậu vẫn thản nhiên một cách đáng ghét. Dương đã bắt đầu thấy muốn nổi giận:
– Mầy không hỏi thêm tao một câu nào nữa à ?…
– Hỏi thêm làm… cái mẹ gì. Ở nhà, nghe chuyện của mụ vợ, tao đã khổ cái lỗ tai vì chuyện của mầy với em Phượng. Bây giờ, mầy lại bắt tao phải nghe nữa, thì mầy cho tao một cú đấm, nằm lăn ra đây ngủ một giấc, có lẽ còn khoái hơn…
Tâm nói xen vào :
-Thằng Dương là một thằng chúa vô lý. Chuyện của mầy mà cứ bắt thiên hạ phải nghe là nghĩa làm sao ?…
Hậu không chào từ biệt, lại bỏ đi ra ngoài sân nắng, Dương nói theo :
– Chiều nay, ở nhà mầy có cái gì ăn uống được không ?…
Hậu trả lời mà không ngừng bước:
– Muốn ăn thì cứ tới, rồi đi mua sau. Đừng có hỏi trước như vậy…
Tâm và Dương nhìn theo Hậu. Ai có thể ngờ được một con người như thế, mà đã có một thời oanh liệt. Những ngày học tại trường cơ khí bên Tây, Hậu là một chuyên viên xuất sắc, lên bảng danh dự đều đều. Mọi da trắng, mọi da đen và mọi da vàng sợ khiếp vía. Về những môn ăn chơi, Hậu cũng vẫn đứng đầu với những bước nhảy tân kỳ, lả lướt.
Nhưng bây giờ chỉ còn là một chàng cơ khí viên nghèo nàn, nợ muốn nặng chĩu cả đôi vai, rồi tự dưng biến thành một tên gàn dở muốn chịu hết nổi.
Tâm nói với Dương :
– Tao với mầy về phòng nghỉ, coi xem có lệnh phải bay hay không ?…
Hai người lại về phía phòng nghỉ. Buổi trưa, căn phòng lạnh này thật đáng quí. Vẫn chỉ có tiếng máy lạnh chạy rì rầm, tiếng nhạc thật nhẹ và những chồng sách báo nằm bừa bãi. Tâm nhắc chiếc “tê-lê-phôn” lên, quay vài vòng.
– Có gì lạ không bạn ?… Ô kê, chúng tôi nằm đây chờ. Phải rồi … Trung úy Tâm, Trung úy Dương. Có gì, cứ việc phát cho một tiếng chuông. Những chiếc tàu bay nào bay được?… 374 và 392. Đồng ý ! Bạn nói với toán trực phi đạo kiểm soát kỹ dùm. Cám ơn….
Tâm nói liên hồi trong điện thoại… Dương nhắm mắt rồi chỉ còn nghe thấy tiếng nói của Tâm thật mơ hồ. Buổi trưa, ngồi trực hành quân thật buồn, nên thường dùng điện thoại, cố kéo dài cuộc đối thoại, để thì giờ chóng qua đi. Dương đi vào một giấc ngủ chập chờn. Khuôn mặt của Phượng, những năm về trước lại thoáng hiện về trong giấc mơ.
Dương nghe thấy cả tiếng cười pha lê loang ra, trùm lấy dần giấc ngủ. Như một viên gạch ném xuống mặt nước lặng yên. Những vòng tròn nhỏ, lớn xoáy nhẹ trong đầu.
Dương xoay mình nằm nghiêng để nghe thấy tiếng rì rầm của chiếc máy lạnh lớn hơn, Dương chợt giựt mình vì có một bàn tay lay rồi có tiếng Tâm:
– Dậy đi bay! Ngủ gì mà kỹ thế?…
Dương uể oải ngồi đậy cho chân vào trong giầy. Chàng tới cuối phòng mở vòi nước rồi đưa cả đầu vào. Nước lạnh làm cho Dương tỉnh hẳn.
Chàng lắc đầu thật mạnh. Dùng mấy ngón tay làm lược, chàng vuốt lại mái tóc. Nhìn vào trong tấm gương trước mặt, Dương thấy khuôn mặt chàng thật nghệ sĩ. Có nhiều lúc, chàng cũng thích viết văn, thích làm thơ. Nhưng đã thử nhiều lần, viết xong đọc lại, thấy văn thì nặng mùi, và thơ thì… khó ngửi, chàng xé đi không một chút luyến tiếc. Tâm dục:
– Mau lên mầy! Còn sửa sang nhan sắc mãi.
– Thì cũng phải có một tí đẹp trai để còn làm cái công việc giết người. Nhưng vùng hành quân là vùng nào vậy mầy ?… Có nặng lắm không ?
Tâm giở vội tấm bản đồ:
– Vùng Y T… chỗ nầy đây. Tao với mầy thì nhắm mắt cũng bay được tới vùng nầy. Cứ đánh đấm nhau hoài. Sao không làm một mẻ bào láng, rồi khai quang đi cho được việc. Cứ như một nơi, dùng làm chỗ thử lửa…
Dương ngồi lên một chiếc ghế, buộc lại chặt giây giầy. Tâm đã bước ra cửa, Dương cũng đứng dậy đi theo. Chàng nhìn vào đồng hồ và chợt giật mình. Ấy vậy mà trời đã vào cơn nắng xế. Thời gian này là lúc nóng nhất trong một ngày nhưng rất may là có nhiều cơn gió thoảng.
– Không ngờ tao ngủ một giấc dài ghê…
– Ừ, tao nhìn thấy mầy ngủ mà phát thèm. Tao đã nhìn kỹ lúc mầy ngủ. Không đến nỗi xấu xí lắm. Có nhiều thằng ngủ trông xấu chịu không nổi. Mặt thì nhăn như mặt khỉ, lâu lâu còn nghiến răng rồi lảm nhảm nói mê…
Dương đi bên cạnh bạn… Những thứ như nón bay và dù, đã để trên phi cơ nên hai người lên đường với một tấm thân nhẹ thênh thang. Chỉ vướng có một vài tâm sự nặng chĩu. Nhiều lúc Dương đã nhìn những cảnh tiễn đưa nhau, mỗi lần lên đường xuất ngoại, hay chỉ là một chuyến đi thông thường, chẳng có gì nguy hiểm. Những buổi tiễn đưa ấy đã làm Dương nhớ tới giọng khinh bạc của Nguyễn Tuân : “Chỉ còn thiếu cái cảnh mặc áo trắng qua đò, là đủ lệ bộ của một cuộc tế sống anh chàng kiếm sĩ Kinh Kha sang Tần”. Còn những người sống với nghề nguy hiểm nầy ? Như Tâm và Dương… Mỗi chuyến đi là một lần gần kề với cái chết, mà mỗi lần đi là một lần lặng lẽ, chẳng có tới một chiếc khăn tay vẫy chào nhau.
Lúc đặt chân xuống mặt sân đậu là lúc Dương tỉnh hẳn ngủ. Cơn gió mạnh chợt nổi, bốc hơi nồng. Bụi phi trường chạy la đà, dài theo cơn gió. Chàng cũng cảm thấy bước chân xiêu xiêu, và bộ đồ bay như dán vào một bên. Chàng nhìn sang Tâm, mỉm cười bâng quơ.
Chiếc phi cơ nằm sững như chờ đợi. Bóng đáng của khối sắt thật kiêu hùng.
Những ngày rời bỏ chiếc phi cơ quan sát nhẹ nhàng về đây, nắm lấy cái cần lái phi cơ khu trục, chàng có cảm tưởng như một chú trẻ mục đồng đang dắt một con bò hiền lành ngoan ngoãn, phải đi chăm sóc một con trâu rừng. Mọi động tác đều dữ dội. Nghiêng thật mạnh, chúi thật thấp rồi kéo lên thật bạo. Đủ mầu hiện lên trước mắt, kể cả những vùng lửa đỏ và chớp loé súng phòng không.
Chàng trèo lên tàu. Người cơ khí viên giúp chàng buộc lại chiếc đai đù. Đội chiếc nón bay lên đầu, nhìn sang cười với Tâm, rồi theo ngón tay làm dấu hiệu của người cơ khí viên, chàng cho máy chạy.
Tiếng máy nổ rền, một làn khói xanh thoát ra từ ống khói bay tản mạn rồi loãng tan đi. Tiếng nói bên tai đã vọng về những âm thanh quen thuộc. Trên nóc hăng-ga là chiếc ống gió; nằm căng thẳng, đuôi hướng về phía đầu phi đạo 27.
Chàng nhìn thấy bánh xe của Tâm nhích lên, rồi chiếc phi cơ chạy, quẹo tay mặt, qua mặt chàng. Tai chàng nghe thấy tiếng Tâm thử máy vô tuyến, những lời đối thoại với Đài Kiểm Soát phi trường, êm dịu, bình thản như tất cả mọi chuyến bay.
Một chiếc xe của toán chuyên viên vũ khí, chạy theo sau phi cơ của chàng để gắn điện vào hột nổ nơi phía cuối đường bay…
Sau giấc ngủ trưa dài, Dương thấy mình thoải mái, nhẹ nhàng. Mặt trời chênh chếch, chiếu lấp loáng vào mặt kính phía trước. Con đường vận chuyển, trải xi măng phẳng rộng thênh thang, chàng để cho con tàu tự do chạy trên đó không một chút vấp váp, gập ghềnh.
Chàng kéo cái khăn quàng ra khỏi cổ áo cho gió thổi phất phơ, rồi ngửa mặt lên trời, hít một hơi dài cái không khí mênh mông của phi trường, phảng phất một chút khét nơi đầu máy. Chàng tưởng rằng, không cần cái vật vô tri nặng nề cục mịch này , chàng cũng có thể bay bổng lên trời như một cánh chim.
Khi chuyên viên vũ khí, từ trên xe nhảy xuống đất, Dương cười, dơ thẳng cả hai tay lên trời. Mọi khi, chàng chỉ để bàn tay lên hai thành cửa, để cho những chuyên viên ấy biết rằng chàng không đụng gì tới những nút điện ở phía dưới. Nhưng hôm nay, lòng chàng như mở rộng, tâm hồn khoáng đãng rất trẻ con, chỉ thích đùa nghịch, vui chơi.
Ngay sát cánh bên trái của chàng, Tâm đang nhìn thẳng về đằng trước, nét mặt đăm chiêu. Dương chắc là Tâm đang nghĩ tới lá thư nhận được buổi sáng. Gió phi trường chiều nay thổi lên lồng lộng.
Những người chuyên viên cơ khí đã lên hết trên xe. Dương đẩy tay ga, nhìn lại một dẫy đồng hồ. Tất cả đều bình thường…
– Số 2, thử máy xong!…
– Đài kiểm soát, Phụng Hoàng xám xin phép cất cánh!
Chàng nhìn theo Tâm lướt về phía trước thật nhẹ nhàng, đôi bánh xe gấp vào thật gọn. Tới lượt chàng đẩy nhẹ tay ga và buông chân thẳng…
Chiếc phi cơ được xả thắng chồm lên như một con ngựa ngàn dặm được nới lỏng giây cương. Dương hơi bị kéo lại đằng sau.
Chàng lấy làm lạ là hôm nay, động tác nào của mình cũng mạnh bạo. Đáng lẽ, chỉ nên thả từ từ.
Sàn xi măng lót phi đạo thật bằng phẳng. Dương nghe thấy cả tiếng bánh xe chạy phía dưới nệm ngồi, một thứ tiếng rì rầm của một trận mưa không có gió. Rồi chợt tàu nhấc bổng, nhẹ nhàng, thênh thang. Cỏ cây như chạy ngược chiều.
Đất hai bên phi đạo, chưa kịp mọc lên những đám cỏ mướt, nên hiện ra loang loáng, nhiều mầu xám, đỏ… Dương gấp bánh xe lại, bay thấp dọc theo phi đạo, cho tới hết màu trắng xi măng mới kéo vụt lên đuổi theo chiếc phi cơ của Tâm, bây giờ chỉ còn là một chấm nhỏ.
– Số 3, cất cánh xong !…
-Hiểu rõ… Đài kiểm soát Phi trường, xin phép được rời tầng số của Đài, để liên lạc tầng số hành quân. Số 2, đổi qua tầng số 4. Bốn, hai lần hai…
Dương thò tay qua bấm nút vô tuyến. Tiếng nói của Trung Tâm Hành Quân hỗn độn hơn. Vùng trời này, lúc nào cũng đầy những phi cơ mang bom đạn, tới tấp gọi về báo cáo tình hình, xin chỉ thị, rồi những tàu bay quan sát đọc những công điện dài lê thê. Nhiều lúc, Dương muốn tháo bỏ cái nón bay, rồi bay lên thật cao, để ở chung quanh, ngoài tiếng động cơ, chỉ còn một sự yên lặng thật mênh mông. Những lần bay thử phi cơ vừa làm kiểm kỳ xong, Dương đã làm như thế, và những giây phút đó, là giây phút sung sướng nhất.
Nhưng hôm nay là một phi vụ hành quân. Chỉ cần gọi ba lần mà không thấy Dương trả lời, là tất cả mọi người đã lo âu thắc mắc. Chàng nhìn sang bên trái, thấy cái mũ bay của Tâm thấp thoáng trong lòng khung kính phi cơ. Từ nãy giờ, Tâm mải liên lạc với Trung Tâm Hành Quân. Tiếng nói của Tâm ở bên cạnh, và tiếng nói của những người ở đưới đất, vọng tới bên tai Dương với một giọng đều đều không lúc nào lớn lúc nào nhỏ. Chàng vẫn lắng tai nghe, vì những lời nói với Tâm, cũng là những lời nói với chàng. Dương cũng định cười đùa dăm bảy phát bằng cách sàng qua sàng lại bay qua bên trái rồi lại trở qua bên mặt chiếc tàu bay của Tâm, nhưng nhìn thấy dưới cánh bom đạn vẫn còn nặng chĩu nên lại thôi.
Đã nhiều lần Dương đùa với cái chết. Nhưng với những cái chết vô nghĩa thì có khác chi đi giang hồ bốn biển không chết, mà lại chết vì sụp lỗ chân trâu. Dương đã thấy nhiều cái chết được mô tả là lãng nhách. Chàng không thể trách những người bạn tuổi trẻ không thể kìm hãm được những cơn hứng nhất thời, cũng như chàng hôm nay, rất muốn nổi hứng.
Nhưng khi sắp sửa làm, nghĩ tới những cái chết thê thảm, bắt buộc phải ngừng lại. Những chiếc đồng hồ trước mặt in khuôn mặt chàng lờ mờ hiện lên. Chàng nhìn thấy cả đôi mắt của chàng đang chớp… Rồi từ đó nhìn ra, chàng thấy cả đám không gian mênh mông mù mù xanh biếc. Trời chiều nay sương xuống sớm.
– Xám 2, quẹo trái hướng 045…
-Hiểu, hướng 045…
Dương đạp nhẹ một bên bàn đạp. Chiếc phi cơ ngoan ngoãn vâng lời, sát bên cánh của Tâm, như cả hai chiếc phi cơ, chỉ có một người điều khiển. Tiếng của Tâm lại vang lên :
– Mầy nhìn thấy chiếc phi cơ quan sát chưa?…
– Nó bay mấy ngàn bộ ?…
– Hai ngàn…
Dương nói với Tâm :
– Vậy mình nên bay cao hơn nó.
– Đồng ý…
Hai chiếc phi cơ ngước cao đầu lên… Tiếng máy, thật ngọt. Cao độ kế chỉ hai ngàn năm trăm bộ. Tâm và Dương lấy lại thăng bằng. Dương chợt la lên :
– Tao thấy nó rồi. Hướng mười giờ. Mầy liên lạc với nó đi…
Tâm nghiêng đầu nhìn xuống. Cánh chuồn chuồn mỏng manh đang làm những lượn vòng xuống thấp. Rừng cây phía dưới mù mịt, và về xa xa phía trái, Tâm nhìn thấy toàn diện hình tam giác của một chiếc đồn nhỏ chơ vơ. Ngoài đồn là bãi đất trống, bao bọc chung quanh. Tuy rằng ngồi trên cao, nhưng Tâm cũng ước lượng rằng khoảng rộng của khoảng đất ấy cũng phải tới vài trăm thước. Nhìn thấy các công sự vẫn chưa đổ nát nhiều lắm, Tâm mừng thầm. Chàng và Dương đã tới kịp thời…
Chiếc đồn nhỏ, nằm gần ngay quốc lộ. Tâm nghĩ là nhờ chiếc đồn này mà người dân quê có thể biết được thành phố. Nếu chiếc đồn này mất, thì kể như cả một vùng này không còn là của ta. Tâm đã nhìn rõ cả cái thế bất lợi. Ba mặt là rừng hoang, cách đó chừng một cây số là trái núi tuy không cao lắm, nhưng đứng từ trên đó, cũng đủ thấy hết sinh hoạt ở trong đồn. Trên đỉnh núi, cũng có một lô cốt rào giây kẽm gai, nhưng có lẽ đã bị chiếm rồi, nên chiếc cột cờ không còn lá quốc kỳ bay trong gió buổi chiều.
Tâm bắt đầu liên lạc với chiếc phi cơ quan sát:
– Hai Phụng Hoàng Xám đã tới mục tiêu. Đang ở phía bốn giờ của bạn… Xin cho biết chi tiết mục tiêu..
Tiếng nói thân mật bắt đầu oang oang như muốn chạy thẳng vào đầu Tâm và Dương. Một thứ tiếng quen thuộc của một thằng bạn:
– Thằng Tâm phải không? Thằng nào cùng đi với mầy đấy ?… Thôi chẳng cần phải trả lời, tao cũng biết là thằng Dương rồi… Đúng hướng mầy đang bay tới. Phía Đông Bắc của đồn, đang bị uy hiếp nặng. Hãy gửi cho chúng nó vài ba con heo rồi tính sau…
– Đồng ý ! Kể như xong rồi…
Tâm và Dương cùng mở hết khóa an toàn sẵn sàng vào cuộc. Nhìn về phía Đông Bắc, rừng cây rậm rạp. Trong đám đen của bóng cây dưới thấp, vài ba lằn chớp liên hồi. Tâm thấy phía đó, chúng có ít nhất là năm cây đại liên. Cần phải cho những thằng này câm họng trước.
Tâm la lên:
– Sửa soạn, tao bắt đầu vào vòng oanh kích…
Chiếc phi cơ lật mạnh về phía trái, nghiêng chiếc bụng trắng về phía Dương. Những lúc này Tâm và Dương chỉ trao đổi với nhau những tiếng ngắn và gọn. Tiếng vào vùng oanh kích hay ra khỏi vùng oanh kích được thay bằng những tiếng “in” và “out” cho gọn. Tâm vòng lại, cánh quạt quay tốc độ mạnh. Tâm thấy rừng cây dâng lên thật mau, rồi từng hàng kẽm gai và hầm hố.
– Một “in”….
Chiếc cột cờ lướt qua dưới bụng Tâm, lá cờ vẫn còn nguyên vẹn. Chàng bấm một chiếc nút. Chiếc phi cơ như nhẹ đi, khẽ chòng chành. Chàng kéo vụt lên và bên tai vọng thấy một tiếng nổ ầm. Chàng bình thản :
– Một “out”!
Tới lượt Dương:
– Hai “in”!
Cũng động tác ấy, Dương chúi xuống. Chiếc phi cơ thuần thục đến nỗi, Dương chỉ cần nhích nhẹ bàn tay cũng thấy phi cơ chuyển động. Độ chúi của Dương thật lớn. Dương thấy người như muốn rời ra khỏi chiếc ghế ngồi. Đôi cánh xẹt ra hai làn khói trắng. Hai trái bom lại rời ra khỏi hai bên cánh. Dương kéo lên thật mạnh. Máy chạy ngọt không một chút rung…
– Hai “out”!…
Tiếng reo của anh chàng phi công quan sát:
– Tuyệt điệu! Bốn con heo của hai thằng mầy đáng tiền lắm. Chúng nó câm rồi! Nhưng cũng nên cho thêm vài ba phát nữa xa hơn mục tiêu cũ hai trăm thước.
– Xong rồi…
Lại “in” và “out”.. Trận đánh có vẻ hơi tẻ nhạt. Tâm và Dương vẫn thích đánh với phi tuần nhẹ, chỉ có hai chiếc, đánh đấm thoải mái hơn, vùng vẫy khoái hơn. Phi tuần nặng bốn chiếc, chỉ làm vòng oanh tạc rộng cũng đủ mất thì giờ, mà chờ nhau cũng đủ mất sướng. Còn với hai chiếc thì thanh toán bom đạn rất lẹ. Lần này vừa thả xong trái bom, Dương quẹo liền, vừa vút lên cao vừa ngó xuống, để được thấy từng bụi cây, đất đá bắn tung. Trong lúc đó nếu có thể được, chàng đã buông cần lái, vỗ tay reo…
Lại có tiếng của anh chàng phi công quan sát :
– Thằng Dương đừng bay sát vào gần núi ! Trên đó chúng đặt mấy khẩu đại liên. Nó xơi tái mầy bây giờ. Tránh ra xa đi.
Dương hỏi lại:
– Ở chỗ nào, chỉ cho tao để tao đáp lễ!…
– Chưa tới lượt chúng nó. Hãy bào láng chung quanh đồn trước đã…
Tâm và Dương cùng bay lên cao để cho chiếc phi cơ quan sát xuống thấp coi lại mục tiêu. Cánh chim mỏng manh, nghiêng như muốn cắm cái cánh nhỏ bé ngập vào rừng cây. Tâm nhìn về phía quốc lộ, thấy một chiếc xe đò lật nghiêng, khói còn nghi ngút cháy. Chung quanh chiếc xe đò, vắng tanh không một bóng người. Hành khách và tài xế không biết đi đâu. Chàng và Dương lái vòng trở lại.
Tiếng của người phi công quan sát :
– Dưới đồn cho biết mặt đó yên rồi. Họ có hỏi tên chúng mầy để làm một phát suy tôn. Còn những mặt kia nhiều địa đạo lắm. Tụi mầy có thể gánh bằng “cà-nông” và “rốc-kết”.
Vẫn một sự hăng say như lúc mói lâm trận, Tâm và Dương đẩy cần lái… Sau những lùm cây, Tâm nhìn thấy những bóng áo đen di động.
Hầm hố dầy chi chít, như một cái tổ ong. Chàng gửi hai trái “rốc-kết” vào một địa đạo. Rồi tới lượt Dương. Tới vòng thứ tư, thì những hầm hố và khoảng đó, vắng những bóng áo đen di động. Chỉ còn lại những con người bất động…
Những lần bay lên cao chờ đợi, để cho chiếc phi cơ quan sát xuống thấp coi lại mục tiêu, Tâm lại nhìn về phía chiếc xe đò đang cháy dở dang. Tâm thắc mắc rất nhiều về số phận của những hành khách. Không biết bây giờ, họ đã bị dẫn đi đâu ?… Có thể, họ đã được dẫn vào trong rừng, rồi vì thua trận, những kẻ kia bỗng nổi thú tính, quét qua người họ một tràng đạn. Từng tấm thân người gục ngã một cách tức tưởi. Có lẽ, có nhiều kẻ, lúc gục xuống chết, còn không hiểu lý do vì sao mà mình lại chết.
Chàng muốn ra tay nghĩa hiệp, giải cứu cho họ, nhưng chàng chỉ là một cánh chim. Dù cho là một cánh đại bàng thì đôi chân cũng không thể đặt xuống ở bất cứ một chỗ nào. Nhờ những người ở trong đồn kia chăng ? Có thể được lắm, nếu chàng nói ra ý nghĩ đó, chắc những người kia sẽ không từ chối.
Nhưng hiện nay, họ phải tự bảo vệ sinh mạng của họ trước đã. Nếu cuộc công đồn này kết thúc, họ cũng phải sửa sang lại công sự chiến đấu, rào lại những hàng giây kẽm gai đã bị bộc lôi phá thủng, đặt lại những trái mìn ngoài hàng rào phòng thủ. Tâm biết rằng công việc dành cho một chiếc đồn vừa bị tấn công sẽ tốn rất nhiều sức lực và thì giờ…
Tâm gọi Dương trong vô tuyến :
– Xám hai, đây Một gọi !..
– Hai nghe !…
Tâm cười trong máy vô tuyến:
– Mầy nghĩ gì vậy ? Có về không ? Kể như xong xuôi rồi. Về cho được việc nhà nước…
Dương hằn học :
– Tao còn đang nổi giận với mấy cái ổ đại liên đặt ở sườn núi kia. Hồi nãy nó quạt tao bốn phát. Tuy chưa rụng mất chiếc lông nào, nhưng tao cần đáp lễ.
– Thôi mầy!… Nó nấp ở trong vách đá. Dù mầy có tặng nó vài trái “rốc kết”, vài cú bom miểng, thì núi cũng cứ trơ ra. Nhất là mầy lại không lao thẳng tới được, vì chúng nó nằm ở lưng chừng núi. Mày chơi nhau với chúng nó thì kéo lên làm sao cho kịp ? Mà đánh tạt ngang thì vô ích. Rốt cuộc chỉ còn có xác của đại hiệp Trương Vô Kỵ nằm trên đỉnh núi cao kia vui đùa cùng trăng thanh gió mát…
Tiếng cười vang lên trong vô tuyến của anh chàng phi công quan sát. Lúc nào cũng vậy, khi chiến trường đã kết thúc, họ nói chuyện “tự do như ở nh”. Anh chàng quan sát cũng bàn góp:
– Quả thật mấy cây đại liên ấy cũng là một cái đinh nhức nhối cho lính ở trong đồn. Lâu lâu nó lại sủa vài tràng. Cách xa tới cả hàng cây số nên cũng chẳng chết được ai, nhưng cũng bực mình. Tao tin rằng ngày mai thế nào mấy người bạn ta ở trong đồn cũng làm một vụ “thượng sơn”..
Dương la lên :
– Tao làm ngay bây giờ đây !…
Chàng kéo vút phi cơ lên cao… Tâm đành theo sau. Lúc lên tới ba ngàn bộ, Dương nhằm sườn núi lao xuống. Từ lúc bắt đầu chúi xuống là Dương bắt đầu bấm nút “cà-nông”. Từng loạt đạn ào ạt, dữ dội bay vèo sườn núi. Dương dụ cho chúng nó bắn lại để xác nhận vị trí.
Quả nhiên, từ một vài lùm cây bên sườn núi lấp loáng hiện lên những ánh chớp. Dương bay lên, bụng phi cơ còn cách đỉnh núi rất xa.
– Tao biết chỗ của chúng nó rồi ! Tao làm lại đây!
Chàng nhìn lại sườn núi ấy một lần nữa. Chàng chọn một ổ đại liên ở ngay phía ngoài để dễ dàng quẹo trái. Dương có cảm tưởng như đang tham dự một trận không chiến, nên chui vào những đám mây, rồi từ đó lao xuống, đánh những phát bất ngờ.
Một ý nghĩ lại chợt tới với Dương khi chàng nghĩ tới những phim về miền Viễn Tây của Hoa kỳ. Đây cũng là một cuộc đấu súng một mất, một còn mà hai bên đều là những người tình nguyện. Có điều những khẩu súng mà chàng và đối thủ xử dụng thì lớn hơn, sức tàn phá mạnh hơn, giết được nhiều người hơn.
Hai kẻ tử thù nhất định phải thanh toán nhau. Đặc biệt là trong vụ đấu súng nầy, ai cũng có quyền bỏ cuộc. Nếu Dương muốn bỏ cuộc, thì chỉ việc gọi Tâm một phát, hai đứa bay lên cao rồi hướng về phi trường, tung cánh chim tìm về tổ ấm.
Đối phương muốn bỏ cuộc thì cũng dễ. Chỉ cần tìm một hốc đá kín, là có thể yên tâm nằm ngủ kỹ. Nhưng cả hai bên chưa bên nào có ý định bỏ cuộc… Tuy ở trên cao, nhưng Dương cũng nhìn thấy những cái đầu nhấp nhô nấp sau những tảng đá và những họng súng toé lửa. Chàng định sẵn một chiến thuật. Biết chắc được vị trí của địch thủ, chàng tính đánh một cú bất ngờ.
Từ trong mây, chàng lao ra vừa nhìn thấy mục tiêu lọt vào ống nhắm, chàng phụt ra hai trái hỏa tiễn.
Hai mũi tên lửa vụt bay đi, trong lúc chàng kéo tạt ngang…
Tiếng của Tâm :
– Mầy đừng làm một phát tạt ngang như thế. Chúng nó sẽ bắn đuổi theo sau lưng mầy. Cứ kéo lên cao, bay thẳng, vì đằng trước, khuất trái núi che lưng đi cho mầy thì an toàn hơn…
Dương trả lời :
– Nhưng tao muốn trở lại cho lẹ, biểu diễn một màn sấm nổ không kịp bưng tai…
Tiếng của anh chàng phi công qưan sát.
– Phát vừa rồi thằng Dưong đánh tuyệt đẹp. Thanh toán được một thằng rồi. Chúng mày lui ra để tao coi lại.
Rồi chiếc phi cơ quan sát bay bọc lại đằng sau trái núi. Chỉ vài phút sau đã thấy hắn lững lờ, làm những vòng tròn thật hẹp trên đỉnh núi. Cái thằng ấy vậy mà khôn. Từ chỗ nó bay, nhìn xuống quan sát rất dễ, tụi kia không làm gì được vì vướng những tảng đá, vướng cây… Lượn đươc vài vòng rồi, chiếc phi cơ quan sát lại thoát đi bằng đường phía sau núi …
– Chúng nó vẫn còn ở chỗ cũ. Còn có ba ổ đại liên. Chúng mầy có thể chia nhau làm nốt…
Dương nhào ngay xuống… Tràng đạn “cà-nông” bắn từ trên cao xuống, nổ ròn rã. Nhìn xuống phía trong đồn, thấy lố nhố bóng đen. Những người lính giữ đồn, có lẽ đã thấy hết hiểm nguy của cuộc công đồn vừa rồi, ra khỏi hầm, nấp một chỗ để xem một cuộc đấu súng kỳ thú.
Tràng đạn vừa qua của Dương, gần như vô ích chỉ dội được vào vách núi. Những lần sau, đạn bay đi chính xác hơn. Dương cũng bị trúng một vài viên vào cánh, vào thân phi cơ, nhưng ở những chỗ không quan trọng. Chàng thấy khoan khoái như đang dự một buổi thực tập mà đích bắn như được bày ra nơi trường bắn Phú Lợi, nhưng đích bắn bây giờ ở cao hơn và nguy hiểm hơn.
Địch thủ của chàng như có ý định bỏ cuộc. Hai lần tác xạ, chàng không được đáp lễ. Và chàng cũng có ý định bỏ về…
Tiếng của Tâm :
– Thôi về, mầy !
– Tao đánh một lần nữa thôi.
Chàng nhào xuống, lần này nghiêng tới hơn sáu chục độ. Chiếc phi cơ gần như thẳng đứng, nhào xuống mục tiêu.
Không ngờ lần này hoả lực của cả hai ổ đại liên tập trung lại một chỗ, bắn trả lại chàng. Hai giòng đạn bay ngược chiều, ào ào như bão táp. Một tiếng động mạnh nơi đầu máy. Dương lấy thăng bằng, nhưng chiếc phi cơ như muốn cưỡng lại. Tay lái sao mà nặng quá. Chắc là một viên đạn nào đó đã làm hư bộ phận điện và trúng vào ống đựng dầu.
Chàng nghiến răng, kéo chiếc cần lái. Rất may, chiếc phi cơ lấy lại được chiều ngang, vừa lúc, chiếc phi cơ gần sát với những ngọn cây mọc chìa ra gần ngang đỉnh núi. .
Chiếc phi cơ lảo đảo bay về hướng Đông. Khói bốc ra từ thân tàu. Bên tai Dương nghe thấỵ tiếng của Tâm gọi thảng thốt.
Chàng trả lời Tâm, nhưng vẫn nghe tiếng Tâm dồn đập hỏi. Máy vô tuyến của chàng cũng hỏng rồi. Làn khói bay ra, mỗi lúc thêm dày đặc…
Ánh nắng dịu buổi chiều, in bóng chiếc phi cơ của Dương chòng chành, nghiêng ngửa trên khu rừng hoang vắng bóng người. Chiều đã xuống thật chậm.
Chàng kéo phi cơ lên cao hơn. Rất may là tay lái, trong phút tuyệt vọng nầy, lại lay chuyển được. Khói đã bắt đầu lùa vào phòng lái. Dương cúi gập người xuống, ho sặc sụa. Phải thoát ra khỏi đây, nếu còn muốn gặp Phượng… Ồ, tại sao lại nhớ tới Phượng trong lúc nầy ?… Bên tai Dương, tiếng của Tâm gọi dồn dập :
– Dương, mầy có sao không ?… Nghe tao nói không ?.. Trả lời đi ! Trả lời đi Dương?
Tiếng la thất thanh của Tâm như muốn xoáy vào tai Dương. Chàng đã trả lời nhiều lần, gào lên như muốn vỡ tan lồng ngực, nhưng chỉ có chàng nghe được tiếng nói của chàng. Nhìn sang bên cạnh, thấy Tâm đang cặp kè bay theo sát.
Nỗi khổ của Dương hiện nay không thể nào nói được. Mỗi lần Tâm tới gần bên, cánh phi cơ của Tâm như múc đi từng tảng không khí, làm phi cơ của Dương như tụt hẫng xuống, mà bây giờ cao độ là đời sống của Dương. Chỉ cần chiếc phi cơ hơi chúc xuống là chúi xuống mãi, và cuộc đời sẽ đi đứt luôn
Thế gian này không còn một kẻ mang tên Dương, không còn một kẻ để cho Phượng phải mong chờ một sự hồi âm. Chàng gọi trong tuyệt vọng :
– Tránh xa tao ra! Tâm ơi, tao van mầy, tránh xa tao ra!…
Nói như vậy, còn cho là chưa đủ, chàng quay sang phía Tâm dơ tay xua lia lịa… Mới đầu Tâm không hiểu, lại cố sức bay gần tới Dương.
Từng tảng không khí lại bị đôi cánh phi cơ của Tâm múc đi, phi cơ của Dương lại nghiêng ngả. Khói từ đầu máy tuôn vào, không lối thoát, bịt kín lấy đôi mắt, bịt chặt lấy bộ phận hô hấp. Trước mặt Dương, không còn ánh nắng, không còn trời xanh và mây trắng. Chàng lại nghĩ tới cái chết. Nghiến răng, chàng đưa hai tay lên, bám vào thành cửa đẩy mạnh…
Chiếc cửa nặng quá chừng, chỉ hé ra được một chút, nhưng nhờ vậy, khói thoát ra ngoài, để Dương lại nhìn thấy một khoảng trời. Cố gắng thêm một lần nữa, chàng đạp cả hai chân lên mặt kính đồng hồ để làm điểm tựa, đẩy được chiếc cửa lùi ra phía sau. Chàng thở một hơi dài nhẹ nhỏm :
– Thoát rồi!…
Thắt lại giây lưng dù, tháo giây cột vào ghế, chàng vỗ tay vào mấy cái túi để kiểm soát lại những thứ mang trên người. Khẩu súng đeo bên hông, nhắc nhở tới những gian nguy sẽ gặp. Chàng nhìn xuống bên dưới, để nhận xét địa hình, địa vật một lần chót . Cảnh vật chẳng khác lạ. Chàng chưa bay xa nơi đồn lẻ.
Có lẽ hồi nãy, tay lái đã kẹt cứng, rồi vì Tâm làm cho phi cơ của chàng nghiêng đi, nên cứ bay lòng vòng quanh vùng trận địa. Ngó một vòng lên trời, chàng vẫn thấy Tâm và chiếc phi cơ quan sát bay lượn quanh chàng. Dơ tay chào theo kiểu nhà binh một phát, rất đúng thế cơ bản thao diễn. Chàng nói lớn :
– Nếu thoát được thì cái chào này là cái chào cám ơn. Còn nếu không, thì lần nầy tao chào chúng mầy, coi như một cái chào… vĩnh biệt.
Chàng nhoài người ra khỏi buồng lái. Mới thò dầu ra, chàng đã thấy gió thổi tới như một cơn bão táp hung bạo. Cúi gập người cho thân hình vắt ngang qua thành cửa, chàng đạp chân vào chiếc ghế ngồi. Một chút cợm lại ở nơi bụng, chỗ thắt lưng giây súng.
Hai bàn tay chàng đã chống vào đôi cánh. Lúc nầy thì đất ở trên đầu. Ngửa mặt lên là nhìn thấy rừng cây loang loáng. Trong một thoát suy nghĩ, chàng đạp mạnh đôi chân để cho chàng và chiếc phi cơ rời hẳn nhau ra.
Một vật sáng loáng qua trước mặt, làm cho chàng chợt vui, vì đi qua khỏi giai đoạn đầu, thoát được cái máy chém. Chàng và lũ bạn, thường gọi cái đuôi phi cơ là cái máy chém. Lúc nhảy dù, sợ nhất là cái đó. Dù cho lộn ngược, nghiêng trái, nghiêng phải, lên cao, xuống thấp, cái máy chém vẫn đi theo như bóng với hình. Thoát được cái máy chém, mới được kể như một đoạn đường nguy hiểm vừa mới qua đi…
Thoát ra khỏi vùng đầy tiếng động, bây giờ chàng như rơi vào cõi im lặng mênh mông. Bên tai chỉ có tiếng gió ào ào và đôi ống quần đập vào chân kêu phành phạch. Và trong cái mênh mông ấy, chàng nghe thấy cả tiếng đập của con tim. Gió thổi vào mặt chàng làm ngạt thở, làm cay xé đôi mắt.
Dương phải nhắm nghiền đôi mắt lại, để cho thân người rơi xuống. ” Mình đang là một tảng đá, một khối thịt từ trêu trời cao ném xuống. Không thể được, không thể là một đống thịt bầy nhầy, không còn là hình dáng con người”. Nghĩ vậy, chàng nhớ tới cái chốt dù lòi ra phía trên ngực, nơi con tim chàng đang đập, phổi chàng còn chứa không khí, và những giòng máu, đang còn chạy rần rật khắp ngưòi.
Thân người chàng gần như nằm ngang với những ngọn cây rừng, chỉ có việc đưa tay lên chốt chiếc dù giật mạnh, mà sao công việc ấy thấy khó khăn và nặng nhọc. Cánh tay này, hình như không còn phải của Dương, cố gắng lắm, cũng chỉ nhích được lên một chút. Hãy cố gắng nữa lên Dương! Sức lực của một đứa đàn ông chưa tới ba mươi, là một sức vô địch, không có gì ngăn cản nổi.
Chàng lần từng phân, từng ly của mảnh vải áo bay, để cho bàn tay bò lần về cái chốt dù, như bàn tay tìm tới sự sống. Khoảng cách từ bàn tay tới đó, như biên giới của sự sống và sự chết. Thật chật hẹp đấy, mà cũng thật mênh mông đấy.
Nếu bây giờ, cái áo của chàng mà rách xoạc một miếng để cho bàn tay rơi xuống chỗ cũ, thì thật là một sự hối tiếc ghê gớm. Chàng nắm mạnh vào chiếc áo, vải áo từ đôi vai tới bàn tay chàng như căng ra như mỏng đi, mỏng như số kiếp mong manh của chàng hiện giờ.
Bàn tay đã đi được một nửa đường. Khoảng khắc ấy diễn ra chỉ trong từng giây, từng phút, mà sao thấy lâu như bằng cả một thế kỷ. Chàng đã sờ thấy cái ram ráp của chiếc khoá kéo nơi bụng. Mấy ngón tay đưa ngược lên, co lại rồi duỗi ra như bước đi của một con sâu trên thảm xanh. Lúc nắm được chiếc chốt dù. Chàng mừng quá nghiến răng giật mạnh.
Chàng dùng sức mạnh, cộng thêm sức trì kéo của cánh tay, nên chợt thấy nhẹ hẫng. Như một bước hụt vào khoảng không. Thảng thốt đến gần như muốn ngất lịm đi, chàng tưởng rằng cái chốt dù đã sút ra hay đứt ra từ trước rồi. Tim chàng nhói đau, và lồng ngực như trống rỗng vì một sự thất vọng tột cùng. Nhưng rồi toàn thân bị giật một cú thật mạnh đến choáng váng cả người.
Thân người như bị ai ôm ghì lấy. Ngước mặt lên nhìn, chàng thấy hoa dù nở tuyệt đẹp căng phồng, in hình những đám mây vàng ửng của bầu trời bảng lảng lúc hoàng hôn.
Bây giờ mới là lúc chàng ngắm cảnh chung quanh. Mặt trời ở phía ngang tầm mắt. Đường chân trời như được viền một làn sương khói.
À, thì ra đây là khói hoàng hôn, mà các thi sĩ ngày xưa đã tả trong những bài thơ cổ. Nhìn xuống phía dưới, rừng rậm ngút ngàn. Ngay phía chân chàng, là một khoảng trống, có một căn nhà tranh bơ vơ, nằm ở bìa rừng. Mình sẽ hạ xuống ở chỗ này đây.. Một tràng đạn nổ ở phía xa, nơi chiến trận vừa kết liễu.
Tiếng động cơ nổ ầm ầm… rồi một chiếc phi cơ bay vụt qua gần chàng, gió quạt thốc như muốn kéo chiếc dù của chàng bay theo. Tâm ơi, mầy vẫn chưa bỏ tao, để trở về phi trường hay sao ?… Qua một thời gian đi từ biên giới của sự chết để lần mò về với sự sống, chàng tưởng rằng lâu lắm, đâu ngờ, tất cả diễn biến xảy ra, chưa đầy năm phút,
Thời gian là như thế. Có thể dài, ngắn tùy theo sự xúc động của con ngưòi. Chàng thấy Tâm lượn vòng trở lại, chúi xuống, bắn một tràng đạn về phía bìa rừng. “À nó sửa soạn bãi đáp cho mình đây”. Chàng có cảm tưởng như mình là một đứa nhỏ yếu ớt, phải nương tựa vào cánh tay của mẹ, của chị, của anh để bước đi…
Đứa trẻ bước hụt, vấp ngã chỉ u đầu, chảy máu khóc lên vài tiếng rồi nín bặt, rồi quên đi, chập chững bước đi nữa… Nhưng Dương chỉ có được một lần cho cả một cuộc đời. Bước hụt ngã xuống là nằm luôn, không thể ngoi dậy để làm lại. Chiếc phi cơ của Tâm lao vút lên, nằm nghiêng trước mắt Dương. Chàng nhìn thấy cả chiếc nón bay của Tâm trắng xóa.
Rồi Tâm lại lao xuống, quét từng loạt đạn vào nơi ven rừng, tối om đầy bóng cây, xác lá. Tất cả đều im lặng đến lạnh người, chỉ còn lại tiếng động cơ chiếc tàu bay của Tâm, lúc gần thì ào ào, lúc xa thì mơ hồ, và những tràng đạn nổ ròn rã ngay phía dưới chân Dương và cuối cùng, chàng đã thấy mặt đất dâng lên dần.
Chàng đưa mắt nhìn một vòng, để kiếm lấy một sinh lộ. Mặt trời vàng ửng, sắp chìm vào những đám mây thành. Không hiểu rằng bóng tối sẽ giúp chàng hay sẽ làm hại chàng ? Chưa thể biết được. Rừng cây như âm u thêm. Dù có muốn giải cứu cho chàng, thì các bạn chàng cùng không thể làm được. Vậy chỉ có một cách là tự cứu mình trước đã.
Chàng co chân lấy thế khi nhìn thấy cây cỏ vươn cao. Hai chân chụm lại, đầu gối kép chặt để cho cử động được dễ dàng. Chàng hạ người trong một tư thế tuyệt đẹp, lộn nhẹ một vòng rồi đứng lên. Chiếc phi cơ của Tâm bay ào qua đầu chàng rồi một loạt đạn nổ chát chúa, bắn vào rừng cây… Dương gỡ nhanh cây dù, rồi hướng về phía căn nhà trơ vơ nơi khoảng đất trống, chạy như điên…
Chưa bao giờ, Dương chạy mau như thế, kể cả những ngày thi mãn khóa môn căn bản quân sự. Một loạt đạn bắn đuổi theo, nhiều viên đạn cày tung đất phía dưới chân, nhiều viên đạn vút qua gần đến nỗi chàng thấy nóng rát một bên mi. Chàng vẫn chạy những bước dài và dồn dập. Căn nhà không có rào, cửa bỏ ngỏ.
Phi cơ của Tâm lại chúi xuống, bắn một loạt đạn nữa vào bìa rừng. Dương thầm cám ơn bạn, và nhảy xổ vào trong nhà như một làn gió thoảng.
Một tiếng la thất thanh, vang lên rồi tắt nghẽn. Tưởng là một căn nhà bỏ hoang, nhưng không ngờ bên trong cũng có người.
Chàng nằm vội xuống, lăn một vòng tới một góc nhà rồi rút khẩu súng. Nhưng khẩu súng chỉ rút ra được một nửa rồi bàn tay chàng buông thõng xuống. Trước mặt Dương, chỉ có một người con gái và một bà già. Bà già nằm im lìm bất động, gối đầu lên đùi người con gái. Nhìn người con gái, chàng thấy có vài ba nét quen thuộc.
Chắc không phải là dân vùng nầy. Nhưng tại sao, cô ta lại sống ở đây, nơi mà chiến trận đang diễn ra một cách khốc liệt. Mái tóc uốn ngắn, nhưng rối tung như một mớ rơm khô mục nát. Bộ mặt dù lem luốc, nhưng vẫn chưa phai đi một lớp phấn son rẻ tiền.
Những loại con gái nầy, chàng thường gặp ở những nơi ăn chơi không đứng đắn, ở những gốc cây trên những con đường tối tăm như con đường Duy Tân, Trần quý Cáp…
Người con gái la nhỏ :
– Xin ông đừng bắn !
Dương gằn giọng :
– Cô làm gì ở đây ?.
Người con gái nói trong sự sợ hãi :
– Em là hành khách chuyến xe đò. Tới chỗ này thì bị chận lại, rồi hành khách bị lùa vào rừng. Vì em dìu mẹ em đi, bà cụ lại đang đau nặng, nên bị bỏ lại. Từ sáng đến giờ nghe tiếng súng, sợ quá, rồi có tiếng tàu bay, bay ầm ầm trên đầu. Rồi súng lại bắn ngay sát bên cạnh, làm em sợ quá.
Tiếng phi cơ lại rú lên, xẹt qua nóc nhà. Từng tràng đạn lại nổ ròn. Cám ơn, cám ơn Tâm ! Mầy nghĩ đến tao, cố hết sức bảo vệ tao, thì chắc cũng chẳng còn được lâu. Nửa giờ nữa, mầy bắt buộc phải trở về phi trường, đưa tin buồn về tao tới các bạn bè.
Dương nép mình nhìn qua chiếc cửa sổ nhỏ, thấy Tâm bay vút lên rồi vòng lại. Nơi bìa rừng vẫn im lìm, nhưng Dương chắc rằng chỉ ít lâu sau, khi Tâm bay đi, là sẽ xuất hiện vô số những bóng đen, chạy tới đây, quyết định số phận của Dương.
Nhìn về phía sau nhà, cách một khoảng xa cũng là một khu rừng với những đám cây không cao lắm. Nơi đó có vẻ bình yên hơn. Chàng nghĩ đến chuyện chạy tới chỗ đó, nhưng khoảng trống chỗ nầy rộng quá, không hiểu chàng có thoát nổi không. Tình thế này, đối với Dương đã gần như tuyệt vọng.
Nhìn lại người con gái thấy cái tiếng “em” mà cô con gái dùng một cách dễ dàng, chàng chợt hiểu cô ta thuộc vào loại người nào. Chàng hỏi nhỏ:
– Bà cụ làm sao vậy ?
Người con gái nức nở, hai vai rung lên, mặt gục xuống, nói trong tiếng khóc:
– Mẹ em chết rồi!
Dương thấy bàng hoàng sửng sốt. Nhìn vào mặt bà cụ già, chàng thấy một sự bình thản và im lìm. Những người chết già, khuôn mặt thường thỏa mãn như vậy. Chàng lại hỏi :
– Bà cụ chết tự bao giờ ?
– Dạ, từ hơn một giờ trước đây…
Dương ngậm ngùi :
– Xin chia buồn cùng cô….
Người con gái nức nở :
– Sao cuộc đời em lại khổ đến thế này!
Dương móc túi lấy ra gói thuốc. Rất may, gói vẫn chưa rơi mất. Chàng che tay cho bớt ngọn lửa, bật quẹt đốt một hơi thuốc. Chưa bao giờ, điếu thuốc lại ngon đến thế. Chàng hít một hơi đến căng đầy lá phổi, rồi thở một hơi thật dài…
– Em chỉ muốn sống ở nhà quê, nhưng không thể được. Vùng quê em là một vùng bất an. Em đã bỏ vùng quê, lên thành phố một mình, cố kiếm lấy một chút đỉnh tiền, để đưa mẹ em lên, cùng sống với em. Kiếm sống ở thành phố khó quá, nên cuộc đời em đã đi đến chỗ dạn dày…
Người con gái cúi mặt xuống đôi mắt bất động của bà cụ già.
Cũng may là lúc bà cụ chết còn có bàn tay của cô gái độc nhất, vuốt cho khép kín đôi mắt, và được chết trong vòng tay của người thân yêu. Như thế cũng đủ mãn nguyện rồi. Dương đã tưởng tượng thấy người con gái quê, bơ vơ đứng giữa những giòng xe cộ chạy tấp nập nơi thành phố đông người. Đường sá chưa thuộc, chạy từ vỉa hè bên này đường, qua vỉa hè bên kia đường, còn ngập ngừng bước chân, thì làm sao tranh sống.
Như một con chim, chưa đủ lông, đủ cánh đã được vứt tung lên trời cao, để mặc cho mưa gió vùi dập. Dương liếc nhìn người con gái lòng thoáng một chút thương hại …
– Em đã nghiến răng, chịu mọi khổ cực để mặc cho giòng đời lôi cuốn mình đi. Em cố sống, vì nghĩ đến mẹ em suốt cả một đời, không có một ngày được nhàn hạ, kể cả những lúc tuổi già. Em đã làm đến một cái nghề mạt hạng của xã hội để có tiền. Em đã làm điếm.
– Thì cũng đã sao đâu !.
Ngồi yên, mắt nhìn về khu rừng, đăm đăm chờ mọi bất trắc, tới lúc nầy Dương mới thốt ra một câu ngắn ngủi. Tại sao lúc nầy mà chàng còn có đủ trí óc, đủ bình thản để nghe tâm sự của một người con gái không quen biết, lạc lõng tới đây, gặp gỡ nhau trong tình thế tuyệt vọng nầy. Tâm vẫn còn bay trên trời. Có lẽ vì tiết kiệm đạn, nên lâu lâu, Tâm mới chúi xuống, bắn một tràng đạn về phía bìa rừng.
Dương biết rằng, ở trên kia, Tâm rất lo cho chàng. Không chừng, mỗi lần ngón tay của Tâm ấn vào cò súng, là mỗi lần nước mắt lại chảy dài. Tâm và Dương, có lẽ rồi đây chỉ còn lại một người. Cái bàn nhìn ra cửa số nơi Câu Lạc Bộ, rồi đây chỉ còn có một người, ngồi cúi đầu xuống, để thấy đôi mắt mình in lên những tảng mây trắng nõn, thăm thẳm ỡ mãi cuối ly bia đã hết nước đá…
Tiếng thì thầm lại rót vào bên tai :
– Em đã để đành được một số tiền, đã sang lại một cửa hàng nho nhỏ, để hai mẹ con sống với nhau một cách lương thiện. Bởi vậy, em về quê đón mẹ em lên đúng vào lúc mẹ em đang đau nặng. Ở nhà quê thiếu thuốc men, nên em đưa mẹ em về tỉnh để chạy chữa luôn một thể. Không ngờ giữa đường lại xảy ra cảnh này. Vì đã đau nặng từ trước, lại bị thêm vụ này, mẹ em không chịu đựng nổi. Bà cụ đã đi…
Dương nghe những lời nói ấy, chỉ thấy thoảng qua, như một cơn gió… Chàng đang suy nghĩ để kiếm cách thoát thân. Chẳng lẽ cứ ngồi đây, chờ chúng tới bắt, để sống một cuộc đời cả năm không nhìn thấy ánh sáng. Măt trời càng xuống thấp, càng như thu ngắn mạng sống của Dương.
Bóng cây đã dài ra, ánh nắng chỉ còn thoi thóp trên ngọn cây, trên một vài mảnh vá của khu đất trống. Bỗng dưng, chàng thấy bình thản lạ lùng. Chàng muốn chạy ngược về phía bìa rừng kia, nơi những người áo đen đang chờ đợi chàng, bắn cho tới chỉ còn một viên đạn. Viên đạn đó để dành cho chàng. Đưa khẩu súng vào màng tang, nổ một phát là hết chiêm bao, mộng mị.
Nhưng lòng khát sống của con người vẫn mạnh, giữ chân chàng lại…
– Mẹ em chết, em cũng không thích sống nữa.
Dương hỏi lại :
– Bà cụ mất, cô càng được sống thảnh thơi, vậy lại càng phải nên sống chứ ?.
Người con gái thở đài :
– Nhưng sống không có mục đích thì sống cũng như đã chết rồi. Ngày trước, em thèm sống vì em sống là để tìm thấy sự sung sướng nhàn hạ cho mẹ em. Nhưng nay mẹ em chết, cái mục đích ấy đã biến mất rồi. Vậy thì tội gì mà kéo lê cuộc đời khổ ải này mãi. Em muốn đi theo mẹ em.
Người con gái nói về mục đích của cuộc sống… Những lời ấy nói ra làm cho Dương bàng hoàng. Từ trước tới nay, lâu lâu chàng lại bị một ngày trống vắng một cách thê thảm, chỉ vì bao nhiêu câu hỏi dồn dập đập vào đầu óc. Câu thơ của Vũ Hoàng Chương, mở đầu bằng “ta còn để lại gì không?”. Những đứa con gái sống bằng nghề bán vui cho thiên hạ, như người con gái ngồi trước mặt Dương đây, bên cạnh một xác chết, đã nói về mục đích của cuộc đời.
Dương cưòi chua chát :
– Nhiều khi muốn sống hay muốn chết, không thể tự mình quyết định. Như trường hợp của tôi, của cô bây giờ. Tôi chỉ sợ rằng chúng mình muốn sống cũng không được. Chúng nó đã bố trí sẵn sàng rồi.
Người con gái bừng tỉnh để nghĩ tới hiện tại. Từ lúc gặp nhau tới giờ, Dương cũng chẳng hỏi tên người con gái là gì, vì thấy chẳng cần thiết. Mặt trời đã xuống thật thấp, ngang với tầm mắt. Nếu không có tiếng động cơ của chiếc phi cơ mà Tâm đang bay trên trời, thì cái vắng lặng và êm ả của buổi chiều, có thể làm cho Dương phát điên lên. Người con gái hỏi:
– Ông đã quyết định gì chưa ?
Dương không trả lời mà hỏi lại:
– Cô có biết tôi là ai không ?
Người con gái hững hờ :
– Dạ, em biết. Ông là phi công, vừa rớt tàu bay hồi nãy. Lúc tàu bay của ông sắp rớt đã có nhiều người chạy qua đây vừa chạy vừa la rằng phải bắt ông cho bằng được. Không ngờ ông lại nhảy dù xuống chỗ này. Cũng may là họ đã phân tán lực lượng đi, để đón tiếp ông. Nơi chỗ này cũng không đông lắm. Nhưng thoát được cũng là một điều khó.
Măt trời lại nhích xuống bên đưới một chút nữa như thu ngắn thêm mạng sống của Dương. Khi mặt trời khuất vào rặng cây phía chân trời. Dương quyết định sẽ giao hết tánh mạng cho sự may rủi.
Chàng sẽ ráng chạy vượt qua khoảng trống tới căn rừng phía sau nhà. Nếu không có kẻ nào phục kích ở đó thì may ra chàng thoát nạn. Nếu có, thì chàng sẽ phơi thây nơi rừng vắng này.
Nhưng dù sao, chàng cũng có phần nào yên chí, vì hình như kẻ địch định bắt sống chàng hơn là bắn chết. Họ cho là chàng đã như cá nằm trong lưới.
Nếu muốn giết chàng, thì căn nhà bơ vơ và dột nát này, chịu sao nổi một phát B40. Chỉ cần một phát đạn, căn nhà cũng có thể bị bốc cháy và chàng sẽ biến thành con heo quay thơm phức. Chàng nghĩ thầm :
– Chúng mầy không thể toại nguyện được đâu. Nếu thấy đã lâm vào bước đường cùng, thì chúng mầy chỉ có được xác thằng Dương và chẳng bao giờ có được thằng Dương còn sống.
Kinh nghiệm của cuộc đời quân ngũ, đã cho chàng biết rằng, khi đã bị địch cầm tù, thì thà chết còn hơn. Chưa có một trường hợp nào thê thảm bằng cuộc chiến tranh nơi đất nước nầy, mà người chết còn sướng hơn người sống. Nếu may mắn mà được địch phóng thích, thả về, thì cũng được những cơ quan an ninh khai thác đến rách tã người.
Chàng rút nơi túi quần, chiếc mũ “dô-kề” màu đen đội lên đầu, rút khẩu súng ra, kiểm soát lại đạn. Chàng còn hai băng đạn, đủ để giết ít nhất là mười đứa. Kéo mạnh khẩu súng, cho một viên đạn lên nòng..
Người con gái lại nói :
– Xin ông đừng liều mạng.
Dương bình thản :
– Không liều mạng thì cô bảo tôi phải làm gì bây giờ ?
Chiếc phi cơ của Tâm lại bay thấp xuống, xẹt qua mái nhà, bắn vu vơ một tràng đạn. Nhìn vào đồng hồ, Dương thấy rằng phi vụ này đã qua hơn ba giờ. Sắp sửa phải trở về đấy Tâm! Mầy ở lại cũng chẳng giúp gì được tao vì trời cũng sắp tối rồi.
Bóng tối sẽ hại tao, nhưng cũng giúp tao trốn đi. Thôi, mầy về đi! Nghĩ tới chúng mầy, tao muốn khóc lên đây ! Dương bùi ngùi, xốc lại chiếc thắt lưng giây súng. Chàng kéo chiếc “phẹc-mơ-tuya” lên tới tận cổ cho ấm, đội lại chiếc mũ “dô-kề” thật chặt. Chàng chào cô gái một lần chót:
– Thôi, cô ở lại đây ! Chắc chúng nó chẳng làm khó dễ gì đến cô. Hãy cố mà về tới thành phố. Chúc cô thoát được tai nạn này.
Chàng đạp mạnh vào chiếc cửa sổ đằng sau nhà cho lỗ thủng rộng hơn, để đễ dàng thoát ra ngoài. Nhìn khoảng trống dài quá, Dương cũng thấy ngán. Lần đầu tiên, chàng thầm cầu nguyện…
Mặt trời đã chìm vào hàng cây phía chân trời. Bóng tối chụp xuống khoảng rừng thật nhanh. Mới sáng tỏ đó, mà chỉ trong khoảnh khắc, đã tối sầm lại. Dương đứng trong một tư thế thật vững chãi, lưng hơi cúi xuống, ước lượng thời gian để chạy ra khoảng trống, rồi định lao người đi. Chợt bên tai một tiếng gọi lại :
– Này ông !
Sự đứng lại bất chợt làm Dương lao đao, phải vịn tay vào vách đất. Chàng nhìn về phía phát ra tiếng nói. Trong cái bóng tối mờ mờ, mặt người con gái trắng bệch ra, như được nặn bằng sáp, đôi mắt long lanh sáng như mắt thú đêm khuya. Dương gắt khẽ:
– Lại còn chuyện gì nữa đó. Nói mau lên, tôi không có thì giờ..
– Em muốn giúp ông!
Dương đứng thẳng người lên :
– Cô giúp tôi ?… Mà giúp bằng cách nào?… Chuyện nầy không ăn thua gì tới cô. Cô không phải là người cầm súng, nên chắc rằng tụi kia không làm khó dễ gì tới cô đâu. Nhất là tôi chạy ra ngoài rồi, thì chúng nó không ngờ rằng trong nầy còn có cô.
Giọng chàng chợt dịu hẳn lại:
– Ngày mai, bạn bè tôi, thế nào cũng tới chốn nầy. Nếu cô thoát được những trận oanh kích, những viên đạn bắn ra từ hai bên thì chắc chắn, sẽ có trực thăng hạ xuống đây, đưa cô về thành phố. Không chừng xác của bà cụ cũng được mang theo để mai táng cho mồ yên, mả đẹp.
Người con gái thở dài.
– Chết là hết rồi ! Mồ yên mả đẹp mà làm gì ?
– Nhưng mà cô chưa chết, mà không thể nào chết…
Giây phút quyết định đã tới mà ý Dương không thể ngập ngừng được nữa. Chậm một phút là cũng đủ để cho Dương ân hận suốt đời. Chàng chắc rằng, ở phía bên ngoài, thế nào cũng có vài ba bóng đen đang thận trọng bò dần tới căn nhà dột nát này. Chàng phải thoát đi trước khi chúng tới.
Người con gái lại ngập ngừng :
– Em muốn có một kỷ niệm của ông ?
– Một kỷ niệm ? Cô xin tôi một thứ gì bây giờ ? Trên người tôi chẳng có một thứ gì đáng giá để cho cô. Trừ khẩu súng của tôi, cô thích cái gì ?
– Em muốn xin ông cái nón mà ông đang đội trên đầu. Không biết có được không ?.
Trong lúc cần thiết phải đi, mà lần chia tay với người con gái này, là lần vĩnh biệt, chẳng thế nào gặp lại được nhau nữa, chàng cũng chẳng tiếc. Dương lột chiếc mũ, đập nhẹ vào đùi, rồi đưa cho người con gái.
Kỷ niệm ư, kỷ niệm là cái gì, hay chỉ là những ray rứt làm mất ngủ, làm cuộc đời mất đi những chất ưu tư cần thiết để sống ?
Dương rất quí trọng kỷ niệm, nhưng cững ghét kỷ niệm. Người con gái cầm chiếc mũ “dô-kề” màu đen có gắn hai bông mai vàng lấp lánh của Dương, đội lên đầu, cẩn thận vén từng lọn tóc, nhét vào trong chiếc mũ. Rồi trong một phút bất ngờ nhất, người con gái lao mình ra khỏi cửa… Dương bàng boàng gọi giật lại :
– Cô… Đừng có liều mạng !
Nhưng vì không biết tên của người con gáỉ, nên Dương gọi trống không. Dương thở dài vì biết ý định của người con gái ấy. Phía bên ngoài, nổi dậy những tiếng lao xao, ồn ào, rồi súng nổ từng tràng lóc cóc.
Nhìn theo bóng mờ mờ của người con gái, thấy nàng vẫn chạy.
Nhiều tràng đạn vẫn bắn đuổi theo… Không thể nào ngập ngừng được nữa, chàng phóng mình ra ngoài đêm tối, chạy ngược lại với hướng chạy của người con gái. Những tràng đạn bắn từ phía bìa rừng bên kia đỏ rực, nhưng không bay về hướng chàng đang chạy.
Đôi chân chàng như nuốt từng khúc đườngg để tìm vào cõi sống. Lần được vào khu rừng kia, với bộ đồ bay đen của chàng và bóng tối đồng loã, chàng rất dễ có cơ hội thoát thân và chờ sáng. Những hàng cây đã đứng sừng sững trước mặt chàng. Bất chấp gai góc, hầm hố, chàng cứ theo những khe của cây mọc chạy mãi về hướng trước mặt. Tiếng súng vẫn nổ vang rền. Lũ kia vẫn chưa bắt được hay bắn chết được người con gái ấy.
Nhưng rồi thế nào công việc “thoát xác” ấy cững bị bại lộ, để rồi mục tiêu để tìm kiếm lại cũng vẫn là chàng. Nghĩ như vậy, Dương lại cắm đầu chạy, càng xa càng tốt. Rừng cây đầy gai góc, xé rách quần áo, da thịt, nhưng chàng không cảm thấy đau đớn một chút nào…
Dương không nhớ rằng mình đã té ngã bao nhiêu lần. Và cũng không biết trên mình, trên đầu, đã bị bao nhiêu vết thương vì bị gai cào rách, và đập vào thân cây. Chàng chỉ biết chạy về phía đằng trước mặt, chạy để tìm cái sống, để lánh xa cái chết. Rừng cây tối mù mịt. Tuy rằng cặp mắt đã quen nhiều với bóng tối, chàng cũng không biết chân mình đã đạp lên bụi cỏ hay bụi gai, trước mặt là đám cây rậm hay những cây lớn.
Tới lúc mà đám thú rừng, nghe thấy bước chân chàng, vội nhảy vào bụi rậm để trốn, hay đám chim đang ngủ yên trên cành, thấy động, vỗ cánh bay xào xạc, chàng đã biết rằng mình đã xa vùng trận địa.
Lúc nầy, chàng mới đứng dựa lưng vào một thân cây thở hổn hển. Chưa bao giờ chàng thấy mệt như thế.
Nơi vùng chiến trận có tiếng súng giao tranh và sự lẩn khuất của con người, thì thú rừng và chim chóc phải lánh xa. Bây giờ, chàng đã tới vùng có sinh vật, có chim muông, tức là chàng đã tới được nơi không còn bóng dáng kẻ thù. Nhưng kẻ thù của chàng là những kẻ xuất hiện và biến đi rất bất ngờ.
Biết đâu, trong một vài phút nữa đây, chung quanh chàng lại không đầy rẫy những người mặc quần áo đen, những mũi súng chĩa vào người chàng, bắt chàng phải theo họ, sống chui rúc ở những nơi hằng năm không bao giờ nhìn thấy ánh sáng mặt trời.
Vài ba cô chim, vỗ cánh bay lên không trung, rồi lại trở về cành cây, đậu trên đó, tiếp tục giấc ngủ. Tất cả lại trở về yên lặng, chỉ còn nghe thấy tiếng động của rừng khuya.
Tiếng dế kêu rỉ rả một khúc nhạc đều đều, đến nỗi dường như Dương không cảm thấy. Một cơn gió thổi mạnh, lá cây rụng xuống ào ào. Chàng cũng mong có một cơn mưa, nhưng mùa này không phải mùa mưa. Dù có gió nổi, cũng không thể tụ họp được hết những đám mây trên nền trời, để rơi xuống đây một vài giọt nước.
Nghĩ tới nước, chàng bỗng thấy cơn khát ở đâu tự nhiên kéo tới. Và cũng cần thấy đói nữa. Nhưng cái đói, dù sao cũng không mãnh liệt bằng khát. Chàng lắng tai nghe một tiếng róc rách của con suối chảy, nhưng chung quanh, chỉ còn một sự yên lặng mênh mông thật cô đơn.
Chàng muốn bật lên tiếng khóc và cất giọng gọi thật lớn. Tâm ơi!… Phượng ơi !.. Hậu ơi !… Những người bạn thân của chàng, lần lượt kéo về, đi qua trước mặt chàng, đứa nào cũng nhìn chàng với cặp mắt nửa như chế riễu, nửa như thương hại. Chàng nhìn thấy đôi mắt của Tâm, từ trên cao đăm đăm nhìn xuống. Chàng ngửa mặt nhìn trời.
Thằng Tâm vẫn hãnh điện với cái tên của nó bằng một câu trong truyện Kiều “một vừng trăng khuyết, ba sao giữa trời”. Bóng lá che lấp, nên chỉ thấy vài ngôi sao ẩn hiện, như thật gần, mà cũng thật xa. Đêm nay là một đêm không có trăng. Chàng không hiểu đó là một cái may, hay là một cái rủi cho chàng.
Chợt nhớ tới thời gian, chàng nhìn vào đồng hồ. Chiếc kim dạ quang, in lên mặt đồng hồ mầu đen, chiếc kim ngắn mới chỉ vào con số mười. Mười giờ tối, mà chàng có cảm tưởng rằng đã khuya lắm. Con đường mà chàng vượt qua hơn ba giờ đồng hồ, không hiểu là bao nhiêu cây số. Chàng không nghĩ tới nữa. Tiếng thở đã bớt dồn dập, cơn mệt đã lắng dịu. Chàng ngần ngại không biết nên nán lại đây, chờ cho trời sáng, hay tiếp tục đi xa hơn nữa.
Sau cùng, chàng quyết định ở lại. Kẻ thù của chàng, dù sao cũng quen với đêm tối hơn chàng. Ẩn nấp ở một nơi, dù sao cũng còn đỡ nguy hiểm hơn là đi lang thang rồi tự nhiên đâm đầu vào bẫy. Chàng nhìn chung quanh, để kiếm một nơi an toàn. Những cành cây dơ lên như những cánh tay gầy, đu đưa theo từng cơn gió. Chàng sờ lần vào gốc cây. Vỏ cây làm rát bàn tay.
Khi thấy một cây nào lớn, chàng nhìn lên đám lá rậm xum xuê, để kiếm một cho nào, khả dĩ có thể nằm ngủ được qua đêm. Cây của rừng nầy, phần nhiều là những cây mọc thẳng, nên tự lượng sức, chàng biết rằng khó có thể leo được lên tới chỗ có cành mọc xiên ngang. Từ nhỏ, Dương đã không biết leo trèo.
Nhưng rồi sau, chàng cũng kiếm thấy một thân cây, có cành mọc là đà. Ôm lấy cành cây đó chàng đánh du lên trên cành. Còn có một cành nữa, cũng vừa một tầm tay với chàng lại leo lên cành đó.
Nhún thử, thấy cũng khá chắc, chàng dựa lưng vào thân cây, hai chân buông thõng xuống, cảm thấy thật thoải mái. Vài con chim thấy động, vỗ cánh bay và kêu lên mấy tiếng.
Chàng định tháo đôi giày ra cho đôi chân được thoải mái, nhưng lại ngập ngừng. Cứ để đôi giày ở chân, nếu lỡ có chuyện gì thì lại… chạy. Nhưng chạy đi đâu nữa bây giờ?.. Chàng không còn tin ở sức người mà chỉ còn tin ở số mệnh đời mình. Thôi thì cử gửi cho Trời. Chàng muốn cầu nguyện nhưng không thuộc một câu kinh, dù là kinh của đạo Thiên Chúa, hay là Kinh Phật.
Chàng lại thấy hối hận, khi nhớ tới ngày xưa, sáng chủ nhật nào cũng theo Phượng đi nhà thờ. Bao nhiêu chủ nhật, mà không biết lấy một bài kinh. Lúc nào cũng chỉ thoáng nghe bên tai, những câu “lạy Chúa, lạy Cha”. Tự nhiên, chàng buột miệng:
– Lạy Trời !…
Phải rồi, chỉ còn có Trời là giúp được chàng. Dương thầm nhủ như vậy và chậm rãi, cởi từng sợi giây của chiếc giầy.
Không ngờ, đôi giây nầy, chàng buộc lại giây nơi phòng nghỉ, có tiếng máy lạnh rì rầm, có tiếng âm nhạc êm nhẹ, mà nay lại tháo nó ra trong một khu rừng âm u, không có một bóng người. Chàng buộc giây của hai chiếc giầy lại, rồi mắc lên cành cây. Đôi chân được thả lỏng, chàng nắm lấy từng ngón chân cứng đơ, sờ từng chỗ phồng lên mọng nước, lấy tay xoa bóp hai bàn chân mà cảm thấy hai bàn tay ẩm ướt.
Một hồi sau đỡ mỏi, chàng duỗi chân thẳng trên cành cây, ngồi dựa lưng vào thân cây, nhắm chặt đôi mắt. Tiếng động của rừng, như nghe rõ cả bước chân của con heo rừng bước trên lá khô, tiếng bước chân thật gọn và nhẹ. Khi nghe thấy những tiếng động đó, chàng không còn thấy sợ nữa, vì biết sự di chuyển về khuya của kẻ thù thường đông, và thế nào cũng có những tiếng nói chuyện thì thầm…
Chàng thấy bình tĩnh hẳn, khi nghĩ tới sự phó mặc cho định mệnh.
Về khuya, vài tiếng nổ ầm ở gần, ở xa… Nghe tiếng đạn đi và tiếng nổ, chàng biết rằng, đây là tiếng trọng pháo của một đồn bót nào đó, bắn đi một cách vu vơ. Vùng nầy, vốn là một nơi oanh kích tự do. Những lúc không muốn mang bom đạn về phi trường sợ gây nguy hiểm cho những người ở dưới đất, chàng và các bạn chàng, thường tới đây trút hết bom đạn xuống, rồi thảnh thơi bay về.
Không ngờ, hôm nay, chàng lại nằm lọt vào vùng oanh kích tự do. Tiếng “đề-pa” của viên đạn đi rất rõ. Đếm từ lúc đi cho tới lúc đạn nổ, chàng thấy nơi bắn cũng khá xa…
Khi nghe vài tiếng nổ đầu, Dương cũng định nhảy xuống gốc cây nằm dưới đó cho an toàn hơn. Nhưng rồi chàng vẫn ngồi lại. Nếu số mình chết, thì chẳng làm sao tránh được.
Cả một khu rừng rộng mêeh mông này, nếu viên đạn trái phá có rơi xuống gần đây, xé chàng tan xác, thì âu đó cũng là số mệnh. Chàng bình thản chứng kiến những lằn chớp loé sáng, nghe từng tiếng nổ và tiếng cành cày gẫy rớt xuống ào ào, và những mảnh đạn xé gió bay đi. Cuộc pháo kích chỉ lâu chừng một giờ, rồi rừng cây lại trở về yên lặng.
Xa xa, vài đám cháy, ngọn lửa vật vờ không đủ soi sáng tới chỗ Dương ngồi.
Đàn muỗi đói vây lấy chàng đốt những phát đau nhói. Chàng kéo tay áo xuống, lật cổ áo lên. Chỉ còn có hai bàn tay và cái mặt, để cho muỗi đốt. Sợ gây thành tiếng động, nên khi muỗi vo ve bên tai, hay đốt lên mặt, chàng chỉ dám xoa nhè nhẹ.
Chàng không nhìn vào đồng hồ vì sợ thời gian đi chậm quá sẽ không làm cho chàng đủ can đảm ngồi đây chờ sáng. Dương thèm nghe một tiếng chim hót. Chàng nhớ tới một thằng bạn, đóng đồn nơi rừng núi cao nguyên, cũng nói tới cảm tưởng thèm được nghe một tiếng chim hót như chàng. Chiếc đồn, bốn mặt là rừng, như chiếc đồn mà chàng yểm trợ hồi chiều.
Địch lẩn quất ở những cánh rừng ấy, lâu lâu lại làm một cuộc tấn công nhỏ, rồi lại rút vào rừng. Chim chóc và dã thú không thích sống chung với người. Khi con người còn đi lại nơi cánh rừng đó, thì chim chóc và dã thú phải ra đi. Hơn nữa, con người cũng không muốn có những đàn chim, thỉnh thoảng lại bay rung lên, làm lộ mục tiêu di chuyển.
Dương nhớ tới lúc thằng bạn ấy kể, khi nghe thấy tiếng chim hót một buổi sáng, nó đã vùng dậy, chạy hẳn ra bờ rào phòng thủ, mắt long lanh nhìn lên một cành cây, có một chú chim rừng không biết tên, ngửa mỏ lên trời, líu lo hót lên một khúc tuyệt vời, để chợt nhớ ra, ngày đó là ngày hưu chiến.
Bao nhiêu ngày ở thành phố, Dương cũng chẳng nhớ được tiếng hót của những giống chim. Đến như tên những loài chim quen thuộc, mà chàng cũng không biết được hết. Chỉ nhớ được những con bồ cầu, con quạ hay con nhạn mà những ngày giao mùa, thường sà xuống thấp, bắt được một con mồi, rồi lại bay vụt lên trời cao. Bây giờ, chàng thèm nghe một tiếng chim hót, vì có tiếng chim hót, là báo hiệu cho bắt đầu của một ngày.
Chàng đưa tay lên vuốt tóc. Những giọt sương đêm làm ẩm ướt mái tóc và làm lạnh bàn tay. Chàng lại nhớ tới chiếc nón đã cho người con gái nơi nhà lá ven rừng, để người con gái ấy đóng vai Lê Lai, cứu chàng thoát khỏi những viên đạn hận thù. Nước mắt chàng rưng rưng. Lòng chàng chợt bồi hồi, khi nghĩ không kịp hỏi tới tên người con gái. Cả khuôn mặt ấy, chàng cũng chỉ nhớ một cách rất mơ hồ.
Chàng đã có lỗi nhiều lắm, với những người ân của chàng. Dương nghe thấy cả một trời trống vắng dồn lên ngực, thoát ra ngoài bằng một tiếng thở dài. Những cơn gió lộng của rừng khuya như hòa theo tiếng thở dài ấy, để rồi bao nhiêu hình ảnh cứ hiện lên chập chờn mông lung, thoắt biến, thoắt hiện, mơ hồ như trong một bức hình đã lâu đời, mờ nhạt nước men. Chàng thèm hút một điếu thuốc lá, nhưng lại ngần ngại
Bất cứ một hành động nào của chàng, cũng làm cho chàng phải đắn đo cân nhắc. Trong cái bóng tối này, hai bàn tay không thể che được tàn lửa đỏ thuốc lá lập loè. Chất tinh khiết của rừng núi, sẽ đưa mùi thuốc lá đến tận xa. Rất có thể sẽ lọt vào lỗ mũi thính hơi của kẻ thù, đã từ lâu, chỉ hút những điếu thuốc mùi khét lẹt.
Chàng cố nghĩ tới chuyện khác, để quên đi, nhưng gói thuốc lá cứ phồng lên ở trước ngực. Không biết làm sao, chàng xé một nửa điếu thuốc, bỏ vào miệng nhai, nuốt cái chất đắng ấy vào bụng. Chàng thấy tỉnh hẳn ngủ.
Những trận cháy do vụ pháo kích gây ra vừa rồi đã tắt lịm. Rừng cây lại trở về, với cái tối âm u và thầm lặng.
Từ thành phố và rừng hoang, hai nơi xa cách nhau như hai đầu trái đất. Như thiên đường và địa ngục. Như ánh sáng và đêm tối. Dương co hai chân lại gục đầu lên đầu gối, tủi thân với sự cô độc hiện tại. Nhưng rồi đêm tối cũng đi qua một cách yên lành. Rừng cây đã sáng, hiện lờ mờ từng thân cây, bóng lá. Và chàng nghe thấy tiếng hót của một loài chim lạ.
Một đêm, đầu óc căng thẳng, thân xác mệt mỏi, lại không được ngủ, chàng có cảm tưởng như chàng đã là một xác chết, nhưng là một xác chết còn thèm sống. Chàng nhìn quanh một vòng, và vui mừng thấy ở gần chàng, cách chừng vài ba chục thước, có một giòng nước.
Cơn khát hành hạ chàng từ hôm qua, tới nay lại ầm ầm kéo tới. Chàng muốn chạy vội tới giòng suối cúi mặt xuống, nhúng đầu vào giòng suối, uống đầy một bụng nước. Nhưng chàng chợt nhớ tới những câu chuyện đường rừng, có những giòng suối độc, chỉ cần lội xuống cũng đủ rụng hết lông chân. Uống nước trong những giòng suối đó, không chết thì cũng á khẩu. Chàng chế ngự cơn khát bằng những giọt sương đọng trên lá, hay những vũng nước đọng trong những hốc cây. Nhưng giòng suối vẫn đầy hấp dẫn khiến cho chàng luyến tiếc, ngập ngừng không muốn bước chân đi.
Chàng ngồi trên cành cây thấp, nhìn giòng nước đen sì. Giòng nước gần như không buồn chảy. Ánh sáng không đủ rõ để in lên đó một vài bóng lá. Nhìn vào đồng hồ, mới có năm giờ sáng. Giờ này các tiểu thư của thành phố, chắc là đang mơ những giấc mơ đẹp. Không biết có bao nhiêu cặp vợ chồng, thức dậy vào giờ nầy, để làm chuyện yêu đương. Nghĩ đến đó, chàng chợt mỉm cười, và quên đi trong một phút, hoàn cảnh tuyệt vọng hiện tại.
Một bước chân nhè nhẹ đạp trên lá khô, làm cho chàng bàng hoàng, bừng tỉnh. Chàng nhìn về phía có tiếng động, bàn tay đã tự động đặt lên bao súng. Nhưng chàng mỉm cười, vì đó chỉ là một chú nai con, bước đi bằng những bước chân ngơ ngác, rụt rè… Chú nai chậm rãi đi tới giòng suối, cúi mặt soi bóng, rồi gục đầu uống nước tóc tóc…
Mừng quá, chàng nhảy từ cành cây xuống, chạy chỉ ba bước là tới giòng suối. Chú nai con ngước mắt lên nhìn chàng, rồi vùng chạy. Dương không nhìn theo chú nai, mà cúi đầu xuống, uống như muốn cho nước cả giòng suối vào bụng. Nước ôm lấy mặt… Nước luồn vào mái tóc, chảy vào hai lỗ mũi, lùa vào khe mắt. Nước êm dịu quá. Nước đáng yêu quá.
Uống đã đời, chàng vẫn úp mặt vào nước lạnh, lâu lâu mới nghiêng mặt đi một chút, thở phì phì, rồi lại úp mặt lên mặt nước. Chàng biết rằng, giống thú rừng rất tinh khôn. Khi chúng đã uống được, tức là nước không độc. Vì vậy, chàng không nghi ngại, nằm sấp xuống bờ cỏ, áp mặt vào nước, để cảm thấy mềm mại, mát dịu hơn cả những khuôn mặt đàn bà.
Trời sáng mờ mờ, bỗng tối sầm lại. Trước khi bình minh trả cảnh vật lại cho ánh sáng mặt trời, thường có những phút tối thẩm hẳn lại như thế nầy đây. Chàng cởi áo bay, buộc chung với đôi giầy, cầm tay, dơ lên cao rồi lội xuống suối. Nước thật lạnh, ôm lấy chân, lấy bụng. Lội tới ngực, chàng trầm mình xuống.
Một vài con cá, rỉa vào chân, vào bụng, gây một cảm giác nhột nhạt. Chàng thấy tỉnh hẳn, như không còn một chút mệt mỏi nào. Dơ cao những vật dụng cần thiết, chàng hụp dần xuống cho nước ngập quá đỉnh đầu, và nhớ tới những ngày thuở nhỏ, còn thích tắm sông…
Khi chàng trồi lên khỏi mặt nước thì ánh sáng tràn vào lóa mắt. Tia nắng đầu tiên trong ngày, chạy dài từ chân trời trước mặt, chiếu thẳng tới mặt chàng.
Từ lâu, Dương vẫn thèm nhìn cái ánh nắng đầu tiên trong ngày, nhưng đã mấy năm nay, chàng chưa có dịp thưởng thức. Cũng có nhiều lúc đi bay vào sáng sớm, nhưng lúc mặt trời lên, là những lúc chàng đang mê mải với chiến trận. Không phải là lúc hoàn toàn nhàn rỗi như bây giờ.
Chàng đi lần về phía bờ bên kia. Đặt quần áo và vật đụng lên bờ cỏ, chàng nắm một chiếc rễ cây mọc thành chùm, lơ thơ phơ phất trên giòng nước, đánh đu một phát, nhảy lên bờ.
Trong cái lạnh tê người, Dương mới thấy xót xa ở những chỗ trên thân thể, bị gai cào rách. Chàng đưa bàn tay xuống xoa nhè nhẹ. Nặng nhất là ở hai đầu gối. Nhưng cũng chẳng có gì quan trọng.
Những giọt sương đọng trên lá rơi lộp độp xuống nước, kéo theo vài chiếc lá ẩm ướt. Chàng mặc quần áo thật chậm. Chiếc áo bay của chàng đã nhiều chỗ bị rách vì cơn chạy mê loạn chiều hôm qua. Lúc này, chàng mới thấy bâng khuâng, không biết sẽ đi về hướng nào.
Tấm bản đồ, chàng đã để lại trên phi cơ. Với lại miền rừng hoang này, có tấm bản đồ chỉ càng thêm rối trí.
Ở trên cao có hướng bay riêng biệt, mới cần tấm bản đồ để giữ đúng đường bay. Còn ở đây, không có một chút gì được gọi là sự giúp đỡ của cơ giới. Chỉ có đôi chân để đi, đôi mắt để nhìn, và đôi tai để lắng nghe từng tiếng động…
Chàng nhớ tới một câu chuyện xảy ra lâu lắm, từ ngày chàng còn là một sinh viên sĩ quan, thụ huấn tại quân trường Nha Trang. Ngày đó, có hai phi công người Pháp, lái một chiếc Piper-Cub, bị rớt trên đường từ Pleiku về Nha Trang. Sau một hồi nhìn bản đồ để đò dường, thấy bản đồ chỉ ghi núi rừng trùng điệp, hai người ấy đã giận dữ xé nát tấm bản đồ, rồi tự tìm đường bằng sự may rủi.
Hai ngày đi lang thang rồi lại trở về nơi cũ, vẫn còn dấu tích mảnh giấy vụn của tấm bản đồ bị xé. Quá thất vọng, hai người ngồi chờ chết. Thêm mấy ngày đói lả, rất may gặp một người thiểu số đi kiếm măng, kiếm nấm. Hai người được dẫn đi, chỉ trong có nửa giờ đã tới một khu làng mạc đông đúc và thoát nạn.
Câu chuyện đó, giờ đây ám ảnh Dương. Thời của hai anh chàng Tây chủ đồn điền cao su ấy, lái tàu bay Pipei-Cub, là thời mà đất nước này được sống một khoảng thời gian ngắn thanh bình. Trong rừng không có bóng đáng những người áo đen. Thấy người là mừng và đã coi như thoát nạn. Nhưng bây giờ, những sự nguy hiểm xảy tới với Dương, không những là thiên nhiên, dã thú, mà còn cả con người. Thấy người lại càng phải trốn tránh, vì chưa biết họ sẽ đối xử với mình ra sao.
Sau một hồi suy nghĩ, chàng quyết định đi về phía mặt trời mọc. Những ngày ở quân trường, mỗi buổi sáng phải thức dậy tập thể dục, chàng thấy mặt trời mọc về phía biển. Đi về phía mặt trời mọc, là đi về phía biển.
Mới đầu, chàng cũng định đi ngược về phía con đường đã chạy chiều hôm qua, vì phía đó là quốc lộ có đồn bót, nhưng lại nghĩ rằng, chiến trận mới xảy ra chiều qua. Những tàn phá vẫn còn âm ỷ cháy, dù có tới quốc lộ, cũng chẳng thể nào có được một chiếc xe đò dám chạy vào lúc này. Đấy là chưa kể đến sự đụng đầu với địch. Dù có tới được đồn bót, thì cũng không ai tin chàng, để cho chàng trú ngụ chờ đợi người giải cứu.
Đi về phía biển, con đường xa hơn, nhưng cũng an toàn hơn .Những làng mạc, những thị trấn, đều được thiết lập dọc theo vùng biển. Chàng cũng định đi theo con suối, vì theo như sách vở, thì cạnh những con suối, bao giờ cũng có dân chúng sống rải rác… Nhưng kẻ địch của chàng, cũng sống nhờ vào nước suối nên cạnh những con suối, rất có thể có những bộ chỉ huy của địch quân.
Nắng đã lên cao. Nhìn quanh một vòng, thấy không có gì khả nghi, chàng bước đi theo hướng mặt trời. Chàng tránh những lối mòn, băng đi vào những nơi gai góc. Khi thấy một cành cây tươi bị gẫy, vừa với một tầm người, hay lá cây tươi rụng ở một nơi nào hơi nhiều, là chàng ngừng lại, thận trọng nghe ngóng.
Có thể những cành cây tươi hay lá cây tươi, bị gãy rụng đó, chỉ vì một con dã thú nào đó vừa đi qua. Nhưng cũng vẫn làm chàng hồi hộp và lo sợ. Từ chiều hôm qua cho tới bây giờ, khẩu súng vẫn còn nằm im trong bao da. Chàng chưa bắn một viên đạn nào…
Đã hai ngày rồi, Dương lang thang trong rừng hoang, chưa tìm được lối ra. Chàng vẫn đi về hướng mặt trời mọc. Chàng đã ăn đủ các thứ trái cây, nhất là những thứ trái cây còn dấu vết của mỏ chim. Chàng cũng chỉ là một thứ sinh vật. Tự nghĩ như vậy, nên khi thấy chim ăn những thứ trái cây nào, là chàng cũng ăn thứ đó. Có nhiều trái cây, trông bề ngoài thì ngon lành lắm nhưng vừa cắn vào miệng đã phải vội nhổ ra vì đắng quá.
Không phải ở nơi nào chàng cũng gặp một con suối lành như ngày đầu… Chàng phải uống nước ở những vũng bùn, mà lúc uống xong rồi, nhìn lại vũng nước mới thấy sợ ! Nước thì đầy chất rong rêu, những con bọ nhỏ li ti, bơi lội lăng quăng.. Lúc khát, chàng cũng chẳng cần biết, nhưng lúc đã qua được cơn khát, thì chàng lại nhớ tới những bài học về vệ sinh hồi nhỏ. Chàng nhếch miệng cười một cách ngao ngán.
Những bài học ở trường, kể cả ở quân trường, chẳng giúp gì được chàng trong lúc này. Có nhiều lần chàng cũng thấy vài ba chiếc phi cơ, bay xẹt qua đầu, nhưng không sao có thể làm dấu hiệu để cầu cứu. Tiếng động cơ quen thuộc ấy ầm ầm lên một thoáng, làm cho chim chóc bay tán loạn, đám thú rừng chạy nháo nhác, rồi rừng hoang lại trở về vắng lặng, trả lại sự cô đơn cho riêng một mình Dương, với đôi chân và đầu óc quá mệt mỏi.
Đêm thứ nhì cũng là một đêm thật dài. Rồi đêm thứ ba. Dương cũng khắc khoải chờ sáng, cả một ngày, chỉ có một lúc vui nhất là nghe tiếng chim hót buổi sáng. Như một khúc nhạc reo mừng của kẻ đắm tàu nhìn thấy xa xa, một hải đảo. Ánh sáng đuổi đêm đi, để cho Dương lại lên đường, rồi lại hy vọng, lại thất vọng với tiếng động cơ trên trời, nguyền rủa lũ bạn bè, chửi thầm bâng quơ tất cả mọi người.
Nhiều lúc quá chán nản, Dương nghĩ rằng ai ai cũng bỏ rơi chàng, mặc cho chàng tự sinh, tự diệt. Nhưng rồi nhớ lại, những lần mà mình bay ở trên trời, với rừng cây rậm rạp như thế này, làm sao mà nhìn thấy một bóng người khuất trong bóng lá. Nhiều khi thấy có một bãi đất trống, Dương cũng muốn chạy ra đó ngồi chờ một chiếc phi cơ bay ngang qua, để làm dấu hiệu cầu cứu, nhưng lại không dám.
Chưa chờ được người tới cứu, thì chắc sẽ chết vì những viên đạn của kẻ thù. Nghĩ như vậy, nên chàng lại đi về phía biển, để mong tới được một nơi đông dân cư, một quốc lộ để có thể đón xe đò, đi về đơn vị.
Tới ngày thứ ba, trong không khí mà Dương thở, đã thấy phảng phất mùi muối mặn. Gió thổi đã lộng hơn. Nhìn xuống bước chân, Dương đã thấy có lẫn nhiều hạt cát. Mừng quá, thu hết sức tàn, chàng chạy về hướng gió thổi. Cây cối quang đãng hơn, khoảng trước mặt đã ít bị chắn lối.
Chừng hơn một giờ sau, chàng, nghe thấy tiếng sóng biển vỗ vào ghềnh đá, một âm thanh thật quen thuộc mà những đêm mất ngủ ở quân trường, chàng thường nằm lắng tai nghe. Rồi chỉ một lát sau vùng trời như được mở ra ở trước mặt, thật chói sáng và xanh ngắt một màu.
Biển như dính liền với chân trời. Trước mặt không một hòn đảo nào che khuất nên sóng ở đây thật lớn đập vào ghềnh đá rồi bắn tung bọt lên trắng xóa. Bãi biển ở đây, cũng chưa có được một vết chân người. Có lẽ Dương là người đầu tiên đặt chân tới dây. Ngoài khơi, không một bóng dáng con thuyền nào lai vãng. Chắc đây là một vùng biển dữ.
Quá mệt mỏi, chàng cởi chiếc áo bay, đặt trên cát lấy đá chặn lên hai ống quần, hai tay áo. Rồi kiếm một tảng đá, chàng nằm xuống. Cơn ngủ ở đâu kéo tới, đè nặng xuống đôi mắt Dương..
Trong giấc ngủ, Dương đã mơ thấy một con mơ dữ dội. Chàng thấy mình bị quỷ bắt được, hành hạ chàng bằng cách rút từng chiếc móng tay, móng chân cắt dần dần da thịt chàng. Bao nhiêu ngọn roi, bao nhiêu gót giày quất lên mặt chàng. Thân hình chàng quằn quại đau đớn. Chàng gào thét chửi rủa. Chàng đã vùng ra được rồi chạy nhưng đằng sau chàng, lũ quỷ đuổi theo rầm rập.
Cuối cùng, chúng lại bắt được chàng. Lần này chúng trói chàng vào một tảng đá, leo lên một ghềnh đá cao ngất để ném chàng xuống biển…
Chàng tỉnh dậy vào lúc đó. Dư âm của cơn mê hãi hùng vẫn chưa tan. Mà sao lạ, chàng cũng thấy chàng được khiêng đi, thân người vẫn rập rình theo những bước chân. Quá hoảng sợ, chàng vùng dậy, nhảy xuống đất để chạy. Nhưng có một người đã chận chàng lại, ôm chặt lấy chàng. Vùng vẫy, nhưng đôi cánh tay càng siết chặt hơn.
Trong lúc tuyệt vong nhất, chàng mở bừng đôi mắt, để nhìn thấy đôi cánh bay trắng xóa trên ngực người đó. Ngước mắt nhìn lên, bắt gặp đôi mắt và khuôn mặt của Tâm lặng lẽ mỉm cười. Lúc đó chàng mới nghe thấy tiếng động cơ của chiếc trực thăng đang quay cánh quạt chầm chậm.
Mừng quá, chàng khuỵu hai đầu gối xuống cát, rồi ngất đi.
CHƯƠNG V
Lúc Dương tỉnh dậy thì chung quanh sặc mùi thuốc. Chiếc giường nệm thật êm. Không muốn mở mắt ra nhìn cảnh vật chung quanh vì lười biếng, và để thử lại thính giác, chàng cố phân biệt từng tiếng động nhỏ. Có lẽ bây giờ đang giờ làm việc nên vắng lặng. Lâu lâu, vẳng tới tiếng động cơ xe gắn máy.
Tiếng sắt chạm vào pha-lê kêu lanh canh ở những phòng bên cạnh. Và chợt có một bàn tay mát lạnh đặt lên trán Dương.
Mở mắt ra, chàng thấy khuôn mặt Phượng lồ lộ, sát xuống thật gần. Bàng hoàng trong một giây chàng mỉm cười. Chàng gọi khẽ:
– Phượng !…
Có tiếng Tâm reo lên :
– A, nó tỉnh rồi!
Dương xoay người nghiêng ra phía ngoài. Chàng thấy Tâm ngồi ở một chiếc ghế xa-lông, tay đang cầm tờ báo. Cạnh đó, cũng có một người con gái, nhìn nét mặt hao hao giống Tâm, nên Dương đoán rằng người đó là Thư Hương. Còn Phượng thì đứng ở bên giường. Chàng hỏi Tâm :
– Mầy tới từ hồi nào vậy
– Từ lúc khiêng được mầy tới đây…
Tâm đứng đậy, đi về phía Dương, ngừng lại rồi ngắm nhìn Dương bằng một cặp mắt soi mói. Dương cũng trừng mắt nhìn lại, nhưng không chịu nổi đôi mắt mở lớn, và nụ cười nửa miệng như chế diễu của Tâm. Chàng nhìn về phía cô gái còn ngồi đó, rồi hỏi:
– Ai ngồi đó, mà mầy quên không giới thiệu ?
Tuy rằng đoán biết đó là em gái Tâm, nhưng Dương vẫn hỏi như vậy. Người con gái đứng lên tự giới thiệu:
– Em là Thư Hương, em gái của anh Tâm. Em biết anh là anh Dương mà. Hồi em học Đệ Tứ, em có học anh môn Việt Văn. Anh giảng truyện Kiều thì tụi em ngồi phía dưới, nghe muốn mê luôn.
A, đứa con gái này cũng là một đứa dễ thương. Dương tự nghĩ thầm như vậy. Chàng rất kỵ những cô em gái của bạn, những đứa con gái đỏng đảnh xấc láo, lúc nào cũng làm những điệu bộ ra cái điều tiểu thư khuê các. Với chàng, thì em gái của bạn, cũng là em gái của chàng. Nhưng nếu là em gái thật của chàng thì chàng có quyền bạt tai, đá đít, mỗi lúc thấy chúng làm những điệu bộ ngứa mắt.
Nhưng là em gái bạn, dù có muốn coi như em gái mình cũng không thể nào “thân mật” đến như vậy được. Bởi vậy khi thấy đứa em gái bạn nào tỏ ra hơi hỗn láo, là chàng lạnh nhạt và lánh xa ngay.
Căn phòng của bệnh viện có vẻ ấm cúng. Một chiếc giường, hai chiếc ghế xa-lông, một cái bàn viết được trưng bày gọn ghẽ. Nếu không có vài dụng cụ của nhà thương, tấm bảng hồ sơ bệnh trạng treo ở cuối chân giường, thì nơi đây có vẻ như một căn phòng khách sạn. Tâm thân mật, kéo tay Dương:
– Đồng nghiệp của mầy đấy !
Dương ngạc nhiên :
– Tại sao lại là đồng nghiệp của tao?…
– Thư Hương đang học ở Đại Học Sư Phạm. Còn hai năm nữa thì ra trường, đi làm cô giáo. Ngày trước, mầy cũng đã làm thầy giáo, thì nó là đồng nghiệp của mầy, chứ còn gì nữa…
Dương thở phào một tiếng. Đã từ lâu, chàng đã quên cái nghề cũ của mình là một thầy giáo. Chàng chỉ nhớ đưpc cái nghề hiện tại, cái nghề lái tàu bay đi bắn súng đùng đoàng, mà cái nghề ấy, chút xíu nữa đã giết chết chàng, như vừa mới xảy ra mấy hôm nay. Chàng nói với Thư Hương :
– Đàn bà, con gái đi đậy học thì đẹp lắm. Chứ đàn ông con trai như anh Dương của cô mà đi dậy học thì yếu quá. Bởi vậy tôi đành làm một phát ly dị không một chút luyến tiếc. Bây giờ thì đồng nghiệp của tôi là thằng Tâm khốn nạn nầy…
Tiếng của Phượng thật trong trẻo như tiếng cầu kinh :
– Phượng cũng không thích anh làm nghề dạy học. Là con trai, phải làm một cái nghề gi cho hùng một chút chứ. Không hiểu sao, Phượng cứ có ác cảm với mấy anh thầy giáo, mặt thì non choẹt mà mặc áo sơ mi gài ” măng-sét” cẩn thận, cổ còn lủng lẳng cái cà-vạt. Lái tàu bay như các anh là… nhất…
Tâm reo lên :
– Có phải chính là Phượng đã nói câu đó hay không ? Phượng hãy thử nhắc lại cho ta đây cảm động một chút nào ! Cứ nói nữa đi Phượng…
Tiếng cười vang lên trong căn phòng bệnh. Người cười tươi nhất là Phượng. Cái cười của Thư Hương lặng lẽ. Hình như từ nhỏ cho tới bây giờ, Thư Hương chưa được dịp nào ở gần những “ngưòi lớn con nít” như thế nầy. ” Đời cô bé rồi sẽ khổ” Dương vẫn tin một chút vào tướng số. Nhìn khuôn mặt u sầu của Thư Hương, Dương bỗng thấy tràn ngập lòng thương.
Một cô y tá đẩy cửa bước vào, trên tay bưng một cái khay đủ dụng cụ nhà nghề, có thể làm dựng tóc gáy những kẻ nào sợ chích như Dương. Cô y tá lấy làm ngạc nhiên khi thấy trong phòng bệnh mà lại vang tiếng cười, vui như trong phòng trà. Bằng một giọng êm dịu giả tạo, cô hỏi Dương :
– Trung úy đỡ được chút nào không ?
Dương nháy mắt:
– Tôi có bệnh gì đâu ? Bây giờ, chỉ có một bệnh rất nặng, đó là bệnh … đói.
Cô y tá vẫn dịu dàng :
– Để tôi nói lao công mang cháo lên cho Trung úy.
– Không, tôi không ăn cháo. Ăn cháo hay uống sữa, sợ bị hóc. Cô làm ơn nói với Câu Lạc Bộ của Bệnh viện, cho tôi một miếng “bí-tết” có khoai tây, có “xà-lát”. Mà là “bí-tết đúp” đấy nghe không, nàng tiên của bệnh viện!
Cả ba người ngồi cạnh bệnh nhân, sau câu nói rất hùng hồn của bệnh nhân, đều ôm bụng cười. Cô y tá lúc đó mới biểu diễn vài nét chua ngoa. Cô nguýt một cái, tưởng như nghiêng cả mặt đất, mở cửa đi ra, rồi đóng cửa lại một cách mạnh tay. Lúc ra, cô quên không mang theo cái khay dụng cụ đồ nghề.
Tâm nói, sau khi dứt tiếng cười:
– Đấy Phượng coi. Nó, còn nói đùa nói hỗn được như thế, mà cứ lo nó chết. Những thằng lái tàu bay, một là tan xác, hai là còn nguyên vẹn, ít khi nào xảy ra vụ phải xếp loại cấp độ tàn phế. Phượng đừng có lo, nó vẫn có thể làm chồng được một cách rất tận tình, và hung hãn.
Phượng la lên :
– Anh Tâm ăn nói nham nhở quá !.!.
Lúc nầy, Dương mới thắc mắc về sự có mặt của Phượng nơi căn phòng bệnh viện nầy. Những ngày trốn chạy trong rừng để tìm cái sống, những đêm chờ sáng dài dằng dặc, lúc nào Dương cũng nghĩ tới Phượng nên khi Phượng hiện ra, bàn tay mát dịu đặt lên trán chàng, khuôn mặt cúi xuống, chàng không ngạc nhiên với sự xuất hiện của Phượng.
Nhưng tới bây giờ, nhớ lại tất cả những chuyện đã qua, chàng mới thấv ngạc nhiên. Phượng vẫn đẹp như ngày xưa. Cũng vầng trán thanh tú, vài lọn tóc lòa xòa trước trán, vẫn đôi môi cười nhí nhảnh, cũng vẫn đôi mắt tinh nghịch. Nhưng nhìn kỹ lúc Phượng cười, Dương thấy vài nét nhăn lờ mờ sau đuôi khóe mắt. Thời gian ấy vậy mà đã năm năm.
Biết ý Dương, Tâm bèn giải đáp thắc mắc :
– Lúc thay bộ đồ bay của mầy để mặc bộ đồ xanh bệnh viện, tao móc hết các túi của mầy để kiểm soát, thì thấy lá thư của Phượng, lá thư mà mầy đã cho tao đọc ở Câu Lạc Bộ. Nhìn thấy địa chỉ của cô bé ghi trong thư, tao bỗng nảy ra ý kiến là thử tới đó báo tin về mầy xem sao. Cô nàng khóc như mưa, như gió đòi tới thăm mầy ngay tức khắc. Tao chờ cô nàng thay quần áo 5 phút, một tốc độ kỷ lục của người đàn bà lúc ra khỏi nhà. Tới đây rồi mà cô nàng vẫn khóc, chỉ sợ mầy chết.
Phượng bĩu môi :
– Phượng mà khóc à ? Còn khuya !…
Phượng vẫn còn giữ được cái lối trả lời trẻ con như dạo nào. Thì Phượng vẫn còn trẻ con lắm, mới có hăm hai tuổi. Dương lại hỏi:
– Thế cô Thư Hương ?.. tới chỗ lính đói làm cái gì ?
Tâm trả lời hộ Thư Hương :
– Còn Thư Hương thì cũng đòi vào thăm thầy giáo cũ của nó, coi xem trong mấy năm, nhà binh nó hành ông giáo của nó có khác gì ngày xưa không ?… Nó kể về chuyện dạy học của mầy lúc trước, làm tao lại thấy giận mầy. Nhiều chuyện hấp dẫn như thế mà cứ kín tiếng…
– Mầy còn kín tiếng hơn tao nữa…
Cô y tá lại đẩy cửa đi vào, theo sau đó một đứa nhỏ của Câu Lạc Bộ, mang theo một cái mâm, trên có một miếng “bí-tết” to tổ bố, thêm một đĩa khoai tây và “xà lát”. Dao, nĩa bày bên cạnh rất gọn gàng. Vừa nhìn thấy những thứ đó, Dương đã thấy nước miếng ứ lên đầy miệng. Nếu không có Phượng và Thư Hương ở đây, chắc chàng cũng đùa cô y tá vài phát cho vui.
Chàng định làm ra cái điều mệt mỏi, để cho cô y tá phải đỡ chàng ngồi đậy, khi ngồi dậy được nửa chừng, chàng sẽ vùng lên cho cô y tá hụt tay, rồi tung mền chạy một mạch đến bàn ăn. Đóng được màn kịch đó chắc chàng và Tâm sẽ được một bữa cười thỏa thích nhưng bây giờ, có Phượng, có Thư Hương nên chàng không dám làm như vậy.
– Trung úy ngồi dậy được không ?
Tâm cười :
– Cô làm ơn đỡ nó dậy một chút !
Tâm nhìn Dương nháy mắt nhưng Dương lờ đi, không muốn đùa rỡn nữa. Chàng ngồi dậy đi ra phía bàn, kéo ghế ngồi. Chàng cắt từng miếng thịt lớn, lưỡi dao đi thật ngọt. Chưa bao giờ chàng ăn một miếng “bí-tết” ngon như thế. Xé mẩu bánh mì, chàng lau sạch chiếc dĩa đến bóng loáng.
– Ăn như mầy thì chó của Câu Lạc Bộ nầy không còn sơ múi được gì…
Tuy rằng nói thế, nhưng thấy Dương ăn khoẻ như vậy, Tâm rất mừng. Đã mấy ngày nay, chàng đã lo nhiều cho Dương, nhiều khi muốn phát khóc. Khi Dương còn kẹt nơi căn nhà lá ven rừng, mỗi lần kéo phi cơ lên, khuất bóng căn nhà ấy, không được nhìn thấy nó, Tâm lại bồn chồn lo sợ.
Chỉ lo rằng, kẻ địch lợi dụng lúc chàng không bảo vệ được, mà chạy tới đó, bắt đi người bạn mà chàng thương nhất, yêu nhất. Lúc trời tối, không còn nhìn thấy cảnh vật gì ở dưới đất, chàng vẫn còn lượn vòng ở trên cao nhìn xuống. Thấy đạn lửa xiên ngang trong bóng tối ven rừng, chàng đã khóc, coi như số mạng của Dương đã tuyệt rồi.
Những ngày hôm sau, ngày nào chàng cũng ngồi trên phi cơ để tìm kiếm. Khi tìm thấy Dương, đưa được Dương về bệnh viện, chàng mới chạy về thăm nhà, để có được người thân, nói được hết sự vui mừng…
Dương hỏi Tâm mà mắt liếc nhìn Thư Hương:
– Mầy về nhà vui vẻ chứ ? Ông cụ, bà cụ đã trách móc câu nào chưa ?…
Lúc này, Tâm mới chớp mắt thật buồn:
– Tao đã để ông cụ, bà cụ được nói câu nào đâu. Vừa về đến nhà, tao đã nói về chuyện của mầy. Bởi thế, cả nhà cứ rối loạn lên vì cái thằng mầy, bị bắn rớt tàu bay lạc trong rừng ba ngày, ba đêm mà không chết.
Tâm ngừng ngay câu chuyện, vì chợt nhớ ở trong phòng này còn có người lạ. Phượng và Thư Hương không phải là người lạ. Mà người lạ là cô y tá và chú nhỏ của Câu Lạc Bộ, đang chờ cho Dương ăn xong để dọn dẹp. Lúc Dương ăn tới mẩu bánh mì cuối cùng, cô y tá hỏi:
– Trung úy có cần chích thuốc không ?
Dương lắc đầu :
– Không… Xin cô nói với Bác sĩ cho tôi xuất viện. Cô đã chứng kiến tôi ăn uống như thế nào rồi đó. Khoẻ như tôi, mà cứ nằm ở đây, thì tôi rất lo sợ cho cô… Cơm no, ấm cật…
Dương kìm hãm được một lời nói đùa thật nham nhở. Cái tật của lính tàu bay là nói chuyện với đàn bà con gái, không khác gì nói chuyện với đàn ông con trai. Cô y tá và chú bé đi ra khỏi phòng. Dương đưa tay ra mở thật rộng cánh cửa sổ. Nắng bò vào tới nửa căn phòng, lấn cả tới chỗ Dương nằm.
Ngày hôm nay, trời thật đẹp. Dương muốn chạy ra ngoài nắng, leo lên cây trứng cá mọc la đà ngoài sân, hái những trái trứng cá màu đỏ sậm mọng nước. Nhìn vào tấm gương treo ở trên tường, chàng thấy hiện ra khuôn mặt của chàng, với bộ râu ria rậm rạp. Chàng trách Tâm:
– Sao mầy không đem dùm tao vài lưỡi dao cạo, để tao sửa soạn lại nhan sắc ?
Tâm cười:
– Mầy để râu ria như thế này trông đẹp trai hơn. Tao đề nghị là mầy nên giữ bộ râu nầy để làm kỹ niệm những ngày ở trong rừng. Tao phục mầy lắm. Từ chỗ mà mầy rớt tàu bay, tới chỗ chúng tao lượm được mầy lên, quãng đường ít ra cùng tới gần một trăm cây số. Với ba ngày mà mầy vượt được quãng đường đó, mà lại là đường rừng, tao chắc rằng, nếu chịu khó tập luyện, mầy có thể đoạt được kỷ lục về đi bộ.
Phượng nhí nhảnh :
– Lúc nào anh Dương phải kể chuyện vượt rừng của anh cho Phượng nghe. Chắc là hấp dẫn lắm.
Dương để ý rằng từ lúc nãy tới giờ, Thư Hương nói rất ít. Cô bé chỉ nói có một câu, khi được Dương hỏi tới. Còn thì từ lúc đó đến bây giờ cứ im lặng, lâu lâu chỉ cười nửa miệng. Màu áo của Thư Hương mặc, cũng là một màu tối, khác hẳn với màu áo đỏ đến nhức mắt của Phượng.
Ngày xưa, Dương đã hỏi Phượng có bao nhiêu chiếc áo. Lúc nào cũng chỉ thấy Phượng mặc áo màu đỏ. Tên của Phượng mang hình ảnh một loài hoa chói sáng mùa hè, nên Phượng muốn làm cho chiếc áo đỏ thành một dấu hiệu của Phượng…
– Cô Thư Hương có vẻ ít nói. Ngồi với chúng tôi, chắc bực mình lắm ?
Lần thứ hai, Dương được nghe tiếng nói của Thư Hương :
– Em đâu có bực mình. Cũng muốn nói chuyện lắm, nhưng chẳng có chuyện gì để nói. Ngày anh Tâm ở nhà, anh ấy cũng câm lặng như em, không hiểu sao đi lính có mấy năm mà đấu kỹ quá.
Tâm trở lai nét măt buồn :
– Anh muốn đưa em ra khỏi cái không khí câm lặng của gia đình chúng mình, để em được vui đùa đúng với cái tuổi của em. Nhưng mầy lại là con gái, nên hơi kẹt. Nhưng thôi, từ giờ tao với thằng Dương và Phượng sẽ về nhà luôn luôn, quấy phá nghịch ngợm cho loãng cái không khí đặc sệt ấy đi. À, này Dương! Bà cụ mời mầy với Phượng, hôm đầu tiên ở đây ra, phải về nhà ăn cơm đấy.
– Đồng ý!
Tâm nói tiếp :
– Bà cụ nhà tao cũng có quen với bà cụ nhà mầy. Khi tao kể đến mầy, con của bà Tham Cảnh, là bà Cụ tả được mầy ngay. Bà cụ cũng nói rằng khi di cư, cũng có rủ bà cụ của mầy cùng vào nhưng vì thương hai thằng anh của mầy mới ở ngoài kia về, nên bà cụ nhà mầy ở lại, có đúng như vậy không ?
Dương ngồi bó gối trên giường, cố nhớ lại những chuyện xảy ra rất xa… Hai người anh của chàng, đi theo kháng chiến từ những ngày chàng còn bé lắm. Lâu lâu lại nhắn người về nhà xin tiền. Có nhiều lúc bốc đồng, chàng định đi theo người liên lạc, ra ngoài đó thăm anh, nhưng nghe người liên lạc nói rằng xa lắm, mãi tận đất Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, đôi chân của chàng nhỏ quá, không đi bộ tới được, chàng lại thôi. Những lời Tâm nói, gợi cho Dương nhớ tới gia đình, còn sống ở ngoài kia, mà không biết bao giờ, chàng mới gặp lại.
– Bà cụ định làm một bữa cơn sum họp gia đình. Có tao, mầy, Phượng, Thư Hương và chồng sắp cưới của Thư Hương
– Hương sắp lấy chồng ?.
Thư Hương e lệ, gật đầu một cách ngoan ngoãn :
– Dạ !…
– Người hùng làm nghề gì ?
Cô con gái ngước mặt lên một cách kiêu hãnh :
– Dạ, thưa anh Hoạt đang học Y khoa và sắp sửa ra trường.
Phượng reo lên một tiếng thật vui :
– A, hoan hô ! Cô giáo mà lấy ông Đốc thì đẹp đôi quá rồi. Chúng mình cần phải ăn cho nhiều, uống cho say để mừng cho Thư Hương và anh Hoạt. Có nên như vậy không anh Dương ?
Thư Hương tiếp lời :
– Và mừng cho chị Phượng và anh Dương nữa chứ ?
– Cái đó là điều bắt buộc.
Ngôn ngữ của Phượng hồi này thật tiến bộ, nghe nhiều lúc thật chối tai, nhưng mà cũng rất êm tai. Phượng dùng những thành ngữ mới một cách rất tự nhiên, coi như những tiếng đầu lòng học nói. Cả Dương và Tâm cũng khoái những ngôn ngữ đó. Và Thư Hương, dù không muốn, cũng thỉnh thoảng pha lẫn vào câu nói mà không để ý.
Trong cái giây phút yên lặng ấy, chợt nghe thấy Thư Hương thở dài:
– Anh với chị Phượng mà ở chung một nhà, chắc là sẽ vui lắm. Căn nhà, chẳng bao giờ tắt được tiếng cười.
Dương gật gù cái đầu:
– Có, có chứ. Đó là những lúc mà cả hai đứa đều không biết làm thế nào để có tiền, trong lúc mà bà chủ nợ đang đứng ngoài cửa, nói như rứt ra từng miếng thịt.
Phượng lè lưỡi :
– Anh nói làm cho Phương… thấy ghê!
Không phải vô tình mà Dương nói như vậy. Câu này cũng không phải là một câu nói đùa cho vui, mà chính là nói thật với lòng mình. Phượng hay Thư Hương, dù sao cũng chưa va chạm nhiều với cái thực tế phũ phàng. Chàng nghĩ tới vợ chồng Hậu và Hằng.
Hai đứa khi chưa lấy nhau, dệt nên bao nhiêu những mộng đầy hoa đầy bướm, nhưng từ khi phải đưa nhau vào ở trong cái Trại Gia Binh, Hậu rất chán đời. Hằng thì tuy cười đùa đấy, nhưng thật ra trong lòng cũng nhiều nỗi khổ tâm riêng, không nói ra được.
Dương muốn nói lên nhiều nữa, nói vài câu cay đắng với cuộc đời, nhưng thấy không nên làm vẩn đục cái không khí vui vẻ của buổi họp hôm nay nào có ích gì. Chàng hỏi thăm Tâm về tất cả những người bạn ở Phi Đoàn. Chàng bùi ngùi cảm động khi nghe Tâm kể rằng, tất cả mọi người gần như bật khóc khi nghe tin tàu bay của Dương bị rớt, chỉ còn một hy vọng sống sót rất mong manh.
Thằng An thi sĩ ngồi khóc rất ngon lành, rồi làm được một bài thơ tưởng niệm, đọc lên nghe mùi lắm.
– Nhưng nghe tin mầy còn sống, nó đã đốt đi rồi. Hôm qua, lúc mầy còn ngủ li bì, nó cũng có vào thăm mầy, cùng với anh Tư.
Dương lại đổi giọng, nói đùa :
– Hoài của, tiếc quá ! Biết vậy thì tao chết đi, có phải nền thi ca xứ mình lại có thêm một bài thơ tuyệt tác của thi sĩ An. Nhưng anh Tư tới thăm tao rồi có nói gì không ?
Anh Tư mà Tâm và Duơng nói tới, là ông Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Phi Đoàn. Chàng và các bạn chàng thường thân mật, gọi ông Chỉ huy trưởng là anh Tư, hay là ông chủ. “Có mặt anh Tư trong cuộc vui hôm nay, thì anh Tư trả tiền là một điều bắt buộc.” “Cái đó là quyền của ông chủ”. Những câu đó là những câu thường nghe, phát xuất từ miệng những người phi công trẻ.
Anh Tư rất hiền lành, ít nói nhưng không thằng nào dám qua mặt. Sự thương yêu đối với nhân viên thuộc Phi Đoàn, nhiều lúc anh Tư đã tỏ lộ ra ngay trong nét mặt. Có rất nhiều giai thoại về anh Tư. Một hôm, anh Tư ra ngoài cổng trại mặc áo bay nhưng không mang lon, đã bị anh chàng Trung sĩ điếm trưởng đuổi trở vào, mặc dù anh Tư năn nỉ, chỉ xin ra trong mười lăm phút, mua một gói thuốc lá ở gần đấy, rồi lại trở vào ngay.
Anh chàng Trung sĩ bắt anh Tư phải vào thay quần áo, đội mũ mang lon, đàng hoàng rồi mới cho ra. Lúc trở ra cổng thấy anh Tư là Thiếu Tá, anh chàng Trung sĩ sợ quá, xin lỗi rất ư là khổ sở, nhưng anh Tư chỉ cười.
Dương nhắc lại:
– Anh Tư nói gì về tao ?.
– Lúc anh Tư tới thì có Phượng ở đây. Ý của anh Tư là muốn cho mầy được nghỉ ngơi ít lâu, bằng cách cho mầy về làm ở một bàn giấy tại Sài gòn. Tao trả lời là nên hỏi ý kiến của mầy. Rồi tao chỉ sang Phượng, giới thiệu là vợ chưa cưới của mầy, thì anh Tư lại hỏi ý kiến của Phượng. Nếu tao nhớ không lầm thì lúc đó, Phượng cũng đã gật đầu.
Dương tức bực với Phượng :
– Cô hơi lộng quyền đấy nhé! Ai cho phép cô được quyết định cuộc đời tôi ?…
Khuôn mặt của Phượng đang tươi cười chợt nặng ngay xuống. Đôi mắt chớp thật mau, và những giọt nước mắt có lẽ sắp sửa tuôn ra. Phượng đau khổ:
– Tại lúc đó, Phượng nhìn thấy anh tiều tụy quá. Phượng nghĩ rằng, anh cũng nên nghỉ bay ít lâu. Chỉ chừng một năm, rồi khi chúng mình cưới nhau xong, anh lại trở về Phi Đoàn đi bay lại. Phượng xin lỗi anh.
Tâm cũng ôn tồn, khuyên giải:
– Chỉ vì Phượng yêu mầy.
Dương chợt thấy hối hận vì đã quá gay gắt với Phượng. Cách xa năm sáu năm trời, lúc gặp nhau lại có chuyện gây lộn nữa, thì chắc khó có thể hàn gắn. Chàng đưa bàn tay ra, nắm chặt lấy tay Phượng. Bàn tay mềm mại mát lạnh nằm gọn trong bàn tay đầy chai và cứng. Dương nhìn Phượng rồi mỉm cười để Phượng phải la lên :
– Anh làm đau tay Phượng.
Dương cười bảo Tâm:
– Chắc anh Tư và chúng mầy coi tao sau một lần thoát chết, đã trở thành một thứ “đại bàng lạnh cẳng”.
– Tụi tao không nghĩ thế!
Phượng lại xen vào câu chuyện:
– “Đại bàng lạnh cẳng” nghĩa là làm sao hả anh ?
Cả Tâm và Dương cùng cười vang. Giảng nghĩa cho Phượng, có nghĩa là làm cho Phượng thâu thập được một danh từ mới, lâu lâu lại mang ra áp dụng rất bất ngờ. Tâm nói:
– Tao để đành cho mầy việc giảng nghĩa…
– Anh giảng nghĩa cho Phượng nghe đi anh Dương.
Dương sửa lại một bộ mặt trịnh trọng của một thầy giáo sắp giảng bài:
– Phượng có bao giờ nghe chuyện ma không ? Thuở nhỏ, mà được nghe chuyện ma tới đoạn nào sợ quá, thường rút cẳng lên, ngồi thu lu trên ghế hay trên giường. Hành động đó được coi là lạnh cẳng. Như vậy lạnh cẳng có nghĩa là chết nhát, là sợ ma, là thỏ đế. Đối với giới lính tàu bay, thì danh từ đại bàng lạnh cẳng còn có nhiều nghĩa khác nữa.
– Anh nói cho Phượng nghe hết đi…
Thấy Phượng đòi phải kể hết những chuyện về “lạnh cẳng” Dương lại thấy ngần ngại. Một danh từ mới đầu mang ra dùng thì còn mang một ý nghĩa. Nhưng rồi nếu dùng lâu, tự nhiên sẽ biến thành một nghĩa khác, có nhiều khi trở thành vô nghĩa. Trong một đám đánh bạc, có một tên đang thắng, vồ được một ít tiền lẻ, đã nhấp nhổm định thôi, thì thế nào cũng có thằng hỏi :
– Sao mà lạnh cẳng sớm thế ?…
Lúc đó, danh từ lạnh cẳng có nghĩa là một sự ăn non, ăn chắc… Nhưng nói chung, khi bàn về danh từ lạnh cẳng, thì chẳng có một ý nghĩa gì đẹp. Chẳng cho người mang nó một vinh dự nào. Và nghĩ tới chuyện đánh bạc, Dương lại nghĩ tới trong túi mình chẳng có một đồng bạc nào. Chàng hỏi Tâm :
– Mầy còn tiền không ?…
– Còn chứ! Nhiều nữa là đằng khác.
– Vậy thì để lại ở đây cho tao một ít…
Tâm đứng đậy rủ Thư Hương đi về, để lại Phượng ở đây…
Chàng mở ví, vét hết tiền trong đó, còn được mấy ngàn đồng, ném lại cho Dương. Từng tờ giấy bạc bay 1ả tả như những cánh bướm.
– Ê giữ lại vài trăm, nếu đụng phải bánh tráng thì… hết đời con trai.
– Khỏi cần !
Sau câu nói ấy, Tâm đã thoát ra khỏi phòng. Lúc có mặt Tâm và Thư Hương ở đây, thì Phượng và Dương tự nhiên là thế, nhưng tới bây giờ, chỉ có hai người thì tự nhiên lại ngượng ngập. Không ai muốn nói trước. Rồi thì bốn mắt gặp nhau và hai bàn tay nắm chặt. Dương gọi thì thầm:
– Phượng.
– Dạ !
– Trong mấy năm nay. Phượng đã làm gì, Phượng kể cho anh nghe di.
Tiếng Phượng thật êm, thật nhẹ :
– Phượng ăn, ngủ, đi chơi và…nhớ anh…
– Anh cũng nhớ Phượng lắm!
Dương đã đứng sát vào Phượng Vòng tay mở ra ôm thân hình mảnh mai. Màu áo đỏ như lẫn vào mầu áo xanh bệnh viện. Cặp má mịn màng của Phượng áp vào má có râu mọc lởm chởm của Dương làm cho Phượng cảm thấy một sự nhột nhạt thích thú. Nhìn qua vai Dương, Phượng thấy bầu trời hồng ráng chiều, những ngọn cây đu đưa lơi lả.
Rồi một ngọn gió mạnh thổi qua, những ngọn cây ấy đầm đầm ép xuống, rồi lại bật lên, hoa lá rụng tơi tả xuống lối đi trải sỏi. Nhưng rồi khuôn mặt của Dương che lấp mắt Phượng. Tất cả chỉ còn mờ nhạt.
Phượng nhắm chặt mắt lại, không còn nhìn thấy gì, và chỉ còn hơi vị ngọt ngào thấm qua môi. Bàn tay Dương xoa nhẹ trên lưng Phượng, có đường rãnh hằn sâu, đôi bả vai co lại như gặp một cái lạnh bất chợt. Phượng bàng hoàng và mê sảng như trong một cơn mê nhẹ bồng bềnh.
Lúc hai người buông nhau ra, thì ngoài sân đã gần tắt nắng và đầy những bóng cây chạy dài.
Phượng thì thầm :
– Râu của anh làm em nhột quá…
Sau đó là tiếng cười của Dương. Hai người dắt tay nhau đi vào nắng chiều. Đã mấy hôm nay, Dương mới lại được đi dạo chơi một cách thanh thản, bên cạnh lại có Phượng, có một người con gái mà Dương vẫn hằng yêu và nhớ nhung đến khoắc khoải.
Những bước chân chậm rãi đạp lên sỏi trắng. Cỏ tươi xanh mơn mởn. Cách đây có vài ba hôm, cũng trong buổi chiều gần tắt nắng như hôm nay, Dương đã ngồi ở một căn nhà lá ven rừng, bên cạnh cũng có một người con gái, để chờ bóng tối đến như một nỗi hy vọng mong manh, kèm theo với tuyệt vọng tràn đầy. Chàng đã thoát được cái chết ấy, thì cũng được kể như đã được tái sinh.
Thấy Dưong lặng im không nói, Phượng hỏi :
– Anh đang nghĩ gì vậy ?
Giọng của Dương xa xôi :
– Anh đang nghĩ tới một người con gái.
Câu trả lời của Dương đến với Phượng quá bất ngờ. Nếu Dương nói câu này với một giọng đùa cợt thì không làm cho Phượng để ý. Nhưng mặt Dương nghiêm trang quá, giọng nói của Dương tỏ lộ đầy vẻ kính cẩn. Phượng như muốn bật lên khóc.
Nỗi ghen tức dậy lên làm cho Phượng nghẹn ngào. Giá mà Phượng gào lên được, cào cấu được Dương thì chắc Phượng sẽ sung sướng lắm, hả hê lắm. Nhưng Phượng không làm như vậy được, vì tính Phượng càng đau khổ lại càng phải cười đùa nhiều.
Bởi vậy Phượng nuốt thật mạnh cho sự nghẹn ngào trôi đi, rồi Phượng hỏi Dương :
– Cô ta tên là gì vậy anh ?
Tuy đã tránh được nghẹn ngào trong câu nói, nhưng Phượng nghe giọng của Phượng như được vẻ mỉa mai, liếc mắt nhìn sang Dương, vẫn thấy một khuôn mặt buồn thần thánh. Tiếng Dương thoảng qua như một cơn gió :
– Anh cũng chẳng biết tên cô ta là gì nữa.
– Tại sao vậy ?
– Tại vì anh chưa kịp hỏi tên cô ta…
Phượng ngạc nhiên và thấy câu chuyện có vẻ lạ lùng.
Nàng nhí nhảnh hỏi thêm :
– Cô ta có đẹp không ?
– Tới bây giờ, anh chỉ nhớ mặt cô ta cách rất mơ hồ. Nói rằng đẹp thì cũng không đúng. Mà nói là không đẹp thì lòng anh ân hận lắm. Vì cô ta là một con đĩ…
Một viên đá nằm ở giữa lối đi. Dương vấp phải viên đá. Ngón chân đau nhói lên làm cho chàng bừng tĩnh. Ồ, tại sao mình lại nói chuyện đó với Phượng, nói một cách không có đầu, không có cuối, để gieo sự nghi ngờ cho mối tình đẹp quá như thế nầy. Nỗi buồn như thoát được ra ngoài. Chàng dìu Phượng tới một cái ghế đá :
– Em ngồi xuống đây, anh sẽ kể hết câu chuyện ấy cho em nghe.
Phượng ngoan ngoãn theo đà đưa đi của cánh tayDương. Nàng ngồi xuống ghế đá. Nghe tiếng “em” mà Dương gọi, Phượng cũng cảm thấy một sự êm dịu, một tiếng mời gọi rất ngọt ngào. Dương kể câu chuyện buổi chiều đầu tiên ở ven rừng. Người con gái ấy đã cứu chàng thoát chết. Như một câu chuyện lạ lùng, chỉ có được trong huyền thoại.
Dương say sưa kể… Câu chuyện ấy đã làm Phượng nước mắt rưng rưng. Thì đã nói, Phượng cũng vẫn là một đứa con gái bé nhỏ, tình cảm đầy ấp trong lòng. Phượng ôm chặt lấy đầu Dương áp vào ngực :
– Em thương anh quá !…
Tiếng em cũng từ miệng Phượng thốt ra mà Phượng không để ý…
Ngày trước Phượng hay đả kích chê bai những cặp tình nhân xưng anh và em với nhau. Cứ anh anh, em em với nhau cả ngày, nghe sốt cả ruột. Nhưng rồi Phượng và Dương cũng bị vướng vào qui lệ ấy. Tiếng anh và em vụt nói ra như sự diễn tả đầy ắp tình yêu.
Hai người ngồi sát bên nhau yên lặng thật lâu rất lâu…. Thời gian trôi đi mau quá.
Một vài thương bệnh binh đi qua, trước mặt hai người. Không ai để ý tới sự có mặt của đôi nhân tình nhỏ bé. Cảnh đó diễn ra ở đây rất thường. Còn nhiều cảnh thê thảm gấp trăm, gấp ngàn lần. Tình cảm của con người, khi đã vào tới đây như cao thượng và siêu thoát hẳn lên. Đèn đường trong bệnh viện vừa bật sáng.
Phượng chậm rãi đứng lên:
– Phượng phải về. Đã quá giờ thăm viếng rồi.
Dương còn tiếc rẻ nắm chặt tay Phượng :
– Ngồi với anh một lát nữa.
– Thôi Phượng về. Sáng mai Phượng sẽ vào sớm..
Dương đi cùng với Phượng ra ngoài cổng, ngừng lại ở chỗ cổng điếm canh để Phượng lấy thẻ căn cước. Dương định làm việc đó dùm Phượng, nhưng Phượng không bằng lòng. Chỉ cần suy nghĩ một chút Dương cũng hiểu.
Đàn bà, con gái không muốn cho ai nhìn thấy tấm hình dán trong thẻ căn cước của mình. Những ông thợ chụp hình để làm căn cước, không phải là những nhiếp ảnh gia mỹ thuật. Dương đứng cười một mình.
Phượng dơ tay vẫy Dương, khi ra khỏi chiếc cổng sắt. Dương nhìn qua chấn song, mà thấy mình như một người tù, như một con chim bị nhốt trong lồng. Phượng leo lên một chiếc tắc xi, và Dương nhìn theo chiếc đèn đỏ sau xe, cho tới khi khuất vào đầu phố tối đen.
Tư tưởng giam tù theo bước chân Dương, từng bước từng bước, trở về căn phòng bệnh viện. Đây chỉ là một bệnh viện, không phải là nơi giam cầm Dương. Chàng muốn thoát ra lúc nào cũng được. Vậy thì nơi giam cầm ấy là đâu ? Chàng thấy cái tự đo được hưởng hiện nay chỉ là một thứ tự đo giả tạo. Như một loài chim, tuy không bị nhốt trong lồng, nhưng vẫn không thể bay xa…
“Thân ta không phải là của ta. Lúc nhỏ là của cha mẹ, của học đường. Lớn lên là của xã hội, và khi già là của hậu thế”. Như vậy, không có một lúc nào thuộc về chính mình ? Dương chưa thấy lúc nào được hưởng sự sung sướng đó, họa chăng, mỗi ngày, mấy chục phút ngồi trong cầu tiêu…
Ý nghĩ ấy làm Dương thêm chán nản. Chàng đẩy cửa vào phòng. Căn phòng còn như vướng vất chút hơi phấn son, và mùi trinh nữ của Phượng, của Thư Hương.
Những tờ giấy bạc mà Tâm vứt lại hồi nãy, vẫn còn vương vãi trên mặt nền đá hoa. Chàng lượm lại từng tờ… Hồi nãy chàng định lấy tiền của Tâm, mời Phượng xuống Câu Lạc Bộ, ăn với nhau một bữa cơm, uống với nhau một ly nước, nhưng chàng đã quên đi. Định ngồi ở ghế đá, cạnh con đường trải sỏi, chờ cho mặt trời còn thoi thóp chút nắng vàng, sẽ trở về phòng lấy tiền, rồi xuống Câu Lạc Bộ. Nhưng thời gian đi quá mau. Hai đứa ngồi cạnh nhau, tận hưởng phút yêu đưong, đến nỗi khi đèn trong bệnh viện bật sáng mới hay biết là đã hết giờ thăm bệnh.
Chắc Phượng đã về đến nhà rồi. Chàng tự nhủ thầm như vậy. Phượng ơi, anh nhớ Phượng ! Bây giờ, Phượng đang làm gì dây ?… Phượng ngồi một mình để nhớ tới anh, hay đang ríu rít nói chuyện với Yến với Loan.
Chàng nằm dài trên giường và khuôn mặt Phượng còn như phảng phất quanh đây, đang nở một nụ cưòi lặng lẽ… Rồi hình ảnh của Phượng nhòe nhẹt đi, để hiện lên khuôn mặt người con gái ở ven rừng, mắt khắc khoải nhìn chàng. Trên đầu người con gái còn đội chiếc mũ “dô-kề” màu đen mà chàng tặng. Dương mở bừng mắt, nhìn lên ngọn đèn trên trần cho tới lúc lóa mắt, để phải nhắm nghiền mắt lại.
Với gần sáu năm trong quân đội, lần đầu chàng thấy luyến tiếc sự tự do. Có lẽ hồi chiều, Tâm đã báo cho chàng biết sau khi rời bệnh viện, chàng sẽ phải về làm ở một bàn giấy. Chàng nhớ tới buổi tiễn đưa một người bạn vì bị thương trong một tai nạn, về không còn bay được, người bạn ấy cũng phải về làm ở văn phòng.
Đêm hôm đó, chàng và lũ bạn đã uống một bữa thật say. Thằng An thi sĩ đã làm một bài thơ, mà bây giờ, chàng chỉ còn nhớ được loáng thoáng vài ba câu.
“Chim bằng xếp cánh, không tung gió
“Có khác chi loài chim chích đâu?…
Đó không phải là một bài thơ. Gọi là một bài hành, có lẽ đúng hơn. Những bài hành, thường có chất ngang ngang của ngôn ngữ.
Dương nhớ lúc đó, An đã say lắm. Những câu thơ của đoạn kết bài hành, nghe như những tiếng thở dài. Chất thơ trong những bài hành, bao giờ cũng là chất thơ say…
“Mầy đi…mầy đi…sau đêm nay
“Tao say, ói mửa đầy khăn tay.
“Mầy coi như là chưa hề bay.
“Đời coi như hề…chưa có mầy.
Dương định rằng, sau khi nhận lệnh thuyên chuyển, làm thủ tục giấy tờ để đi xong xuôi, sẽ cố xoay tiền để uống với bạn bè một bữa thật say… Coi như chấm dứt cuộc đời bay bổng… Dương không muốn coi như là chuyện tạm biệt. Cứ coi như là chấm dứt. Rồi tới khi nào trở lại với nghề bay, lại làm một bữa tiệc tái hồi… Nghĩ đến việc ăn uống, chàng lại nhớ ngày phải tới ăn cơm tại nhà Tâm.
Chỉ trong nửa tháng, cuộc đời chàng đã có thật lắm chuyện. Từ vụ nhận được thư Phượng, rồi thì tai nạn xảy ra, và cuộc đời hoàn toàn đổi khác. Đang được sống một cách thư thái, bay xong một phi vụ là về phòng, có quyền đi ăn chơi vung vít, phải rời bỏ nghề mình, ngồi ở một văn phòng, để cho hàng ngày, cuộc sống không có gì thay đổi chẳng khác gì một thứ công chức già…
Ngày mai, Dương sẽ phải đến nhà Tâm. Chắc chàng sẽ buồn lắm, vì nhìn thấy gia đình Tâm đoàn tụ. Cô em gái Thư Hương, mặt sẽ hồng lên, ngồi bên cạnh người yêu, nhìn người anh vừa từ vùng sương gió trở về với êm ấm gia đình. Dương chắc rằng người sung sướng nhất của ngày mai là Thư Hương, rồi người thứ nhì là mẹ Tâm.
Mẹ Tâm nói là bạn của mẹ chàng. Nhưng chàng chẳng nhớ được hết những khuôn mặt của các bà đã đến chơi nhà chàng. Thời gian lâu quá rồi còn gì… Thuở nhỏ, chàng vẫn mang tiếng là một thằng lang thang. Tiện đâu, thì ở lại đó. Cả nhà chàng đều coi chàng như là một lãng tử. Đã có một lần, mẹ chàng bảo chàng :
– Chắc là lúc mẹ chết, muốn tìm thằng Dương cũng chẳng biết tìm kiếm ở đâu.
Tuy rằng chỉ là một câu nói đùa, nhưng cũng làm cho chàng hối hận. Vì vậy, chàng ở nhà được nửa tháng. Nhưng rồi nghe lời bạn rủ đi chơi, chàng lại đi. Thích lang thang, nhưng chàng vẫn là một đứa con hiếu thảo rất thương cha, thương mẹ. Không biết tới bao giờ, gia đình chàng mới được đoàn tụ đầy đủ mặt của tất cả mọi người.
Chàng không muốn nghĩ tới nữa… Công việc ở bàn giấy, chắc rồi đây sẽ chán vô cùng. Ngày trước, mỗi lần phải đụng vào công việc giấy tờ, như thảo văn thư, làm một lá đơn, Dương vẫn lúng túng, ngượng ngập. Đã một lần, Dương và các bạn đã đứng trước một văn phòng chửi bới um sùm, khi thấy một tên làm văn phòng, túm cổ được một phát huy chương với ngôi sao vàng cẩn thận. Hình như Tâm đã nói một câu rất nặng. “Một lũ ngồi mát ăn bát vàng, hưởng thụ trên xương máu của tụi mình”.
Lũ người ngồi trong văn phòng, có lẽ cũng nghe thấy, vì tụi chàng nói rất lớn tiếng, nhưng đành lờ đi. Biết làm gì chúng nó bây giờ? Không đánh đấm con mẹ gì mà lại có anh dũng bội tinh, thi bị chửi là đáng lắm rồi. Dương lại nghĩ tới thân phận mình, rồi đây. Khi ngồi ở bàn giấy, chàng cũng sẽ lại thu mình vào bốn bức tường, càng ngày càng thấy mình nhỏ bé, để thấy bốn bức tường càng ngày càng thu hẹp lại, ép lấy con người.
Khi đã ngồi được yên trên một chiếc ghế rất ngại sự đổi thay. Muốn đổ chì vào trong quần, để ngồi cho chắc. Chàng chưa thấy một người nào đã làm ở văn phòng, mà lại tự ý xin ra phi đoàn. Con người khi đã vào được nơi yên ấm, sẽ nghĩ tới những hiểm nguy đã trải qua rồi sợ hãi. Chàng nghe thấy tiếng gõ cửa.
– Ai vậy ?
Tiếng của y tá ở ngoài cửa phòng :
– Trung úy chưa đi ngủ ?
Dương trả lời:
– Tôi đi ngủ ngay bây giờ.
Chàng đi ra phía cửa, chỗ gần công tắc đèn. Chàng muốn ra ngoài hiên giữ cô y tá lại, nói chuyện và trêu chọc vài ba câu cho đỡ buồn. Nhưng những lúc như thế này, mà phải nhìn thấy mặt của cô y tá, lại chỉ thêm bực mình. Nghĩ vậy, chàng tắt đèn.
Gian phòng tối, bóng tối thật mênh mông. Dương nằm xuống giường, cố dỗ giấc ngủ. Và giấc ngủ êm đềm kéo đến, dù mấy ngày qua, Dương đã ngủ thật nhiều. Vụ chạy trốn ở trong rừng của Dương đã như một cuộc đổi gió, làm cho chàng ăn dược và ngủ được. Chỉ mười lăm phút sau là chàng không còn nghĩ gì để chìm vào giấc ngủ…
Phượng trở lại với Dương, khi ánh nắng bò tới nửa sân và cây trứng cá trước cửa phòng Dương nhận được tia nắng đầu tiên những cành lá ngọn. Vẫn chiếc áo đỏ ngày hôm qua. Mắt Phượng sáng hơn, đôi môi Phượng tươi hơn, như vừa qua một đêm thần tiên. Dương reo lên :
– Trông Phượng hôm nay như cô Bạch Tuyết !
– Bạch Tuyết nào vậy anh Dương ?
– Cô Bạch Tuyết ngủ trong rừng sau mấy năm, rồi được hoàng tử đánh thức đậy. Bạch Tuyết chắc cũng chỉ đẹp và tươi như em hôm nay…
Phượng bĩu môi :
– Trí tưởng tượng của anh thật tốt, nhưng anh mà tưởng tượng thấy Bạch Tuyết của anh mặc áo đỏ thì hơi bết đấy nhé…
Dương cười. Ai cấm tưởng tượng thấy Bạch Tuyết mặc áo đỏ ? Cũng không ai cấm những người con gái mang tên Phượng mặc áo trắng? Tên nàng là Bạch Tuyết, chỉ vì cái tên ấy kỷ niệm một mùa tuyết rơi. Cũng như Phượng, để kỷ niệm một mùa hè. Phượng có nhớ mùa hè đó không ? Mùa hè đau thương cho cả một dân tộc này, để dẫn tới một cuộc di cư vĩ đại. Nhưng nhờ cuộc di cư ấy, anh mới gặp Phượng, để rồi mối tình của chúng ta mới nẩy nở, để rồi đây dệt nên trăng sao cho chuyện Phượng và Dương.
Dương mở rộng hết cánh cửa cho ánh sáng lùa vào căn phòng hẹp. Mắt Phượng thật long lanh. Dương muốn hôn lên đôi mắt ấy. Gặp cái nhìn của Dương, Phượng cúi mặt xuống. Lúc nầy, Dương thấy Phượng thât hiền, thật ngoan. Chàng thì thầm :
– Hạnh phúc của đời anh…
Phượng chớp mau đôi mắt:
– Lần này, Phượng không để cho anh lọt khỏi tay Phượng nữa. Không ai có thể dành được anh của Phượng. ..
– Anh tình nguyện như vậy.
Dương rủ Phượng xuống Câu Lạc Bộ để ăn sáng. Hai người bước ra ngoài nắng. Dương hít một hơi thật dài. Tuy gần tới chín giờ, nhưng không khí Bệnh viện vẫn còn sạch, lùa vào hai lá phổi. Phượng lại trở về với giọng nói chim hót:
– Chị Yến, chị Loan cũng định vào thăm anh. nhưng Phượng can quá. Nói rằng hôm nay anh về rồi… Chú Vinh bắt Phượng ngày mai phải mang anh về nhà trình điện. Vinh nhớ anh lắm. Bây giờ Vinh lớn rồi, nên anh có thể rủ Vinh đi uống rượu…
Dương mỉm cười nhớ tới ngày trước, có một lần cho Vinh uống hết một chai bia… Vinh say, đã biểu diễn nhiều trò rất ngoạn mục. Múa hát, chào kiểu sân khấu, hai tay cầm váy, nhún đầu gối xuống. Dương và Phượng đã cười đến chảy cả nước mắt. Dương hỏi :
– Hồi nầy, tửu lượng của Vinh đã khá chưa… Đã uống được mấy chai rồi ?…
Phượng cũng nhớ chuyện cũ, trả lời :
– Không nhớ uống được mấy chai, nhưng không đến nỗi uống một chai đã múa hát đâu.
Đôi bước chân song song trên con đường bệnh viện. Vài bông hoa màu vàng, rụng rải rác trên lối đi, cánh hoa mềm còn đọng vài giọt sương mai. Mọi người nhìn cặp Phượng và Dương, và đều thấy họ đẹp đôi và chính họ cũng biết rằng, hai người rất đẹp đôi…
Vừa bước chân vào Câu Lạc Bộ, Phượng và Dương đã đụng đầu cô y tá. Hôm nay cô ta cởi bỏ tấm áo blouse trắng, khoác lên người một chiếc áo dài màu hoàng yến, trông cũng tha thướt, đáng được gọi là xinh. Thì ra người con gái Việt Nam, chỉ thích hợp với chiếc áo dài. Khi bỏ chiếc áo dài, khoác lên trên người một cái áo khác, người con gái Việt Nam đã như mất sự dịu dàng, mềm mại. Chàng thấy cô y tá nở một nụ cười:
– Giấy xuất viện của Trung úy đã làm rồi, chỉ còn chờ bác sĩ tới ký.
Dương hỏi lại :
– Thưa cô, mấy giờ bác sĩ mới tới ?
– Không biết mấy giờ, Trung úy! Các ông bác sĩ ở đây ông nào cũng có phòng mạch ở ngoài phố, khám xong bệnh nhân có trả tiền, rồi mới tới lượt bệnh nhân không trả tiền.
Dương và Phượng cùng cười. Chàng mời cô y tá sang ngồi cùng bàn để ăn sáng. Tuy làm cái nghe phải thức đêm, nhưng cô y tá biết giữ gìn đôi mắt, nên mắt vẫn trong sáng, không để tỏ lộ ra sự mệt mỏi. Thấy Phượng đi với Dương, cô y tá e dè :
– Có phiền cho Trung úy không ?…
– Dạ, không sao. Phưọng là vợ sắp cưới của tôi…
Cô ý tá ngồi xuống :
– Tôi tên là Thảo.
Phượng nói tiếp theo để làm cho không khí có vẻ thân mật hơn :
– Phượng cũng thích cái nghề của chị Thảo. Nghề này là một nghề cao đẹp. Người nào dù gần chết, mà được bàn tay chị Thảo săn sóc, bắt buộc phải ngồi bật đậy, đòi sống. Như anh Dương chẳng hạn. Nhờ có chị Thảo, mà anh Dương còn ngồi đây đấu hót.
Thảo nói lại một vài câu khiêm nhượng. Dương gọi các thứ cho chàng, cho Phượng, cho Thảo… Ngồi đây, những hình ảnh trốn chạy trong khu rừng hoang đã hoàn toàn phai mờ hết. Thành phố không thể là núi là rừng. Những người con gái thành phố, không giống như loài dã thú, nhìn bóng dáng con người, với đôi mắt lạ lùng bỡ ngỡ. Dương nhìn Phượng và Thảo khép nép uống từng hớp cà-phê nhỏ, và thấy như cả một bầu trời màu đen thu hẹp lại.
Màu sắc như mở lớn trước mắt Dương. Màu vàng áo dài của Thảo. Màu đỏ áo dài của Phượng, và sau lưng là đủ các màu xanh. Màu xanh áo bệnh viện. Màu xanh bóng lá cây, và cao hơn hết là màu xanh của cả khung trời..Thảo cũng nhìn hai người và lấy làm lạ, anh chàng quan hai tàu bay, ngày hôm qua nghịch ngợm là thế, mà ngày hôm nay thì hiền lành, ít nói.
– Có chị Phượng, hôm nay Trung úy hiền quá.
Phượng cải chính ngay :
– Không phải như thế đâu. Những anh chàng nầy vẫn thường như vậy đấy, chị Thảo ạ. Đang cười đùa nhưng rồi bất chợt nghĩ tới môt việc gì buồn, là y như biểu diễn ngay một bộ mặt táo bón. Nhiều lúc tức muốn chết…
Mới gặp lại nhau ngày hôm qua, thời gian gần lại nhau chưa tới hai mươi bốn giờ đồng hồ, mà Phượng như biết hết được tâm sự, tính tình của Dương. Người con gái nầy, đúng là một vật lạ của trời, có lẽ được sinh ra, để làm vợ, làm ngtrời yêu của những người như Dương. Chàng nhìn Phượng một cách đắm đuối như biết ơn, quên rằng ở bên cạnh hai người, còn có cô y tá Thảo.
Chàng cũng nhận thấy mình đúng như lời Phượng nói. Đang cười đấy nhưng rồi chợt một kỷ niệm nào đó chợt về, có thể phát khóc ngay lên được. Như nhìn thấy một ly cà-phê, giống như chiếc ly một thằng bạn thường dùng, mà bây giờ thằng bạn ấy đã chết. Loại đàn ông trẻ con, vốn được đàn bà rất thích. Dương giật mình khi nghe Phượng hỏi :
– Anh đang nghĩ gì vậy ?…
Dương cười buồn :
– Anh đang nghĩ tới câu nói của cô Thảo. Vừa rồi, cô Thảo nói rằng, hôm nay trông anh hiền quá. Anh nghĩ tới ngôn ngữ của nước mình. Chữ “hiền” và chữ “hèn” chỉ khác nhau có một chữ “i” và một cái dấu mũ. Bây giờ thì anh hiền, nhưng rồi biết đâu, ít lâu nữa anh sẽ trở nên hèn…
Phượng biết rằng Dương vẫn bị ám ảnh bời câu chuyện về làm văn phòng. Phượng thấy hối hận về quyết định của mình hôm trước, khi trả lời với ông Thiếu Tá. Nhưng lúc đó, nhìn thấy Dương tiều tụy quá, đáng thương quá. Mà Phượng chỉ là một đứa con gái, lo lắng những hiểm nguy xảy tới cho người mình yêu. Những ông anh của Phượng, đều là những sĩ quan của đơn vị tác chiến, mỗi lần về nhà là các bà vợ đều mừng lo cuống quít….
Mẹ Phượng đã định lo cho ông anh cả về giữ một chân quận trưởng, hay một chức nào đó ở văn phòng, nhưng mà lo không nổi. Bởi vậy, khi ông Thiếu tá hỏi ý kiến Phượng, nàng đã gật đầu. Không ngờ chuyện đó đã làm cho Dương buồn từ hôm qua cho tới ngày nay.
– Anh chị tới bao giờ thì làm đám cưới ?
Phượng trả lời :
– Chưa quyết định được, chị Thảo ạ. Mưu sự tại nhân nhưng thành sự tại… ngân. Phải có tiền thì mới có thể làm đám cưới, nhưng hiện nay, cả hai đứa đều không tiền. Chị Thảo có tiền cho mượn đi….
Thảo xua tay :
– Thảo thì làm gì có.
Dương xen vào câu chuyện :
– Tôi không bao giờ nghĩ tới chuyện mượn tiền để làm đám cưới. Cưới xong rồi trả nợ, mệt lắm, Lúc trả xong nợ đám cưới, là lại phải mượn tiền cho vợ đi đẻ. Cứ như thế tiếp nối nhau mãi, để rồi tới đời ông, đời cha, đời con cũng không bao giờ trả cho hết nợ. Phượng nhìn thấy cái gương trước mắt là Hậu và Hằng đấy. Đến bây giờ mà chúng nó vẫn rách tã ra, chỉ vì tiền đám cưới.
Phượng có vẻ không bằng lòng với câu nói của Dương. Vì Phượng chưa phải đụng đầu với thực tế. Chưa bị đời đá cho năm bảy phát phũ phàng. Phượng vẫn còn nhiều mộng, ảnh hưởng của những cuốn tiểu thuyết lãng mạn về tình ái. Dương thì khác hẳn. Nếu nói tới chuyện một mái nhà tranh, hai trái tim vàng thì hai trái tim vàng ấy phải là vàng y chính hiệu, lúc đói có thể mang ra tiệm vàng cầm bán, lấy tiền mua gạo được.
Cái mơ mộng và lãng mạn của Dương, chỉ là những lúc xuất thần, trong một vài ba phút của cuộc đời thôi. Còn sau đó, lại trở về cái thực tế của một ngày, ba bữa cơm và một giấc ngủ.
– Nói chuyện lâu thế này có mất nhiều thì giờ của cô Thảo không ?…
Thảo lắc đầu :
– Không đâu, anh Dương ạ! Hôm nay Thảo xuống “ca” nên được nghỉ. Định về nhà đấy chứ. Nhưng ngồi đây, nói chuyện với anh, với chị Phượng vui hơn. Về nhà cũng chẳng làm gì, chỉ còn biết đi phố, diễu lên, diễu xuốug…
Cô y tá Thảo buột miệng gọi Dương bằng anh, một cách tự nhiên, không một chút ngượng ngập. Dương cũng thích như vậy. Cái tiếng Trung úy, chỉ là một cấp bậc của quân đội, không thích hợp với lối xưng hô trong một bàn ăn thân mật. Ngay từ lúc đầu Dương đã định yêu cầu cô y tá cất kỹ đi hai chữ Trung úy, nhưng sợ rằng quá thân mật đến sỗ sàng, nên lại thôi. Bây giờ Thảo tự động bỏ đi hai chữ đó, Dương rất mừng. Nhưng Thảo cũng chợt nhớ ra, vội vàng xin lỗi :
– Xin lỗi Trung úy, Thảo cứ tưởng chúng mình là bạn thân…
– Thì chúng mình là bạn thân rồi chứ còn gì nữa. Tôi muốn Thảo cứ giữ cái tiếng “anh” ấy mãi. Chúng tôi nhiều lúc cũng đùa cợt nham nhở thật, nhưng với bạn bè thì không khi nào dám có một tư tưởng sỗ sàng. Nếu Thảo coi tôi và Phượng là bạn, thì đó là một điều đáng mừng…
Phượng nói thêm :
– Và đám cưới của chúng tôi, bắt buộc phải có mặt chị Thảo nữa đấy.
Cô y tá Thảo cúi đầu một cách rất kiểu cách, đúng với truyền thống của một cô gái Bắc Kỳ :
– Xin lãnh ý !… Thảo rất lấy làm vinh hạnh.
Dương thấy lòng thật bâng khuâng. Chàng thấy rằng câu chuyện đám cưới, hình như lúc nào cũng ám ảnh Phượng. Quả thực như vậy.
Trong hơn năm năm trời, từ lúc giận nhau với Dương, nỗi mong nhớ khắc khoải làm cho Phượng đau khổ không ít. Phượng nghĩ, nếu Dương đã là chồng Phượng, thì không bao giờ lại xảy ra vụ giận dỗi, xa nhau với một thời gian quá lâu như thế. Phượng muốn cho đám cưới mau thành, để cho không ai có thể xen vào cuộc sống chồng vợ của Phượng và Dương.
Tiếng reo từ ngoài cửa :
– A, cái thằng khốn nạn, mầy ở đây sao ?…
Nhìn ra phía cửa Câu Lạc Bộ, Dương thấy bóng đáng Tâm cao lớn, lừng lững, đứng che gần một khung cửa. Nỗi vui của chàng thật toàn vẹn. Tâm lừng khừng đi vào góc bàn trống:
– Cô y tá đây mà… Sao hôm nay lại có vẻ thân mật với bệnh nhân như thế nầy ?…
Dương vội đỡ lời cho cả hai bên :
– Thảo bây giờ là bạn chúng mình. Hôm nay là ngày Thảo nghỉ, nên có rất nhiều thì giờ. Thằng Tâm thì chắc Thảo cũng biết rồi. Tôi cũng mong Thảo làm sao dạy dỗ cho nó vào khuôn, vào phép.
Tâm la lên :
– Đừng có vội ghép đôi chứ bạn ?
Thảo ngượng ngập cúi mặt xuống. Làm y tá của một bệnh viện, ít khi nào xảy ra một vụ ngượng ngập đối với Thảo. Thân thể của đàn ông phơi bày ra trước Thảo quá nhiều. Nhưng sao câu nói của Tâm, Thảo thấy như có ngón tay mó vào da thịt nhột nhạt. Nàng ngước mặt lên, liếc mắt nhìn Tâm một thoáng rát nhanh.
Cũng như Dương, tên đàn ông này có nhiều nét thật con nít. Nếu không có bộ quân phục, anh chàng này có vẻ là một sinh viên, chưa thoát được ra ngoài chất trăng sao hoa bướm của tuổi học ưò. Cái vô tư của Tâm, như thoát ra ngoài miệng, lúc nào cũng có thể bất chợt mỉm cười. Vẫn bằng một dáng điệu vô tư ấy, Tâm nói thật phũ phàng:
– Khi tụi tôi muốn thề một câu gì, cô Thảo có biết chúng tôi thề như thế nào không ? Chúng tôi thề, kẻ nào nói láo, nói dối, kẻ đó sẽ phải hôn tay bà mụ. Tay bà mụ, vì làm nghề đỡ đẻ nên dơ lắm. Tay y tá, chắc chỉ sạch hơn tay bà mụ có một chút xíu. Hôn tay cô y tá, chắc cũng gần khổ sở bằng hôn tay bà mụ.
Thảo nguýt Tâm một phát:
– Đâu có dễ được bàn tay cô y tá mà hôn…
Câu chuyện giữa Tâm và Thảo như thế cũng tạm gọi là quá đủ tồi. Dương biết rằng cứ để cái nham nhở của thằng Tâm tiếp tục, chắc sẽ xẩy ra màn cãi vã nhau không đẹp. Bởi vậy chàng lảng sang chuyện khác :
– Chương trình của buổi trưa ngày hôm nay ra sao đây ? Ăn cơm ở nhà mầy chứ…
Tâm reo lên :
– Cái đó bắt buộc rồi. Nhưng mầy đã có phép xuất viện hay chưa ?…
Thảo mời Dương lên phòng khám bệnh. Lúc này là mười giờ, chắc bác sĩ cũng đã tới rồi. Sức khỏe Dương thì nhìn bề ngoài không có điều gì đáng chê, nhưng dù sao cũng phải khám lại. Cũng vẫn bộ đồ xanh bệnh viện, Dương đi theo Thảo. Trong Câu Lạc Bộ còn lại có Tâm và Phượng.
Tâm hỏi Phượng :
– Đã quen thân với nàng y tá rồi à ?…
Phượng cau mặt trả lời:
– Anh Tâm kỳ quá ! Chị Thảo là một người tốt. Cái mồm, cái miệng anh Tâm thật khó thương.
– Thì đâu có bằng được cái miệng thằng Dương.
Sau câu nói đó, Tâm cười vang. Mấy ngày nay vì về đoàn tụ với gia đình, không bị cha mẹ mắng về chuyện bỏ nhà đi lính, Tâm vui nhiều lắm. Cái vui của Tâm nhiều lức quá ồn ào, làm mọi người khó chịu, nhưng chẳng ai lại nỡ trách Tâm.
Khi Duơng trở về Câu Lạc Bộ thì Tâm đã uống đến ly cà-phê thứ ba. Còn Phượng thì gọi thêm một chai nước ngọt nữa. Dương trở về một mình. Cô y tá Thảo có lẽ đã trở về nhà. Tâm nói bằng giọng tiếc rẻ:
– Tao định mời cô ta về nhà ăn cơm rồi rủ đi chơi, mà mầy không giữ lại cho tao. Thật uổng quá.
Dương cau mặt:
– Chỉ tại cái mồm miệng của mầy. Hồi nãy mầy nói cái gì để cho Thảo giận.
– Tao có nói gì đâu.
Sự tức bực của Dương hay sự tiếc rẻ bâng khuâng của Tâm chỉ như gió thoảng. Những người đó không có thời gian để buồn, để thương nhớ lâu. Đó cũng là một luật lệ. Cuộc đời mà cứ để cho buồn chế ngự, thì kể như hạ màn mất rồi. Họ đã có một luật lệ riêng với nhau là, cái gì cùng phải tập quên. Nếu không tự ý quên được, thì phải dùng tới những cái khác như rượu, như gái. Nhưng nói như vậy thôi, chứ sự nhớ hay buồn, nếu sâu đậm quá thì cũng khó lòng quên.
Thảo, cô y tá Thảo, chưa phải là một thứ gì để Tâm nhớ nhung đến nỗi mất ăn, mất ngủ. Ba người rủ nhau về phòng để cho Dương sửa soạn lại dung nhan.
Dương vừa đi, vừa kể chuyện :
– Thằng tu-bíp này khó thương quá. Theo như nhận xét của tao thì tất cả những thằng tu-bíp đều khó thương, trừ những thằng tu-bíp bạn mình. Nó cứ nhất định bắt tao phải ở lại đây vài ngày nữa. Nó gõ lưng, gõ ngực, gõ đầu gối. Tao có cảm tưởng như cái búa của nó làm bằng sắt…
Tâm cười :
– Sao lúc nó gõ lên đầu gối của mầy, mầy không bung cái cẳng ra, đá cho nó một phát.
Phượng làm thinh theo dõi câu chuyện của hai người đàn ông, tuy đã nhiều tuổi mà lúc nào cũng tính toán những chuyện tinh nghịch con nít. Không biết cái tính tình trẻ con ấy còn giữ lại được bao lâu nữa ? Phượng đã thấy những người anh của Phượng. Khi còn ở nhà, chưa lấy vợ thì tính tình vui vẻ hồn nhiên, nhưng khi đã lấy vợ rồi thì nhiều khi gần như đổi khác hẳn.
Không dám tỏ ra âu yếm với các cô em gái. Bởi vậy, khi một người anh Phượng lấy vợ, mẹ Phượng thường buồn mất mấy ngày. Có lúc đã than phiền với ba cô con gái là kể từ đây, coi như mất một người con trai. Rồi đây Phượng và Dương làm đám cưới, hai đứa sống chung với nhau, không hiểu rằng mẹ Phượng có buồn không ? Nghĩ tới đây, Phượng lại thấy lòng nao nao. Phượng sẽ cố gắng thuyết phục để Dương về sống chung ở nhà để cho mẹ Phượng lại có thêm một đứa con trai là Dương.
Điều này chắc cũng chẳng khó khăn gì, vì ở đây, Dương chỉ có vài ông chú bà cô, những người này có lẽ cũng chẳng làm khó dễ gì cho Dương và Phượng.
– Tao về trước nghe hai đứa !…
Tiếng của Tâm nói, cắt đứt giòng tư tưởng của Phượng. Ba người đã về tới cửa phòng. Trước khi xuống Câu Lạc Bộ, Tâm ghé qua phòng Dương, để các thứ đồ dùng cho Dương ở đây. Phượng hỏi :
– Sao anh không chờ tụi này…
– Tôi về trước để còn ghé qua vài ba chỗ quen làm một cuộc hành khất… rượu. Nhớ tới sớm nghe Dương !…
Lúc này thì Dương đã đứng trước gương nhìn kỹ mặt mình ở trong đó. Chàng kéo nhẹ từng nhát dao cạo mà lại thấy luyến tiếc. Nếu quân kỷ cho phép, thì có lẽ chàng sẽ giữ mãi bộ râu này để làm kỷ niệm coi như một cuộc đổi đời. Làn da xanh xanh hiện ra sau đường dao vừa chạy qua. Chàng nhìn Phượng ở trong gương:
– Phượng tới đây bằng xe gì ?
Phượng cười rất tươi :
– Phượng tới bằng xe “xô-lếch”… Lâu lâu, chúng mình thử sống lại thuở học trò, chở nhau trên chiếc xe “xô-lếch” chạy khắp thành phố này xem sao… Anh Dương sửa soạn mau lên. Anh Tâm về đấy…
– Cho địa chỉ mầy đi Tâm…
Tâm viết vội lên một toa thuốc để ở đầu giường rồi bước ra khỏi cửa.
Bóng dáng vội vã của Tâm nhắc cho Dương nhớ tới thời gian. Nhìn vào đồng hồ đã thấy gần mười một giờ. Chàng cởi nhanh chiếc áo bệnh viện.
– Để Phượng ra ngoài cho anh thay quần áo…
Nghe Phượng nói như vậy, Dương chợt giật mình. Chàng đã vô ý, coi Phượng như một ngườỉ bạn trai. Ở chung phòng với Tâm, và cả lũ trong cư xá sĩ quan độc thân, chàng chẳng bao giờ để ý tới sự phô bày thân thể trước mắt mọi người. Chàng cười, nói với Phượng :
– Anh xin lỗi Phượng…
Cánh cửa được khép lại sau lưng Phượng. Lúc này chàng lại không thấy cần phải vội vã.
Chàng vuốt thẳng lại nếp nhăn của chiếc áo trắng. Chiếc quần may rất đứng đắn. Mặc bộ quần áo này vào người, nhìn trong gương, chàng lại thấy hiện ra anh chàng giáo sư của sáu năm về trước, khi bắt đầu yêu Phượng và được Phượng yêu.
– Xong rồi, vào đi cô bé.
Chàng quẳng lại tất cả các thứ trên giường. Thảo đã dặn chàng như vậy. Đáng lẽ thì chàng phải tới văn phòng bệnh xá giao trả hết cả mọi thứ nhưng những thủ tục ấy, đã được Thảo hứa rằng sẽ thu xếp sau. Cô y tá tuy rằng mới quen, nhưng rất có thể trở thành một người bạn tốt. Tính sổ của cuộc đời, Dương thấy chỉ gặp những bạn tốt. Cám ơn Thượng đế. Cuộc đời mà không có bạn thì chắc chắn không thể nào sống nổi.
Chàng gấp tờ giấy địa chỉ của Tâm cho vào túi cùng vài tờ giấy cần thiết.
– Xe của Phượng để ở đâu ?
– Phượng gửi nó ở ngoài cổng.
– Lâu lắm rồi, anh không đi “xô-lếch”. Chẳng lẽ bắt Phượng phải chở anh, thì trông kỳ quá. Có té ngã thì ráng chịu em bé.
Phượng lại cười :
– Anh lái tàu bay được mà không lái được xe “xô-lếch” hay sao ? Nhưng thôi, dù có té ngã, Phượng cũng không khiếu nại gì đâu.
Bốn bước chân bước đi song song trên con đường bệnh viện. Nắng tuy gắt, nhưng bệnh viện nhiều bóng cây, vẫn giữ được con đường mát mẻ. Lòng Dương phơi phới vui và yêu đời. Phượng cũng vậy. Những bóng lá in lên mặt sỏi, lấp loáng một màu hoa. Chàng nắm lấy tay Phượng mà cảm thấy mình trẻ lại, ngày bắt đầu một cuộc tình ngây thơ mười sáu. Ngày đó, chàng cũng đã nắm tay một người con gái, đi trên đường Cổ Ngư hay đi trên xác lá Chùa Láng. Mối tìnhh ấy đã lâu lắm rồi.
Có một hôm tình cờ gặp lại người yêu cũ, dắt một đàn con đi trên lề đường, chàng đã dừng lại, hỏi chuyện một cách rất tự nhiên. Những mối tình thường bàng bạc như vậy. Hình như ngày đó, không phải là tình yêu, một thứ tình thấm sâu như tình Phượng và Dương bây giờ.
Khi bước qua cái cổng sắt bệnh viện, hoạt động thành phố như thay đổi hẳn. Trong bệnh viện cái gì cũng sạch sẽ ngăn nắp trật lự, thì chỉ cách một quãng đường ngắn và chiếc cổng sắt, là cả một sự bẩn thỉu hỗn loạn xô bồ.
Nhiều thứ xe hạng nặng chạy qua, tiếng máy nổ ầm ầm. Chàng lấy làm lạ, không hiểu sao trong mấy ngày nằm bệnh viện chàng không để ý tới những tiếng động làm cho rung đất, rung cả nhà cửa nầy. Chiếc “xô-lếch” của Phượng lẫn vào giòng xe ồ ạt, như một cọng rơm nhỏ, bị cuốn trôi đi trong giòng nước lũ. Mới đầu Dương lái xe “xô-lếch” còn chệnh choạng, Phượng phải hét lên mấy lần.
Nhưng chỉ vài phút sau khi tới gần ngã tư Phú Nhuận thì Dương đã quen tay lái, đã có thể chạy đua với vài ba cô học trò nghịch ngợm.
– Anh cho Phượng về qua nhà.
– Phuợng nói gì ?
– Anh cho Phượng về nhà để nói qua với mẹ…
Phượng chỉ cho Dương con đường vào nhà. Đi qua một căn nhà thờ vắng ngắt, vắng đến nỗi Dương nghe thấy cả tiếng chim sẻ ríu rít trên đầu nhà, và nhìn vào trong, Dương thấy cả cái không khí âm u lạnh lẽo… Qua một cái chợ ồn ào, mà Dương thoáng nghe rất nhiều tiếng nói quê hương. Hình như ngôi chợ ngoại ô nầy, dân di cư đã mang cả miền Bắc vào đây, với những mẹt bánh đúc, mẹt kê và bánh đa phết mật. Rồi tới một đường tàu làm gập ghềnh bánh xe. Nhà Phượng ở đó…
– Phượng ở cạnh đường tàu, chắc dễ trở thành thi sĩ lắm…
– Tại sao vậy anh Dương…
– Vì Phượng chẳng bao giờ tiễn đưa ai mà cứ phải nhìn con tàu chuyển bánh. Những bánh xe lăn trên đường sắt này, đã mang theo cát bụi từ những miền xa lạ về, và biết đâu, có những tảng đất, những hạt cát đã làm một cuộc phiêu lưu rất dài rồi ngừng lại ở bên cạnh nhà Phượng.
Phượng nheo mũi :
– Anh Dương nhiều tưởng tượng quá…
Tuy nói vậy, nhưng Phượng nghĩ rằng, Dương chưa có nhiều thời gian sống bên cạnh đường tàu. Những đêm, vào khoảng nửa đêm về sáng, không ngủ được, lúc thao thức, nghe tiếng còi tàu thật não nuột. Buồn muốn chết đi được ! Những đêm như vậy thật dài… Có lẽ một ngày nào đó, Phượng sẽ kể những chuyện ấy cho Dương nghe.
Phượng muốn mau mau làm đám cưới, vừa không muốn để mất Dương, mà một phần cũng muốn lánh xa căn nhà này, căn nhà ở cạnh đường xe lửa có ba cô con gái, lớn tồng ngồng rồi mà chẳng có ma nào chịu rước đi cho. Ấy là lời mẹ hay mắng như vậy. Trong nhà hình như đang có một cuộc tranh luận kịch liệt. Tiếng của Yến lanh lảnh đến chói tai. Tiếng Loan ôn tồn và tiếng của Vinh thì ồm ồm, vì thằng bé vừa đến tuổi vỡ tiếng. Như thế này thì chắc mẹ đi vắng rồi.
Cứ hễ mẹ đi vắng là ở nhà lại xảy ra những vụ to tiếng, nhiều khi rất vu vơ, không đầu, không cuối. Tờ báo bị xé mất ở chỗ mà một người trong nhà chưa kịp đọc, cũng là một đầu đề để cãi nhau. Người bị mắng nhiều nhất là Vinh, vì Vinh bé nhất nhà, ai cũng mắng được, mà lại bừa bãi, dùng cái gì ở đâu quăng đó, làm cho Yến phải dọn dẹp. Nhưng cái tuổi mười bảy của thằng bé là cái tuổi hay cãi, nên Vinh cãi lại rất hăng…
Phượng đã định không đưa Dương vào nhà vì lúc nầy mẹ đi vắng. Phượng định nói ra cái ý định ấy, thì thấy cửa mở ra một cách dữ dội, rồi Vinh ở trong nhà chạy ào ra… Thấy Phượng, Vinh định kể câu chuyện đã chọc tức chị Yến, nhưng chợt Vinh đứng sững lại, nhìn người đàn ông đứng bên cạnh Phượng… Anh Dương, anh Dương đây mà! Vinh reo lên, nắm chặt lấy tay Dương:
– Lâu quá, em mới gặp anh… Vào đây, vào đây coi mặt chị Yến. Có thể mang vào Sở Thú, nhốt trong chuồng cho thiên hạ coi được…
Vinh không biết giữ gìn ý tứ khi nói chuyện. Dù sao thì Dương cũng là một người quen, nhưng lại rất lạ. Cũng may là Yến đã lùi ngay vào trong bếp, sửa soạn lại bộ mặt. Chỉ một phút sau, đã trở ra với một nét mặt rất tươi cười. Người con gái thay đổi bộ mặt hay thật !
– Hôm nọ, nhận dược tin Dương, cả nhà lo quá. Thế nào, mạnh khỏe như thường rồi chứ ?
Dương cười, co duỗi đôi tay như tập thể thao:
– Cám ơn chị ! Bây giờ như thường và như thường,
Tuy rằng Yến còn kém tuổi Dương, nhưng vì đã tự coi như là chồng của Phượng, nên Dương gọi Yến bằng chị.
– Thế nào ? Hôm nay ở lại ăn cơm ở đây chứ Dương ?
– Không, cám ơn ! Hôm nay tôi và Phượng phải ăn cơm ở nhà Tâm. Chị Yến còn nhớ thằng Tâm không nhỉ ?…
– Nhớ chứ ! Cái ông Trung úy tới đây báo tin Dương bị rớt tàu bay chứ gì. Coi có vẻ nhiều tuổi rồi, mà nói chuyện cứ y như con nít. Đùa bỡn cả với sự chết chóc của người khác. Nhưng thú thật rằng, ông Tâm nói chuyện thật vui.
Loan cũng ra đứng cạnh góp chuyện. Nhìn thoáng vào trong bếp, thì thấy lạnh tanh, lạnh ngắt. Hôm nay, chắc lại không có cơm ăn rồi, Phượng tự nghĩ như vậy. Thế mà mời anh Dương ở lại ăn cơm, thì chị Yến cũng liều thật. Phượng chưa nói ra ý nghĩ đó, thì Vinh đã lanh chanh nói trước :
– Anh Duơng từ chối không ăn cơm, thì chị Yến mừng nhất. Hôm nay, có cơm đâu mà ăn.
Chị Yến mắng át đi :
– Thằng hỗn … Tại sao không có cơm ? Tao mà nấu cơm thì chỉ một loáng, không đầy mười lăm phút.
– Và thức ăn lại chỉ có đồ hộp và chị Yến làm bếp, sẽ được khen rằng món ngon nhất là món giò món chả.
Như vậy là Phượng biết, mẹ không ăn cơm nhà. Nhìn lên cuốn lịch trên tường, Phượng mới biết hôm nay là ngày đầu tháng. Mẹ lại bận đi thu góp tiền hụi. Nhiều lúc Phượng thấy chán cuộc đời phẳng lặng, sống không biết ngày tháng và thời khắc. Có lẽ mình nên xin đi làm.
Nhưng rồi nghĩ tới thời gian tám giờ đồng hồ phải ngồi trên cái ghế với hàng chồng sổ sách, Phượng lại rùng mình. Nhưng rồi thể nào cũng phải đi làm nếu Dương bằng lòng. Phượng có một số vốn tiếng Anh rất khá, nhờ mấy năm học ở hội Việt Mỹ.
Dương quay qua Phượng :
– Có lẽ chúng mình nên đi, không để người ta chờ. Ăn uống nên đi trước…
Vinh nói tiếp theo :
– Và lội nước thì nên đi sau…
Cả nhà đều cười với Vinh. Thằng bé ấy vậy mà lém. Trước kia, thấy Vinh e thẹn như con gái, Dương tưởng rằng, rồi đây lớn lên, cậu bé sẽ ít nói. Ấy thế mà cũng đấu hót ra gì. Dương đưa tay ra bắt tay Vinh. Chú bé nắm chặt tay Dương :
– Rồi anh Dương về đây chứ ? Anh Dương phải kể cho em nghe đủ các thứ chuyện đấy, nghe không?..
Dương lắc lắc tay Vinh :
– Chỉ sợ rằng Vinh không có nhiều thì giờ để nghe hết chuyện…
Gần buổi trưa, có lẽ tới giờ đi làm về, nên xe cộ đông nghẹt. Nhiều nơi kẹt xe lại cả đống. Dương không ngờ rằng Saigon hồi này lại đông xe cộ đến như thế. Chàng len lỏi vào đám đông. Chiếc xe “xô-lếch” nhỏ bé, nhẹ nhàng dễ dàng lách qua những khe hở, và nhiều khi Dương thoát ra khoảng trống rộng thênh thang.
Nhà Tâm ở trong một ngõ thật yên tịnh. Chung quanh toàn những nhà cao và cổ kính. Bấm chuông, thấy một chị người làm ra mở cổng :
– Cậu cháu có dặn là nếu cô cậu tới, thì xin đợi. Bà cháu ở trong nhà…
Bước vào trong chà, Dương thấy một sự im lặng đến lành lạnh. Có lẽ cha mẹ của Tâm phải mất nhiều công trình để mang theo những tấm hoành phi, câu đối từ miền Bắc vào đây. Dương có cảm tưởng như bước chân vào nhà một bậc quan lại, còn cố níu kéo lấy những thứ gì “vang bóng một thời”.
Tự nhiên Dương thành rụt rè, khép nép. Cả Phượng cũng vậy. Cả hai rón rén ngồi lên chiếc ghế xa-lông bằng gỗ gụ nhẵn bóng, chẳng êm ái một chút nào. Nơi đây, thật khác hẳn với nhà Phượng, lúc nào cũng ồn ào, cãi vã. Với không khí nầy, những kẻ nào dù tinh nghịch, đùa rỡn nhất cũng không dám nói lớn. Thấy vậy Dương lại thấy thương cho Tâm.
Một bà cụ già từ phòng trong đi ra, nét mặt hao hao giống Tâm và Thư Hương. Biết là mẹ Tâm, chàng và Phượng đứng dậy chào.
– Cháu là Dương phải không. Nghe Tâm nói bác mời biết cháu là con bác Tham Vũ. Hồi trước, bác với mẹ cháu hay rủ nhau đi lễ ở đền Quan Thánh. Thấy cháu, bác lại thấy nhớ mẹ cháu quá… Bạn bè vào đây, chẳng còn bao nhiêu người…
Dương dạ vài tiếng để đưa đà cho câu chuyện. Chàng chẳng biết chuyện gì để nói. Mọi khi, chàng lém lỉnh như vậy, mà nay, chàng ngồi như một chú rể mới phải tới chơi bên nhà vợ. Chàng cố nhớ khuôn mặt của bà Phủ, mẹ Tâm, cố nhớ xem đã có lần nào bà tới chơi với mẹ chàng. Nhưng đã nói, chàng là một đứa lang thang, có bao giờ ở nhà đến một tuần lễ đâu. Những lúc ở nhà, ngoài hai bữa cơm thì chàng chỉ ngủ, cho tới khi nào khỏe thì lại đi.
Trừ những người thân thích, họ hàng, bắt buộc chàng phải thăm những ngày giỗ, còn thì những bà bạn của mẹ, chàng chẳng nhớ được ai. Hôm nay bà Phủ nhắc tới mẹ chàng, cũng gây cho chàng một vài giây phút bâng khuâng.
– Nghe thằng Tâm nói thì cháu được đổi về Saigon phải không ?… Thật là phúc đức quá. Lại còn được làm ở bàn giấy nữa. Bác cũng mong thằng Tâm được như cháu, để về nhà, mẹ con có nhau. Làm cái nghề gì mà nguy hiểm quá…
Dương lễ phép trả lời :
– Cháu lại mong được trở về Phi Đoàn, đi bay như Tâm.
Bà Phủ ngac nhiên :
– Bác cứ tưởng rằng cháu có thế lực lắm, mới xin được về Saigon. Bác đã định hỏi cháu cách nào để bác cũng lo cho Tâm được như cháu…
Chàng không biết phải giải thích làm sao cho mẹ Tâm hiểu. Không thể giảng nghĩa như đã giảng nghĩa cho Phượng, nói “đại bàng lạnh cẳng”.
Chàng nghĩ rằng, chỉ nên yên lặng và lái câu chuyện về một khía cạnh khác :
– Bác có căn nhà đẹp quá. Chắc lúc di cư, phải vất vả lắm mới mamg đi được những thứ này…
Bà Phủ nhìn lên, hãnh diện :
– Ấy đó là công của bác trai… Đây toàn là những thứ đồ mừng của chánh, phó lý khi bác trai còn tham chính, ngồi trị nhậm ở Phủ Tiên Hưng, Thái Bình. .
Rồi bà giảng từng câu đối, từng bức hoành phi. Tuy rằng đã từng là một giáo sư dạy môn Việt văn, nhưng chàng mù tịt về Hán tự. Có người đọc lên thì chàng hiểu, nhưng nếu đưa chàng một bức văn tự chữ nho, bắt chàng đọc lên, thì chàng đành chịu. Dương chỉ đành ngồi, lắng tai nghe, mà kỳ thực, chẳng nghe được tiếng nào.
Tâm trở về, mang theo một thứ ồn ào, làm loãng đi cái không khí nặng nề. Nách cắp hai chai rượu, trông Tâm có dáng điệu một thứ lính Tây say. Bà Phủ la lên:
– Mày lại còn uống rượu nữa sao Tâm ?…
Tâm nhìn mẹ cười:
– Trời ơi, bây giờ mẹ mới biết hay sao ?… Con uống rượu từ gần một chục năm nay rồi. Hôm nay có thằng Dương mà uống bia thì đau khổ quá.
Thư Hương cũng đã về… Người con trai đi cùng với Thư Hương, vừa thoạt nhìn Dương cũng thấy ngay chàng ta còn là một sinh viên. Khuôn mặt chưa được mang ra nắng nên giữ được chất trắng xanh.
Trông chàng ta cũng vạm vỡ, khoẻ mạnh, nhưng chắc không phải là kẻ quen chịu đựng một cách dẻo dai. Vóc dáng đẹp trai ấy, rất dễ làm say mê những nàng con gái khuê các như Thư Hương.
Vẻ mặt của Thư Hương, đi cạnh chàng trai ấy trông rạng rỡ hẳn lên. Chỉ cần nhìn cũng biết rằng nàng đang sung sướng.
Thư Hương giới thiệu:
– Đây là anh Hoat, mà đã một lần, em có nói chuyện về anh Hoạt với anh Tâm, anh Dương. Còn đây là chị Phượng, vợ sắp cưới của anh Dương.
Trong thoáng một giây, Dương nhìn thấy Hoạt liếc nhìn Phượng với một cặp mắt khó tả. À, thằng nầy cũng chẳng phải là một kẻ đứng đắn. Chàng tự nhủ thầm như vậy, nhưng vẫn niềm nở bắt tay Hoạt. Bàn tay Hoạt mềm mại và lỏng lẻo. Dương rất ghét phải bắt tay với những kẻ có bàn tay như thế.
Thư Hương nói tiếp :
– Em được địa chỉ của anh Tâm là nhờ anh Hoạt dò hỏi dùm…
Dương thấy cần phải nói đùa một câu cho thêm thân mật:
– Như vậy thì anh Hoạt cũng có tài làm thám tử đấy chứ.
Hoạt nói cách kiêu hãnh :
– Đó cũng là nhờ thằng bạn tôi. Thằng Trung Tá Kim chắc hai anh cũng biết !
Dương tắt ngay nụ cười ;
– Dạ, ông ta là xếp của tụi tôi…
Nhìn sang Tâm, chàng thấy khuôn mặt của bạn tối sầm lại. Cả Dương và Tâm đều ghét những kẻ hay khoe mình là bạn với những ông lớn. Cấp trên của Tâm và Dương, có nhiều người làm cho lũ chàng cảm phục, nhiều kẻ làm cho lũ chàng thêm phẫn nộ.
Những người làm lớn, xuất thân từ giai cấp ngu dốt, nhờ may mắn và thời thế đưa đẩy, thường rất ngại mọi người biết đến cái ngu dốt của mình, nên hay giao du với những người khoa bảng. Đó cũng là vì mặc cảm. Hoạt là một bác sĩ sắp ra trường, nên cũng được coi như một người khoa bảng. Ông Trung Tá Kim là bạn với Hoạt, có lẽ cũng vì vậy.
Tâm đã mở nút chai ruợu. Chàng rót ra ba ly lớn, bỏ thêm nước đá và sô-đa, rồi mời Dương và Hoạt, nhưng Hoạt từ chối:
– Xin phép anh, tôi không uống rượu…
Tâm nói với Dương:
– Thế thì chỉ còn có tao và mầy phải quật ngã hai chai này. Hơi gay go đấy nhé !
Phượng nói xen vào :
– Cả Phượng nữa chứ… Không uống nhiều nhưng một ly thì dư sức. Anh Tâm đưa ly của anh Hoạt cho Phượng…
Hoạt lại lên giọng giảng đạo đức:
– Các anh không nên uống rượu. Uống như các anh, thì tôi đã để dành một toa thuốc sẵn cho các anh. Về già, gan các anh sẽ cứng lại.
Tâm nói trong tiếng cười:
– Đấy là nói chuyện về già. Còn bây giờ, thì chưa cần tới toa thuốc của bác sĩ Hoạt. Uống đi Dương, Phượng …
Chỉ một lần mà ly rượu vơi đi quá nửa. Phượng nhắp từng chút, vừa uống vừa nhăn mặt. Nhìn Phượng, có cảm tưởng rằng nàng đang uống một ly thuốc đắng.
– Không uống được thì để đó…
Phượng bướng bỉnh :
– Phải uống được chứ…
Rồi Phượng bắt chước Tâm và Dương, uống một hơi cạn tới gần nửa ly, nuốt ực một phát, mà cảm thấy nóng rát cổ họng. Thư Hương cũng nóị :
– Chị Phượng cho Hương uống với.
Rồi Hương cầm lấy ly rượu của Phượng. Mặc cho đôi mắt nghiêm khắc của Hoạt, Thư Hương cũng uống một hơi. Mặt của hai nàng con gái đỏ bừng. Lúc đó thì Tâm và Dương cũng cạn hết ly rượu.
Chị người làm mời tất cả sang phòng ăn. Vừa thoạt nhìn, Dương đã thấy đói rồi. Bàn trải khăn thật trắng và bát đũa là những thứ đồ cổ quí giá. Mẹ Tâm hỏi :
– Mấy đứa có muốn mẹ ngồi đây không ?…
Tâm kéo một chiếc ghế ở đầu bàn :
– Nhất định là mẹ phải ngồi đây rồi. Không những mẹ phải ngồi đây ăn với tụi con. mà mẹ còn phải uống rượu nữa. Mẹ nhìn mặt hai cô gái của mẹ, thì thấy ngay chúng nó cũng vừa uống rượu rồi đấy…
Mẹ Tâm mắng yêu :
– Con gái mà uống rượu ! Xấu!
Thư Hương nhận thấy từ lúc Tâm về nhà đến hôm nay, mẹ đã hả hê và dễ dãi rất nhiều. Cái dễ dãi và tế nhị của mẹ, chắc rồi đây sẽ giữ được Tâm ở lại nhà. Dương thấy cần phải hỏi một câu :
– Thưa bác còn bác trai nữa ạ!
Thư Hương cười ròn rã :
– Anh Dương muốn kiếm ông cụ, thì nên ra vườn Bờ-rô. Từ sáng sớm cụ đã cắp một cuốn sách đi ra ngoài đó ngồi trên ghế đá rồi đọc liên miên. Mấy ngày liền, Hương đã đi theo sau rình, thì thấy cụ ông đọc sách hơi kỹ…
Tâm bùì ngùi thương cho tuổi già của bố. Sổ lương hưu trí, cũng giúp cho cụ đủ ăn tiêu hàng tháng. Không những thế, mẹ chàng cũng còn tiền… Theo như Thư Hương kể, thì mỗi lần lãnh lương hưu trí xong, cha chàng thường đi qua một tiệm sách, mua về hàng chồng sách. Rồi cụ giải trí bằng cách qua vườn Tao Đàn, ngồi đọc cho tới hết ngày. Buổi trưa, cụ ông ăn cơm ở đâu, thì cả nhà không được biết.
Mẹ Tâm mời lũ trẻ :
– Các con cứ việc ăn đi.
Câu mời này chỉ có giá trị với Hoạt. Thêm nữa là Phượng là Thư Hương, còn Tâm và Dương thì ngồi uống rượu. Chỉ mới chừng một giờ, mà chai rượu đã cạn và phải mở tới chai thứ hai.
Mẹ Tâm can một câu :
– Thôi, hai thằng uống ít chứ. Thế là đủ rồi.
Tâm phản đối :
– Hôm nay, tụi con phải uống nhiều. Mẹ không biết rằng, hôm nay vừa mừng thằng Dương thoát chết, vừa phải chia tay với nó, để cho nó và con, mỗi đứa mỗi nơi. Nó về Saigon để làm ông ký cạo giấy. Còn con thì vẫn ở lại với xứ Bưởi, làm bạn với mầy con cắc kè…
Dương thở dài :
– Ước gì tao đổi được cho mầy.
Tâm trợn mắt :
– Đâu có được. Tao đâu có hèn để phải xin về làm việc bàn giấy.
– Như vậy mầy bảo tao hèn ? Nhưng rất may, đó không phải tao xin. Nhưng thôi, được mầy mắng là hèn, tao cũng thấy rằng hân hạnh nhiều lắm.
Phượng lo lắng nhìn Dương. Nàng thấy câu nói của Dương nó đượm nhiều mỉa mai chua chát. Tất cả là tại nàng. Nếu mà hôm đó, Phượng đừng gật đầu với anh Tư, thì bây giờ đâu phải nghe những lời đau đớn của Dương như thế. Thư Hương vội can Tâm :
– Anh Tâm có lẽ say rồi.
Tâm cáu kỉnh dùng cả tiếng “mầy tao” với Thư Hương :
– Tao mà say à ? Mày không thể hiểu được tụi tao. Khung trời Đại Học của chúng mầy, khác với khung trời rộng lớn của tụi tao . Khi còn mắng chửi nhau, tức là còn yêu thương nhau. Chỉ khi nào không thèm nói gì với nhau nữa, mới được kể như hết cảm tình với nhau rồi…..
Nghe Tâm nói “khung trời Đại Học của chúng mầy” Thư Hương vội liếc nhìn người yêu của mình là Hoạt, thì thấy trên nét mặt Hoạt thoáng một vài nét bất bình. Nhưng với một con người như Hoạt, thì nét bất bình ấy chỉ thoáng trong một giây rồi biến mất. Khuôn mặt ấy trở lại bình thường.
Mẹ Tâm nói :
– Theo như mẹ thấy, càng đỡ nguy hiểm thì càng tốt chứ sao. Mẹ cũng mong con về làm ở một bàn giấy tại Saigon như Dương.
Tâm bùi ngùi :
– Mẹ mong cho con như vậy, nhưng mà con lại không mong như vậy.
Dương uống cạn ly rượu thật nhanh. Với sức uống của Tâm và Dương thì như thế này vẫn chưa đầy đủ cho một cơn say. Cần phải uống, uống nhiều hơn nữa. Phượng cũng đã uống hết ly thứ hai và cũng mới chỉ thấy mình chếnh choáng. Mẹ Tâm đã bỏ bàn tiệc ra ngoài nhà. Chỉ còn lại một lũ người trẻ, những câu chuyện đã dần đến chỗ tẻ nhạt. Dương và Tâm ngồi lầm lì đối diện nhau, uống cạn hết ly rượu này đến ly rượu khác.
Dương nhìn sang Phượng thì thấy mặt Phượng thật rạng rỡ. Hai ly rượu vừa rồi giúp cho đôi má Phượng đỏ hồng, càng nhìn càng đẹp. Phượng như một trái cây vừa chín tới. Phượng và Thư Hương cùng đẹp, nhưng hai cái đẹp ấy khác hẳn nhau. Thư Hương ẻo lả như một cành liễu, cái đẹp mà các cụ ngày xưa, ca tụng “yểu điệu thục nữ “.
Còn Phượng thì vút cao như một cành tre khỏe mạnh, tưởng như có thể trồng xuống bất cứ một khoảng đất khô cằn nào cũng có thể sống được. Chàng cũng lấy làm lạ cho Phượng. Với tuổi của Phượng, cái tuổi không muốn có một cái gì ràng buộc để bước chân chim có thể chạy nhảy tung tăng, vậy và Phượng lại thiết tha với chuyện lập gia đình. Phượng nói với Thư Hương :
– Chắc là đám cưới của Thư Hương sẽ trước đám cưới của chúng tôi rồi…
Thư Hương trả lời Phượng :
– Anh Hoạt định rằng sau khi cả tôi và anh cùng ra trường. Phải còn tới một năm nữa, khi mà cuốn lịch ở trên tường kia đã bóc hết, phải thay một cuốn lịch khác. Có lẽ phải tới mùa hè sang năm.
Tâm và Dương lại ngồi đối diện nhau, uống cho tới khi cạn chai rượu. Hai người không còn chuyện gì để nói. Sau một lúc mới thấy Tâm phàn nàn :
– Chỉ thiếu có vợ chồng thằng Hậu… Cái thằng thật tệ. Đã dặn đi dặn lại nhiều lần mà tới hôm nay, không thấy vác cái mặt về. Nó cứ sợ thằng con nó không ai trông nom, nếu đi cả hai vợ chồng. Mà đi một mình, thì lại không nỡ…
Một chút buồn thoáng qua với Dương, khi chàng nghĩ tới Hậu và Hằng. Nếu mình và Phượng lấy nhau, rồi đây chắc cũng giống như thế. Cũng phải đưa nhau vào cái Trại Gia Binh, ở chung với mấy mụ đàn bà lắm điều, mấy thằng thô tục, lúc nào cũng sẵn sàng để cãi nhau, đánh nhau.
Nhìn thấy cái dáng sang cả của Hằng ngồi lẫn chung với đám vợ lính trong Trại Gia Binh, như một con thiên nga trong một bầy vịt, Dương đủ thấy lòng bất nhẫn. Phượng rồi đây cũng phải ngồi chung với những người đó thì thật tội nghiệp cho Phượng.
Thư Hương rụt rè nói với mẹ :
– Xin phép mẹ cho con đi chơi chiều nay.
Bà Phủ cười dễ dãi :
– Ừ, nhưng nhớ về cho sớm.
– Chiều con không ăn cơm nhà. Chúng con đi chơi trên Thủ Đức
– Hai đứa cứ đi chơi đi…
Vừa thoáng nghe thấy tiếng Thủ Đức, Dương chợt cảm thấy một chút lạnh, làm cho rùng mình. Chàng nhớ tới cái khách sạn ở gần nhà ga xe lửa, nơi mà lũ đàn ông thường mang đàn bà tới để làm thịt. Những căn phòng nơi khách sạn này, cho mướn một cách thật dễ dãi. Chiếc sân có vài ba bóng dừa, là một nơi thơ mộng cho những đôi trai gái nói chuyện tâm tình.
Chàng cũng đã vào đây vài ba lần, dĩ nhiên là đi với những nàng con gái, không mất nhiều công phu tán tỉnh. Chàng không dám nghĩ thêm gì nữa. Hoạt, dầu sao cũng chỉ là một sinh viên, chắc còn giữ được nhiều chất học trò, không thể làm những chuyện bậy bạ… Mà Thư Hương, cũng không phải là một cô gái mà người đàn ông có thể dễ dàng đưa vào khách sạn…
Chàng lại nghe thấy tiếng của Tâm :
– Lát nữa, thằng Dương đi về với Phượng. Chỉ còn lại một mình tao, thật cô đơn và buồn nản.
Mẹ Tâm nói, giọng hiền từ :
– Thì mầy với mẹ. Nói chuyện với mẹ, có phải là vui hơn không. Từ hôm mầy về tới nay, chưa bao giờ mầy kể cho mẹ nghe, trong mấy năm nay, mầy ăn làm sao, ở làm sao, có những chuyện gì đã xàảy ra. Mẹ đang thèm nghe mầy kể chuyện, ở nhà với mẹ. Mặc kệ chúng nó !
Dương nói với Tâm :
– Để Phượng về một mình. Tao ở lại đây với mầy, tối ngủ lại, để sáng mai cùng đi với mầy lên xứ Bưởi, lấy cái xe, và làm giấy tờ. Chúng mình còn có vài ba ngày nữa sống với nhau, không rồi sau lại tiếc… Phượng nếu thấy cần về, thì có thể về một mình.
Phượng thấy Dương nói vậy thì mặt có vẻ giận, nàng thấy thái độ của Dương quí bạn hơn nàng, thì cũng buồn nhưng rồi lại thấy hối hận. Nàng đã nghe thấy Tâm và Dương nói nhiều đến tình bạn. Mất một người yêu, một con vợ rất đễ tìm một người yêu hay một con vợ khác. Nhưng nếu mất một người bạn, thì khó mà tìm được người bạn khác. Dương đã nói như vậy và nàng thấy Tâm đã gật gù cái đầu tỏ vẻ đồng ý. Nàng đành chịu nước kém vậy. Phượng tươi cười chào mẹ Tâm, chào tất cả mọi người, và lủi thủi dắt chiếc xe “xô-lếch” ra đường, ngồi lên chạy như bay về nhà.
Đêm hôm đó, đã khuya lắm, mẹ Tâm còn nghe thấy tiếng thì thầm trong phòng Tâm. Thư Hương về lúc chập tối, mặt có nhiều nét khác lạ nhưng bà Phủ cũng chẳng để ý đến sự thay đổi của con gái… Thư Hương về phòng riêng, đóng cửa lại rồi từ đó không ra nữa.
Căn nhà trở lại yên lặng thường lệ. Lâu lâu chỉ nghe thấy tiếng ho của cha Tâm. Sáng hôm sau, có hai chàng trai trẻ thức dậy thật sớm, chở nhau trên một chiếc xe Vespa, chạy ào ào trong sương sớm, ngược đường về nẻo xa lộ..
CHƯƠNG VI
Dương đổi về Saigon đã được bốn tháng. Công việc đều đặn đến phát nản. Chàng mướn một căn nhà ở gần nhà Phượng, cũng ở bên cạnh đường tàu. Ở xóm này có một chuyện đặc biệt làm cho Dương ngạc nhiên trong những ngày đầu mới tới trú ngụ. Nơi này có rất nhiều nhà thờ, có nhiều giáo dân, rất sùng đạo và có rất nhiều đĩ. Những người con gái sống bằng nghề bán thịt này, sống chung với dám dân mộ đạo hiền lành. Đó cũng là một điều lạ. Tâm thường đến chơi với chàng luôn, và nhiều khi ở lại, để rồi hai người bạn nói chuyện với nhau suốt một đêm. Dương hỏi thăm về những người ở đơn vị cũ. Chàng rất buồn khi nghe Tâm kể tới những người bạn thân đã dần dần ra đi. Nhìn quanh bạn bè cũ, chẳng còn được mấy người, Tâm buồn rầu kết luận :
– Không biết tới bao giờ thì tới lượt tao, tới lượt mầy.
Dương an ủi :
– Sống chết có số cả. Mầy chẳng nên lo lắng làm gì. Mầy cứ nhìn cái gương của tao đây. Nhảy dù xuống ngay tổ của chúng nó, lang thang ba ngày trong rừng, rồi cuối cùng vẫn về được với chúng mầy… Vậy thì chúng ta cứ nên tin vào số mệnh.
Sự tin vào số mệnh, từ lâu vẫn là nguồn an ủi với những kẻ làm nghề nguy hiểm. Người ta không lấy làm lạ, khi thấy những chàng phi công trẻ, thích hút thuốc lá Lucky. Không phải thứ thuốc lá đó ngon hơn các loại thuốc lá khác, mà chỉ vì tên nó là Lucky.
Để gói thuốc Lucky vào trong túi áo, có nghĩa như đã mang theo cái bùa may mắn ở trong người. Từ ngày về Saigon sống ở nơi bàn giấy yên ổn, Dương vẫn hút thứ thuốc lá đó, để nhớ tới bạn như một thói quen khó quên.
Những chuyện mà Tâm và Dương nói với nhau, thường rất ít. Họ yên lặng ngồi cạnh nhau hút thuốc và nhìn những đợt khói đuổi theo nhau, tan loãng đi trong căn phòng hẹp.
Tâm hỏi Dương:
– Tại sao mầy không ở trong cư xá sĩ quan độc thân ?.. Ở ngoài này, vừa thiếu đủ mọi thứ tiện nghi mà lại còn tốn tiền.
– Tao muốn ở gần Phượug. Ở trong đó, mỗi lần Phượng tới chơi, làm thủ tục rắc rối. Rồi còn những thằng nham nhở, thấy mình có gái tới chơi, thường thốt ra những lời không đẹp. Tao muốn tránh cho Phượng cảnh đó.
– Phượng có hay tới đây không ?…
– Gần như thường xuyên, ngày nào cũng tới.
Tâm hít một hơi thuốc lá thật đài:
– Tao mong cho mối tình của chúng mầy lúc nào cũng đẹp như bây giờ.
Dương bâng khuâng khi nghĩ tới tình của chàng và Phượng. Đã mấy tháng nay, chàng cũng theo Phượng, mỗi buổi sáng chủ nhật, đi nhà thờ. Căn nhà thờ này, mới xây cất ở đầu đường Trương Tấn Bửu. Lúc tới nhà thờ, chàng và Phượng phải chia tay nhau. Chàng đứng về bên dành cho đàn ông cầu nguyện. Còn Phượng ở bên trái, dành riêng cho đàn bà con gái.
Lừa lúc Phượng đang cầu nguyện chàng lẻn ra một quán cà-phê, uống hết mấy ly cà-phê, để chờ cho tan buổi cầu nguyện, đón Phượng về. Chàng đã bị Phượng trách nhiều lần… Và lần nào chàng cũng xin lỗi, kèm theo một lời nói bông đùa… ” Anh không thể nào lên được Thiên Đường. Nơi đầy hoa, đầy thiện mỹ đó, chỉ để dành cho người như Phượng. Địa ngục mới là chỗ ở của anh”.
Phượng trả lời mà không cười:
– Nếu anh ở địa ngục thì Phượng cũng xin phép được theo anh xuống đó luôn.
Thấy Phượng buồn, Dương cũng thấy mình có lỗi. Từ trước tới nay, Dương vẫn thờ ơ với tôn giáo. Nhưng sau vụ Phượng trở lại và mấy ngày gần với cái chết, chàng thấy yêu tôn giáo, định trở thành một kẻ mộ đạo, nhưng rồi lại không thể làm được . Tính của chàng, không thể quì hàng giờ, nghe một bài giảng, không thể đứng cầu nguyện để cho khuôn mặt trầm lặng một cách “nặng về phần trình diễn”. Chàng chỉ muốn đặt Chúa ở trái tim…
Sáng hôm nay, lại là một ngày chúa nhật. Lúc sáng sớm, Phượng cũng ghé qua đây, nhưng thấy Dương ngủ mê mệt, nên rất ngần ngại trong việc đánh thức Dương thức đậy đi nhà thờ. Dương nghe thấy gót giầy Phượng bước nhẹ từng bậc thang, tiếng gọi của Phượng, tiếng gạt nhẹ cái móc cửa, và tiếng kẹt cửa. Chàng nghe thấy cả bước chân của Phượng, rón rén bước tới cạnh giường rồi ngừng lại… Chàng chỉ mở được hé đôi mắt, để nhìn thấy một màu đen, màu áo Phượng choáng ngập cả tầm mắt.
Những ngày chủ nhật phải đi nhà thờ, Phượng đã thay màu áo đỏ chói mắt vẫn mặc thường ngày, bằng một chiếc áo đen màu tối. Dương vẫn thích Phượng mặc áo đen. Màu da của Phượng trắng, nổi bật hẳn lên. Màu mắt thăm thẳm lẫn vào mầu áo. Thấy Dương mở mắt, Phượng hỏi :.
– Tối hôm qua anh lại uống rượu phải không ?
Dương nhẹ gật đầu, Phượng nói tiếp :
– Lát nữa, tan buổi nguyện, Phượng sẽ về. Hôm nay Phượng tha cho anh, không bắt phải đi nhà thờ. Nhưng phải ở nhà chờ Phượng. Chúng mình sẽ ăn cơm ở nhà trưa nay…
Nghe Phượng nói, Dương gần như tỉnh hẳn ngủ . Chàng có bao giờ nấu cơm ở nhà. Trên căn gác nhỏ này, không có một chứng cớ nào để tỏ cho người ngoài biết được, có một chút lửa, một chút khói… Có lẽ chàng phải chạy đi mua những thức ăn ở hiệu, rồi về sửa soạn cho một bữa cơm.
Biết vậy, nên Phượng nói tiếp :
– Anh cứ việc ngủ cho khỏe. Phượng sẽ ghé qua một cửa hàng mua đủ các thức đem về. Hôm nay chúng mình tổ chức một buổi ” picnic ” tại gia…
Dương nói với Phượng, vẫn giọng ngái ngủ :
– Cám ơn, cám ơn Phượng !
Tiếng giày lại đi thật nhẹ từ gian phòng ra ngoài cửa. Từng tiếng gõ nhẹ bực thang. Rồi tiếng giầy ấy xuống đến mặt đường, lẫn vào muôn ngàn gót chân nhộn nhịp.
Phượng đã đi rồi… Dương lại chìm vào một giấc ngủ mơ màng. Nhưng rồi trong một lúc giấc ngủ nửa chừng ấy, Dương chợt nghe thấy một tiếng la hét nổi dậy. Tiếng la hét thê thảm như tiếng kêu của một sinh vật đứng bên lề vực thẳm của thần chết. Chàng bàng hoàng tỉnh giấc, và nhận thấy rằng, cái tiếng ấy không phải ở trong một cơn ác mộng. Chàng mệt mỏi ngồi dậy, đi về lối cửa sau, chậm chạp đếm từng bậc thang, bước xuống dưới nhà để đi về phía nhà tắm
Chàng gặp bà chủ đang ngồi giặt ở đây. Chàng gật đầu chào bà chủ rồi hỏi :
– Ai la hét mà ghê gớm vậy, bà chủ ?…
Bà chủ cúi mặt xuống chậu quần áo:
– Con Xuyến nó phá thai, la hét từ đêm hôm. Thế cả đêm qua, ông không nghe thấy gì hết sao ?…
Dương lắc đầu :
– Tôi ngủ say quá !…
Xuyến là một cô gái điếm, mướn căn nhà bên cạnh nhà Dương. Từ mấy tháng nay, Xuyến gần như một thứ gái bao của một anh chàng đại úy quân trường. Hình như anh chàng đã bỏ cô nàng, trong lúc cô nàng đang mang trong bụng một giọt máu vô tội.
Xuyến rất dễ thương, nhiều lúc đã lên gác của Dương, xếp dọn đồ đạc cho Dương gọn ghẽ, nói với Dương vài ba câu chuyện về trời mưa, trời nắng. Chiếc hồ nước của nhà chàng, ở sát ngay cửa sổ gian phòng Xuyến. Nhiều lần, Tâm và Dương đã ngồi dậy, rình coi Xuyến đi khách, mà Tâm gọi là coi hát bóng, vừa hấp dẫn, mà lại không tốn tiền.
Bà chủ nhà đã hét lên mấy lần, mà hai chàng vẫn không chừa. Về sau, bà phải đem chuyện này mách với Phượng. Bị Phượng mắng cho một trận, hai anh chàng tinh nghịch này mới thôi, nhưng lâu lâu, vẫn lén lút “coi một tí cho đỡ ghiền”. Tâm thường ở lại, ngủ với Dương, cũng vì mục này.
Dương lại nói :
– Nó phá thai bằng thuốc gì mà dữ dội vậy…
– Ối đào, nó uống thuốc gì tầm bậy tầm bạ, hình như là thuốc ô kim. Tôi cũng khuyên nó đi cái ông Bác sĩ gì đó ở đường Duy Tân mà nó không chịu nghe. Nó la hét đến gỗ đá cũng phải mủi lòng…
Tuy rằng nói đến “gỗ đá cũng phải mủi lòng”, nhưng Dương nhìn mặt bà chủ nhà thấy nét mặt của bà không thay đổi một tí tẹo nào. Nhưng Dương biết bà chủ nhà rất thương Xuyến.
Tình cảm của người Việt Nam ít khi trình diễn ra ngoài mặt. Chàng góp một câu :
– Bà đã chạy sang với cô ta lần nào chưa ?
– Ấy, tôi đã chạy qua, chạy lại, từ tối đến giờ mấy lần rồi.
Rồi không quên được cái tật của người đàn bà xứ Bắc, bà chủ nhà kể lể với Dương :
– Con nhỏ trông gầy ốm thế, mà khỏe quá đi. Hôm qua lúc cơn đau của nó lên, nó vớ được cái cọc màn, bẻ một cái mà cọc gẫy làm đôi.
Tiếng hét của Xuyến lại vang lên làm Dương hoäng hốt. Chàng quyết định :
– Không thể để như thế này được. Bà phải mang nó đi ngay nhà thương…
Bà chủ nhà đứng phắt ngay dậy, rửa tay qua loa vào chiếc vòi nước. Bà tất tả chạy sang nhà hàng xóm. Dương cũng vội vã đánh răng, rửa mặt, mặc quần áo, chạy sang nhà Xuyến. Trước mắt Dương, cô gái giang hồ chỉ còn là một đống giẻ rách rã rượi, nằm rên la, nước mắt chảy dài, ướt đẫm xuống hai mớ tóc mai.
Chàng gọi :
– Xuyến ! Xuyến! Bác Tư đưa Xuyến đi nhà thương bây giờ đấy!
Xuyến cố gắng gật đầu. Một chiếc xe tắc-xi đậu ngay trước cửa. Bà chủ nhà và Dương khiêng dược Xuyến ra xe. Dương phải cố nắm chặt hai cổ chân Xuyến, để Xuyến khỏi giẫy dụa. Chàng định đi cùng bà chủ nhà tới nhà thương, nhưng chợt nhớ tới cái hẹn của Phượng, nên ở lại. Lũ con nít xúm đông trước cửa nhà.
Những xóm lao động vẫn xảy ra những vụ như vậy. Con nít là một đám hiếu kỳ. Cứ thấy chuyện lạ là lại tụ họp đông đảo bàn tán ồn ào. Khi chiếc xe tắc-xi rời xa, đám đông mới tản mát dần
Cũng lúc đó thì Phượng về. Nhìn dáng điệu mệt mỏi và hoảng hốt của Dương, Phượng hỏi :
– Có chuyện gì vậy ?
Dương kể cho Phượng nghe về Xuyến… Vừa lên thang gác, chàng vừa dở những thứ mà Phượng mới mua về. Phượng ngồi trước mặt chàng, không nói gì cả. Phượng đang buồn. Kiếp đàn bà con gái thật khổ. Đã phải làm một cái nghề mạt hạng để kiếm sống như Xuyến, mà vẫn không yên thân. Tự nhiên Phượng thấy một chút ganh ghét với lũ đàn ông. Họ chỉ biết chơi đùa giải trí cho sướng cái thân họ. Còn thì mặc sự đau đớn của lũ đàn bà.
Dương đi kiếm một tờ báo để trải lên bàn. Chiếc bàn này của chàng, vừa là bàn viết, bàn ăn và bàn tiếp khách. Gọi là bàn ăn, nhưng ít khi chàng ăn ở trên bàn ấy. Nếu không ra hiệu ăn ở đầu phố thì chàng và Tâm lại vác rượu về nhà, trải vài tờ báo xuống sàn, bày ngay các thứ đó ra. Ngồi xếp vòng tròn đánh chén ngất ngưởng, chàng và Tâm được hưởng cái thú ăn uống của các cụ ngày xưa, vừa rung đùi vừa uống rượu ngâm thơ tục.
Lâu lâu, vài ba ngày, Tâm từ Biên Hòa về, hai đứa lại sống vời nhau những buổi chiều thật đẹp. Cũng có vài ba phút buồn, nhưng cái buồn ray rứt không lâu. Vì những lúc về sau này, cái buồn đến dồn dập quá. Đúng như lời Tâm nói, những bạn bè thân nhất, cứ dần dần bỏ mình mà đi. Thằng thì chết ngoài biển. Thằng thì chết ở núi rừng. Tất cả những cái chết, không có một cái chết nào giống nhau cả.
Những người còn sống, mỗi khi bay qua vùng mà có người bạn chết, thường thả xuống đấy bao thuốc lá Lucky còn lại. Dương nói với Tâm là những lúc đi bay như thế, Tâm nên mang đi hai gói thuốc. Lúc thả xuống, Tâm nhớ nói rằng “gói thuốc này của thằng Dương tặng cho mầy đây”. Dương nói như vậy với một giọng thật buồn như muốn khóc. Vùng trời trên kia, bây giờ đối với chàng xa lạ quá rồi.
Tâm an ủi chàng vài câu, nhưng Tâm biết rằng dù cho có nói lên ngàn lời, cũng chỉ là vô ích mà thôi.
Phượng cắt đứt luồng tư tưởng của Dương :
– Sao mà anh loay hoay mãi không làm được gì cả như vậy. Thôi để Phượng làm cho.
Dương cười :
– Anh đang nghĩ sao cho chúng mình có đĩa, bát đũa. Anh với thằng Tâm thì ăn bằng tay quen rồi. Để anh chạy xuống mượn bà chủ nhà.
Phượng gạt di :
– Phượng ăn bằng tay, giống như anh cũng được…
Rồi Phượng bày lên trên bàn một con gà quay, vàng óng những mỡ. Phương đã mất công phóng xe “xô-lếch ” lên tận tòa Đô Chính, để mua gà quay. Thêm hai khúc bánh mì, hai hộp bia cho Dương, một lon coca cho Phượng nữa, là đầy đủ một bữa ăn trưa cho cả hai đứa.
– Hôm nay, tại sao Phượng bắt anh ở nhà ?…
– Để anh phải nghe một câu chuyện.
Dương ngạc nhiên.
– Chuyện gì mà có vẻ quan trọng quá vậy ?
Phượng thẩn thờ :
– Chuyện về Thư Hương.
– Chuyện về Thư Hương ?
Tại sao lại có chuyện về Thư Hương ? Chiều qua, chàng vừa đi uống rượu với Tâm, đâu có thấy Tâm nói chuyện gì đâu. À phải rồi, Tâm tuy rằng là anh của Thư Hương, nhưng Tâm lại là đàn ông.
Tâm sự của con gái có lẽ chỉ dễ dàng thố lộ với con gái, chứ không tiện nói với đàn ông con trai, dù cho là thân thuộc của mình. Chàng hỏi lại :
– Có chuyện gì về Thư Hương vậy ?…
Phượng không trả lời câu hỏi của Dương, mà lại nói sang một câu chuyện khác :
– Hình như cái anh chàng Hoạt, sinh viên, người yêu của Thư Hương là người không được đứng đắn.?…
– Phượng lấy cớ gì mà nói như thế ?…
– Một hôm, Phượng đi phố về, tình cờ gặp hắn. Hắn rà chiếc xe lại nhất định mời Phương lên xe để hắn đưa về nhà. Lẽ dĩ nhiên Phượng từ chối rồi, nhưng hắn dai hơn đỉa đói, cố mời cho bằng được, lại còn thốt ra những lời tán tỉnh rẻ tiền. Hắn nói rằng đẹp như Phượng mà phải đi bộ dưới cái nắng Sài gòn thì chẳng mấy lúc mà cháy nám mất cái má hồng.
Dương cười vang :
– Hắn nói như vậy thì đúng quá chứ còn gì nữa…
Phượng giận dỗi :
– Lại cả anh nữa… Phượng thấy hắn nói như vậy thì tức quá, dọa mách lại với Thư Hương. Mặt hắn lại nhâng nhâng nháo nháo, trơ trẽn nói rằng, hắn với Thư Hương bây giờ kể như hết rồi. Thảo nào mà những lúc về sau này, Phượng gặp Thư Hương, thấy Thư Hương có vẻ buồn. Có nhiều lúc, gần như chán đời..
Dương mở lon coca cho Phượng :
– Anh thấy như vậy là may cho Thư Hương. Ngay từ hôm mới gặp, anh và Tâm đã không bằng lòng với cái thái độ của hắn. Nó bỏ là may. Cái buồn của Thư Hương, chắc rồi chỉ kéo dài “trong một tháng, trong một năm”. Với đôi cánh của thời gian, rồi đây nỗi buồn nó sẽ bay đi…
– Nhưng mà Phượng lo quá !…
– Phượng lo lắng chuyện gì ?
– Những lúc sau này, Phượng thường tới chơi với Thư Hương. Cô nàng hay hỏi nhiều chuyện lẩm cẩm. Thí dụ như “chị Phượng này, tại sao mà khi hai người yêu nhau, người đàn ông hay đòi hỏi chuyện đó… ” Phượng trả lời rằng, anh Dương đứng đắn, không bao giờ lại có tư tưởng bậy bạ, dù rằng chúng mình có căn phòng này, rất dễ làm cho con người phạm tội.
Dương trả lời thật buồn :
– Rất cảm ơn Phượng. Những điều mà Phượng đã nói tốt về anh, thú thật với Phượng, là nhiều lúc nhìn thấy Phượng đẹp quá anh cũng đã có ý nghĩ rất bậy. Anh đã tự an ủi rằng, rồi thì đằng nào chúng mình cũng sẽ cưới nhau, chuyện đó xảy ra, dù trước hay sau, cũng chẳng có chi quan trọng, nhưng anh cố đè nén lòng sôi nổi của mình xuống…Anh dùng phương thuốc an thần linh nghiệm nhất, là uống thật say để quên và ngủ. Lúc nào mà không giữ nổi được nữa, thì anh lại đi tìm vui bằng cách gần gũi với những cô gái điếm. Phượng tha lỗi cho anh. Còn chuyện của Thư Hương như thế nào, xin Phượng cứ tiếp tục kể..
– Phượng rất cám ơn anh, đã giữ gìn cho Phượng. Còn chuyện mà anh gần mấy có gái điếm, Phượng đâu có thèm để ý. Phượng kể tới đâu rồi nhỉ ?… À, tới mấy câu hỏi rất lẩm cẩm của cô nàng Thư Hương. Cô nàng hỏi Phượng những câu vớ vỉn như vậy, rồi tự nhiên thì thầm với Phượng, ” Ước gì anh Hoạt cũng được như anh Dương”. Linh tính của người con gái, dùng để tìm hiểu một người con gái, cho Phượng biết là đã có chuyện gì xảy ra rồi, Phượng đùa cợt hỏi lại rằng “Thư Hương và Hoạt đã xảy ra chuyện gì chưa”, thì cô nàng òa lên khóc…
– Thằng khốn nạn thật! Nhưng mà chuyện đó xảy ra đã lâu chưa ?…
Phượng bẻ một mẩu bánh mì :
– Ngay cái hôm mà chúng mình ăn uống ở nhà anh Tâm. Hôm đó, Hoạt đưa Thư Hương lên Thủ Đức…
– Anh biết chỗ đó rồi… Cái khách sạn ở cạnh nhà ga xe lửa…
Phượng nghi ngờ cắt ngang :
– Đúng như vậy ! Thì ra các anh cũng chỉ giống nhau. Anh đã làm thịt bao nhiêu người ở đó ?
Dương xua tay:
– Phượng định xếp hạng anh ngang hàng với thằng Hoạt sao ? Anh đâu đến nỗi đê mạt tới cái mức đó.
Đám mây nghi ngờ tan biến trong lòng Phượng. Dương đâu cần tới chỗ đó. Trong căn phòng này, chỉ có Phượng, có Dương.. Nhiều lúc Phượng cũng thấy mặt nóng bừng, đắm đuối nhìn Dương, nhưng chàng đã ngoảnh mặt đi chỗ khác, cố tránh cái tia nhìn nồng nàn ấy. Đã mấy tháng nay, đã nhiều lần nàng và Dương đã bước qua cái vực thẩm đầy những hãi hùng đen tối. Dương không phải như thế. Phượng âu yếm nhìn Dương, bốn mắt gặp nhau để cảm thấy yêu nhau nhiều hơn.
– Vì vậy, Phượng mới thấy lo cho Thư Hương.
Khi Phượng nói rằng lo cho Thư Hương, Phượng đã nói thật với lòng mình. Từ ngày được quen biết gia đình Tâm thì Dương và Phượng, nhất là Dương, chàng coi Thư Hương như một cô em gái dễ bảo và đáng thương. Đã nhiều lần trong câu chuyện giữa Tâm và chàng, hai người cũng nói về Hoạt và cuộc tình đuyên Thư Hương. Tâm thì có vẻ chán nản, thêm một chút hối hận. Nếu Tâm ở nhà đâu có xảy ra chuyện Hoạt và Thư Hương…
Ít ra, Thư Hương cũng hỏi ý kiến của Tâm, và chàng cũng đưa được vài ba lời khuyên bảo. Dù Thư Hương có nghe lời hay không, thì Tâm cũng không vướng vào những sự hối hận như bây giờ…
Phượng lại nói tiếp :
– Mấy hôm nay, thấy Thư Hương buồn, Phượng có tới rủ Thư Hương đi chơi cho quên. Thư Hương tiếp một cách rất lơ là, nói chuyện mà hình như nghĩ ngợi đâu đâu. Nhiều khi hỏi mà không trả lời. Rồi hôm qua Thư Hương lại trốn Phượng, cho chị người làm ra nói rằng đau, không tiếp được. Phượng đòi vào thăm, nhưng Thư Hương cũng không bằng lòng.
Phượng nói những câu đó với vẻ mặt thật buồn. Nàng là con gái, nên hiểu rõ nỗi buồn con gái. Khi nào Phượng buồn nản đến chán đời, Phượng thường tìm đủ mọi cách để quên. Nhưng Thư Hương thì không thế. Cứ nằm im một chỗ mà suy nghĩ, đau khổ với riêng mình. Cái buồn ấy, cứ thấm sâu vào tim, vào óc, như một vết dao đâm. Phượng thương cho bạn quá. Nàng muốn cầu cứu đến Dương, nhờ Dương làm cách nào để lôi kéo được Thư Hương ra khỏi căn nhà im lặng mênh mông ấy.
Tưởng thấy dáng Thư Hương đang nằm dài trên giường, tóc xòa trên gối, nước mắt lặng lẽ chảy mà Phượng như muốn khóc cùng với Thư Hương. Nàng cắn chặt lấy môi dưới để cố giữ một tiếng nấc nghẹn ngào.
Dương hỏi :
– Đó là câu chuyện mà Phượng muốn nói với anh hôm nay ?
Phượng bùi ngùi :
– Đúng thế. Đáng lẽ thì Phượng cũng không nói với anh làm chi, vì chuyện này là chuyện của đàn bà. Nhưng chỉ vì chiều qua, nghe thấy Hoạt tán tỉnh Phượng, lại còn thốt ra rằng, hắn và Thư Hương kể như hết rồi. Đem chuyện mà Thư Hương kể, cộng chung với những câu nói của Hoạt, Phượng thấy đầu óc tối tăm mờ mịt, phải quyết định đem câu chuyện này kể với anh. Tới bây giờ đã kể xong, Phượng thấy người nhẹ nhàng, thoải mái lắm…
Rồi Phượng cười nhẹ, một nụ cười trông còn bi thảm hơn là Phượng khóc. Dương cũng nghĩ rằng nếu nhìn Phượng khóc, chắc còn đỡ thấy lòng xao động hơn. Thì vẫn nói Phượng vốn là một đứa con gái giàu tinh cảm. Cái nghịch ngợm, lém lỉnh chỉ là một thứ bề ngoài, che đậy một tâm hồn căng thẳng nhiều giây tơ. Chỉ một xúc động nhẹ, cũng đủ bật lên những âm thanh thật trầm. Dương uống cạn những giọt bia cuối cùng :
– Phượng không nên buồn quá. Anh sẽ mang chuyện này nói với Tâm, để tìm cách làm cho Thư Hương vui…
– Anh nên làm sao cho khéo !…
– Bắt buộc là phải thế.
Ánh nắng đã bắt đầu xiên đi chênh chếch. Lúc nầy là lúc nóng nhất của một ngày. Chiếc quạt nhỏ đặt ở góc phòng, không đủ sức gió làm giảm đi cái nóng của căn gác nhỏ. Phượng phải vớ lấy một cuốn sách, quạt tiếp cho mát thêm. Dương nhìn Phượng ái ngại :
– Phượng yêu phải một thằng nghèo quá…
Phượng lườm Dương bằng đôi mắt có đuôi :
– Nghèo mà thành thật đứng đắn là được rồi. Phượng không muốn anh mang cái nghèo ra khoe.
Tuy nói vậy, nhưng Phượng cũng thoáng buồn… Có lẽ rồi đây, Phượng phải hạn chế bớt sự tiêu pha của Dương. Những người đàn ông chưa có gia đình chưa biết quý trọng đồng tiền. Có được một chút tiền trong túi là bắt đầu vung vít, phải đốt cho hết, chỉ sợ tiền thành rắn thành rết, từ trong túi bò ra ngoài cắn.
Nhiều lúc Phượng thấy Dương hoang phí một cách vô ích. Ít khi sắm sửa những cái gì lợi cho thân mình. May quần, áo thì tiếc tiền, còn ăn nhậu thì lại hoang phí. Nàng thật lạ cho những tên đàn ông mà chắc là những tên đàn ông như Dương, cũng thấy lạ cho tính nết đàn bà. Khi nàng may thêm một chiếc áo mới, thường nhận được những lời chỉ trích của Dương: “Phượng còn nhiều áo đẹp, may thêm làm gì nữa, để tiền mà nhậu cho sướng…”.
Nhiều lần, Phượng đã giận Dương về câu nói đó, thì Dương chỉ cười. Dương có một quan niệm sống khác với Phượng. Nhưng chắc những mâu thuẫn nho nhỏ ấy, cũng là hạnh phúc.
– Thôi, Phượng về…
– Thức ăn chưa hết. Ăn hết đi rồi hãy về…
– Anh để dành đến chiều mà ăn nữa…
Phượng lấy túi ni-lông, gói nửa con gà còn lại cho Dương. Rồi nàng đi về phía cửa.
Dương nhìn theo tà áo đen, khuất xuống từng bậc căn thang gác. Rồi nhìn qua cửa sổ, Dương thấy Phượng đi vào trong nắng chói chang, lẫn vào đám bụi nhảy múa trên mặt đường. Con tàu xế trưa vừa đi qua, để lại âm thanh rền rền trên con đường sắt, và tiếng còi tàu như vẳng lại từ xa lắm, mãi tận Gò Vấp. Bóng dáng Phượng thật cô đơn, nhất là vào buổi trưa chủ nhật, đường trong ngõ hẻm vắng ngưòi, và hai bên là những cánh cửa khép kín. Bâng khuâng, Dương nhẹ thở dài. Chiếc đầu của bà chủ nhà ló lên ở bực thang sau nhà :
– Con Xuyến nó chết rồi.
Dương sửng sốt:
– Sao mau vậy bà chủ ?…
– Lúc đi trên xe tắc-xi, nó đã lả đi vì mất nhiều máu. Khi tới nhà thương bác sĩ lắc đầu. Cái thai lớn quá rồi, mà mổ thì quá muộn vì nó yếu quá. Thằng bé chết ngay từ trong bụng mẹ, còn nó thì vật vã một hồi, rồi cũng lả dần đi.. Thật tội nghiệp !…
Bà chủ nhà kéo vạt áo lên, thấm vài ba giọt nước mắt. Tuy rằng làm cái nghề không được đẹp, nhưng Xuyến không làm phiền tới ai. Nhiều lúc ngồi buồn, Dương cũng ra ngoài hiên, chống tay xuống thành ban-công, nói vọng xuống với Xuyến, vài ba câu chuyện xã giao. Những chuyện đó làm Xuyến cảm động, và thỉnh thoảng lại chạy lên phòng Dương, lăng xăng xếp dọn, trách móc vài ba câu, như một đứa em gái ngoan ngoãn nhất.
Nhiều khi, bất ngờ Phượng tới bắt gặp, nhưng Xuyến, với cái khéo léo của đứa con gái nếm trải bụi đời quá nhiều, đã làm cho Phượng vui vẻ ngay. Về sau, Xuyến lại còn là “thám tử” cho Phượng, báo cáo với Phượng về Dương. Bây giờ, Xuyến không còn nữa. Xuyến đã đi về một phương trời khác, có những kẻ hiền lành thánh thiện, thật thương yêu nhau, không bao giờ lừa lọc nhau.
Thôi nhé, Xuyến hãy an nghỉ… Mở mắt chào đời hay nhắm mắt lìa trần, thì cũng là trở về với cõi nguyên thủy. Dương ngồi lặng đi trên ghế, không nghe thấy cả tiếng chào của bà chủ nhà, khi bước xuống bậc cầu thang.
Trên mảnh đất quê hương tàn tạ này của Dương, có nhiều cách chết. Những người thân cứ lặng lẽ ra đi. Có nhiều cái chết thật ồn ào, và có nhiều cái chết thật âm thầm. Dương không muốn nghĩ tới nữa.
Nhìn qua cửa sổ, bên kia đường là hàng rào kẽm gai, bao bọc một cơ sở quân sự. Người lính gác, hững hờ đứng ôm khẩu súng. Chiến tranh, có lẽ chẳng bao giờ xâm nhập tới đây. Nơi đây là thành phố… Tiếng súng chỉ vọng về từ một phương nào xa lắm, những đêm thật yên lặng, vắng tiếng xe, vắng cả tiếng con tàu và tiếng còi hú đêm khuya… Tự nhiên, Dương thấy mệt mỏi và chán chường…
Dương nằm dài trên giường. Những buổi trưa nắng chói như hôm nay, con người dễ trở nên lười biếng. Buổi sáng, thức dậy để ăn, ăn xong rồi lại ngủ, Dương thấy mình đúng là một thứ giá áo túi cơm. Mình còn ích gì cho xã hội này không ? Chưa bao giờ Dương thấy chán đời bằng lúc này. Nếu không có Phượng, chắc là chàng không thiết sống nữa. Chàng đã quên đi, bằng những đêm uống rượu thật say, để rồi sáng hôm sau, thức dậy thấy mình mệt mỏi một cách ghê gớm.
Nhiều lần Phượng đã khóc để cản ngăn Dương, nhưng Dương chỉ giữ gìn được môt ngày, hai ngày. Chất men say đã thấm sâu vào Dương, như một chất ma túy. Đúng như lời một thằng bạn đã nói “mới đầu thì vì buồn đi uống rượu. Rồi về sau, không uống rượu thì buồn không thể nào chịu nổi”. Nhiều lúc, chàng cũng nghĩ rằng, không biết bây giờ được trở về phi đoàn, bay lại với các bạn, chàng còn có đầy đủ sức khỏe nữa hay không.
Chàng đã nắm lấy cổ tay mình, nhìn đồng hồ đếm nhịp mạch nhảy… Hình như mạch nhảy mau hơn và không đều đặn. Đâu chừng tám chục hay chín chục nhịp gì đó, trong một phút. Chàng thở dài… Mình có vẻ đuối quá.
Giấc ngủ trưa mệt nhọc kéo dài đến chiều. Phượng không trở lại. Chắc là Phượng đi nhà thờ buổi chiều. Chàng xuống nhà, dội lên người năm bảy chậu nước lạnh, và thấy người khỏe được hơn một chút.
Trong phòng tắm nhỏ hẹp và tối, chàng thấy như có đôi mắt Xuyến nhìn đăm đăm vào chàng. Thốt nhiên, Dương cảm thấy lành lạnh. Chàng rùng mình. Dương đi lên phòng, trải chiếc ghế vải ra, ngồi tựa lưng hút thuốc chờ buổi chiều xuống chầm chậm, để cho qua đi một ngày chủ nhật thật buồn, thật vô vị. Màu nắng vàng úa còn sót lại, lảng vảng trên ngọn cây cao ngất của một biệt thự gần đó. Làn khói từ nóc bếp dưới nhà, tỏa lên mùi thơm ngào ngạt xào nấu, mà chàng cũng không thấy đói. Dương định không đi ăn chiều nay. Đợi thật tối, mình ăn nốt nửa con gà còn lại, chắc cũng quá đủ no. Khi bóng tối tràn vào căn phòng hẹp, cũng là lúc mà Dương thấy vài ba chú muỗi vo ve bên tai. Chàng lười biếng không muốn ngồi dậy bật đèn, vì chàng cũng chẳng cần gì tới ánh sáng. Trong bóng tối, chỉ có tàn đỏ của thuốc lá lập lòe…
Dương ngồi như vậy, im lìm và bất động. Tiếng chuông nhà thờ vang rền một hồi thu không.
Chàng nhớ tới quê hương những ngày loạn lạc, chạy tản cư về một xóm đạo ven sông. Xóm đạo đó có một cái tên thật thơ mộng. Làng Quỳnh Lang. Mỗi buổi chiều, chàng cũng nghe tiếng chuông thu không rền rền vang vọng tận xa. Dù cho có lang thang đi chơi ở những nơi cách xa làng vài ba cây số, Dương vẫn nhìn thấy hai tháp chuông nổi bật cao ngất, đứng cạnh một con đê dài xa tắp ngút ngàn.
Giòng sông chảy qua Quỳnh Lang thật hiền lành như người xứ ấy. Cả một làng chỉ lọt có gia đình chàng là không theo đạo Thiên Chúa. Bây giờ, vì Phượng, chàng đã phải trở về đạo. Không khí nhà thờ vốn quen thuộc với chàng từ hồi nhỏ, nên chàng không bỡ ngỡ, khi theo Phượng bước chân vào nhà thờ.
Nhưng những lời giảng, những bài kinh đều đều buồn nản, không đủ sức quyến rũ nổi chàng để cho chàng ngồi được hết một buổi lễ. Chiều nay, ngồi nghe tiếng chuông thu không từ một ngôi nhà thờ gần đây, chàng bỗng thấy nhớ nhung một cách xa lạ. Chàng đốt liên tiếp từng điếu thuốc. Tàn thuốc đựng trong chiếc gạt tàn dần dần dâng cao. Nhìn vào khói thuốc và cái tối sâu thẳm trước mặt, Dương như nhìn thấy quê hương, hiện nay đang ở cách hàng ngàn dặm.
Những rặng nhãn đầy trái, chạy dài dọc theo ven đê, mà năm nào có những chùm nặng chĩu, là năm đó nước dâng lên thật cao. Dương nghĩ tới những năm nước lụt. Tiếng trống ngũ liên, đánh từng hồi dồn dập những tiếng thúc dục người lo chuyện phòng nạn nước. Từng hàng tre được ngã xuống để đắp lại những quãng đường đê bị lỡ, bị sạt. Trai tráng của làng mạc, hình như đã tụ họp hết trên mặt đê. Tiếng la, tiếng hét, tiếng phèng la, tiếng trống hòa lẫn với tiếng sóng vỗ và tiếng mưa gió ào ạt, tạo thành một âm thanh hỗn độn chỉ có ở những vùng quê miền Bắc những mùa nước lớn.
Chợt có tiếng gõ cửa làm cho Dương bừng tỉnh. Thôi, hãy quên đi những chuyện về quá khứ xa vời. Chàng hỏi vọng ra cửa mà con người lười biếng, vẫn không thèm ngồi dậy :
– Ai đó ?…
– Tao đây !…
Nhận ra tiếng nói của Tâm, chàng thoáng mừng. Những lúc trống vắng như thế này, chàng rất cần tới bạn, nhưng cái lười biếng giữ chàng ngồi lại nơi ghế. Chàng lại hỏi
– Mầy có mang theo căn cước bọc nhựa hay không ?
Tiếng của Tâm hằn học :
– Mày định kiêm thêm nghề “phú – lít” nữa chăng ?..
Dương cười :
– Không có. Nếu mầy mang theo cái căn cước bọc nhựa, thì lấy ra, đút lọt qua khe cửa, hất nhẹ cho cái móc sút ra. Tao ngại ngồi dậy quá !
Tiếng Tâm chửi thề một câu ngọt lịm, rồi tiếng lục đục ở ngoài cửa. Tiếng lách cách khô khan, và tiếng móc cửa rớt xuống, một âm thanh reo vui. Tâm chưa quen mở cửa theo lối này, nên còn lúng túng, trái lại, Phượng mở rất thành thạo.
Những buổi sáng như hôm nay, Phượng đã vào nhà không một tiếng động. Nhiều khi, vừa cắm cúi làm một việc gì, lúc ngẩng đầu lên, đã nhìn thấy Phượng xuất hiện, thật êm và đột ngột, lặng lẽ. Dương đã giật mình nhiều lần. Tâm vừa vào đến đã la lên :
– Mày sợ ánh sáng hay sao mà không dám bật đèn…?
– Không phải !Tao không muốn xê dịch ra chỗ “công tắc” đèn.
Một tiếng động nhẹ, rồi ánh sáng của chiếc đèn “nê-ông” tràn ngập gian phòng. Nhìn Tâm, chàng thấy mặt bạn hiện rõ những nét nhọc mệt và chán chường. Hinh như Tâm già đi nhiều.
– Mày định rủ tao đi đâu vậy ?…
– Không, hôm nay nằm nhà. Tao có mang theo chai rượu.
Lúc đó, Dương mới để ý thấy Tâm có mang theo một chai rượu đã vơi gần một nửa. Chàng nói:
– Mày tới thật may. Tao còn nửa con gà, còn lại từ buổi sáng, ăn với Phượng. Ở trong cái túi ni-lông trên bàn viết. Mày có thể lấy rồi bày ra đây…
Tâm cũng ngã ra một chiếc ghế vải. Phượng đã mua tặng Dương hai chiếc ghế vải này, để những buổi chiều trống rỗng, hai người kê hai chiếc ghế này ra ngoài hành lang hẹp, nhìn trời, nói những chuyện bâng quơ về trời mưa, trời nắng. Có nhiều khi, hai kẻ không cần nói chuyện, chỉ nắm tay nhau, để cảm thấy không thể sống thiếu nhau. Chiếc ghế vải, Tâm đang nằm đây, còn vương chút mùi hương tóc của Phượng. Nhìn vẻ mặt Tâm có vẻ đau khổ, Dương linh cảm thấy chuyện của Hoạt và Thư Hương, không cần phải kể nữa. Có lẽ Tâm cũng đã biết rồi… Thì quả nhiên, chàng nghe Tâm nói :
– Thằng Hoạt là một thằng chó đểu.
– Tao cũng vừa nghe Phượng kể.
– Phượng kể những chuyện gì ?.
Dương chậm rãi kể cho Tâm nghe chuyện mà chàng và Phượng mới nói tới sáng hôm nay. Chàng kể thật rõ câu chuyện mà Hoạt tán tỉnh Phượng. Giọng kể đều đều của Dương, trầm buồn như những lời kinh ở dưới nhà, gia đình bà chủ nhà đọc vọng lên. Chàng kết luận :
– Phượng muốn tao nói chuyện này với mầy để tim cách an ủi Thư Hương. Nói được hết chuyện đó với tao, Phượng có vẻ thoải mái lắm. Mầy cũng nên nghĩ cách nào an ủi Thư Hương.
– Hết còn an ủi được nữa rồi…
– Tại sao vậy ?
Tâm chán nản trả lời : .
– Nó vừa tự tử… Phải đưa vào nhà thương. Bây giờ thì khỏe rồi… không còn lo gì nữa. Nhưng lại lo về cái khác. Không hiểu rằng còn giữ được nó nữa không ?…
Dù rằng có tiếng súng nổ ở bên cạnh, cũng không làm cho Dương giật mình như vậy. Thư Hương tự tử ?… Sao lại có chuyện vô lý đến như thế được. Chàng bàng hoàng trong một phút, như rơi vào sự hẫng hụt bất ngờ. Khi mà con người tự ý tìm cái chết, thì sự đau khổ chắc phải to lớn lắm. Chàng không thể tưởng rằng, con người lại tự diệt đi sự sống của mình. Tiếng của Tâm vẫn âm thầm vẳng tới bên tai Dương :
– Nó đã có thai được ba tháng…
Lại thêm một tin nữa làm cho Dương bàng hoàng. Tại sao lại xảy ra dồn dập trong một ngày, một cuốn phim tình mà những tình tiết éo le đã được sắp đặt sẵn, chỉ diễn ra trong hai giờ đồng hồ trong rạp chiếu bóng. Tình trạng của Thư Hương đã không giải quyết được nữa rồi… Người yếu đuối như Thư Hương, thì chỉ còn cách chết để thoát ra khỏi khoảng bế tắc ấy. Dương thở một hơi dài :
– Thằng Hoạt, cần phải đập cho chết…
– Đập nó thì có giải quyết được gì đâu ?…
Tâm nói câu nầy mà nước mắt rưng rưng. Cả ngày hôm nay, nhà chàng như phủ một màu tang chế. Cái không khí lạnh lẽo của căn nhà ấy, sau chuyện của Thư Hương, lại càng lạnh thêm. Mẹ chàng đã khóc, như bao nhiêu nước mắt trong người bà đều tuôn ra hết. Rồi sau khi biết Thư Hương đã có thai, bố chàng đã tuyệt vọng đến cùng cực.
Cả danh giá của gia đình thuộc bậc đại khoa, không chừng vì câu chuyện này mà buông trôi hết. Ông đã nói với Tâm những lời cay đắng : ” Từ giờ, còn dám ngửa mặt lên mà nhìn ai nữa “. Tâm ngồi lặng đi trong một tư thế chịu đựng tuyệt đối. Từng phút, từng phút, tin tức của Thư Hương từ nhà thương được chị người làm đưa về. Nếu mà Thư Hương chết luôn, thì bố mẹ Tâm cũng bị nỗi thương tiếc dày vò, nhưng chỉ trong một thời gian rồi thôi.
Nhưng Thư Hương đã được cứu sống. Lúc chàng nhìn thấy mặt Thư Hương trong nhà thương, chàng lại thấy thương em gái vô cùng. Dầu sao thì ở gia đình chỉ có hai anh em. Hình như lúc đó, mẹ chàng có nói một câu gì đó, nên chàng nghe thấy Thư Hương ôm lấy mặt nức nở:
– Mẹ có thể giết được con không ? Nhứt định là không rồi. Như thế thì con làm sao giết được đứa con của con, trừ khi con chết cùng với nó.
Chàng không dám nghe thêm nữa, vùng chạy ra ngoài cửa phóng xe như bay về nhà. Chàng thấy ông bố đang ngồi nhìn như ngây dại về khoảng trống trước mặt. Khi chàng đến bên cạnh, chàng nghe thấy ông nói một mình :
– Tên nó là Thư Hương. Tao đã đặt tên nó là Thư Hương, để mong nó giữ lấy nếp nhà…
Chàng rót cho ông một ly rượu. Không nhìn vào ly, ông uống một hơi… Chàng rót thêm một ly nữa.
Ông cụ lại uống hết. Một mình ông uống gần hết một nửa chai, rồi Tâm phải dìu ông cụ lên giường nằm. Lấy gối kê cho ông, đắp lên người ông một chiếc mền mỏng, sau khi dặn dò chị người làm mấy câu, chàng mang chai rượu, chạy tới gặp Dương.
Kể xong câu chuyện đó cho Dương, mắt Tâm như bị bao phủ một làn sương mỏng. Tâm đã khóc, thương cho cha, cho mẹ, cho em gái, cho danh dự gia đình. Tất cả là vì ai ?
Chỉ vì Hoạt, một tên sinh viên khốn nạn, nhởn nhơ sống giữa thành phố, lừa gạt những nàng tiểu thư khuê các như Thư Hương. Những đứa đó cứ sống và rất có hy vọng sống rất đai. Còn những người như chàng, như Dương thì cứ phải lăn mình vào những chỗ nguy hiểm, mang mạng mình ra đùa cợt với cái chết, để bảo vệ cho lũ sâu bọ đó. Chàng muốn gào lên những tiếng thật phẫn nộ. Nếu bây giờ, chàng được la hét, được đập phá, chắc là sẽ sung sướng lắm.
Nhìn sang Dương, thấy xương quai hàm của bạn bạnh ra, đôi cặp mắt như bốc lửa. Chàng nghẹn ngào hỏi bạn :
– Làm thế nào bây giờ hở Dương ?.
Dương không thể trả lời. Những lúc như lúc này, chàng mới nhận thấy kém hẳn Phượng. Nếu có Phượng, câu chuyện sẽ thoát ra khỏi được bế tắc. Phượng vốn thông minh, giải quyết những công việc khó khăn một cách thật dễ dàng và mau lẹ. Nhiều lúc Dương đã nói đùa với Phượng, là trong đầu Phượng, chắc có rất nhiều ngăn kéo.
Gặp một việc gì cần giải đáp, Phượng chỉ cần rút lời giải trong một ngăn kéo của bộ óc ra là có ngay. Nhưng bây giờ không có Phượng. Nhà Phượng chỉ cách đây một quãng ngắn. Nếu cần, chàng có thể nhờ con của bà chủ nhà tới gọi Phượng.
– Mai mầy có lên phi đoàn không ?.
– Có lẽ không! Còn hơi sức đâu nữa mà bay. Tao nhờ mầy, sáng có đi làm, gọi điện thoại lên Biên Hòa xin phép dùm tao. Uống đi mầy !…
Từ nãy tới giờ, chàng chưa uống hết một ly mà chai rượu đã vơi đi nhiều. Tâm uống rất nhiều và rất mau. Chàng biết rằng bạn đang bối rối lắm.
– Có lẽ tao nhờ thằng bé, con ông bà chủ nhà sang gọi Phượng, để ba đứa chúng mình bàn tính. Cần phải nhờ Phượng vào nhà thương, trông nom cho Thư Hương, để bà cụ về nhà nghỉ, làm bạn với cụ ông. Để cụ ông một mình ở nhà, tao chẳng an tâm chút nào…
Tâm gạt đi :
– Thôi khuya rồi. Sáng mai mầy ghé qua, nói chuyện với Phượng, đưa Phượng vào nhà thương rồi đi làm sau. Tao cần sự yên lặng nghỉ ngơi…
Trong lòng Dương đã có một quyết định… Sáng mai, sau khi đưa Phượng vào nhà thương thăm Thư Hương, chàng sẽ đi tìm Hoạt. Chàng sẽ dùng lối “tiên lễ hậu binh”.
Chàng sẽ cố thuyết phục Hoạt, nếu cần sẽ năn nỉ Hoạt, xin hãy thương lấy danh dự gia đình một người bạn chàng, những bậc già cả mà chàng trọng như cha mẹ, không được sống quãng đời còn lại một cách thảnh thơi, bằng cách làm đám cưới với Thư Hương. Chàng cũng biết rằng sự thuyết phục của chàng rất khó thành công. Với những đứa đàn ông khốn nạn như Hoạt, lời lẽ của chàng chắc sẽ không lọt được vào đôi tai ấy.
Chàng đưa tay về phía Tâm :
– Rót thêm rượu cho tao .
Dương hỏi tới hai lần mà không thấy Tâm trả lời, vội quay sang nhìn bạn. Tâm đã nhắm mắt trên ghế vải. Ly rượu cầm hững hờ trên tay, gần muốn tuột ra, rơi xuống đất. Chàng ngồi dậy đỡ nhẹ ly rượu làm Tâm choàng tỉnh.
– Tao mệt quá ! Nằm nói chuyện với mầy ngủ thiếp đi mất một lúc. Tao cần ngủ bây giờ.
Dương đỡ bạn dậy :
– Mầy đi ngủ trước. Tao còn ngồi đây thêm một lát nữa.
Chàng đưa Tâm tới chiếc giường, buông màn xuống, sửa lại cái gối cho ngay ngắn, để Tâm nằm xuống. Trời hãy còn sớm lắm, mới hơn chín giờ. Tiếng cầu kinh từ dưới nhà, từ những căn nhà hàng xóm, vang vang âm âm vọng lên căn gác của chàng. Trừ căn nhà của Xuyến, đèn tắt tối om. Cũng may cho Dương, hôm nay, có Tâm tới ngủ ở đây. Nếu không chàng sẽ nghĩ tới Xuyến, tới cái chết của Xuyến rồi sợ hãi đến không ngủ được. Chàng ngắm nhìn Tâm mà lòng tràn ngập một sự thương xót…
Nhất định ngày mai, chàng phải nói chuyện với Hoạt. Nếu cần, phải nói chuyện bằng chân tay. Khuôn mặt Tâm, nhìn nghiêng với những nét khắc khổ, tưởng chừng như so với hôm qua, Tâm già đi mấy tuổi. Đã mấy tháng nay, chàng coi gia đinh nhà bạn như gia đình chàng. Cuộc đời về già của cha mẹ Tâm thật không còn một chút nào yên ổn. Hết lo lắng về chuyện con trai, tới bây giờ phải buồn về cái bất hạnh của con gái. Cũng không thể trách gì được Thư Hương.
Nàng con gái khuê các, sống với bốn bức tường, với sách vở học trò, đâu có thể tránh được móng vuốt những bàn tay khốn nạn của một kẻ như Hoạt. Chàng uống nốt ly rưọru của Tâm còn lại.
Chàng nghĩ đến công việc ngày mai. Buổi sáng, thức dậy, chàng sẽ tới gõ cửa nhà Phượng. Chắc Phượng sẽ ngạc nhiên, không hiểu vì sao, Dương lại tới sớm như thế. Chàng sẽ kể câu chuyện tự tử của Thư Hương. Khuôn mặt củạ Phượng sẽ ngạc nhiên đến hoảng hốt, như ngày nào được Tâm báo tin chàng gặp tai nạn.
Phượng sẽ cuống cuồng lên, trang điểm thật mau… Chàng sẽ đưa Phượng đi ăn sáng, rồi trong lúc ăn sáng, chàng sẽ nói đến những công việc mà Phượng phải làm, khi vào tới bệnh viện gặp Thư Hương. Chàng sẽ xin phép mẹ Phượng để cho Phượng ở lại trong bệnh viện làm bạn với Thư Hương. Chắc mẹ Phượng sẽ bằng lòng, vì mẹ Phượng tin ở Dương. Đã từ lâu, Dương như một người con rể của gia đình ấy rồi.
– Không biết có nên nói tới chuyện mà mình sẽ đối xử với Hoạt ?…
Chàng tự hỏi như vậy và thấy rằng không nên. Đàn bà, con gái, vốn không thích những lối giải quyết nặng chất đàn ông. Chuyện đấm đá, đàn bà vừa nghe thấy cũng đã đủ hoảng sợ rồi. Nhất định là Phượng sẽ can ngăn, mà không chừng còn bám chặt Dương cả ngày mai, để cho chàng không thi hành được ý định. Chàng tắt ngọn đèn lớn, cho Tâm dễ ngủ. Ngồi trong bóng tối, chàng nhìn ra ngoài cửa sổ, ngắm những ngôi sao lấp lánh trên những chòm cây của ngôi biệt thự gần đó.
Một ngôi sao đổi ngôi chạy dài trên nền trời tím thẫm. Hồi nhỏ, chàng được nghe người lớn kể chuyện, khi một ngôi sao vụt tắt trên nền trời, là có một linh hồn đã bỏ nơi đây mà đi. Vậy ngôi sao vừa tắt, là Xuyến, hay có thể là Thư Hương ?.. Chàng rùng mình, và dù cho buổi tối Saigon thật nóng, chàng vẫn cảm thấy gây gây lạnh.
Tiếng thở của Tâm đều đều, làm Dương biết bạn đã ngủ say. Chàng cũng mừng rằng bạn ngủ được. Với một biến cố ghê gớm của gia đình, ngủ đi được một giấc là thoải mái. Chàng chỉ sợ Tâm thao thức, để rồi cả đêm, chàng phải nghe những tiếng thở dài. Không có gì não nuột bằng những tiếng thở dài.
Nhất là tiếng thở dài vào ban đêm, mà bốn bề tịch mịch, tiếng thở dài hòa lẫn vào tiếng gió ngoài hè, lẫn vào tiếng tắc lưỡi của lũ thằn lằn nằm cô đơn trên trần nhà. Chuyến xe lửa cuối cùng trong ngày vừa ầm ầm chạy qua. Tâm cựa mình thức giấc, rồi lại tiếp tục ngủ.
Dương chui vào trong mùng thật nhẹ.
Trong bóng tối mờ mờ, chàng nhìn thấy Tâm nằm co quắp, lối nằm mà chàng và các bạn thường gọi là một lối “cút-sê con tôm”. Dương nằm nhìn lên đình mùng, mắt mở lớn nhìn vào cái mênh mông để suy nghĩ liên miên. Giấc ngủ mãi không chịu đến. Chàng thao thức nghe thấy hết cả những tiếng động đêm khuya, cho tới lúc ánh nắng đầu tiên chiếu qua khung cửa sổ. Lại bắt đầu một ngày.
CHƯƠNG VII
Căn phòng bệnh viện mà Thư Hương nằm, nhìn ra một bãi cỏ xanh mướt. Chiếc cửa kính đóng lại suốt ngày, để giữ điều hoà cho chiếc máy lạnh chạy rì rầm cả ngày, cả đêm. Mái tóc Thư Hương xoã tung trên gối, màu đen tuyền của tóc nổi bật trên màu trắng của gối, giường bệnh viện. Nàng đã khóc rất nhiều…Cuộc đời của nàng khổ quá.
Khi mà người con gái đang ở một cái tuổi chứa chan hy vọng như nàng mà đi tìm cái chết, thì cái khổ ấy đã thấm sâu vào máu vào tim, không còn có thể chịu nổi. Nàng không còn thiết sống nữa rồi.
Không phải tới bây giờ Thư Hương mới khổ và buồn. Sự buồn khổ đã gậm nhấm trong tim nàng cách đây từ mấy tháng. Ngày đó, cuộc đời tưng bừng như nở hoa. Thư Hương có cảm tưởng rằng nàng là một đứa con gái sung sướng nhất đời.
Anh Tâm, anh của nàng, sau bao nhiêu ngày tháng không nhận được tin tức, đã trở về, như đem lại cho gia đình nàng một sự đổi đời. Cha mẹ nàng vui vẻ hẳn lên và mẹ nàng trong một lúc hân hoan, đã nói :
– Bây giờ mà nói dại, mẹ có nằm xuống, cũng đủ lắm rồi. Mẹ không ước mong một điều gì nữa.
– Mẹ còn phải sống ít nhất là mấy chục năm nữa, để chơi với cháu ngoại, cháu nội của mẹ chứ…
Bà cụ Phủ đã cười rung thớ thịt hai bên má, hồi này bà lên cân trông thấy. Mới có vài ba tháng mà những chiếc áo mặc trong nhà đã chật. Bà vuốt tóc Thư Hương :
– Chắc là mẹ có cháu ngoại trước khi có cháu nội rồi. Có bạn nào ngoan, làm mai mối cho anh mầy để tao lo cả một thể…
Thư Hương cười rất tươi, nói với mẹ :
– Thôi đi, mẹ ơi !… Ông tướng ấy, thì ai dám làm mai, làm mối. Con không nghe chửi được. Lũ bạn của con ngán anh Tâm quá xá rồi…
Nói như vậy với mẹ, không phải là nàng chê trách gì Tâm. Bạn bè của nàng, những cô sinh viên mắt thật đen, tóc thật dài, cũng không phải là không có cảm tình với Tâm. Nhìn ánh mắt của bạn, nàng cũng biết rằng có vài ba cô bạn sẵn sàng gật đầu, nếu Tâm, anh nàng ngỏ lời. Nhưng Tâm cứ giữ một thái độ lừng khừng đến chán đời. Đi qua phòng khách, nếu thấy có các cô ngồi ở đó, Tâm chào một cách dửng dưng rồi đi thẳng về phòng mình. Thư Hương muốn giới thiệu với Tâm vài ba cô bạn, nhưng chỉ một vài lần, rồi những lần sau không dám nữa. Tâm có một lối phê bình nhan sắc phụ nữ rất phũ phàng, tàn nhẫn, mà lại nói thẳng vào mặt những nàng con gái… Nhiều lúc, Thư Hương phải xin lỗi bạn đến có thể phát khóc lên được.
Nghĩ tới anh Tâm, anh Dưong, rồi nàng lại nghĩ tới Hoạt. Nàng đã định rằng không bao giờ thèm nghĩ tới cái “thằng khốn nạn” ấy, mà không sao ngăn cấm được giòng tư tưởng. Nghĩ tới Hoạt, là nghĩ tới tội lỗi. Nàng nhắm mắt, thở dài… Giữ gìn bao nhiêu năm rồi sự phạm tội chỉ tới trong khoảnh khắc, phá nát tất cả công trình gìn vàng giữ ngọc.
Nàng nhớ bắt đầu từ buổi chiều hôm đó, xin phép mẹ đi chơi. Ngồi trên xe với Hoạt, nàng thấy mình như mọc cánh, và bàn tay nàng đã như nắm được hạnh phúc của cuộc đời. Hoạt thì có vẻ còn như tức bực về buổi ăn vừa rồi ở nhà nàng. Hoạt đã nhăn mặt nói với Thư Hương :
– Hai anh chàng lính tẩy ấy, có vẻ như ghét anh. Nhưng anh cũng chẳng cần để ý. Có ghét anh, thì cũng chẳng làm cho anh ra hụt mất một “kí lô” thịt nào…
Thư Hương vội cải chính cho hai ông anh :
– Tại sao anh lại nghĩ vậy. Anh Tâm với anh Dương có vẻ quí anh lẳm. Em còn lạ gì tính hai ông ấy. Không bằng lòng ai, họ đốp chát ngay thẳng vào mặt, chẳng có kiêng nể gì. Họ nói chuyện vui vẻ với anh, tức là họ cũng đã có cảm tình với anh rồi…
Tiếp theo, nàng đi một đường tán tụng ông bạn của anh nàng:
– Anh Dương là thầy dạy của em năm Đệ Tứ. Hồi ấy, có nhiều đứa bạn em, mê anh chàng thầy giáo này bằng thích. Không hiểu sao, anh chàng lại bỏ nghề bảng đen, phấn trắng, đi lính để theo một cái nghề dễ sợ là nghề lái tàu bay.
Hoạt lái một đường vòng tròn tuyệt đẹp và ngâm:
– “Xếp bút nghiên theo việc… phi công .”
Chiếc xe ngừng lại một chút ở ngã tư xa lộ rẽ vào Thủ Đức. Từ một con đường rộng thênh thang, chiếc xe đi vào một con đường mấp mô sỏi đá. Cạnh đường là một nghĩa trang, cỏ mọc um tùm, trông thê lương đến lạnh người. Hoạt kể:
– Anh đã thả một đứa con gái xuống đây vào lúc đêm khuya.
– Tại sao vậy ?.
– Tại vì anh ghét nó.
Rồi Hoạt kể tiếp :
– Chắc em biết con Nguyệt học bên Luật… Chỉ vì ghét cái tính kênh kiệu của nó, mà anh đã cho nó một trận. Anh mời nó đi ăn ở Thủ Đức. Ngày đó, anh còn chiếc “Vét-pa” cà là tàng. Cô nàng được mời, hí hửng lắm. Tới chỗ này, anh giả vờ tắt máy xe rồi nói là xe hư. Cô nàng vừa xuống là anh gài số, đẩy cho máy nổ, rồi chạy mất…
Kể đến đấy, Hoạt cười vang thích thú. Thư Hương chỉ hơi nhếch miệng cười, vì nghĩ thương cho Nguyệt. Đứng một mình nơi đêm tối mà ở chỗ này, thì chỉ có sợ cũng đủ đứng tim mà chết. Nàng thẫn thờ hỏi :
– Rồi Nguyệt nó làm cách nào mà về nhà ?
– Anh đâu biết.
– Thế từ đó đến nay, anh có gặp Nguyệt nữa không ?
– Có gặp vài lần, nhưng anh tránh mặt. Tội gì mà giáp mặt với nó, để nó mắng cho. Anh đâu có dại!
Rồi anh chàng lại ngâm :
– “Còn tình chi nữa, mà thù đấy thôi!”.
Bữa nay. anh chàng nổi hứng, cứ thích đọc thơ. Có lẽ là để lấy le với cô gái học Sư Phạm. Ra cái điều, ta đây học Y Khoa, nhưng cũng biết thế nào là văn clurơng, thi phú. Chiếc xe quẹo vào một con đường rợp bóng tre, nồng mùi cỏ úa.
– Anh định đưa Thư Hương đi đâu đây ?
Hoạt biểu diễn một bộ mặt bí mật :
– Có một chỗ này, thơ mộng lắm. Tới đó rồi em sẽ yêu ngay. Một nơi mà bề ngoài thì đầy chất Á đông nhưng bên trong thì lại đầy chất Tây Phương. Ngồi ở đó, Thư Hương sẽ tưởng như mình lạc một vùng quê bên Tây, có những nàng con gái hái nho đi theo chiếc xe bò vào những mùa Thu miền Nam nước Pháp. Có bao giờ em nghe thấy tên quán “Con Nai Vàng” ?…
– Em chưa bao giờ được nghe !…
Tội nghiệp cho Thư Hương. Từ nhỏ tới lớn, nàng sống trong bốn bức tường lễ giáo, đâu có bao giờ được thoát ra ngoài.
Đường đi vào đây, có những cành tre lả ngọn. Thỉnh thoảng, Hoạt lại phải lái xe tránh những con trâu, đứng nghênh ngang giữa đường, hay những chú mục đồng ngơ ngác nhìn hai người thành phố ngồi trên chiếc xe hơi.
Thư Hương cười, nói trêu Hoạt:
– Chưa thấy “Con Nai Vàng” nào hết, mà chỉ thấy vài con trâu đen ngơ ngác. Hay là anh Hoạt đi lầm đường rồi.
Hoạt cũng cườỉ :
– Có một con nai vàng ngơ ngác đấy thôi ! Con nai vàng ấy là cô Thư Hương.
Rồi Hoạt lái xe vào hẳn vệ đường trả về số, quay sang nhìn đôi mắt nai mở lớn của Thư Hương. Tự nhiên Thư Hương chớp nhanh đôi mắt thẫn thờ. Vòng tay của Hoạt dần xiết chặt. Thư Hương nhìn thấy khuôn mặt của Hoạt sát lại gần, thật gần.
Tất cả như nhoè nhoẹt hẳn, chỉ một cái gì thật êm thật ấm, truyền vào đôi môi Thư Hương, để bắt Thư Hương phải ngửa mặt lên đón nhận, và từ dó, những cảm giác tê dại như luồn vào từng trong thớ thịt, làn da. Mắt Thư Hương nhắm chặt, nhưng cảm giác như bắt đầu thức dậy, và những cảm giác ấy vẫn như còn vương vương, luyến tiếc khi Hoạt nới lỏng vòng tay.
Thư Hương cúi mặt e thẹn :
– Anh làm em ngạt thở. Ban ngày ở đây, anh làm thế, lỡ ai trông thấy thì sao ?
Bàn tay Hoạt chưa rời khỏi đôi vai tròn của Thư Hương, ve vuốt lên trên đó. Làm cho Thư Hương nổi lên từng khoảng da gà. Rồi vòng tay ấy lại choàng qua lưng Thư Hương, đặt lên khoảng trũng dài như một lạch sông, như một thung lũng. Tiếng thở dài của Thư Hương lúc này thật là khó hiểu. Nàng ngửa mặt lên, sẵn sàng dâng hiến.
Cảm giác ấy, tới bây giờ, Thư Hương vẫn còn nhớ. Người con gái khuê các ấy chưa biết được tới người đàn ông nào khác, trừ người khả kính là bố, người khả ái là… ông anh. Người yêu của nàng, hình như so sánh với đàn ông như cha nàng, anh nàng sao thấy rất gần, mà lại rất xa lạ. Vòng tay ấy đã ôm lấy nàng, như một chiếc bẫy đã sập xuống, nhốt nàng trong đó, để nàng có cảm tưởng rằng, càng vùng vẫy, càng cựa quậy thì những vòng tay thuồng luồng ấy cứ như quấn lấy nàng thật chặt. Một cái chặt chẽ êm ái, một sự ngạt thở khoái cảm. Nàng gục đầu xuống vai Hoạt để nghe thấy hơi thở ấm của Hoạt bò lên trên cổ, phơ phất như những sợi tơ.
Hoạt lại lái xe đi. Chiếc quán lợp tranh, dưới gốc những tàng cây cổ thụ, cạnh những bãi cỏ mưót xanh vừa hiện ra. Hoạt nói một giọng rất cải lương :
– Thưa cô sinh viên yêu quí của tôi, đây là quán “Con Nai Vàng”.
Một đứa nhỏ chạy ra mở cửa xe. Thư Hương bước xuống, hãnh diện đi sát vào Hoạt. Nàng mơ ước tới một ngày nào đó, bốn bước song song bên nhau suốt đời. Hoạt tỏ ra lịch sự, kéo ghế mời Thư Hương ngồi….
– Thưa ông bà dùng chi.
Hoạt gọi món ăn làm Thư Hương hoảng hốt :
– Vừa mới ăn ở nhà xong, anh còn ăn nữa sao ?
– Anh có ăn được gì đâu. Hai anh chàng tàu bay đớp kỹ quá, uống kỹ quá mà đấu cũng kỹ nữa. Anh cảm thấy đói rồi. Em phải ăn cùng với anh.
Hoạt gọi một chai rượu vang nhỏ, vừa đủ rót được hai ly. Lấy cớ rằng hồi nãy đã nhìn thấy Thư Hương uống được rượu, Hoạt bắt Thư Hương phải uống. ” Rượu vang để ăn thêm ngon. Đâu có như những thứ rượu của các anh chàng kia, uống vào để cháy gan, cháy ruột”.
Hoạt nói vậy khi Thư Hương nhấp từng chút rượu màu nâu, mát lạnh. Nàng cúi xuống, nhìn thấy đôi mắt của mình ở trong đó, và môi nhòe chất son. Chất rượu mạnh hồi nãy uống ở nhà, pha với chất rượu chát, làm cho nàng ngây ngất. Men tình ái làm cho nàng nhẹ bổng, như bay lên với những đám mây trắng ngoài kia, trôi lang thang trên bầu trời xanh lơ thăm thẳm. Trong một thoáng, nàng liếc sang nhìn Hoạt, để rồi thấy người đàn ông đẹp quá, đáng yêu quá.
Nàng cũng lấy làm lạ với Phượng và Dương. Hai người ấy yêu nhau một cách trầm trầm. Phượng cũng đã nói vói nàng, “màu nào mà nhàn nhạt, thì lâu phai. Màu thẫm quá thì dễ phai mà lúc phai đi thì nhìn xấu lắm, không còn là một thứ màu sắc gì nữa”. Ý của Phượng định nói về màu sắc tình yêu. Thư Hương biết như vậy, nhưng cứ vẫn thấy lòng sôi nổi, bừng bừng như một cơn sốt êm êm đưa con người vào mê sảng.
Hoạt và Thư Hương ngồi ở quán Con Nai Vàng tới năm giờ chiều. Rồi Hoạt đưa Thư Hương vào tận sâu trong Thủ Đức nói là thăm một người bạn. Móng vuốt của con mèo đã giương ra, vồ lấy con chuột. Nàng ngồi ngoài xe, để Hoạt chạy vào trong đó… Tiếng con tàu xình xịch chạy, cho Thư Hương biết nơi đây gần nhà ga. Bóng một cây dừa chơ vơ, trông thật cô đơn và lẻ loi. Nhà ga tỉnh lẻ, dù là một tỉnh gần thành phố lớn như Thủ Đức, cũng vẫn buồn bã như một toa tàu cũ bị bỏ quên. Nàng vẫn còn ngây ngất, còn say. Tiếng của Hoạt gọi :
– Thư Hương, xuống đây!…
Nàng mở cửa xe, đặt chân xuống mặt đất, bước đi đọc theo một hành lang vắng lặng, có những cánh cửa đóng kín… Rồi chuyện đó xảy ra…
Nàng nhắm mắt, rùng mình, không muốn nghĩ tới nữa. Cơn thảng thốt, đau đớn như xé, dằn vật thân xác, rồi tiếp đó là đê mê, như chìm trong một đám mây đen, đầy nặng, để thành một cơn mưa ào ào đổ xuống.
Thư Hương đã run lẩy bẩy, như người đi trong cơn mưa đó… Nước mắt tự nhiên chảy dài trên má. Nàng không còn là con gái nữa. Nàng đã mất đi cái cao quí nhất của cuộc đời con gái.
Rồi từ đó, nàng như một đôi giày đã lấm bùn trong truyện ” Quốc Văn Giáo khoa thư” lớp Đồng Ấu. Một người có đôi giày mới, đi ra đường lầy lội, cố tránh những vũng bùn. Nhưng rồi tới lúc không giữ được, để dính một chút bùn, thì người đó bước đi phăng phăng. Tâm trạng của Thư Hương cũng vậy.
Những lần sau này, Thư Hương là món đồ chơi trong tay Hoạt. Với một ý nghĩ an ủi rằng, đằng nào thì mình cũng sẽ là vợ Hoạt. Nàng cứ dục Hoạt mau làm đám cưới… Nhưng rồi Hoạt tránh mặt nàng, và đã một hôm, nói thẳng với nàng rằng, cuộc tình duyên kể như tới đây là cắt đứt rồi. Lúc đó cũng là lúc mà Thư Hương cảm thấy trong người mình có nhiều triệu chứng khác lạ.
Thì ra nàng đã có thai, một bào thai đã kết tinh như một thứ quả dại, không ai muốn cho nó đơm hoa kết trái…
Từ trường học bước về nhà, nàng bước đi những bước mộng du. Sao cuộc đời có thể phũ phàng đến như thế ? Vài ba chiếc xe hơi, đã phải thắng thật gấp, khi nàng hờ hững bước qua đường. Bánh xe oan nghiệt kia có đè nát người nàng, thì cũng chỉ như giải thoát cho nàng, để cho gia đình nàng khỏi mang tiếng xấu, để cho nàng về tới nơi đầy ánh sáng yêu đương của mọi sự tốt lành. Nàng không hiểu sao mà mình cũng về được tới nhà ? May mà lúc đó, cha mẹ nàng đi vắng. Chị người làm sửng sốt, nắm lấy tay Thư Hương :
– Cô làm sao vậy ?
Nàng không trả lời, rút tay ra khỏi bàn tay chị người làm, chạy vội về phòng đóng sầm cửa lại, để nguyên quần áo như vậy, nằm lăn trên giường, khóc như mưa, như gió. Tình yêu sao lại quá phũ phàng ? Mối tình đầu của người con gái, nhất là những người con gái như Thư Hương, khi bị tan vỡ, thật đau như một vết dao chém. Thư Hương khóc một hơi, nhẹ vơi đi được một ít đau khổ, nhưng tim cứ như nghẹn lại, thắt chặt lại, làm nàng chỉ muốn bật ra những tiếng nức nở.
Nằm trong phòng mà nàng nghe thấy cả tiếng mẹ nàng lao xao nói chuyện ở phòng ngoài. Thư Hương không dám chạy ra đón mẹ, vì chỉ sợ rằng, nhìn thấy bộ mặt thiểu não đến ghê gớm của nàng, chắc mẹ nàng sẽ hoảng hốt lắm. Nàng lơ đãng đứng dậy cởi áo dài. Nhìn vào trong gương, nàng kiểm soát lại một lần thân thể, nhất là phần về phía bụng. Nàng biết chắc rằng, chỉ vài tháng nữa, cái bụng ấy sẽ gồ lên, để cho nàng không còn che dấu ai được nữa. Ý tưởng tự tử đã lảng vảng đến với Thư Huơng.
– Cô Hương đã về chưa ?
– Thưa bà, cô về rồi, đang nằm trong phòng.
Rồi tiếng chị người làm hạ thấp xuống :
– Hình như cô đau hay sao ấy. Con thấy mặt cô tái đi như người bị trúng gió.
Tiếng dép lê đến cửa phòng, rồi tiếng gõ cửa. Từ ngày Thư Hương và Tâm đã lớn bà Phủ thường tỏ ra lịch sự với các con, bao giờ bà cũng gõ cửa.
– Thư Hương, con có sao không ?..
Thự Hương nói vọng ra :
– Con hơi choáng váng một chút… Mẹ cho con nằm nghỉ một lát là khỏi ngay…
Bà Phủ hỏi:
– Con có cần ăn cháo không để mẹ bảo nó nấu ?…
– Thôi, mẹ ạ!…
Thấy mẹ săn sóc mình, Thư Hương muốn nức lên khóc. Nàng vội đưa chiếc khăn tay lên mồm cắn chặt.
Nàng lại nghe thấy tiếng dép của mẹ đi về phòng khách, rồi chỉ một lát sau, nàng nghe thấy tiếng mõ, tiếng cầu kinh. Mẹ ơi, mẹ hãy cầu xin Trời, Phật phù hộ cho con thoát khỏi cơn đau đớn này. Tiếng mõ vẫn vang lên đều đều. Thường thường, mỗi khi vừa chập tối, mẹ nàng vẫn tụng hết một pho kinh rồi mới ăn cơm. Bà cụ ăn chay trường, bắt đầu từ hơn một tháng nay. Bà chỉ lo nghĩ đến đứa con trai duy nhất, đang làm cái nghề nguy hiểm là nghề lái tàu bay.
Bà đã khóc nhiều lần lo sợ cho con mỗi khi nửa đêm, thức giấc nghe tiếng phi cơ rền rĩ trên trời. Bà định tìm cách cưới vợ cho con, rồi nhờ vợ nó giữ chân nó lại. Mẹ nó không giữ chân được nó, thì chắc vợ nó sẽ giữ được. Bây giờ, bà chỉ biết tụng kinh và ăn ở nhân đức.
Thư Hương nằm trong phòng mà ngửi thấy cả mùi trầm hương thơm ngát. Nằm lắng nghe mẹ tụng kinh, nàng thấy lòng thanh thản đi nhiều.
Tôn giáo thật nhiều sức mạnh… Khi con người đau khổ, nếu thấy kẻ khác đau khổ hơn mình, thì cái khổ ấy vơi bớt đi nhiều lắm. Chúa hay Phật đều là những người đã khổ quá nhiều, nên những kẻ đau khổ thường tới trước mặt Chúa, trước mặt Phật để than thở. Thư Hương định rằng, những ngày rằm, mùng một, nàng sẽ theo mẹ đi chùa, lễ Phật.
Thư Hương chỉ đi chùa vói mẹ được hai lần. Tâm hồn nàng cũng thanh thản được vài ba phút. Nhưng những bà bạn của mẹ nàng, đã gợi cho nàng những tủi hổ. Nhiều bà khen nàng đẹp, khen nàng hiền hậu, và đòi mai mối cho những người con, người cháu đang có một địa vị lớn trong xã hội. Nàng đã cúi đầu để dấu một nụ cười khinh bạc. Có ai nhận được cái bào thai, hiện đang thành hình trong người tôi là của mình ?… Hay chỉ là những ray rứt, ghen tuông để kéo dài cả một kiếp sống ngục tù ?
Kẻ nào có can đảm nghe tôi nói về cuộc đời tình dang dở của tôi, nói về hòn máu oan nghiệp đang kết tinh và lớn dần, mà vẫn cứ coi như không có chuyện gì xảy ra, vẫn cưới tôi, vẫn đối xử với tôi như một người vợ. Chắc trên thế gian này chẳng còn ai. Ông Khổng Tử đã chết đi từ mấy ngàn năm nay rồi. Thế gian này, chẳng thể kiếm được một thứ quân tử Tàu…
Mỗi khi có bà bạn nào nói đến chuyện làm mai làm mối thì mẹ nàng lại cười rất tươi::
– Thưa bác, cháu nó có nơi rồi.
– Cậu ấy làm gì ?
– Thằng đó nó sắp ra bác sĩ.
Nhìn mặt mẹ nói những câu đó với một khuôn mặt rạng rỡ, Thư Hương lại thấy đau nhói trong tim. Mẹ nàng vẫn chưa biết chuyện của nàng. Mới đầu thì nàng thấy thế cũng hay, vì cho mẹ biết chẳng được ích lợi gì, mà chỉ làm mẹ đau buồn. Nhưng rồi vì sức người có hạn, sự đau khổ chỉ chịu được tới một mức nào mà thôi, nàng đã nói với mẹ bằng một giọng hằn học :
– Con xin mẹ, mẹ đừng nhắc tới cái thằng con rể bác sĩ của mẹ nữa…
Bà Phủ ngạc nhiên :
– Tại sao vậy ?… Hay chúng mầy lại giận nhau rồi …
Giọng nàng dịu lại :
– Không những giận nó, mà bây giờ con còn khinh nó. Nó không đáng làm con rể của mẹ…
Chỉ nói được câu đó là nàng phải chạy về phòng. Thư Hương lại khóc… Cái khóc này không ồ ạt như buổi đầu tiên nghe Hoạt cắt đứt mối tình, nhưng những giọt nước mắt này mới đúng là những giọt nước mắt câm, rất thấm, rất dài, để cho người ta tưởng mỗi giọt nước mắt đọng lại trên mi rồi chảy xuống, là một giọt máu ứa ra từ tim nàng. Tội nghiệp cho Thư Hương… Hồi nầy, nàng đã phải dùng thuốc ngủ để dỗ dành cho giấc ngủ tới mau.
Nàng tới một cô bạn, hiện đang mở hiệu thuốc tây, mua loại thuốc ngủ mạnh nhất. Cô bạn nhìn đôi mắt quầng xanh của bạn, màu xanh ấy không phải là màu của thuốc nước trang điểm, mà cái quầng hằn lên, đánh dấu sự mất ngủ, nên đưa cho nàng ống thuốc ngủ với lời nói đùa :
– Uống một viên thôi đấy nhé! Mày mà uống thêm, thì có quyền ngủ một giấc ngàn thu.
Thư Hương hỏi lại:
– Uống nhiều thì chết được sao mầy ?…
– Chết là cái chắc…
Nàng nắm chặt ống thuốc ngủ, mắt như lạc vào một cõi xa xăm nào. Người bạn gái của Thư Hương, thấy thái độ khác lạ của nàng, vội hỏi:
– Mày định chết thật sao ?
Thư Hương như bừng tỉnh, vội cười, tiếng cười thật sắc :
– Tao đang diễn một màn kịch .. Mày không hay tao vừa được một hãng phim mời đóng vai một đứa con gái chán đời. Tao đang tập vai trò đó. Làm được cho mầy hoảng hốt, là tao thành công rồi…
Nàng bỏ ống thuốc ngủ vào ví tay, rồi cố làm ra đáng điệu chim sẻ nhảy nhót bước đi. Người bạn gái nhìn theo, nhún vai một phát rất đúng điệu đầm. Không ai có thể tin được là Thư Hương lại dùng ống thuốc ngủ xin được của người bạn gái, để ngủ một giấc thật lâu êm đềm, một giấc ngủ thiên thần để đi về một nơi không còn khổ đau, tủi cực mà người ta gọi là chốn giải thoát.
Trước khi dốc cả ống thuốc ngủ vào miệng, nàng đã suy nghĩ rất kỹ. Cái chết của nàng sẽ giải quyết được tất cả mọi chuyện. Con nàng sẽ chết theo nàng, không phải chịu tủi cực là một đứa nhỏ không cha. Cha mẹ nàng, tuy rằng cũng đau đớn nhiều về cái chết của nàng, nhưng tránh được cái nhục nhã vì có một đứa con gái không chồng mà chửa… Còn nàng, nàng còn luyến tiếc một cái gì nữa đâu…
Vài khuôn mặt của lũ bạn thân phảng phất hiện lên nhưng chỉ bàng bạc, mơ hồ, không đủ sức giữ được nàng ở lại cuộc đời đầy chất ô trọc này. Rõ ràng nhất, sâu đậm nhất là hình ảnh của anh Tâm, anh Dương và Phượng. Ba người đó như đang nhìn Thư Hương bằng những con mắt dịu dàng nhưng nghiêm khắc. Dù cho nàng nhắm đôi mắt, vẫn còn nhìn thấy, và còn nghe thấy văng vẳng tiếng cười đùa của anh Tâm, anh Dương, tiếng cười đầy chất thủy tinh của Phượng.
Thở dài một tiếng, nàng đưa cả nắm thuốc lên miệng, nuốt ừng ực như nuốt một chất ma túy giải phiền…
Nhưng số mệnh đã giữ nàng lại… Chị người làm vào đánh thức nàng, hỏi xem sáng nay nàng ăn gì, để còn đi mua, thấy chân tay nàng lạnh ngắt, mặt trắng bệch, đã la lên ầm nhà… Anh Tâm, chạy sang hàng xóm mượn được chiếc xe, lái như bay, đưa nàng vào bệnh viện. Người ta đã cứu sống nàng…
Thư Hương lấy làm lạ, từ hôm qua đến nay, vẫn chưa thấy Phượng và Dương vào thăm .. Không biết đã có ai báo tin này cho hai người biết chưa?… Thư Hương biết tính anh Tâm. Khi có chuyện gì buồn, khó giải quyết thì thế nào cũng tới rủ anh Dương đi uống rượu, và nói cho hả, nếu cần thì hai ông ấy sẽ không ngần ngại gì, đóng chặt cửa lại, đấm đá nhau một lúc cho đỡ buồn, đỡ khổ. Thế giới của đàn ông, thật nhiều chuyện lạ.
Thư Hương đã giận anh Tâm mất mấy ngày, khi anh giở giọng khinh thường đàn bà. Muốn kiếm một bạn mới khó chứ muốn kiếm một con vợ, tức là một đứa đàn bà, thì kiếm lúc nào chẳng được. Bây giờ, Thư Hương mới hiểu tình bạn là cao quí, mà hai người bạn như anh Tâm và anh Dương, lại là một thứ hiếm có ở trên đời.
Có tiếng gõ cửa. Thư Hương ho lên một tiếng cho ngưòi đứng ngoài hiểu là mình còn thức. Nàng cũng lấy làm lạ. Chỉ có mẹ càng hay lui tới với nàng.
Bà mới về buổi sáng, bây già còn sớm để bà phải trở lại. Mà mẹ nàng, lúc vào phòng bệnh nầy, đâu có gõ cửa. Chốt cửa quay một vòng thật nhẹ.Thư Hương thấy bóng áo trắng của cô y tá, rồi tà áo trắng ấy đứng nép một bên, nhường bước cho một tà áo đỏ bước vội vào phòng. Cô y tá khép nhẹ cửa lại.
– Phượng !…
– Thư Hương !…
Phượng nắm chặt lấy tay Thư Hương, bàn tay nhỏ bé, nổi lên những đường gân xanh. Phượng thương bạn quá.
– Tại sao Thư Hương lại làm như vậy. Mình còn nhiều cách để giải quyết mà.
Thư Hương oà lên khóc :
– Em khổ quá, chị Phượng ơi !…
Phượng vỗ nhẹ lên lưng Thư Hương, dìu Thư Hương nằm xuống giường. Nàng rút khăn tay lau nước mắt cho Thư Hương.
Tuy rằng Thư Hương với Phượng cùng một tuổi với nhau, nhưng sao Phượng thấy Thư Hương nhỏ bé quá, yếu ớt quá. Thư Hương như một con chim chưa đủ lông cánh đã đòi tập bay, để rồi từ một cành cây thật cao, té bổ nhào xuống, gãy đổ la liệt, cuộc đời tan tành. Nàng vuốt mấy sợi tóc ướt đẫm nước mắt, dính bết vào má Thư Huơng, rồi nhìn vào tận mắt Thư Hương :
– Phượng bàng hoàng tưởng rằng trời đất sụp đổ, khi nhận được tin Thư Hương.
– Ai báo cho chị biết ?
– Anh Dương. Tối hôm qua, anh Tâm tới phòng anh Dương ngủ, kể lại cho anh Dương nghe. Sáng nay, anh Dương tới đánh thức Phượng dậy thật sớm đưa Phượng đi ăn sáng, rồi bắt Phượng tới đây với Thư Hương. Anh Dương thả Phượng xuống đây rồi mới đi làm…
– Tại sao anh Dương không lên thăm em ?
– Phượng cũng bắt anh Dương lên thăm Thư Hương đấy chứ. Nhưng anh nói rằng, không nên tới thăm người con gái lúc mà cô ta nằm trên giường bệnh. Vì lúc đó, người con gái không còn giữ được sắc đẹp như lúc còn khỏe mạnh. Anh chàng còn kể cả chuyện bà cung phi nào, lúc đau bệnh, được vua tới thăm không cho vua vào thăm, chỉ lấy con dao bằng vàng, cắt mớ tóc để đưa cho vua, đành chịu tội vậỵ…
Thư Hương mơ màng, đọc câu thơ :
– “Tóc mây một món chiếc dao vàng. Ngàn trùng e lệ, phụng quân vương”. Lúc ốm đau, người con gái xấu xí thực.
Rồi Thư Hương thở đài, nói tiếp :
– Nhưng Thư Hương là em anh Dương, đâu phải là nàng cung phi của Đức Vua.
Phượng cười :
– Thôi mà, chấp làm chi một lũ gàn!…
Thư Hương cũng nhìn bạn cười. Thấy bạn cười. Phượng mừng quá. Tuy rằng trong phòng không có ai, chỉ có hai người, nhưng Phượng cũng hạ thấp giọng xuống, hỏi nhẹ :
– Được mấy tháng rồi ?…
– Chị Phượng nói cái gì.
– Phượng nói cái đó… Đã lâu chưa?…
Khuôn mặt của Thư Hương lại trở nên trầm lặng. Nàng kéo cao chiếc gối để tựa lưng lên cao, rồi buông một câu :
– Gần ba tháng rồi, chị Phượng ạ ! Chị Phượng cũng như chị em trong nhà, nên Thư Hương chẳng muốn dấu làm chi. Mẹ Thư Hương cứ bắt phá đi, mà ai nỡ lòng nào. Nó có tội tình gì.
– Phượng cũng đồng ý như vậy.
Thư Hương nhắm mắt im lặng. Phưạng ra chiếc ghế xa-lông, ngồi đọc vài ba cuốn báo đã cũ, để nghĩ tới một quyết định đẹp cho đời Thư Hương. Nhìn Thư Hương, Phượng thấy buồn khổ quá. Còn Thư Hương thì đang nghĩ đến quyết định của mẹ.
Không ngờ mẹ là người tụng kinh, ăn chay, mà lại có một ý định táo bạo như vậy. Lúc nói với Thư Hương về câu chuyện đó, mẹ rất ngập ngừng. Chắc rằng mẹ cũng hối hận lắm. Hương nghĩ tới những câu mà các bạn của mẹ, khi thấy Thư Hương đi lễ chùa với mẹ, thường nói đùa là sẽ làm mai cho nàng kết duyên với con, với cháu, những người hiện nay đang làm chức lớn. Đấy là lời những bà cụ lẩm cẩm, kiếm cớ để khoe chức tước của con cháu, nhưng biết đâu, trong đó chẳng có vài bà thực tâm. Thư Hương nói thẳng với mẹ:
– Con chẳng muốn lừa dối ai, nhất là con không muốn giết đứa con của con. Thà rằng giết con đi thì mới có thể giết được nó. Mẹ có can đảm giết con không ? Con cũng thế. Con không thể giết con của con được…
Mẹ đã vỗ về :
– Nhưng để cho nó ra đời mà không có cha, lạị càng tội hơn. Mẹ chỉ muốn con làm lại cuộc đời. Con không biết là mẹ thương con. Mẹ là… người tu hành…
– Con biết lắm. Con hiểu mẹ nhiều lắm !
Nàng muốn gào lên, “mẹ là người ích kỷ, mẹ chỉ nghĩ tới mẹ ”, nhưng nàng đâu dám hỗn hào như vậy. Nàng lại có ý định tìm cái chết, nhưng người ta đã đề phòng từ trước. Bây giờ, Phượng đồng ý với nàng, nàng thấy Phượng mới chính là người tri kỷ. Vẫn nhắm mắt, nàng hỏi :
– Chị Phượng đang làm gì đó ?… Vẫn còn ngồi đấy chứ.
Phượng trả lời ngay:
– Phượng còn ngồi đây. Thư Hương cần gì cứ nói, Phượng sẽ làm ngay.
– Thư Hương chỉ cần chị Phượng nói chuyện…
– Thì Thư Hương nói trước đi !…
Thư Hương kể lể:
– Nhiều lúc, Thư Hương thấy chị Phượng với anh Dương như một cặp vợ chồng già. Ấy là chưa lấy nhau, còn thời kỳ vị thành hôn đấy. Nhất là lúc thấy anh chị cứ nhìn nhau không thèm nói; không chớp mắt mà Thư Hương lấy làm lạ… Về sau này, Thư Hương mới hiểu, đối với những kẻ yêu nhau, thì phải sửa soạn cho cả một cuộc sống dài dằng dặc về sau này chớ không thể chỉ sống với hiện tại, vui hưởng với cái hiện tại. Tới lúc Thư Hương hiểu được chuyện đó thì cũng muộn quá…
Phượng can ngay :
– Đâu đã muộn… Thời gian làm cho trái cây chín. Phượng chỉ là một thứ trái cây được phơi nắng, nên chín sớm. Bắt đầu từ đây, Thư Hương sẽ khôn hơn Phượng nhiều…
– Em không muốn khôn hơn chị Phượng. Chị Phượng có để ý không ?… Tuy rằng chị Phượng chỉ bằng tuổi em, nhưng em rất bằng lòng gọi chị Phượng bằng chị…
– Phượng cứ tuởng rằng Thư Hương gọi như vậy là vì anh Dương là bạn với anh Tâm…
Hai người con gái chỉ trao đổi câu chuyện được tới chỗ đó. Rồi im lặng bao trùm lấy cái không khí bệnh viện đầy mùi ê-te, mùi bông, mùi băng. Phượng ra đứng nơi cửa sổ, nhìn xuống vườn cỏ xanh mướt của bệnh viện, trên đó có vài đứa nhỏ đang nô đùa. Tiếng của Thư Hương lại vọng tới tai Phượng :
– Chị Phượng bảo Thư Hương phải làm gì bây giờ ?
Cân hỏi của Thư Hương từng chữ, từng chữ như xoáy vào trong đầu Phượng. Tay cầm tờ báo, nhưng Phượng có nhìn thấy gì đâu. Tay nàng vẫn hững hờ, lơ đãng lật từng trang báo. Thư Hương lại hỏi :
– Chị Phượng bảo em phải làm sao bây giờ ?
– Phượng đang nghĩ đây !
Thư Hương thở dài nhìn lên trần nhà trắng toát. Nếu chiếc trần nhà ấy cứ dần dần hạ thấp, đè chặt Thư Hương bẹp dí xuống trên chiếc giường bệnh viện này, thì thật sung sướng cho Thư Hương. Căn phòng bịnh viện đã đóng kín hết cửa, thật yên tĩnh, nhưng cũng thật buồn. Nếu buổi sáng nay, không có Phượng, chắc Thư Hương nằm đây sẽ buồn lắm. Ý nghĩ vơ vẩn lúc nào cũng bàng bạc trong đầu, chỉ chờ những lúc thật cô đơn, thật yên lặng mới thoát ra ngoài, nhảy múa không tài nào xua đuổi.
Hình như người con gái khi đã có một kỷ niệm thì chỉ có một kỷ niệm khác, sâu đậm hơn, đáng nhớ hơn, mới có thể xóa nhòa đi được.
Tiếng Phượng thật êm, thật nhẹ:
– Hay Thư Hương đi xa Saigon một thời gian. Như là đi Đà Lạt chẳng hạn.
Thư Hương thẫn thờ trả lời :
– Em cũng nghĩ đến chuyện đó rồi. Nhưng chị Phượng ạ, mình càng cố dấu diếm thì thiên hạ cũng biết, rồi lại thêu dệt ra nhiều thêm. Thà rằng, cứ ở lại đây, chẳng cần phải dấu diếm gì ai hết.
Phượng lại im lặng. Nàng chỉ có thể nghĩ tới được đến thế. Từ trước, những người con gái lỡ mang một tâm sự khó nguôi, thường đùng đất Đà Lạt để làm một thời gian chờ đợi. Rồi khi thời gian ấy qua đi, lại trở về, sống một cuộc đời bình thường. Nhưng những lúc gần đây, chuyện đó không còn là một chuyện lạ. “Con nhỏ ấy ở Đà Lạt mấy tháng, vừa mới trở về”, chỉ cần một câu nói đó là thiên hạ hiểu biết hết mọi chuyện.
Thư Hương trầm giọng, nói tiếp:
– Chắc chị Phượng biết là em học Sư Phạm. Rồi đây em sẽ là một giáo sư. Một cô giáo mà có một dĩ vãng xấu như em, thì làm sao mà dạy học trò ?…
– Thư Hương đâu có phải là người xấu?… Thư Hương là nạn nhân của cuộc đờì khốn nạn. Phượng nhìn Thư Hương, chỉ thấy đẹp, nhiều cái đẹp nữa là đằng khác.
– Em cám ơn chị Phượng.
Tiếng cám ơn của Thư Hương, nghe buồn như tiếng khóc. Nếu người khen Thư Hương, không phải là Phượng thì Thư Hương đã coi đó là một lời mỉa mai, một lời cay đắng. Nhưng câu đó là Phượng nói, thì cũng an ủi được Thư Hương một phần nào. Phượng hỏi :
– Vậy Thư Hương đã định gì chưa ?
– Em chỉ muốn chết!
Thư Hương nói tới cái chết một cách thản nhiên, gần như thân mật. Thì nàng chẳng tìm cái chết một lần rồi là gì ? Phượng bỏ tờ báo xuống nhìn Thư Hương bằng một đôi mắt thật xót thương. Khuôn mặt Thư Hương lúc này, màu đen và trắng nổi bật thật rõ rệt. Mái tóc và đôi mắt đen quá, còn khuôn mặt thì trắng bệch như được nặn bằng sáp. Thư Hương tựa lưng vào gối, mặt như được cắt rõ nét in lên tường. Phượng cầm lấy tay Thư Hương mà cảm thấy cái giá lạnh buốt tê.
– Thư Hương đừng nghĩ dại… Nếu mà người con gái nào bị phụ tình, cũng tìm cái chết như Thư Hương, thì trái đất này chắc không còn con gái nữa…
Rồi Phương nói sang chuyện khác :
– Sáng nay, anh Dương với Phượng ghé qua nhà, định đánh thức anh Tâm, dậy đi ăn sáng. Anh chàng ngủ mê. Không thèm thức đậy làm cho anh Dương và Phượng phải đi một mình. Nghe anh Dương nói chuyện, thì tối hôm qua, anh Tâm uống rượu say
Thư Hương lại thở đài:
– Chỉ tại em. Tất cả mọi người, bố em, mẹ em, anh Tâm đều khổ vì em.
Phượng tưởng rằng kéo được Thư Hương ra khỏi câu chuyện đau buồn để nói sang một câu chuyện khác, nhưng không ngờ, cũng vẫn trở lại câu chuyện cũ. Cái buồn đã tới thì khó mà rứt ra cho được. Phượng lại phải an ủi Thư Hương :
– Tại sao Thư Hương cứ tự buộc tội như thế. Thật đúng với câu tục ngữ “thân làm tội đời”…
– Chị Phượng nói đúng. ” Thân làm tội đời ” ..
Phượng nghĩ rằng, lúc này, chẳng nên nói thêm một chuyện gì. Cứ nói câu nào, là Thư Hương lại dùng câu nói đó làm một sợi giây, trói buộc lấy cái tình cảnh đau khổ của nàng. Vậy thì cứ im đi, chờ cho Thư Hương nói, hay khóc lên được, chắc rằng Thư Hương sẽ thoải mái bơn. Phượng lại ngồi xuống ghế, nhìn đăm đăm vào khoảng trống trước mặt.
Mọi khi Phượng vẫn là người tài, giải quyết bất cứ một vấn đề khó khăn gì cũng chỉ trong chớp nhoáng. Vây mà tới lần này, sao Phượng lại “bết” quá đến thế ? .. Thật là uổng công Dương đã phong cho Phượng, một thứ quân sư quạt mo, chẳng kém gì Gia Cát Lượng… Phượng bối rối, liếc nhìn Thư Hương thật nhanh, và tự cảm thấy hổ thẹn. Phượng đã xếp đặt kế hoạch, khuyên Thư Hương lên Đà Lạt sống trên đó một thời gian, chờ khi nào đẻ xong, lại trở vè sống một cuộc đời như ngàn vạn cuộc đời những người con gái khác…
Rất có thể, Đà Lạt nơi yên tĩnh và sương mù sẽ hợp với Thư Hương, để cho người con gái khốn khổ ấy tìm lại được sự yêu đời. Nhưng Thư Hương đã lắc đầu… Phượng như một người đang đi trên đường bước hụt xuống một cái hố, lúng túng mãi mà chưa rút được bàn chân lên. Bây giờ Phượng phải bắt đầu làm lại. Mà cũng đau cho Phượng là lúc này, không có Dương ở bên cạnh. Phượng cần có Dương mà Dương cũng cần có Phượng.
Tuy rằng nhiều lúc trách Dương, không cho Phượng một phút để suy nghĩ, nhưng nếu có Dưong, bàn tính với Dương vài câu, thì biết đâu một ánh sáng không bừng lên trong lúc nầy, để Phượng có thể giúp được Thư Hương…
Từng tiếng của Thư Hương lọt vào tai Phượng:
– Em đã có ý định rồi. Nếu tất cả mọi người thân của cm, kể cả chị Phượng, kể cả anh Dương, đều không muốn em chết, thì em sẽ sống. Em sẽ sống như mọi người. Em cứ vác cái bụng đi học, rồi chuyện tới đâu hay tới đó…
– Thư Hương nghĩ vậy cũng phải… Cần gì để ý tớỉ miệng lưỡi thiên hạ… Toàn một lũ “mồm chó, vó ngựa”.
Tuy nói thế, nhưng Phượng thấy lòng mình thật xót xa. Nếu thiên hạ chỉ gồm tất cả những người thương yêu mình và những người mình thương yêu, thì dễ xử biết mấy.
Nhưng đôi mắt của con người, nhìn một con người, ít có khi nào mang một chút bao dung. Phượng thở dài… Còn bố, còn mẹ Thư Hương, liệu rằng hai cụ già có chịu đựng được những lời xầm xì, nhỏ to, những lời mỉa mai cay độc ?… Phượng nghĩ rằng, để các cụ già phải chịu dựng những điều đó, là một sự tủi cực, sẽ theo ám ảnh lũ con cháu cả một đời.
Một tiếng động nhẹ ngoài cửa… Phượng giật mình nhìn ra. Mẹ Thư Hương bước vào, chiếc áo dài xộc xệch, nhàu nát, gài lộn cả những khuy nút. Mặt bà cụ buồn thảm như đi đưa một đám ma. Phượng tưởng nếu Thư Hương có chết đi, thì mặt bà cụ cũng chẳng buồn thảm đến như thế.
Cụ Phủ mệt nhọc hỏi:
– Chị Phượng tới thăm em đấy à ?…
– Thưa bác, vâng ạ !
Bà cụ chậm chạp đi tới giường Thư Hương. Phượng có cảm tưởng như bà cụ lê từng bước, chứ không phảii là bước đi… Bà cụ nắm lấy bàn tay Thư Hương đặt ở ngoài chiếc mền len:
– Con khỏe rồi chứ ?
– Thưa bác, Thư Hương như thường rồi. Có 1ẽ bác nên cho Thư Hương về nhà.
Thấy Thư Hương lặng lẽ không trả lời, Phượng phải trả lời dùm cho Thư Hương. Bà cụ òa khóc :
– Bác khổ quá, Phượng ạ. Bác vẫn ăn hiền, ở lành tụng kinh, niệm Phật mà sao trời lại gieo tai họa xuống nhà bác như thế này ?…
Những đè nén từ mấy hôm nay, như được dịp ào ra, không có một con đê nào ngăn lại được. Bà cụ kéo vạt áo dài lên, thấm nước mắt. Phượng nhìn sang Thư Hương, thì thấy những thớ thịt trên mặt người con gái ấy giật lên, vầng trán thanh tú chợt nhăn lại, rồi đôi mắt chớp nhanh, hai giọt nước mắt ứa ra chảy dài xuống tóc mai. Thư Hương nói với mẹ:
– Con lạy mẹ, xin mẹ đừng khóc. Thà rằng mẹ đánh con, chửi con, con không khổ bằng nhìn thấy mẹ khóc. Nếu mà mẹ muốn cho con sống với mẹ, xin mẹ đừng khóc. Mỗi lần gặp mẹ, thấy mẹ khóc thì thà rằng con chết đi, để cho mẹ khóc một lần còn hơn…
Trong phòng chỉ có một bà cụ già và hai người con gái. Trong số ba người, hai người đang sụt sùi thì Phượng làm sao giữ được xúc cảm ?…
Phượng thấy như có một cái gì ngăn chặn lấy ngực, để phải hít vào phổi những hơi thật dài, và cũng thả ra thật dài. Nếu giây phút này mà còn kéo dài, chắc rằng Phượng cũng mủi lòng, để rồi cùng ứa nước mắt, để cho căn phòng này bỗng nhiên biến thành một thứ “sầu thành”.
Phượng đỡ bà cụ ra ngồi trên ghế:
– Bác cứ yên tâm, rồi đâu sẽ vào đó. Con không tin rằng gia đình chúng ta, gồm những người tốt như hai bác, như anh Tâm, như Thư Hương, mà lại phải chịu những cảnh đen tối mãi.
Bà Phủ lau nước mắt:
– Bác rối trí quá rồi. Phượng nghĩ dùm cho bác một cách giải quyết đi. Mấy hôm nọ có gia đình bác Tham muốn hỏi Thư Hương cho con trai bác ta. Với tình trạng này, bác đã khuyên Thư Hương nhận lời.
Lúc này, Thư Hương thốt ra những lời chán nản :
– Con không muốn lừa đối ai. Mẹ cứ làm như con là một thứ đồ phế thải, cần phải tống khứ ra khỏi gia đình. Thà rằng con chết còn hơn…
– Đấy là mẹ nói vậy, còn quyền quyết định là tùy con. Từ ngày các con lớn, mẹ biết là không còn quyền gì đối với các con nữa rồi…
Thư Hương đau xót nhìn mẹ… Chiếc cây già, lá vàng đã rụng hết, biết rằng không còn bóng mát cho lũ cây còn non. Những cây non đã cứng cáp, đã biết tự vươn lên với mặt trời, dù cho phải chịu những cơn mưa bão thật phũ phàng. Không, mẹ vẫn là bóng mát của cuộc đời chúng con… Cái đau khổ nhất của các con của mẹ, có lẽ chỉ vì mẹ thương yêu các con nhiều quá…
Phượng nói với bà Phủ :
– Cháu thì khuyên Thư Hương đi lên Đàlạt trong ít lâu. Nghỉ học vài tháng hay một năm cũng chẳng sao. Hay có thể xin đổi trường. Ở trên đó ít lâu chắc Thư Hương sẽ vui vẻ hơn. Nhưng Thư Hương lại không chịu.
Phượng nói như vậy vì ngày mà Dương và Phượng xa nhau, Phượng cũng phải lên Đà Lạt một tuần lễ, để cho nỗi buồn lắng xuống thật sâu. Phượng đã đứng rất lâu bên cửa sổ, nhìn xuống thung lũng mỗi buổi chiều, để nhìn sương xuống trùm lấy những ngọn thông mướt lá. Phượng cũng đã lang thang đi trên bờ hồ, suốt dọc theo con đường Tình Ái, đi vào vườn Bích Câu, nhìn kỹ từng cánh hoa mỏng manh, nâng nhẹ từng cánh lá, mọc dài theo lối đi. Muốn có được giấc ngủ ngon, Phượng đã đi bộ và leo lên tận đỉnh đồi, để nhìn về phía trời xa, in hình bóng thánh giá. Phượng đã thắng được nỗi buồn. Lúc trở về Saigon, Phượng đã quên được hết để sống bình thường. Nhưng đấy chỉ là bề ngoài.
Còn bên trong, nỗi buồn lâu lâu vẫn nổi đậy thật mãnh liệt. Mãi cho tới ngày gặp lại Dương…
Bà Phủ hỏi Thư Hương :
– Phượng nghĩ như vậy là phải lắm. Tại sao con lại không chịu ?…
– Con không muốn xa mẹ.
– Thì mẹ cũng lên đó với con.
Như một con thú bị dồn tới bước đường cùng, Thư Hương muốn khóc òa lên, muốn gào thét lên. Nhưng nàng chỉ là một đứa con gái yếu đuối. Thư Hương nghẹn ngào, hai tay ôm lấy mặt :
– Con không muốn đi đâu hết. Mẹ đừng bắt con phải làm những điều gì trái với ý con.
Bà Phủ thở đài :
– Thì mẹ vẫn nói, cái đó tùy con.
Nhìn những cảnh này, Phượng muốn đi ra khỏi căn phòng. Thấy bà Phủ có vẻ mệt nhọc, Phượng đứng dậy kéo hai cái ghế vào nhau :
– Bác nằm nghỉ đỡ… Cháu thấy bác mệt mỏi quá.
– Thế Phượng ngồi đâu ?
– Cháu ngồi trên giường Thư Hương cũng được…
Thư Hương nằm xích vào tường để có chỗ cho Phượng ngồi, thì cô y tá đã mở cửa bước vào, mỉm cười:
– Có ông Trung úy Dương tới đón cô Phượng…
– Cô nói dùm ông ta lên đây…
Cô y tá vẫn mỉm cười:
– Tôi có mời ông ta, nhưng ông ta không chịu lên, chỉ nhờ nói dùm là cô Phượng có muốn về thì về cùng với ông ta. Còn nếu muốn ở lại thì ông ta về một mình !
Phượng xin phép bà Phủ :
– Bác cho cháu về, chiều cháu sẽ trở lại.
Rồi Phượng nắm lấy tay Thư Hương :
– Cứ nằm yên nghỉ. Thế nào Phượng sẽ nghĩ cho Thư Hương một kế vẹn toàn…
– Nói đến “vẹn toàn” là chị Phượng hơi tham lam đấy nhé.
Phượng quả quyết:
– Thư Hương cứ yên chí. Phượng có sẵn ý định đây rồi, nhưng chưa nói cho Thư Hương biết vội, vì còn bàn tính với anh Tâm, anh Dương. Trong lúc chờ đợi, Phượng chỉ muốn Thư Hương hãy… tập cười. Phải cười cho nhiều.
Giọng Phượng thật thiết tha:
– Trước khi Phượng về, Phượng muốn được nhìn thấy cái cười của Thư Hương, rồi mới về được…
Để chiều lòng Phượng, Thư Hương nở một nụ cười như mếu. Phượng cười theo thật tươi:
– Như vậy được rồi… Tuy mới tập, nhưng như thế cũng đã khá lắm. Phượng về nhé. Chào bác ạ…
Phượng đi ra khỏi căn phòng bệnh viện. Gót giầy của Phượng lóc cóc gõ xuống nền cạch, dọc theo một hành lang thật dài và bóng loáng.
Nhìn xuống dưới chân, Phượng nhìn thấy cả bóng mình hiện lên lờ mờ. Rồi từng bậc thang đưa Phượng vào cái nắng chói chang đầy bụi của trời Saigon.
Dương đón Phượng nơi cổng bệnh viện:
– Thư Hương đã khá chưa ?…
Phượng bĩu môi:
– Được anh hỏi thăm tới, chắc có người đã xanh cỏ rồi cũng nên.
Dương lo lắng.
– Có sao không ?…
Phượng cười lớn :
– Bây giờ chỉ làm sao cho cô nàng cười lên được là không lo gì nữa.
– Thế mà làm cho anh lo sợ quá.
Phượng nhìn vào mặt Dương, thấy có vài chỗ tím bầm. Dương mang một chiếc kính đen thật lớn. Dương ít khi mang kính, nhất là những lúc đứng nói chuyện. Phượng hỏi:
– Mặt anh làm sao thế
– Không sao, anh té xe, trầy sơ một chút…
Phượng nhìn chiếc xe, hờn dỗi :
– Anh nói dối Phượng rồi. Xe không có móp, tay anh không sao, mà mặt như thế kia đúng là anh đi đánh lộn rồi… Phải khai thật cho Phương biết, không có Phượng nghỉ anh ra, không chơi với anh nữa…
Dương đạp cho máy xe nổ :
– Phượng thông minh quá. Đúng rồi, anh mới đập một thằng gần chết. Anh chỉ bị trầy sơ sơ, nhưng thằng đó thì ít nhất nửa tháng mới nhai nổi cơm…
– Nhưng cái người mà anh đập là ai vậy ?
Dương rú ga cho xe vọt đi. Phượng ngồi sau, lao đao gần té rồi Dương quát lên :
– Thằng Hoạt!
Nghe Dương nói vậy Phượng bàng hoàng gần muốn té xuống khỏi yên xe. Nàng không ngờ phản ứng của Dương lại đến thế. Nhưng nếu xét kỹ thì Hoạt đáng bị ăn đòn lắm. Riêng cái vụ làm cho Thư Hương phải tự tử, thì Hoạt đã đáng đánh đến một ngàn lần.
– Anh phải kể cho Phượng nghe đầu đuôi cầu chuyện.
– Kể luôn bây giờ ?
– Ừ, ngay bây giờ.
Dương cười lớn.
– Thôi đi, cô nàng ơi… Ngồi trên xe Vespa mà nói chuyện thì làm sao hấp dẫn được. Hãy để sau lúc ăn cơm, lúc uống cà-phê, anh sẽ kể, coi như một món “đét-se”.
– Một món “đét-se” rất khó nuốt ?…
– Cái đó còn tùy ở trình độ thưởng ngoạn của thực khách.
Dương phóng xe chạy ào ào trong thành phố. Chàng lách qua những hàng xe đậu dài chờ nơi ngã tư đèn xanh, đèn đỏ. Nhiều lần Phượng phải hét lên bắt Dương chạy chậm lại.
Dương vẫn phóng xe để cho tóc của Phượng bay phất phới trong gió lộng. Sau cùng, Phượng phải dọa :
– Anh mà chạy mau như thế này nữa là Phượng nhảy xuống đấy…
– Nhảy xuống thì gãy cẳng.
– Phượng chờ tới ngã tư, lúc anh ngừng xe lại…
– Ừ, thôi, nếu vậy thì anh chịu thua.
Dương cho xe chạy chậm lại. Lúc này là lúc mà Phượng muốn gợi cho Dương kể những chuyện đã xảy ra giữa Dương và Hoạt…
Nhưng Dương thật kín tiếng. “Đã bảo chờ tới lúc ăn cơm xong mà” . Tính của Phượng vốn tò mò. Chuyện gì mà không được biết ngay thì ấm ức rất khó chịu. Dương lái xe vào con ngõ hẻm, dọc theo đường xe lửa. Bên cửa ngoài không có khóa. Dương la lên :
– Trời ơi, cái thằng khốn nạn nó vẫn còn ngủ thì có khủng khiếp không cơ chứ.
Chàng bước lên cầu thang trước. Phượng bước lên theo. Mở cửa vào trong nhà, vẫn thấy Tâm nằm trên giường, đang ngủ ngon lành. Dương đập mạnh lên người Tâm :
– Dậy đi mầy !…
Tâm ngồi dậy mỏi mệt, nhìn Phượng, cười bâng quơ :
– Mấy giờ rồi ?…
– Hơn mười hai giờ rồi đấy, thằng con trai ạ…
Tâm đưa chân tìm đôi dép :
– Thế là đỡ được một bữa ăn sáng. Nhưng này Dương, mầy đã xin phép cho tao chưa ?…
Dương cởi áo treo lên mắc :
– Kể như xong rồi !
Chờ cho Tâm xuống nhà, Dương và Phượng bàn nhau về bữa ăn trưa nay. Theo như Phượng, thì cả ba, nên sang nhà Phượng, ăn cơm ở bên đó. Dương không bằng lòng, vì chàng biết quá rõ tài làm bếp và lười đến chảy thây ra của chị em nhà Phượng. Sang bên đó nhìn thấy chị Yến chạy nháo nhào ra chợ, mua thịt quay, hay mua giò chả thì thật vô lý…
Chi bằng để Phượng về nhà, lấy xe “xô-lếch” chạy đi mua vài ba thứ về, ăn qua loa cũng xong. Như buổi trưa hôm qua. Phượng vẽ một tương lai thật đẹp :
– Ít nữa, Phượng sẽ phải có một cái bếp thật sạch, bộ đồ làm bếp thật bóng loáng, đũa bát phải không dính một chút bụi. Ngày nào, Phượng cũng bắt anh phải ăn cơm ở nhà.
Dương cười gật đầu:
– Để ít lâu nữa rồi mới sửa soạn được. Còn bây giờ hãy tạm đi mượn cũng đủ lịch sự chán…
Phượng đi xuống cầu thang. Trước khi đi dặn dò:
– Anh phải đợi Phượng về mới được kể chuyện sáng nay của anh đấy.
Còn lại một mình Dương, chàng nghĩ tới những việc vừa xảy ra sáng nay. Sau khi đưa Phượng vào bệnh viện thăm Thư Hương chàng phóng xe vào sở.
Rất may cho Dương là ngay từ ngày mới về, chàng đã tỏ ý xin đi Phi Đoàn, nên không có ai tìm cách đẩy chàng đi để chiếm chỗ, để được vững chữ thọ.. Vào đến sở, chàng bốc “tê-lê-phôn” gọi lên Biên Hòa, xin phép cho Tâm nghỉ. Anh Tư đã hỏi thăm rất ân cần, hỏi thăm cả Dương. Khi được Dương ngỏ ý, trong lúc đã nói xong việc của Tâm, là muốn về Phi Đoàn đi bay lạị, anh Tư có vẻ chú ý, và hứa sẽ có can thiệp. Dương thấy những người đã sống chết cùng nhau, thật thương yêu nhau.
Công việc ở bàn giấy, làm cho chàng đã chán nản quá rồi. Có nhiều lúc, chàng có cảm tưởng rằng dẹp bớt đi một nửa số nhân viên tại đây, công việc vẫn cứ như thường. Có nhiều lúc cứ ngồi vêu ra, hốc hác ra cả ngày mà chẳng có công việc gì để làm. Nhưng nếu vắng mặt thì không thiếu gì những kẻ tâu lên với xếp, để rồi thỉnh thoảng lại phải nghe những lài mát mẻ, rất khó chịu.
Lúc đặt điện thoại xuống, Dương đã thật bâng khuâng, nhớ tiếc. Chàng nhớ thời ở nơi vườn cao su xứ Bưởi. Nhớ hết, nhớ tất cả . Nhớ những khuôn mặt những người đã chết. Chàng đã ở nơi đó, từ khi chỉ có phi đạo bằng đá đỏ, và một phi đạo lót bằng vỉ sắt mà mỗi khi trời mưa thì đường bay trơn trợt phải cố gắng lắm mới giữ được phi cơ chạy thẳng mỗi khi hạ cánh. Nhớ cả tiếng tắc kè kêu mỗi đêm khuya khó ngủ và chàng tự nhủ thầm là phải trở về nơi đó.
Bàn giấy này với từng chồng giấy tờ, không phải là nơi của chàng. Trời xanh, có những đám mây trắng trôi lững lờ kia, mới là thế giới của chàng. Về mùa mưa khoảng đất phi trường lạnh lùng khoác áo thầy tu, chiếc ống gió rũ ướt đẫm nước, mới thật là nơi mà chàng sống cho những ngày còn mặc trên người ba thước ka-ki.
Sau khi dặn người bạn làm chung phòng, cố gắng che dấu cho sự vắng mặt của chàng sáng hôm nay, chàng lại phóng xe đi.
Chàng đi tìm Hoạt… Chàng biết được địa chỉ nhà Hoạt vì một sự tình cờ, có một lần đi qua một ngôi nhà nơi khu Bàn Cờ, chàng nghe tiếng gọi tên chàng.. Người ấy là Hoạt, và Hoạt đã mời chàng vào nhà chơi. Nhưng Dương đã thoái thác là mắc bận, và hứa là đã biết nhà rồi thì để hôm khác. Còn nhiều dịp để tới mà… Cũng như hôm nay, Dương tới, nhưng không phải vì nhớ lời hứa…
Một cô con gái ra mở cửa.
– Cho tôi được hỏi anh Hoạt…
Cô con gái dịu dàng :
– Thưa anh, anh tôi không có ở nhà. Vì là năm cuối, cần chỗ tỉnh mịch để học thi, nên anh tôi có xin phép mượn một phòng trên ” bin-đinh ” để học. Anh có cần gặp lắm không, để tôi ghi địa chỉ cho anh.
Dương nói ngay :
– Tôi cần gặp lắm.
Người con gái vào trong nhà lấy mảnh giấy ghi địa chỉ của Hoạt cho Dương. Ra khỏi căn nhà ấy, Dương thấy chứa chan hy vọng. Nó cũng có em gái, chắc hẳn nó phải thương em. Mình sẽ cố thuyết phục nó trở về với Thư Hựơng, làm đám cưới với Thư Hương, để cứu vãn danh dự của cả một gia đình đã bị nó làm cho tan nát.
Với một hy vọng tràn trề như thế. Dương đi tìm Hoạt và không thấy mệt khi phải leo lên mấy chục bậc thang.
Nhưng Dương đã lầm. Tới trước cửa phòng của Hoạt chàng nghe thấy tiếng nhạc thật nhẹ, lẫn với tiếng cười của một người con gái. Khi chàng gõ cửa thì tiếng cười đó im bặt. Một phút sau mới nhìn thấy chiếc đầu của Hoạt thò ra ngoài cửa.
– A, Dương vào đây !…
Dương đi vào, nhìn thấy một người con gái cũng khá đẹp, đang ngồi trên ghế. Chàng cúi đầu chào rất lịch sự. Người con gái trố mắt nhìn chàng. Hoạt giới thiệu.
– Cô Lý, sinh viên Văn Khoa. Anh Dương, bạn anh…
Dương ngọt ngào :
– Cô Lý có thể cho phép tôi nói chuyện với Hoạt một chuyện riêng được không ?
Hoạt hỏi ngay:
– Có chuyện gì vậy ? Lý cũng như người nhà mà.
Nhưng rồi Hoạt nháy mắt :
– Chắc là lại chuyện riêng của đàn ông phải không ? Nếu vậy thì Lý về đi. Chiều nhớ tới chơi, nghe nốt mấy đĩa nhạc nhé.
Cô gái không trả lời bước ra ngoài cửa sau khi đã đưa má cho Hoạt hôn. Dương quay đi, nhưng trong lòng, thấy khó chịu. Hoạt vừa lui vào, vừa nói :
– Anh chưa cần nói, tôi cũng đã biết là chuyện gì rồi. Chắc anh muốn mượn phòng. Nếu vậy thì phải “còm-măng” trước, vì đã có ba tên xí phần trước anh rồi.
Dương cau mặt:
– Không phải chuyện đó…
Hoạt vẫn cười:
– Tôi tưởng anh cần một chỗ yên tĩnh và đẹp như chỗ này, để làm thịt em Phượng. Cô Phượng đẹp đấy chứ !
Nếu không vì mục đích tới đây để dàn xếp, thì lúc này Dương đã đập cho Hoạt một đấm. Nhưng vì nghĩ tới Thư Hương, nên Dương cố nhẫn nhịn:
– Thư Hương vừa tự tử. Anh có biết không ?…
Nét mặt của Hoạt vẫn không thay đổi :
– Chắc là lại nhõng nhẽo với mẹ, đòi cái gì không được rồi dọa gia đình một tí ti. Các cô con gái cưng thường hay biểu diễn cái màn ấy lắm,
Dương lại nói tiếp:
– Thư Hương có thai được ba tháng. Và giọt máu trong bụng Thư Hương là con của anh…
– Lấy cái gì mà tin được ?
Rồi Hoạt cười lớn :
– Tại sao không thể là của anh được nhỉ ?
Dương cố dằn cơn tức xuống. Chàng đã nắm bàn tay lại, nhưng rồi mấy ngón tay duỗi ra. Chàng cố trầm giọng xuống để cho giọng nói bớt được phần nào gay gắt:
– Anh nên nghĩ tới danh dự của một gia đình.. Chỉ vì danh dự của một gia đình người bạn, tôi phải tới đây để năn nỉ với anh, xin anh hãy thương đến một gia đình nho giáo, vì anh mà khổ sở. Anh nên cưới Thư Hương…
Hoạt vẫn đùa dỡn :
– Để nuôi con cho anh…
Lúc này, sự tức giận của Dương mới bùng dậy :
– Tôi yêu cầu anh câm mồm, đừng ăn nói bậy bạ. Anh coi tôi là hạng người nào ?.. Ít ra thì con người tôi còn nhiều chất người hơn anh…
Hoạt cau mặt :
– Lính tàu bay vẫn nổi tiếng hào hoa…
Câu nói chưa hết, Hoạt đã nhận được một cú đấm vào giữa mặt. Dương bồi thêm một cú tay trái thật đẹp. Hoạt choáng váng người, nhưng cùng đánh trả được vài ba phát…
Dương cũng định rằng, nếu có đánh Hoạt, thì chàng cũng sẽ rủ Hoạt đi tới một nơi nào vắng vẻ. Như một quán ngoài xa lộ chẳng hạn.
Nhưng vì không đè nén được sự tức giận, nên câu chuyện đã xảy ra ở đây. Hoạt không thể nào là địch thủ của Dương. Chỉ trong vài phút, Hoạt đã nằm một đống. Chàng chỉ mặt Hoạt nói lớn :
– Đáng lẽ thì tao cũng không đánh mầy cho bẩn tay, nhưng để cho mầy chừa cái tính khốn nạn, thích dụ dỗ con gái nhà lành.
Chàng mở cửa đi ra ngoài mà nhận thấy tay mình run run. Đời sống ở bin-đinh cũng thật lạ. Chuyện xảy ra ở phòng Hoạt, gây thành những tiếng động ầm ỹ đến như thế, mà những cánh cửa căn phòng vẫn đóng kín. Không ai thèm can thiệp vào chuyện của ai. Có lẽ ở đây đã xảy ra nhiều vụ còn ghê gớm hơn thế nữa. Dương còn nhớ, ở nơi bin-đinh này đã xảy ra một cái chết của một giáo sư, mà mãi tới khi thi thể người xấu số bốc mùi rồi, thiên hạ mới biết… Thật không còn một đời sống nào ích kỷ bằng đời sống bin-đinh.
Bàn tay Dương đặt trên thành ghế… Dương nhìn vào bàn tay ấy, co mấy ngón tay lại, rồi duỗi thẳng ra. Mấy ngón tay cử động hơi ngượng ngập. Chàng rất bằng lòng với những cú đấm rất trúng đích mà hồi nãy, chàng mới thân tặng cho Hoạt. Sự căm hờn đã làm tăng sức mạnh cho Dương. Không hiểu rằng, có pha thêm vào đó một chút ghen tức. Lúc mà Phượng kể câu chuyện Hoạt tán tỉnh Phượng, khi Phượng đang đi trên lề đường Lê Lợi, tuy rằng bề ngoài, Dương cố làm ra vẻ thản nhiên, nhưng trong lòng Dương thấy một sự nghẹn tức.
Tình yêu của Phượng và chàng, không thể một cái gì làm hoen ố được. Nếu không xẩy ra chuyên Thư Hương biết đâu Phượng tin rằng Hoạt là bạn của chàng, của Tâm, người yêu của Thư Hương, và sẽ bước lên chiếc xe khốn nạn ấy, để rồi… xảy ra những câu chuyện đáng tiếc. Phượng đã từ chối bước lên xe của Hoạt, nhưng rồi việc tự tử của Thư Hương đã xảy ra, làm cho Dương bừng bừng một cơn phẫn nộ.
Cú đấm đầu tiên đập lên mặt Hoạt, Dương đã mở mắt thật lớn, để nhìn thấy khuôn mặt của Hoạt méo đi. Chiếc nhẫn bằng đồng đen kỷ niệm ngày mãn khóa, đã in hẳn lên mặt Hoạt thành một vết thương rỉ máu. Hoạt đã bàng hoàng, mất hẳn tinh thần sau cái phản ứng mạnh của Dương, để rồi từ phút đó, chỉ có thể trả lại, bằng một bản năng tự vệ yếu ớt.
Tiếng chân của Tâm bước lên thang gác. Đầu ướt sũng nước, đôi mắt đã chớp nhanh, hết còn lờ đờ như lúc mới ngủ đậy. Tâm nhìn quanh :
– Phượng đi đâu rồi ?…
– Cô nàng đi kiếm thực phẩm cho bọn mình.
Tâm cười vui :
– Như thế là tao lại phải không mặc quần áo để đi ăn cơm. Không có gì chán nản cho bằng những buổi trưa, nóng muốn phát điên mà phải đóng bộ vào với mục đích là đớp một bữa cơm, rồi lại trở về, thay bộ quần áo cũ rồi ngủ tiếp…
Câu nói của Tâm, thật đúng với ý nghĩ Dương. Người con,trai, tới một cái tuổi nào đó, thường sinh ra lười biếng một cách lạ lùng. Đã nhiều lần, Dương cũng đã nhịn đói, nằm ngủ luôn, chỉ vì ngại phải ngồi dậy, mặc quần áo để đi tới một quán cơm, ăn một bữa cơm tầm thường hằng ngày. Dương nói với Tâm :
– Có lẽ chúng mình phải lấy vợ để nó lo về chuyện gia đình cho chúng mình. Tao thấy mệt mỏi rồi.
Tâm đặt mình nằm xuống chiếc ghế đài :
– Tao cũng nghĩ đến chuyện đó. Mày thì có vẻ nhẹ nhàng hơn tao. Một mình thênh thang thoải mái, còn tao cả một đại gia đình đè chĩu nặng lên vai. Muốn lấy vợ, nhưng cô vợ của tao lại phải làm vừa lòng cả ông bố, bà mẹ, cô em gái, không thì gia đình sẽ tối tăm như địa ngục.
Dương an ủi:
– Mày hay bi quan với cuộc đời. Theo tao, thì ông cụ, bà cụ nhà mầy cũng dễ dãi. Cả nhà ai cũng thương mầy, nhất là Thư Hương…
Tâm thở dài :
– Tội nghiệp con bé…
Tiếng thở dài của Tâm làm cho Dương rùng mình. Chỉ mới từ ngày hôm qua, bao nhiêu chuyện dồn dập đến, để rồi không khí bao quanh chàng lúc nào cũng như văng vẳng tiếng khóc.
Tiếng la hét của Xuyến, với chiếc khăn trải giường đẫm máu. Cuộc tình duyên dang dở và bi thảm của Thư Hương, đã làm cho Dương như kiệt sức. Bước chân của Phượng, gõ nhẹ trên cầu thang. Phượng đã về…
Thấy hai người đàn ông ngồi im lặng, thở khói thuốc dày đặc căn phòng, Phượng hiểu rằng họ đang nói chuyện gì rồi. Nàng đã đoán lầm, nhưng việc đó cũng chẳng quan hệ gì. Vừa bày thức ăn lên bàn, Phượng vừa nói với Tâm :
– Anh Tâm cứ yên trí… Thư Hương không sao đâu. Buổi sáng nay, Hương đã vui vẻ và khỏe nhiều rồi.
Tâm bùi ngùi:
– Tôi chỉ mong cho nó vui và bỏ đươc ý định tư tử. Thôi thì nhờ Phượng khuyên giải nó. Không hiểu sao nó làm như vậy… Biết đâu rằng đó là sự hiểu lầm giữa nó với Hoạt, rồi vài ba ngày sau hai đứa lại làm lành với nhau.
Phượng nhìn Dương cười rồi ngắt lời Tâm:
– Không thể nào có chuyện làm lành được nữa đâu, anh Tâm ạ !…
– Tại sao vậy ?
– Anh Dương mới đập cho Hoạt một trận gần chết…
Nghe Phượng nói tới đó, Tâm vùng ngay dậy. Chàng nhìn Dương kinh ngạc :
– Mày làm vậy sao Dương ? À, phải rồi ! Mặt mày còn vết tím bầm kia mà tao không để ý. Mày đánh nó, có ích lợi gì ?… Nếu nó khốn nạn, hèn mạt mầy đánh nó thì thật bẩn tay… Còn nếu nó…
Tâm không nói được hết câu. Chàng chợt thấy hối hận khi trách móc bạn. Chuyện nầy có liên hệ gì tới Dương đâu. Chỉ vì bạn chàng thương chàng, thương gia đình chàng, thương danh dự của cả một gia đình khoa bảng đã bị vùi dập phũ phàng bởi bàn tay của một thằng đàn ông tồi tệ, đã xả thân rửa cái nhục ấy cho chàng. Vậy thì phải nên cám ơn Dương, chứ sao còn trách móc ? Chàng lại nằm xuống chiếc ghế. Tiếng của Dương nói thật xa xôi:
– Tao cũng chỉ muốn đóng vai một sứ giả hòa bình. Tao đến nhà nó với mục đích năn nỉ nó trở lại với Thư Hương, để cho bao nhiêu người thoát dược tủi nhục vì nó. Nhưng tao đã không thành công…
Rồi Dương kể lại câu chuyện sáng nay… Từ lúc bước vào nhà Hoạt với tiếng nhạc êm, với bóng dáng của một người con gái hiện diện trong phòng Hoạt.
Chàng đã tả lại rất cặn kẽ những câu nói, những phản ứng của chàng. Chàng tin rằng chàng đã hành động đúng. Dương nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn thật lâu vào cái nắng chói chang của mùa hạ. Trên đám cây rậm của căn biệt thự trước mặt, thấy thiếu hẳn những cánh chim.
Phượng ngồi thu mình trên chiếc ghế nhỏ. Nàng nghe Dương kể chuyện mà thấy lòng xót xa. Nàng thương cho người con gái không quen biết, đã lạc vào phòng Hoạt, để rồi đây phải chịu một số phận như Thư Hương… Mà biết đâu, trước Thư Hương, còn nhiều người con gái khác, ham mê cái vỏ ngoài của một sinh viên y khoa, để rồi phải ân hận vì lỡ làng cả một cuộc đời. Phượng buồn thật buồn. Cuộc đời một người con gái, sao cứ gặp phải những cảnh phũ phàng cay đắng. Dương đã nói hết chuyện. Để kết luận cho câu chuyện, Dương nói với Tâm:
– Nếu mầy không bằng lòng tao làm như vậy, thì tao xin lỗi mầy.
Tâm lắc đầu:
– Mầy không có lỗi gì cả. Nếu phải tao, với những lời đối đáp như thế, thì chắc là tao giết nó.
Cả ba người yên lặng, chẳng ai nghĩ đến chuyện ăn uống. Phượng đã bỏ xuống dưới nhà, đi mượn mấy đôi đũa của bà chủ nhà. Lúc đi lên, nhìn thấy hai khuôn mặt trầm tư, nàng muốn cười đùa để cho không khí loãng bớt đi chất đặc sệt của câu chuyện buồn. Bởi vậy nàng đã khua động ầm lên, rồi la lớn:
– Hai ông định để cho các thứ tôi mua về ế hay sao đây ? Hai người nên nhớ rằng, buổi trưa Saigon, nắng như thế này, có một người con gái, chạy xe “xô-lếch”, đi cả hàng chục cây số, mua những thứ này về phụng dưỡng hai ngài, thì kính thưa hai ngài, hai ngài là vua rồi đấy nhé…
Nói xong, Phượng mở hai hộp bia. Vì trời nóng và cũng vì không quen, Phượng để cho bia trong hộp trào ra và chảy xuống nền nhà. Thấy vậy, Dương cười.
– Cần phải tập lâu mới có thể…
Dương định nói là, có thể làm chiêu đãi viên, nhung sợ câu nói đó, xúc phạm đến Phượng, nên lại thôi. Chàng đưa tay cho Phượng kéo lên để ngồi dậy. Chàng và Tâm, Phượng ngồi vào bàn…
Dù cho Phượng nói đùa nói rỡn, không khí bao quanh ba người vẫn nặng nề… Buổi trưa ở những con đường hẻm cạnh đường tàu thường vắng lặng một cách lạ. Từ con đường lớn, lúc đi vào hẻm nhỏ, người ta có cảm tưởng như từ một khối nhộn nhịp ngựa xe, bị đày vào nơi trống vắng.
Ngồi trên căn gác của Dương mà nghe thấy cả tiếng bước chân đi trên con đường đầy gạch đá ngổn ngang, tiếng người lao xao nói chuyện. Những buổi chiều, tiếng cầu kinh của từng nhà trầm xuống, buồn thật là buồn… Rồi từng khoảng về khuya, khi con đường lớn vắng xe, thì ngõ hẻm nằm im lìm, bất động. Lâu lâu, con tàu chạy qua như mạch máu đập lên một lần để chứng tỏ rằng cũng có một sự hoạt động.
Ba người ngồi ăn lặng lẽ. Người khó chịu nhất là Phượng. Thói quen của Phượng là phải nói chuyện nhiều trong lúc ăn. Bữa ăn tại nhà Phựợng thì thôi đủ mọi thứ chuyện.
Mấy chị em như thi tài ăn nói. Không có chuyện gì là không nói trong bữa ăn. Loan và Vinh nói chuyện ở nhà trường. Còn Yến và Phượng thì nói chuyện ở xóm. Những xóm nhỏ thì thường có lắm chuyện. Từ những vụ ghen nhau, đánh xé nhau rách cả quần áo để hở hang tô hô cả ra ngoài, cho tới những vụ vợ nhỏ, vợ lớn, chuyện hàng thịt, hàng cá ngoài chợ. Hôm nào có mẹ ở nhà, thì mấy cô con gái còn tốp bớt được cái mồm lại.
Mẹ thường mắng những đứa lắm mồm, lắm miệng trong bữa ăn. Những hôm như vậy, bữa ăn sao mà buồn tẻ. Cũng như bữa ăn hôm nay, chỉ có ba người, Dương, Tâm và Phượng.
Phượng phải lên tiếng hỏi trước :
– Các anh đang nghĩ về Thư Hương ?…
Tâm gật đầu :
– Muốn quên đi mà khó thể quên…
– Thế anh Tâm đã nghĩ cách nào để giải quyết chuyện Thư Hương hay chưa ?… Phượng đã đưa ý kiến, khuyên Thư Hương đi Đà lạt một thời gian nhưng Thư Hương không chịu. Hay anh Tâm khuyên Thư Hương vậy.
Tâm thở dài :
– Khi mà nó đã không muốn, thì trời cũng không khuyên nổi nó, nữa là anh nó. Phượng cũng đã biết rồi đấy. Chắc mẹ tôi cũng đã khuyên nó rồi chứ gì?…
– Đúng vậy !…
Phượng lại phải im lặng để nhìn ra ngoài cửa sổ. Những lúc nào cần suy nghĩ, Phượng thường hay có cái nhìn mông lung như vậy. Phượng ngồi chờ một tia sáng lóe lên trong đầu, để rồi từ đó, nẩy ra một ý kiến thần sầu.
Dương thường gọi những phút thẫn thờ của Phượng là những phút nhập đồng. Nếu thêm một chút khói trầm hương, thêm một tí không khí âm u, thì nhìn mặt Phượng lúc đó thật thánh thiện, siêu thoát. Dương mỉm cười nhìn Tâm :
– Sắp sửa có chuyện rồi.
– Tại sao vậy ?
– Mầy không nhìn thấy bà quân sư đang làm việc đó hay sao. Tao chắc rằng lần này sẽ có một mưu kế vạn toàn.
Tâm mở tiếp một hộp bia nữa… Tối ngày hôm qua say đến như thế, mà hôm nay, Tâm vẫn tiếp tục uống được. Dương nhìn Tâm, lắc đầu. Những người trẻ tuổi của thế hệ này, người nào cũng có một tâm sự riêng tư, phải đốt cháy đi bằng rượu, bằng đủ mọi thứ để lãng quên. Có bốn bức tường dành cho một gã con trai để lao đầu vào. Trong bốn bức tường tửu, sắc, yên, đổ ấy, chỉ có uống rượu là bức tường êm ái, nhẹ nhàng và đỡ tai hại nhất. Dương và Tâm đã lựa chọn bức tường nầy…
Người con trai, nếu không có được đam mê thì cuộc đời kể như hạ màn mất rồi.
Phượng reo lên :
– Phượng nghĩ ra được rồi…
Tâm và Dương giật mình :
– Thử nói nghe coi. Đừng để cái sáng kiến cảa mình thành ra tối kiến, thì các anh sẽ gọi Phượng là Phượng hắc ám.
Phượng quả quyết :
– Sức mấy ! Đồng bào hãy nghe đây !
Tuy rằng Phượng mở đầu câu chuyện bằng một sự “phi lộ” hung hăng như thế, nhưng Phượng không vào đề ngay. Tính của Phượng vốn ưa thích chọc tức thiên hạ. Thấy Tâm và Dương có vẻ nôn nóng ngồi nghe cái sáng kiến mới toanh của Phượng, thì Phượng lại làm ra thong thả. ” Đi đâu mà vội mà vàng, mà vấp phải đá mà quàng phải giây”. Cứ từ từ, rồi thì Phượng sẽ nói cho mà nghe. Bây giờ, Phượng phải thu xếp lại cái bàn ăn cho gọn gàng.
Vừa nói, Phượng vừa nhảy những bước chim sẻ, từ bàn ăn ra ngoài hành lang, rồi từ hành lang vào nhà. Phượng cẩn thận, xếp dọn từng hộp bia, từng lon coca, gói rất kỹ chiếc đùi gà còn lại. Dương nhìn Tâm cười :
– Chưa bao giờ thấy Phượng đảm đang như thế…
Phượng nhún vai:
– Đảm đang là nghề của đàn bà, con gái. Đi vào trong một cái nhà, nếu thấy bề bộn không ngăn nắp, trật tự, không ai cười người đàn ông, mà người ta chỉ cười người đàn bà.
– Cười thì hở mười cái răng ra.,.
Tâm thì vẫn trầm ngâm như không thèm để ý tới hành động của Phượng. Có lẽ cũng vì tự ái. Việc nhà của Tâm, việc của Thư Hương, em gái Tâm, mà phải nhờ tới người ngoài giải quvết, đó là một điều đau khổ cho Tâm… Nhưng rồi Tâm bỗng cảm thấy ngượng ngùng, hối hận. Dương và Phượng, đâu phải là người ngoài. Đã từ lâu, hai người cũng như là người của gia đình Tâm rồi. Tuy rằng nghĩ vậy, nhưng Tâm vẫn giữ một bộ mặt lạnh lùng. Không những vậy, Tâm còn thì thầm vào tai Dương:
– Cứ “phe lờ” đi như không thèm để ý… Lát nữa cô nàng sẽ gợi chuyện, bắt chúng mình phải nghe. Tỏ ra sốt sắng là cô nàng sẽ còn biểu diễn nhiều màn khác nữa.
Dương tĩnh ngộ liền…Bởi vậy chàng và Tâm không thèm để ý tới Phượng, mặc cho Phượng lau chùi cái tủ sách, quét lại cái nhà. Quả nhiên cô nàng mắc bẫy ngay. Thấy mình sắp đưa ra một sáng kiến để giải quyết một vấn đề tối thui, ấy vậy mà hai anh chàng kia sao vẫn chẳng thèm để ý.
Những phát chổi quét nhà của Phượng đã có vẻ hơi mạnh tay. Quét tới chỗ Dương và Tâm ngồi, Phựợng nói giọng gắt gỏng :
– Co mấy cái cẳng lên…
Dương và Tâm thản nhiên đưa hai chân lèn ghế, vẫn tiếp tục câu chuyện. Thoáng nghe, Phượng càng thêm tức mình. Câu chuyện của Tâm và Dương thật nhạt nhẽo vô duyên. Toàn những chuyện về bay bổng, về trời đất, về những nhân vật không quen. Tức quá, Phượng ném mạnh cây chổi xuống đất:
– Phượng đi về đây!
Dựơng như bừng tỉnh :
– Ô hay, Phượng quét mới được một nửa cái nhà mà đã về… Vào tới cái nhà mà thấy mới quét được có một nửa, người ta đâu có cười anh, mà người ta cười Phượng…
– Phượng đâu phải đầy tớ của anh, mà phải hầu hạ quét nhà cho anh…
Nhìn thấy Phượng nước mắt rưng rưng, đứng sững sờ ở giữa nhà, Dương và Tâm cười phá lên. Tiếng cười như muốn làm vỡ tung căn phòng. Phượng chợt hiểu là Phượng đã mắc bẫy. Phượng đã tưởng tượng rằng, mình càng làm ra vẻ thi gan thì hai tên đàn ông càng nôn nóng mong cho Phượng nói ngay.
Ai ngờ, Phượng lại bị thua. Dương đứng dậy, dắt tay Phượng đến bàn, kéo một cái ghế, lấy vạt áo lau chùi sạch sẽ :
– Phượng ngồi xuống đây, rồi nói đi. Ai cũng muốn nghe Phượng nói… Đồng bào cả nước đều lắng tai nghe..
Phượng ngồi im lặng. Nhưng lúc này, cái im lặng của Phượng không còn là cái im lặng giận dỗi. Nhìn mặt Phượng, Dương biết là như vậy. Phượng đang xếp đặt ý tưởng trong đầu, để câu chuyện nói ra, có đầu, có đuôi, có xuôi, có ngược hẳn hoi.
Cái sáng kiến của Phượng là một sáng kiến táo bạo. Tình cảnh của Thư Hương đã bi đát quá rồi. Nếu cứ để mặc cho tạo hóa an bài, mặc cho trời định đoạt, thì không tránh được sự đổ vỡ tan nát. Mới đầu, Phượng đã định “đơn thân độc mã” tới thuyết phục Hoạt. Nhưng việc đó, Dương đã làm rồi mà không có kết quả. Phượng càng nghĩ, càng thấy may mắn cho mình. Nếu mình mà lên phòng Hoạt, biết đâu Hoạt chẳng làm hỗn và biết đâu, cô gái ở trong phòng Hoạt không biểu diễn một màn ghen tuông. Thôi bây giờ thì nên vào đề :
– Phượng sẽ nói ra cái ý kiến của Phượng. Chúng ta nên bàn cãi với một tinh thần đứng đắn. Đây là một câu chuyện quan trọng…
Dương ngắt lời :
– Chứ không phải chuyện đùa…
Phượng sầm mặt xuống:
– Nếu anh Dương còn giữ cái “tác phong” ấy, thì Phượng thề rằng sẽ không nói thêm một lời nào nữa… Anh Dương nên bắt chước anh Tâm, hãy nắn lại bộ mặt. Không được cười, vì chẳng có gì đáng cười. Không hiểu sao Phượng thấy cái cười của anh lúc này vô duyên lắm.
Chưa bao giờ Phượng lại tàn nhẫn với Dương đến như thế. Nhìn vào mặt Phượng thấy khuôn mặt ấy toát ra nhiều vẻ thánh thiện, Dương đành sửa lại thế ngồi, hai tay để lên bàn, nghiêm trang nói với Phượng :
– Bây giờ, Phượng có thể nói đi.
– Phượng rất ngần ngại khi phải nói ra cái ý kiến này.
Tới lúc này, Tâm mới lên tiếng :
– Phượng rào trước đón sau nhiều quá.. Phượng cứ nói thẳng ra, đừng sợ làm mất lòng ai. Những điều mà Phượng lo nghĩ, là chỉ vì Thư Hương, mà Thư Hương lại là em gái của tôi. Vậy thì, trước hết thay mặt gia đình, tôi xin có lời cám ơn Phượng…
Phượng thở một hơi thật dài, dài đến tưởng như không bao giờ chấm dứt :
– Vâng, thì Phượng xin nói!
Phượng xoay cái ly để cho những vòng tròn sũng nước, in đè lên nhau trên mặt bàn. Phượng ngừng mặt lên, nhìn thẳng lên hai người một cách đột ngột:
– Theo ý Phượng, thì anh Dương phải lấy Thư Hương.
Dương đứng phắt dậy như bị điện giật:
– Sao, Phượng nói sao ? Anh lấy Thư Hương ? Phượng không đùa đấy chứ ?
Phượng vẫn bình thản :
– Không, không bao giờ em đùa với câu chuyện quan trọng như thế. Mà Phượng đã nói hết đâu… Phượng nói anh Dương phải lấy Thư Hương. Chỉ có như vậy, mới có thể cứu vãn nổi danh dự gia đình anh Tâm. Phải làm đám cưới ngay trong tháng này. Đứa con mà Thư Hương đẻ ra, phải có tờ khai sinh, trong tờ khai sinh phải có đủ tên cha, tên mẹ. Nó đâu có tội tình gì mà khi mở mắt chào đời, đã phải mang một vết chàm ám ảnh cả một cuộc đời… Thân phận một đứa con hoang thật đáng đau lòng. Cái bi thảm nó ám ảnh mãi từ học đường, từ cuộc sống, chỉ vì trên giấy khai sinh, thiếu tên một người cha.
Nói tới đây, Phượng không còn giữ được vẻ bình thản nữa. Phượng đã nghẹn ngào, mắt Phượng đã đỏ lên rồi. Dương đưa điếu thuốc lên ngang mặt, nhìn vào đốm lửa và làn khói uốn éo tản mát lên không trung. Một lát sau, mới có tiếng Tâm hỏi :
– Nhưng rồi Phượng thì sao ?
– Phượng vẫn là. . Phượng, cô Phượng áo đỏ, vẫn không gì thay đổi. Mỗi buổi sáng chủ nhật, vẫn đi nhà thờ cầu nguyện, vẫn đi qua trước cửa nhà nầy, có nghĩa là… vẫn như thường…
Tâm lắc đầu :
– Không thể nhận được lối giải quyết nầy… Nhất là tôi đã hiểu tình của Phượng đối với Dương, tình của Dương đối với Phượng như thế nào rồi… Vẫn biết là Phượng rất thương Thư Hương, rất thương gia đình tôi, nhưng tôi không chịu được một cái ơn nặng như vậy… Kẻ thiệt thòi nhất trong lối giải quyết này là… Phượng. Còn với Dương, thì tôi không nói tới, vì Dương với tôi chuyện ơn nghĩa không còn là một chuyện đáng nói.
Phượng trầm ngâm :
– Phượng biết rằng anh Tâm thương Phượng như là thương Thư Hương. Nhưng điều trước mắt, cần phải giải quyết là vấn đề Thư Huơng. Phải làm cho chuyện nầy êm xuôi trước đã. Rồi ta lại tính sau…
Trong lúc Tâm, và Dương còn ngẩn ngơ, thì Phượng nói tiếp :
– Dễ lắm !.. Anh Dương cưới Thư Hương, đó chỉ là một chuyện xảy ra ở bề ngoài. Chỉ là vợ chồng bề ngoài, còn bề trong thì vẫn là anh em. Không thể làm những việc loạn luân. Điều cần thiết là để cho Thư Hương sinh nở được mẹ tròn con vuông. Rồi sau đó Thư Hương sẽ làm đơn xin ly dị. Bao nhiêu tội lỗi, cứ việc đổ hết lên đầu anh Dương. Anh Dương phải nhận hết để cho Thư Hương dễ làm lại cuộc đời. Lúc đó thì không còn gì ràng buộc anh Dương và Thư Hương nữa. Chúng mình đã chờ nhau tới sáu, bảy năm nay, thêm một năm nữa, thì cũng chẳng sao…
Đáng lẽ thì Phượng nói “cũng chẳng chết một thằng tây đen nào”, nhưng vì hồi nãy, Phượng cấm Dương không được nói đùa, nên Phượng phải nói vậy. Phượng mỉm cười, nụ cười thật thảm. Dương đốt thêm một điếu thuốc lá. Chàng không thể nói một câu nào, vì bị lâm vào thế kẹt. Lối giải quyết của Phượng thật táo bạo, nhốt chặt chàng vào thế bí, không thể vùng vẫy, dù rằng màn kịch này, chàng là vai chính.
Phượng đứng dậy:
– Thôi, Phượng đi về, để các anh bàn tính với nhau. Mưu kế của Phượng, chỉ có được đến như thế…
Không ai lên tiếng giữ Phượng lại. Không một lời chào, không ai tiễn chân, nhưng Phượng thấy mình thật nhẹ nhàng, thanh thản. Phượng vuốt lại mái tóc, bước xuống từng bực thang lầu. Tiếng giày của Phượng rõ rệt, từng tiếng một trên bực thang lót gạch bông. Phượng dừng lại một giây ở trước cửa, đeo lên mắt chiếc kính lớn, rồi bước ra ngoài nắng…
Một chuyến tàu dài xình xịch chạy qua. Trời đã xế trưa..
CHƯƠNG VIII
Tấm thiệp cưới màu hồng in thật đẹp. Những hàng chữ bay bướm in nổi lên mảnh giấy dày nhẵn bóng. Những người bạn thân sống ở Phi Đoàn, bà con thân thuộc, đã nhận được cái tấm thiệp cưới ấy của Dương và Thư Hương…
Những bạn bè sống chung ở Phi Đoàn thì không lấy làm lạ. Thằng Dương mà lấy em gái thằng Tâm, thì chuyện đó, đúng quá còn gì.
Tình bạn của Tâm và Dương, thiên hạ đã biết hết rồi. Chẳng thế mà hai thằng được gắn là đôi vợ chồng. Bây giờ, thằng này lấy em gái thằng kia, chuyện đó thường tình. Khi tấm thiệp cưới tới tay từng người, thì ai cũng chỉ lơ đãng nhìn ngày cưới, nhìn nơi đãi tiệc, rồi gấp lại, thốt ra một câu :
– À, thì ra thằng Dương lấy vợ..
Nhưng có một người, lại tỏ vẻ ngạc nhiên… Người đó là Hằng… Một buổi trưa, nắng thật chói, làm nứt vỏ trái cao su, rớt xuống mái tôn lộp độp. Hậu vừa đi làm về, chưa thay quần áo, đã quẳng lên bàn tấm thiệp cưới :
– Đám cưới thằng Dương.
Hằng cầm lấy tấm thiệp cưới reo lên :
– Lại sắp sửa vui rồi.
Hậu mặc cho Hằng ngồi đó, ra đằng sau, múc đầy một chậu thau nước lạnh, nhúng cả cái mặt mình vào trong đó. Hâu mệt mỏi sau một buổi sáng làm việc, lại càng mệt mỏi hơn, khi được tin một thằng bạn cưới vợ. Cuộc sống kiếm ăn hàng ngày làm cho nhiều lúc Hậu thấy ân hận rằng, mình đã lập gia đình. Nhiều lúc, Hậu có một ý nghĩ lẩn thẩn rằng, nếu bây giờ không có vợ, có con, thì chắc rằng cuộc đời mình thật thoải mái.
Nhìn thấy Hằng lam lũ, vừa bồng con, vừa đi chợ, Hậu đã nổi dậy trong lòng nhiều xót xa, chán nản. Chàng đã làm khổ cho một người con gái mà đáng lẽ cuộc đời sẽ sung sướng, nếu đừng kết hôn với chàng, một anh quản tàu bay.
Tiếng chân chạy vội vàng xuống nhà dưới, rồi tiếng Hằng la lên :
– Tại sao lại thế này?
Hậu ngửng đầu lên, mắt nhắm nghiền, mặt còn ướt sũng nước, hỏi lại một cách hốt hoảng:
– Cái gì vậy ?…
– Tại sao lại có thiệp cưới này ?
Hậu chán nản :
– Thì thằng Dương nó mời tụi mình đi ăn cưới ghĩa là lại sắp sửa tốn tiền. Nghĩa là lại phải đồng lõa vào một vụ đánh đấm, chém giết nhau trong đêm tối.
Nói xong, Hậu lại tiếp tục rửa mặt… Nước thật lạnh và mát. Chàng kéo chiếc khăn mặt xuống, lau mặt ướt, mở mắt nhìn Hằng. Ô hay, sao khuôn mặt Hằng lại có vẻ tức bực, cái mặt mà Hậu gọi là mặt táo bón. Thấy vậy, Hậu an ủi :
– Thôi, cũng đừng buồn… cả đời chúng nó mới có một lần. Chịu khó vay tiền, mừng cho chúng nó khá vào một chút. Đừng có tiếc…
Hằng mắng át đi:
– Đâu có phải chuyện đó. Em chỉ bực mình, không hiểu sao tên cô dâu lại là Thư Hương.
– Ừ, cô Thư Hương là em gái thằng Tâm. Cái đó thì có chi lạ. Chơi với bạn thì lấy em gái bạn cũng được chứ.
Nhìn cái mặt của Hậu, rất thản nhiên, Hằng lại càng tức bực. Nàng muốn làm một cái gì cho hả cơn giận.
Tội nghiệp cho con chó, không biết rằng chủ đang nổi cơn, tỏ vẻ âu yếm, cứ cọ sát vào chân Hằng. Tiện tay cầm đũa bếp, nàng đập lên đầu con chó một phát thật lực. Con chó kêu “oẳng” một phát, oằn lưng, cong đuôi chạy vội ra cửa bếp. Nàng đặt đĩa thức ăn lên mâm và bới cơm ra một tô lớn. Bàn tay nàng run run, đã làm vỡ mất một chiếc chén. Thì ra, nàng vẫn chưa vơi được cơn hờn giận.
Bưng mâm cơm lên nhà, nàng thấy Hậu đang ôm con, lơ đãng đọc tờ báo cũ. Nàng đặt mâm cơm xuống bàn hơi mạnh tay làm Hậu giật mình :
– Hôm nay, em làm sao vậy ?
Hằng đặt phịch người xuống ghế:
– Em đang tức mình vì cái thiệp cưới.
– Thì thằng Dương lấy vợ…
Hằng gắt nhặng lên :
– Nhưng mà tại sao lại lấy Thư Hương ?
– Cái đó thì em phải hỏi thằng Dương.
Hằng lặng êm, ngồi xới cơm ra chén. Hậu bỏ tờ báo xuống, cầm lấy chén cơm. Bữa ăn bắt đầu lặng lẽ. Hồi lâu, Hằng mới lên liếng :
– Tại sao Phượng lại không lấy Dương nhỉ?
– Cái đó thì em lại phải hỏi Phượng.
Hằng đặt mạnh đôi đũa xuống mâm cơm :
– Nói chuyện với anh thật tức. Hỏi anh, thì thà hỏi đầu gối còn hơn. Chán thấy mẹ.
Hậu cười dễ dãi :
– Tại vì em hỏi những câu mà anh không thể nào trả lời được. Tại sao Dương lấy Thư Hương?… Tại sao Phượng lại không lấy Dương ?… Những câu hỏi ấy thì đến bố anh có sống lại, cũng không thể nào trả lời được nữa là anh…
Hằng quả quyết :
– Mai em sẽ về Saigon, hỏi Phượng cho ra lẽ, chứ không như thế này thì tức lắm…
Sự tức bực của Hằng thật chính đáng. Chỉ có sự chất vấn Hậu là vô lý mà thôi. Hằng đã mất công rất nhiều trong việc làm lành cho Phượng và Dương mà Hằng gọi là công tác tái hồi Kim Trọng. Nàng cứ nghĩ rằng, chỉ ít lâu nữa, Dương và Phượng sẽ làm đám cưới, rồi dọn nhà lên xứ Bưởi này, sống ở đây, để nàng có thêm bạn, có thể chạy lên, chạy xuống, tới chơi, kể lể tâm sự. Không ngờ, Dương lại lấy Thư Hương. Nàng cũng có gặp Thư Hương vài ba lần, cũng mến cô em gái của Tâm, nhưng làm sao mà so được với tình thân giữa nàng và Phượng.
Nhất định ngày mai Hằng sẽ về Saigon gặp Phượng.
Nàng cầm đôi đũa lên, tay lại dở cái thiệp cưới ra đọc lại. Nàng nói một mình :
– Còn năm ngày nữa là đám cưới rồi.
Hậu cũng góp chuyện :
– Thời đại phản lực có khác. Chúng nó như vượt tường âm thanh. Từ đám hỏi đến đám cưới thời gian cách nhau có một tuần lễ.
Hằng vẫn nhìn những giòng chữ in trên thiệp cưới không trả lời. Bữa ăn trưa, trôi đi thật chậm. Hậu đã ăn xong, nằm lên giường ngay cạnh bàn ăn, ôm con ngủ thật ngon lành. Hằng vẫn ngồi trước mâm cơm.
Nàng không hiểu chuyện gì xảy ra giữa Phượng và Dương. Hai đứa thật là con nít. Lần trước đã giận nhau, xa nhau đến cả năm sáu năm ười, rồi tới bây giờ, như thế này là kể như dứt hẳn.
Nhìn Hậu ôm con ngủ một cách ngon lành trên giường, Hằng muốn đánh thức Hậu dậy bắt Hậu phải trả lời câu hỏi lẩm cẩm của nàng, nhưng nghĩ tới buổi chiều nay, Hậu phải đi làm, nàng lại thôi. Thu dọn chén bát trên mâm, nàng mang ra đằng sau nhà, ngâm vào một chậu nước, rồi cảm thấy lười biếng, không muốn nhúng tay xuống chậu nước đầy chất mỡ. Lên nhà trên nàng lại ngồi xuống ghế, nghĩ ngợi liên miên cho tới lúc hai giờ.
Ở trong Trại Gia Binh từ lâu, nàng đã quen tiếng kèn của lính. Tiếng kèn buổi trưa này, mới đầu làm cho nàng khó chịu, nhưng rồi sau cũng quen đi. Nhiều buổi trưa nàng đã ngủ quên không biết tiếng kèn thổi vào lúc nào. Hậu đã quen giấc như một chiếc đồng hồ. Đúng giờ đó là thức đậy. Nếu thấy Hằng còn ngủ, chàng rón rén mặc quần áo, lặng lẽ đi giầy, đi ra mở cửa và khép cửa thật nhẹ.
Nhưng buổi trưa hôm nay, vừa mở mắt ra, chàng vẫn còn thấy Hằng ngồi ở bàn ăn, tay chống vào cằm với dáng suy tư của một triết nhân. Hậu hỏi :
– Buổi trưa hôm nay, em không ngủ ?…
Hằng không trả lời Hậu, mà lại nói sang câu chuyện khác :
– Ngày mai em về Saigon.
– Em đã nói một lần rồi. Ngày mai, anh lại ăn cơm ở Câu Lạc Bộ. Em đừng lo rằng không có em, anh sẽ đói. Ăn cơm ở Câu Lạc Bộ, ít có thằng nào để cho anh phải trả tiền lắm.
Lúc ấy, Hằng lại thấy thương Hậu. Lúc nào, anh chàng cũng thắc mắc về chuyện tiền. Đã hơn ba năm nay, chưa lúc nào có được chút tiền để dành. Riêng vụ trả tiền làm đám cưới, thời gian cũng đã kéo dài vừa đúng hai năm. Hết được vụ nợ đó, là lại phải vay tiền để trả cho nhà hộ sinh, khi đẻ đứa con đầu lòng. Rồi từ dó, là công nợ liên miên.
Hằng tính sơ qua, cũng biết rằng, những món nợ phải trang trải, cũng kéo dài ít ra sáu tháng nữa, với điều kiện là trong sáu tháng, cả nhà không có đau ốm và không có chuyện gì bất ngờ phải cần đến tiền.
Hậu đã mặc xong quần áo đi xuống nhà rửa mặt. Chàng ngừng lại bên cạnh Hằng :
– Em định về Sàigòn gặp Phượng ?…
– Đúng vậy, em phải hỏi cho ra lẽ…
Hậu cười buồn:
– Tại sao em cứ thích lo đến chuyện của người khác ?… Theo như anh nghĩ, thì em nên phó mặc chuyện thiên hạ. Không phải rằng mình ích kỷ, nhưng dù cho em có lo lắng, câu chuyện cũng vẫn thế. Người nào có cuộc đời của người ấy. Anh không hiểu chuyện gì đã xảy ra cho Phượng và Dương, nhưng cũng đoán biết là hiện nay, Phượng đang buồn lắm. Em có về gặp Phượng để an ủi thì anh đồng ý, còn đâm sầm vào đờì tư của người ta thì không nên…
Mấy lúc này, Hậu ít nói, mà không hiểu sao hôm nay, Hậu lại diễn thuyết một bài dài đến thế. Hằng như chợt tỉnh ra khỏi cơn mê. Lời Hậu nói rất đúng lý. Dù cho có biết được chuyện Phượng và Dương, thì Hằng còn giúp ích được gì nữa dâu ? Thiệp cưới đã in ra rồi, đã phân phát tới tận tay mọi người, đâu còn làm gì được nữa. Hằng đứng dậy:
– Trưa nay anh có uống cà-phê không
Giọng Hằng thật dịu dàng, thật ngoan.. Hậu ngồi xuống ghế :
– Anh cũng định hỏi xin em một ly cà-phê, uống cho tỉnh ngủ, nhưng thấy em ngồi trầm tư, nên lại thôi…
– Anh nói tiếng “xin” với em hơi nặng đấy nhé !..
– Vậy thì pha cho anh ly cà-phê…
Hậu nhìn theo Hằng đi tới chiếc tủ “com-mốt” sửa soạn chiếc “phin”. Có lẽ lấy vợ, chỉ sung sướng ở những lúc được hầu hạ như thế này, còn thì chỉ là một quãng thời gian dài khồ sở. Nhìn đứa con nằm ngủ trên giường, Hậu lại thở dài.
Khuôn mặt trẻ thơ, lúc ngủ say trông thật dễ thương. Đôi mắt có cặp lông mi dài, sụp xuống như đôi cánh bướm đậu im trên cành hoa. Hậu cứ ngồi jm lặng. Buổi chiều phải đi làm việc thì nản nhất. Cái nắng của phi trường, chiếu xuống mái tôn, như thấm vào làn da, thớ thịt, tạo thành một sự ngây ngất khó thở. Nhưng lại được một điều an ủi là buổi chiều, sự kiểm soát giờ làm việc cũng không khắt khe gì cho lắm. Có thể đi muộn chừng nửa giờ, một giờ.
Hằng đặt ly cà-phê xuống trước mặt Hậu. Từng giọt nước mắt đen, nhỏ xuống như những giọt sầu.
– Hôm nay em pha cà-phê ngon hơn mọi hôm…
– Đấy là cà-phê của anh Luận, mua từ Bảo Lộc về cho.
Hậu cho vào ly cà-phê hai muỗng đtrờng :
– Mai em đi Saigon, thấy cái gì thì mua về, tặng lại cho vợ chồng nó, coi như trả nợ. Vợ chồng nó cũng nghèo.
Trong trại gia binh này, chỉ có vợ chồng Hậu và vợ chồng Luận được coi như thân thiết nhất. Luận học sau Hậu một khóa. Những lúc uống rượu say, hai thằng thường kể cho nhau nghe những kỷ niệm ở bên Tây, cả những kỷ niệm xấu và và kỷ niệm tốt. Hai người vợ ngồi nghe và cùng vui với chồng. Những ngày của kỷ niệm thật xa vời. Chỉ còn lại bây giờ là hai thằng người đó, sống trong một xã hội đây rẫy đóị khổ bất công. Tất cả là vì chiến tranh…
Hậu uống cạn hết ly cà-phê rồi đứng dậy, cầm lấy cái mũ “dô-kề”, bước ra khỏi cửa. Hằng pha thêm nước sôi vào chiếc phin cà-phê thứ hai còn lại của chồng. Nàng nghĩ tới ngày mai.
Đường từ Biên Hòa về Saigon không xa lắm. Nhiều lúc Hằng tưởng rằng Biên Hòa cũng là đất của Saigon, nếu không có ba chiếc cầu làm gập ghềnh bến xe đò, xe lô. Những ngày mới lấy nhau, con đường này rất quen thuộc đối với Hằng, vì ngày nào, hai vợ chồng cũng lên xuống tới hai lần.
Buổi sáng đi, rồi chiều lại về. Tới lúc có con, hai vợ chồng đâm ra lười di chuyển. Có nhiều khi, hàng hai ba tháng mới về một lần. Sống ở đâu cũng làm phiền phức tới người khác, nhất là đứa trẻ nhỏ, nên Hậu và Hằng ở Biên Hòa, sống trong nhà mình cho tiện.
Lần này về Saigon, Hằng tới thẳng nhà Phượng. Không hiểu sao hôm nay, nhà Phượng lại đông đủ tất cả, làm cho Hằng thấy vui lây với cái ồn ào và đùa nghịch ở đây.
Chú Vinh thì vẫn khoái thằng nhỏ, con của Hằng, nên đưa cháu ra đầu ngõ, chơi với cháu bằng đủ mọi thứ, mà thằng nhỏ có thể ăn được, chơi được. Phượng ướm thử một chiếc áo gấm nội hóa màu xanh lam lên người, rồi hỏi Hằng :
– Áo này có đẹp không ?…
– Mày đổi tính hay sao lại mặc áo màu này? Mọi khi mầy chỉ mặc có hai màu đỏ và đen. Bây giờ, sao lại mặc màu xanh ?
Phượng cười :
– Áo đi phù đâu mà…
– Đám cưới đứa nào thế ?
Phượng vẫn giữ nụ cười :
– Đám cưới của Thư Hương. Thế anh Dương không mời vợ chồng mầy à ?… Tao tưởng rằng, thiệp cưới đã gửi lâu rồi mà. Chính tay tao đề bao thư để gửi đi. Mày chưa nhận được sao ?.
Hằng tức bực :
– Chính vì cái thiệp cưới ấy hôm nay tao mới phải về để gặp mầy đây…
Phượng trợn mắt lên một cách ngây thơ :
– Tại sao vậy ?…
– Vì Dương cưới Thư Hương…
Phượng treo áo lên mắc. Lúc này, Phượng quay mặt vào tường, nên Hằng không nhìn thấy một chút biến đổi trên mặt Phượng. Nhưng rồi những thớ thịt trên mặt Phượng lại dãn ra ngay, Phượng trở về với nét mặt bình thản như thường.
Hằng lại nói tiếp :
– Mới đầu nhận được thiệp cưới của Dương, tao mừng quá, tưởng rằng đám cưới đó là Dương với mầy. Không ngờ lúc dở ra đọc, tên cô dâu lại là Thư Hương. Cả đêm hôm qua tao không ngủ được, định để tới sáng nay, về đây hỏi mầy cho ra lẽ…
Phượng thản nhiên :
– Người ta lấy nhau là chuyện của người ta, mầy thắc mắc làm chi. Mày không thấy tao may áo mới để đi phù dâu hay sao? Mày có định đi ăn đám cưới không ?… Đi, mầy ! Hôm đó, chúng mình lấy một bàn, ngồi chung với nhau rồi phá cô dâu, chú rể chơi…
Càng nói chuyện với Phượng, Hằng càng như lọt vào một thế giới mù mịt, đầy những bóng ma ảo ảnh. Ngồi xe trên đường đi tới nhà Phượng, nàng đã tưởng rằng, sẽ gặp một cô Phượng đầy chất u buồn, gặp nàng sẽ òa lên khóc, để cho nàng phải an ủi, vuốt ve, nói những lời âu yếm như nói với một cô em gái nhỏ.
Không ngờ lại gặp Phượng cũng vẫn như cũ, nhí nhảnh như dạo nào. Nhìn mặt Hằng ngẩn ngơ như chú mán rừng, Phượng phá lên cười:
– Mày nên soi gương nhìn lại mặt mầy. Ngẩn ngẩn ngơ ngơ cứ như đứa mất hồn.
Hằng tức bực:
– Chưa mất hồn đâu, nhưng rồi đây, tao sợ rằng kẻ mất hồn không là tao, mà lại chính là mầy.
Phượng bĩu môi rồi nhún vai rất điệu :
– Sức mấy mà tao mất được hồn. Chứng cớ là tao đâu có ngẩn ngơ mán xá như mầy…
Rồi Phượng với tay lấy cái mắc áo, đi lên trên lầu. Hai tà áo xanh của chiếc áo phù dâu, ve vẩy quấn vào chân Phượng, như chế diễu Hằng. Bước chân của Phượng nện thình thịch trên sàn gác làm bằng ván cây. Yến hét lên:
– Con quỉ sứ, đi đứng nhẹ chân một chút. Bụi hết cả mâm cơm bây giờ…
Bước chân Phượng nhẹ hơn một chút. Rồi Hằng nghe thấy tiếng hát của Phượng từ trên lầu vọng xuống. “Vắng con tàu sân ga buồn héo hắt, vắng anh lòng em thấy quạnh hiu”. Hằng cảm thấy như trong vụ này có một điều gì bất ổn. Nàng càng cố phân tích tâm sự của Phượng, thì lại cảm thấy u mê đến choáng váng, nàng cầu cứu đến Yến và Loan:
– Tụi mầy có hiểu chuyện này không ?
Yến đang nhẹ nhàng gắp từng con cá kho để ra đĩa, nghe Hằng hỏi thì giật mình làm gãy một khúc cá :
– Mày hỏi gì ?
– Tao hỏi mầy với con Loan, chúng mầy là chị em trong nhà, chúng mầy có biết chuyện gì xẩy ra với con Phượng không ? Tao thấy lạ lùng quá…
Loan đặt quyển sách xuống bàn :
– Chị Yến thì không biết sao, chứ riêng tao, thì tao cũng mù mịt như mầy. Hôm qua, Dương với con Phượng ngồi ở bàn này, thì thầm với nhau suốt cả một buổi sáng… Cứ hễ có tiếng chân người từ trên lầu bước xuống, thì hai đứa lại im bặt, ngồi nhìn nhau. Tụi tao cũng tức bực lắm, nhưng rồi cũng mặc xác họ với nhau. Chỉ cười mà nói rằng, có bàn tính nhau đi ăn cưới, nếu đựợc nhiều tiền thì nhớ chia cho tụi tao một ít…
– Dương cũng vẫn lại đây ?
– Như thường… có nghĩa là vẫn như thường. Chẳng có gì thay đổi hơn lúc ưước. Đáng lý ra một tên đàn ông, bỏ ngựời yêu của mình mà đi lấy vợ khác, thì đối với nhau “còn tình chi nữa mà thù đấy thôi “. Nhưng đằng này, hai đứa vẫn nhởn nhơ như không có chuyện gì xảy ra. Anh chàng Dương lại còn vác thiệp cưới tới nhà, cho con Phượng viết dùm bao thư. Mà con Phượng lại sốt sắng như là… đám cưới của nó.
Hằng quay sang Yến :
– Còn mầy, mầy biết được chuyện gì không ?…
Yến lắc đầu, chán nản :
– Tao thì mặc xác chúng nó từ khuya. Tao còn lạ gì tính con Phượng. Chuyện gì mà khoe được, thì nó khoe ngay. Còn chuyện gì nó muốn đấu, thì có dùng “xà beng” mà cậy răng nó ra, nó cũng chẳng thèm vén cái môi lên mà nói nửa lời. Nhưng cô nàng dấu cái gì trong bụng thì ấm ức lắm, vì bụng cô nàng đâu có còn chỗ trống…
Yến nói vậy mà tay không ngừng gắp thịt múc canh, sửa soạn mâm cơm. Có tiếng máy xe Vespa ngoài cửa rồi ngừng. Dương đi vào, rực rỡ như một con gà trống, lạc vào giữa đàn gà mái. Chàng cúi đầu chào tất cả rồi cúi xuống gần mâm cơm :
– Chà, cá kho này mà ăn với rau muống chẻ thì tuyệt. Hơi ít riềng mẻ một chút, nên không được dậy mùi. Nồi canh chua này, có cái đầu cá hơi lớn đấy nhé…
Tiếng của Phượng vọng xuống từ trên gác :
– Anh Dương đợi Phượng một chút nhé. Phượng sắp sửa hoàn tất việc quét vôi lên mặt rồi đây… Chỉ một phút nữa thôi.
Dương nói vọng lên :
– Cứ việc từ từ… Anh còn đòi chị Yến cho ăn cơm. Cá kho ngon lắm…
Yến nheo mắt :
– Bạn cứ làm như lần đầu tiên bạn ăn cơm ở đây không bằng… Nhưng bạn nên nhớ rằng những món ăn hôm nay mà tôi phải lăn lưng vào bếp là để mời Hằng, bạn muốn ăn ké thì cứ việc ngồi lại.
Lúc này, Dương mới nhìn thấy Hằng… Chàng tỏ vẻ vui mừng một cách rất ồn ào.”Phải rằng nắng quáng, đèn loà, người ngôi đó là bà Hằng đó sao”. Cái ồn của Dương làm Hằng khó chịu một cách lạ. Nàng định rằng gặp Phượng, gặp Dương, để hiểu rõ tâm sự của cả hai người. Nhưng khi gặp cả hai người ở đây, Hằng lại không muốn hỏi nữa, vì cho rằng làm công việc đó là mình đã làm một hành động vô ích. Nàng chỉ hỏi :
– Hai người định rủ nhau đi đâu vậy ?…
Dương bốc một miếng củ cải :
– Đi đến nhà cô dâu, rủ đi thử áo cưới. Phảỉ có Phượng đi cùng thì cô dâu mới dám đi.
– Tại sao vậy ?
– Vì rằng Phượng là thứ siêu…
Dương định nói, Phượng là một thứ “siêu cô dâu”, một thứ cô dâu trên cả cô dâu. Phượng đã xuống dưới nhà lừ mắt nhìn Dương. Chàng đành bỏ lửng câu nói.
Ngồi xuống ghế ở bàn ăn, chàng nghĩ càng thương Thư Hương. Người con gái, vui mừng nhất là ngày đám cưới nhưng Thư Hương chỉ còn là một xác người biết đi. Ai đặt đâu thì ngồi đó. Bắt làm việc gì thì ngoan ngoãn làm theo. Thư Hương thấy nặng mặc cảm tội lỗi. Chàng đã khuyên Thư Hương, phải cố đóng kịch, vui vẻ lên cho thiên hạ đừng hiểu lầm, để rồi hỏng cả mưu kế của Phượng. Khi nói đến tên Phượng, Thư Hương mới vui vẻ được lên một chút, và từ đấy, bất cứ đi đâu hay mua sắm một thứ gì, Thư Hương cũng đòi phải có Phượng đi cùng. Nàng bảo với Phượng:
– Chị Phượng cứ làm theo ý chị Phượng. Vì đây là đám cưới của chị mà. Em chỉ là một thứ “ốc mượn hồn” mà thôi.
Phượng đi chọn màu áo cưới cho Thư Hương, đưa Thư Hương tới nhà may. Chiếc áo màu kim tuyến lóng lánh, khoác lên người Thư Hương, càng làm tăng thêm vẻ mặt xanh xao, vàng úa của người con gái sớm u buồn. Phượng đã cười đùa thật nhiều để cho Thư Hương cười theo.
Phượng mời mọi người :
– Xin quí vị ngồi vào bàn ăn dùm cho. Chúng tôi cần ăn bây giờ, vì còn nhiều công tác.
Hằng hỏi lại :
– Đi thử áo cưới cho người khác, là một công tác sao ?
Phượng vênh mặt :
– Chứ sao !
Nhìn cái vui của Phượng, không hiểu sao Hằng vẫn thấy như là vui gượng. Mặt Dương thoáng một chút buồn. Tuy chưa biết sự tình, nhưng Hằng biết rằng bên trong chắc có chuyện gi sầu thảm lắm. Loan ngồi vào bàn trước nhất:
– Thằng Cu Vinh đâu rồi ?
– Nó dẫn con của Hằng đi chơi. Cứ kệ nó, lúc nào nó về thì nó ăn lúc đó. Không có thằng nhỏ, chắc Hằng ăn ngon hơn…
Tới lúc này, thì tất cả mọi câu chuyện đều như muốn chìm xuống. Bầu trời như bị bao phủ một đám mây đen. Dương muốn ra khỏi nơi đây. Chén cơm chàng cầm trên tay thật hững hờ. Mới hồi nãy, chàng khen những món cá canh chua, sao bây giờ lại thấy lạt lẽo. Nhìn sang Phượng, thì thấy mắt Phượng thật xa xôi. Cặp mắt ấy như rơi vào trong một hố thẳm u buồn. Dương đứng đậy :
– Xin mời các ngài. Tôi xin đủ.
Chàng đứng dậy đi ra nhà ngoài, ngồi trên ghế xa-lông hút một điếu thuốc, để chờ Phượng. Không có chàng, trong nhà ồn ào hẳn lên. Hình như thế giới đàn bà, con gái, có những câu chuyện riêng biệt. Có thêm một người đàn ông, dù là một người đàn ông quen thuộc, cũng làm cho câu chuyện giữa đàn bà, con gái với nhau, bớt đi phần nào tự nhiên. Tiếng ồn ào ở phòng trong , tuy rằng oang oang, nhưng lúc nầy không làm cho Dương để ý. Chàng nghĩ tới những lúc gặp Thư Hương.
Chàng thấy rằng vẫn giữ được cái thân mật giữa một ngtrời anh và một cô em gái. Thư Hương cũng vậy, vì biết rằng mối tình của Dương và Phượng đã thật cao, thật đẹp. Đám cưới của người con gái bé nhỏ ấy, chỉ là cái bề ngoài để đánh lừa những con người sống trong cái xã hội nầy, thích mang lễ giáo ra làm khổ con người.
Căn phòng của Dương mướn đã được ngăn chia làm đôi. Phòng trong để dành cho Thư Hương, và phòng ngoài để dành cho chàng. Liệu có giữ gìn được trong một khoảng không gian chật hẹp ấy không ?
Chàng tin rằng sẽ giữ được lòng mình… nhưng làm sao mà biết được những chuyện gì sẽ xảy ra, khi chỉ có hai con người, một giống đực và một giống cái, ở chung với nhau trong một căn phòng hẹp. Hơn nữa, đối với thiên hạ, lại có danh nghĩa là hai vợ chồng với đầy đủ lễ nghi cưới hỏi ?… Dương thấy trách nhiệm của mình thật nặng nề. Đã có một lần, chàng nói lên ý nghĩ đó với Phượng, thì thấy Phượng vẫn như thường :
– Đấy cũng là một cuộc thử thách đối với anh…
Dương đã nộp đơn xin về Phi Đoàn, bay lại. Chàng cố giữ gìn sức khỏe, không uống rượu, không thức khuya để qua được kỳ tái khám. Không lúc nào, chàng mong được về Phi Đoàn bằng lúc này. Có cớ để xa Thư Hương. Chàng sẽ ở lì trên Biên Hòa, chỉ về đây những ngày chủ nhật. Những ngày chủ nhật đó, chàng sẽ đi chơi với Phượng. Cũng thương cho Thư Hương vò võ một mình, “có chồng mà cũng như không”. Có lẽ chàng sẽ rủ Thư Hương cùng đi chơi để thành một bộ ba.
Phượng đi ra nhà ngoài đứng bên cạnh Dương. Chàng dụi điếu thuốc lá vào chiếc gạt tàn :
– Chúng mình đi thôi chứ.
– Đồng ý…
– Anh có phải vào chào mọi người không ?…
– Thôi, anh ạ!…
Rồi Phượng nói vọng vào trong nhà :
– Chúng tôi đi nghe mấy bà trẻ…
Tiếng ồn ào mắng từ trong nhà, như tiễn đưa hai đứa. Dương ra trước, đến bên chiếc xe Vespa. Còn Phượng thì đóng cửa thật mạnh, che lấp tiếng nói của Yến, Loan và Hằng. Nếu không có Dương tới mà cứ bị Hằng hỏi mãi, không chừng Phượng sẽ nói hết cả những chuyện về Dương, về Phượng, về Thư Hương . Lúc đó thì sự hy sinh của nàng, đâu còn ý nghĩa nữa.
Dương phóng xe đi. Lúc qua nhà Dương chàng bị Phượng đập mạnh lên vai :
– Em muốn lên thăm nhà anh.
Dương ngừng xe ngay cạnh chiếc cửa nhỏ đi lên lầu. Chàng nhường Phượng lên trước. Khi mở khoá, Phượng đẩy cửa nhìn vào thấy một khung cảnh rực rỡ, đổi mới. Chiếc giường của Dương nằm được mang ra tận phía ngoài, ngay sát cửa. Còn chiếc giường cưới, với tấm nệm dày,với chiếc khăn trải giường sặc sỡ được đặt ở sát tận cuối phòng. Phượng thở dài… Đáng lẽ những thứ nầy, những cảnh này là để dành cho Phượng. Tấm bình phong bằng sơn mài, còn xếp lại để ở giữa nhà… Phượng sờ tay lên mặt sơn nhẵn bóng.
– Anh dựng lên cho Phượng coi…
Chiều Phượng, chàng phải dựng lên… Căn phòng sáng, tô điểm bằng một bức bình phong sơn mài, đã làm cho căn phòng thêm dẹp, thêm sang. Những bức vẽ được ghép lại, là hình những cánh chim, như chim phụng hoàng, chim thiên nga, chim bằng, chim công… Cánh chim nào cũng vươn đôi cánh mạnh. Phượng trách nhẹ Dương :
– Anh mua những thứ nầy phí tiền quá…
Dương cười:
– Anh đâu có phải mua. Một thằng bạn, lúc nầy đã giải ngũ, làm chủ một hiệu sơn mài, nó tặng anh khi nghe tin anh cưới vợ.
Giọng Phượng trầm hẳn xuống, thật buồn :
– Không hiểu tới lần thứ hai của anh, có còn được bạn bè mừng như lần nầy không?
– Thì Phượng coi như những thứ đồ mừng nầy là mừng cho Phượng và anh. Thư Hương cũng chẳng nói như vậy là gì. Mà cần gì những thứ đồ mừng. Cái mừng nhất của chúng mình, là làm cho cha mẹ Tâm và Tâm nung sướng, và cứu vãn được cả cuộc đời một người con gái.
Phượng biết như vậy lắm, nhưng nhìn thấy Dương và Thư Hương sửa soạn cho đám cưới, cũng thấy lòng mình nao nao và tê tái… Người con gái, mỗi lần thấy một chiếc xe hoa đi qua cửa, đều muốn chạy tới gần để nhìn mặt cô dâu và chú rể. Nhìn mặt hai đứa rạng rỡ trông thật ghét. Đã nhiều lần, ba chị em nhà Phượng chạy ra ngoài cửa xem đám cưới, phê bình với nhau om sòm làm cho mẹ phải mắng… Mẹ thường nói rằng, cứ nhìn thấy ba đứa con gái lớn tồng ngồng là sốt cả ruột. Chỉ mong cho có ai đến rước đi cho.
Bởi vậy Dương đã được mẹ chiều đãi một cách đặc biệt. Đến khi nghe tin Dương lấy vợ, mà lại lấy Thư Hương mẹ đã buồn mất mấy ngày. Nhìn thấy mẹ buồn, Phượng đã theo mẹ đi suốt một ngày, kể cho mẹ nghe tất cả mọi chuyện. Phượng dặn mẹ giữ kín, dù rằng cả với Yến với Loan. Nghe xong câu chuyện, mẹ đã nhìn Dương và Phượng bằng một con mắt khác…
Nhưng bây giờ, nhìn căn phòng sửa soạn cho đám cưới, Phượng lại thấy như muốn nghẹn ngào… Con người chỉ có thể tỏ ra mình cao thượng, trong một lúc bốc đồng nào đó mà thôi, còn thì lại trở thành một thứ người, rất người. Phượng cũng chỉ là một con người.
Nàng nói với Dương, giọng pha nhiều chất cay đắng:
– Anh có vẻ hí hửng, như anh chàng sắp cưới vợ…
Không hiểu một trận phong ba vừa làm đổ nát trong lòng Phượng, anh chàng lại còn đùa:
– Thì anh chẳng sắp sửa cưới vợ ?…
Phượng quay mặt đi, bước ra cửa. Nếu còn đứng lại đây, không chừng Phượng sẽ bật khóc. Ấy, Phượng vô lý như thế đấy. Dương khóa cửa lại, theo Phượng bước xuống cầu thang, rồi chiếc xe Vespa của Dương lại đưa hai người đi từ ngoại ô về phía Saigon…
Những con đường Saigon vào lúc xế trưa, là con đường đầy bóng nắng. Bụi tung mù sau bánh xe, và những hàng xe nối đuôi nhau chạy không ngừng.. Phượng và Dương đi vào cái nắng và bụi ấy. Hơi nhựa mặt đường, bốc lên một mùi nồng. Hôm nay Phượng không mặc áo dài. Mặc chiếc quần và một chiếc áo ngắn và rộng, Phượng thấy như gió nóng luồn vào từng thớ thịt, từng mảnh da. Nàng thấy ngây ngây một cơn say nhè nhẹ, và khó chịu cứ thấm dần. Phượng nhắm mắt lại để rồi như muốn ngủ thiếp đi sau lưng Dương.
Dương nói bâng quơ :
– Sắp sửa đến mùa mưa.
Câu nói của Dương làm cho Phượng chợt nhớ lại những ngày xưa. Ngày xưa. Ngày đầu hai đứa yêu nhau, là một ngày vào đầu mùa mưa, có một cơn mưa bất chợt, ào ào đổ xuống thành phố. Mái hiên của một hàng ăn dưới Chợ Lớn, là chỗ hai đứa núp, để rồi nắm tay nhau, khoác chung một chiếc áo mưa, chạy ra ngoài xe. Chiếc hôn đầu tiên trao nhau, nơi nệm sau chiếc xe taxi, đã kết hợp đời hai đứa với nhau.
Để rồi tới bây giờ. Chỉ còn vài ngày nữa là đám cưới, nhưng lại là đám cưới của Dương với người khác. Phượng lắc đầu thật mạnh, để xua đuổi nỗi sợ vu vơ. Nàng thì thầm :
– Phượng lo sợ quá…
– Phựợng sợ cái gì ?…
Tiếng Phượng thật tha thiết :
– Không hiểu sao, Phượng linh cảm thấy có một điều gì báo trước rằng cuộc tình duyên của chúng mình khó mà thành. Linh tính của Phượng từ trước tới nay vẫn “trung hậu ” lắm, ít khi phản lại Phượng. Nhiều đêm, Phượng muốn khóc…
Thì ra Phượng đã hối hận rồi sao Phượng ?… chính cái ý kiến để Dương kết hôn với Thư Hương là của Phượng. Nhiều người đã ca tụng Phượng. Người bạn thân của chúng mình là Tâm, đã đứng nghiêm chỉnh chào Phượng theo lối nhà binh, mặt thật nghiêm trang, như những lúc chào cờ. “Phượng là một bà thánh, sống chung với người”. Lời nói đó của Tâm làm cho Phượng sung sướng, cảm thấy sự hy sinh của mình không còn là một chuyện điên khùng. Còn mẹ Tâm thì nước mắt chảy dài xuống gò má. “Bác không dám nói cám ơn Phựợng, vì ơn của Phượng lớn quá “.
Những giọt nước mắt chảy ra lần này, Phượng biết không phải là những giọt nước mắt bi thương. Còn cha Tâm thì cúi đầu vào những trang sách một thời gian rất lâu, không thấy lật qua được trang nào.
Trước kia, ông ít có cảm tình với Phượng, vì cho rằng cái đẹp của Phượng lộ ra ngoài nhiều quá, Phượng không đúng mẫu ngườ con gái Đông Phương.
Nhưng lần này, Phượng đã được ông nhìn bằng một con mắt trìu mến. “Phượng đã làm cho bác cảm thấy như đã chết mà được sống lại”.
Ông đã bùi ngùi nói với Phượng như thế. Phượng thấy người Phượng như không còn sức nặng, chỉ cần vươn mình là đã có thể bay bổng lên tới chín từng mây…
Nhưng hôm nay, nhìn căn nhà ấm cúng của Dương, sửa soạn cho đám cưới, Phượng lại thấy nao nao rồi như muốn bật khóc. Phượng chỉ là một con người, hơn nữa, Phượng lại chỉ là một đứa con gái út được mẹ cưng chiều, bị con kiến cắn cũng la ầm lên là “đau đến chết đi được”. Dương an ủi Phượng :
– Anh đã làm đơn xin lên Phi Đoàn. Nếu không được, anh sẽ xin đổi đi xa, thật xa. Lúc đó, anh sẽ có cớ trả lại căn nhà đó cho bà chủ nhà. Thư Hương lại về nhà Thư Hương, sống như lúc chưa có chuyện gì xảy ra .. Lâu lâu, anh sẽ về Sài gòn, tới thăm Phượng. Mình phải tạo ra những thời gian xa nhau, để mà nhớ nhau ..
– Lỡ Thư Hương đòi theo anh đi xa ?…
Nghe Phượng hỏi như vậy. Dương mới chợt hiểu nỗi buồn của Phượng. Từ mấy ngàv nay, chàng thấy tính tình của Phượng thật bất thường. Đang lúc vui vẻ cười đùa, tự nhiên mặt trầm hẳn xuống, lặng lẽ như một cái bóng. Lúc đang lặng lẽ như vậy, lại chợt cười vang, như vừa bất chợt bắt gặp một điều gì vui thích.
Chàng tưởng rằng vì phải lo lắng cho Thư Hương, nên Phượng mệt mỏi.
Nhưng hôm nay, nói chuyện chỉ vài câu trao đổi, Dương đã biết được thắc mắc của Phượng. Chàng bỏ một tay, rời khỏi tay lái, nắm lấy bàn tay Phượng:
– Anh chắc rằng Thư Hương chẳng bao giờ lại đòi đi theo. Phượng tưởng rằng anh với Thư Hương là vợ chồng thật hay sao ?
Phượng áp má vào lưng Dương :
– Thế ra vợ chồng, cũng phải chia ra vợ chồng thật, vơ chồng giả… Theo như Phượng, thì đã là vợ chồng thì là… vợ chồng. Chuyện đời, nhiều cái éo le quá…
Dương quẹo vào một con đường hẻm rộng. Chàng không còn gì để nói với Phượng. Sắp sửa tới nhà Thư Hương, chiếc cổng sắt đóng kín. Phượng bấm chuông và người ra mở cửa là Thư Hương.
– Em chờ anh Dương với chị Phượng từ sáng tới giờ.
Dương cười :
– Nếu không có anh tới đánh thức, thì có lẽ tới bây giờ, Phượng còn ngủ. Phượng có một đức tính đáng được ghi vào bảng vàng bia đá, là có thể ngủ được suốt ngày.
Phượng đấm vào lưng Dương vài ba phát. Trước mặt Thư Hương, Phượng phải tỏ ra thân mật, âu yếm vói Dương, để cho Thư Hương biết rằng, Dương vẫn là của nàng. Đám cưới sắp sửa xảy ra một ngày gần đây, chỉ là nàng cho mượn Dương đấy thôi. Ý nghĩ ấy ám ảnh Phượng trong mấy ngày gần đây. Cứ càng gần tới ngày cưới thì cái ám ảnh cứ lớn dần trong đầu.
Nhiều đêm, thao thức không ngủ, Phượng thấy cái ám ảnh ấy như choáng ngợp cả không gian, đè chặt lấy Phượng, làm cho Phượng nghẹt thở. Nhà Phượng lại ở gần chợ của một xóm di cư.
Những câu ca dao, tục ngữ cứ lọt vài tai Phượng hàng ngày. “Của chua ai thấy chẳng thèm, em cho chị mượn chồng em vài ngày”. Tiếng ru buồn của hàng xóm một buổi trưa, đã làm cho Phượng bâng khuâng. Mình cho mượn anh Dương đâu có vài ngày, mà cả năm trời. Không biết có phải là của chua hay không ?
Thư Hương nắm tay Phượng:
– Hai anh chị định đứng ở ngoài sân mãi sao ? Vào nhà đi chứ.
Phượng và Dương theo Thư Hương vào nhà. Bà Phủ ngồi trên một chiếc “đi-văng”, gật đầu chào trả lại hai người rồi cười :
– Trưa nay, chờ hai đứa tới ăn cơm. Hai mẹ con bác vừa mới ăn cơm xong đấy.
Phượng ngồi xuống bên cạnh bà Phủ. Những lúc về sau này, nàng và Dương đối với gia đình này thật thân mật. Nàng cảm thấy bà Phủ cũng như mẹ nàng, nhưng mẹ nàng thì vất vả hơn, vì thân đàn bà góa phải nuôi một lũ con.
Nhưng gia đình nàng lại hơn gia đình Tâm và Thư Hương ở chỗ gia đình được đoàn tụ. Các anh nàng vẫn đưa cháu về thăm mẹ. Lũ cháu của nàng thật ngoan. Mẹ Phượng, mỗi lần các cháu tới chơi, dù bận việc thế nào chăng nữa, cũng ở nhà để chơi với các cháu. Bà cụ cho đó là phần thường của bao năm vất vả nuôi con.
Còn bà Phủ, mẹ của Tâm và Thư Hương, cũng vào tuổi của mẹ Phượng, nhưng sự cô đơn của tuổi già, trông thật đáng thương. Vài hôm nữa, Thư Hương lại đi nữa, thì căn nhà lại càng thêm trống vắng mênh mông.
Phượng sờ tay lên cái mõ, quyển kinh:
– Thư Hương đi lấy chồng, thì cháu sẽ lên đây ở luôn với Bác. Bác có bằng lòng không ?
Bà Phủ nheo đôi mắt
– Nếu được thế thì còn gì hơn nữa…
– Cháu sẽ theo bác đi lễ chùa… Đi nhà thờ mãi cũng chán, có lẽ đi chùa cho đổi không khí. Cháu sẽ bắt chước như cô Giáng Hương nào đó bẻ một cành mẫu đơn, rồi bị trói vào gốc cây. Rồi có một chàng trai trẻ đi qua, mang tiền ra đền cành mẩu đơn, thế là về nhà ốm tương tư…
Dương góp chuyện :
– Ở trên Đà lạt, có một khu vườn, được đặt tên là Vườn Bích Câu. Muốn có cuộc “kỳ ngộ”, thì lên trên đó, mà bẻ cành mẫu đơn. Tiếc rằng, Phượng không phải là tiên…
Phượug la lên :
– Phượng là tiên mà !… Anh đã dấu đôi cánh của Phượng, để cho Phượng không bay được về thượng giới. Hỡi tên con trai trần tục kia! Hãy trả lại đôi cánh cho ta !…
Bà Phủ thấy vui hẳn lên. Căn nhà này rộng quá, vắng quá. Ông Phủ đi vắng suốt ngày, hình như đi bàn những chuyện gì bí mật lắm với vài ba người bạn cách mạng, ngày xưa. Nhà chỉ còn có hai mẹ con.
Nhiều khi, cả ngày không nói vói nhau một câu nào vì chẳng có chuyện gi để nói. Chiều thứ bảy và chủ nhật, Tâm có về nhà, thì câu chuyện mới đậm đà thêm được một chút.
Hồi này, có lẽ phải trực hành quân nhiều, nên Tâm cũng ít về nhà. May có Phượng và Dương tới chơi, như những làn hơi nóng phá tan lớp băng tuyết lạnh lẽo, phủ lên mặt bà Phủ và Thư Hương. Cứ khi nào Phượng tới, là bà Phủ phải sửa soạn sẵn một nụ cười. “Nhìn mặt con bé Phượng mà bác nín cười không được”. Thấy bà Phủ cười, Phượng cũng cười theo :
– Cháu sẽ lại đây, tìm trò cho bác coi. Cháu thì nhiều trò lắm, chưa biểu diễn được hết.
Thư Hương ở trong nhà, đi ra. Trong chiếc áo dài màu đen trông cô con gái bé nhỏ ấy lại như bé nhỏ thêm. Ấy thế mà cuối năm nay, nàng phải ra trường, đi dạy những đứa con trai lớn bằng nàng, lớn hơn nàng. Thật như một con nai lạc vào bày dã thú. Phượng đứng bật đậy :
– Yêu cầu cô giáo đi thay áo dài khác. Ta đây không bằng lòng cho cô giáo mặc áo dài đen, vì màu đen là độc quyền của một người con gái tên Phượng.
Thư Hương nghe Phượng la lên như vậy, vội ngừng lại, đứng giữa phòng, nói với Phượng bằng một giọng năn nỉ :
– Chị Phượng cho em mặc một ngày hôm nay nữa thôi. Ngày mai em sẽ làm một cái lễ đốt hết áo đen…
– Phượng không thích Thư Hương mặc áo dài đen, vì khi Thư Hương mặc áo đen, trông thê thảm lắm. Khuôn mặt và màu da của Thư Hương, phải mặc những áo màu sáng, có nhiều hoa…
– Em sẽ nghe lời chị Phượng.
Thư Hương nói câu đó bằng một giọng cam chịu. Từ hơn một tháng này, nàng đã sống với sự chịu đựng. Ai nói gi cũng nghe. Khi thấy anh Tâm nói đến ý kiến của Phượng, cả gia đình đã nhìn nàng, chờ mong nàng phản đối, hay trả lời bằng một cái gật
Nhưng nàng đã nhìn vào cõi mênh mông trước mặt. Tới khi bị Tâm hỏi tới vài ba lần, nàng mới trả lời một cách chán chường :
– Thân em, còn là của em nữa đâu. Tùy bố me, tùy anh. Em chỉ biết có vâng lời. Em đã làm cho bao nhiêu người khổ, không có lý gì mà còn hành hạ mọi người thêm nữa.
Thư Hương bây giờ tự coi như người đã chết rồi. Nàng hành động như một cái máy. Bởi vậy, Tâm phải giao cho Phượng có trách nhiệm điều khiển Thư Hương.
Mới đầu thấy Thư Hương vâng lời mình môt cách tuyệt đối, Phựợng thấy khoan khoái lắm. Nhưng rồi Phượng thấy đi bên cạnh Thư Hương, như đi cạnh một người máy, Phượng lại đâm chán. Phượng muốn Thư Hương phải cãi lại vài ba câu. Hôm nay khi Phượng ra lệnh cho Thư Hương phải thay chiếc áo màu đen đang mặc trên người, nhưng Thư Hương từ chối, tuy bằng một giọng năn nỉ, nhưng Phượng lại thích, vì thấy Thư Hương như vậy là đã tiến bộ. Phượng nắm lấy tay Thư Hương:
– Thôi, chúng mình đi !…
Thư Hương hỏi lại:
– Thế anh Dương không đi với chúng mình sao ?…
– Không, bạn ta phải ở đây. Việc thử áo, ngắm tới ngắm lui, không phải là việc của đàn ông. Vậy anh Dương nên ở lại nhà, nói chuyện với bác. Chúng ta lên đường !
Hai người con gái đã đi để lại gian nhà rộng nầy một chút mùi hương thoảng qua. Dương đốt một điếu thuốc lá. Hai người con gái , liên hệ rất nhiều tới cuộc đời chàng. Tấm lịch treo trên tường, với ngày tháng in màu đỏ chói, đập vào mắt chàng, để cho chàng nhớ, chỉ còn vài ba ngày nữa là tới đám cưới, một đám cưới bất đắc dĩ, không ai coi đó là một ngày vui.
– Cháu nghĩ gì thế?…
Tiếng bà Phủ hỏi làm Dương giật mình. Chàng lắc đầu.
– Cháu xin lỗi bác, vì cháu buồn ngủ. Từ ngày về làm việc ở bàn giấy, cháu đâm ra lười biếng. Buổi trưa mà không ngủ thì người bần thần khó chịu…
– Thì nằm xuống ghế dài ấy mà ngủ…
Chàng đâu dám hỗn hào như vậy… Chàng vẫn ngồi trên ghế đốt từng điếu thuốc lá. Chỉ một lát sau, đống tàn thuốc vô định đựng chiếc gạt tàn đã cao có ngọn. Bà Phủ cũng vẫn còn ngồi trên “đi-văng”, trách nhẹ :
– Cháu hút thuốc nhiều quá… Bác sợ có hại cho sức khỏe của cháu. Cháu hút ít đi…
– Cháu xin nghe lời bác…
Căn nhà rộng lại im lặng. Một lúc sau, tiếng bà Phủ ngập ngừng :
– Đám cưới của cháu với Thư Hương, nếu cháu có thiếu tiền, cứ hỏi bác. Vì đây là công việc của gia đình bác. Đã nhiều lần, bác muốn nói với cháu chuyện này, nhưng bác cứ ngập ngừng mãi. Thư Hương là con gái bác. Bác không dám nói cháu là con rể bác, nhưng…
– Thì bác cứ coi cháu như Tâm, coi như bác có thêm một đứa con trai.
Ngừng lại một chút, nhìn theo nhũng đợt khói thuốc lá bay mờ nhạt loảng trên trần nhà, Dương nói tiếp :
– Còn về chuyện tiền bạc, cháu đã lo đầy đủ. Tiền mừng của bạn bè cùng quá đủ cho một bữa tiệc nhỏ, tổ chức tại nhà hàng. Cháu tin rằng đám cưới này sẽ là một đám cưới vui…
Bà Phủ cười buồn :
– Thế mà không được ăn đời ở kiếp với nhau. Ông trời thật khắt khe. Nhưng được như thế này, thì là ông trời cũng đã thương gia đình bác nhiều rồi. Bác chỉ sợ Phượng nó buồn.
– Không, Phượng nó không buồn đâu bác. Bác không thấy nó cười luôn hay sao ?
– Cười, chưa chắc đã phải là vui…
Bà Phủ đã nói đúng… Phượng cười đấy, nhtrng chưa chắc Phượng đã vui, mà có vui chăng nữa, chỉ là một cái vui bề ngoài. Tim Phượng như bị bóp nghẹt từng cơn, và đôi mắt của Phượng, lâu lâu lại có một chút thoáng mờ u tối.
Phượng hay nỗi những cơn buồn bất chợt. Thời gian cứ qua đi qua cách hững hờ. Từng tờ lịch trên tường rơi xuống, để cho Phượng thấy mình như cây trước cửa nhà, mỗi lần một chiếc lá khô rơi xuống, lại thấy thân mình trần trụi. Những cành cây khô, dễ gợi lên những ý nghĩa buồn của mùa đông, tuy rằng ở đây chẳng bao giờ có được một chút gió heo may. Chỉ còn ba tờ lịch nữa rơi xuống là ngày đám cưới của Dương và Thư Hương. Làm sao mà níu kéo thời gian ngưng lại ?… Dương và Phượng, trong những ngày sau cùng đã ngồi im bên cạnh nhau, không nói gi với nhau vì sợ khua động thời gian, rồi thời gian sẽ bước đi những bước chân hối hả. Nhưng thời gian, dù đi chậm đến thế nào chăng nữa, rồi cũng phải qua đi…
Buổi tối trước ngày cưới, Phượng đã ở lại một đêm với Thư Hương. Hai người con gái với một đêm không ngủ, đã nói chuyện với nhau thật nhiều. Phượng muốn ở lại với Thư Hương.. để ngày mai Phượng cũng thức dậy sửa soạn trang điểm cùng với Thư Hương, rồi khi xe đón dâu tới nhà, Phượng cùng Thư Hương bước lên xe hoa, để cho Phượng có được cái ảo tưởng, đây là đám cưới Phượng. Lúc Thư Hương thay áo, Phượng đã trộm ngắm thân thể Thư Hương. Cái bụng đã có một chút gò cao, Thư Hương đã đặt tay Phựợng lên bụng để thấy đứa nhỏ trong bụng chuyển động, báo tin một mầm sống sắp hoàn thành. Phượng nhớ tới câu chuyện khôi hài của bố. Ngày Phượng còn nhỏ nàng được nghe bố kể câu chuyện đám cưới một ông chú họ xa.
Bà mẹ ông chú, mà bố Phượng phải gọi bằng cô, đã nài nỉ, nhờ bố Phượng trải dùm giường chiếu tân hôn cho đôi vợ chồng mới cưới. “Anh có gia đình đề huề, trai gái đầy đủ, các cháu ngoan ngoãn, xin anh trải dùm giường chiếu để các em nó cũng đựợc như anh”.
Bố Phượng thấy bà cô nài nỉ như vậy thì không từ chối, trải dùm cái chiếu cạp điều.. sắp xếp lại ngay ngắn đôi gối uyên ương. Không ngờ trải chiếu lúc chín giờ tối, thì tới nửa đêm, cô dâu chuyển bụng đẻ. May mắn đến thế là cùng. Bố Phượng kể chuyện đó với những tiếng cười lớn. Y phục của ngày xưa ấy vậy mà tiện lợi , che dấu được cái bụng chửa thè lè của cô dâu. Khi Thư Hương đi may áo cưới, Phượng cũng lựa cho Thư Hương một kiểu áo cô đâu ngày xưa, rộng rãi, có tay thụng để che dấu cái bụng. Mầm sống trong người Thư Hương chỉ vừa mới thành hình… Mới có bốn tháng nên khó ai nhận ra được … Phượng chỉ nói với Thư Hương rằng, nàng thích nhìn cô dâu với lối ăn mặc cổ điển, mặc áo thụng với khăn vành giây, trông như hoàng hậu. Nàng không dám nói tới câu chuyện mà bố đã kể cho nghe, sợ rằng Thư Hương nghĩ là những lời mỉa mai cay đắng. Buổi tối hôm ấy, thấy Phượng ngủ lại, Thư Hương vui mừng :
– Chị Phượng tốt với em quá. Ngày mai, nếu không có chị Phượng, chắc em chẳng còn đầu óc đâu mà nghĩ đến chuyện trang điểm…
Thư Hương nằm úp mặt lên chiếc gối… Ngày mai, nàng sẽ phải rời bỏ căn phòng này, căn phòng quen thuộc mà nàng đã sống từ hồi bắt đầu biết làm đẹp cho một người con gái, cho tới bây giờ, cuộc đời con gái kể như đã chín… Nàng đã thành một người đàn bà trước khi rời căn phòng con gái.
Căn nhòng thật đẹp với những thứ trang hoàng nhỏ nhắn, từ những con búp bê bằng ngón tay út, cho tới những bức tranh ngộ nghĩnh mà nàng cắt trong những tờ báo ngoại quốc. Khiếu thẩm mỹ của con gái, bao giờ cũng nhẹ nhàng tế nhị. Cả căn phòng, như đươc trùm lên một không khí dịu dàng, êm nhẹ.
Bên cạnh phòng Thư Hương, là căn phòng dành cho Tâm. Từ căn phòng của Thư Hương bước sang căn phòng của Tâm, thiên hạ có cảm tưởng như bước từ một nơi hòa bình, để tới một xứ chiến tranh, đầy những xô bồ, hỗn độn. Thư Hương đã nhiều lần ngạc nhiên khi tới phòng anh nàng.
Không hiểu sao Tâm lại có thể sống trong một gian phòng đầy tàn thuốc lá, mùng màn xô lệch, ngổn ngang đủ mọi thứ như quần áo, giày dép, súng ống. Tâm quăng bừa bãi xuống nền nhà, coi nền nhà như một thùng rác. Nàng đã phải mất công dọn dẹp cho Tâm, mỗi buổi sáng thứ hai, khi anh Tâm đi Biên Hòa…
Phượng nhìn Thư Hương nằm thu gọn trên chiếc giường lớn. Trông Thư Hương thật nhỏ bé, đáng thương. Nàng nói với Thư Hương :
– Thư Hương quên rằng ngày mai là đám cưới ?…
Thư Hương nằm nghiêng mặt và mắt ngước lên nhìn Phượng. Đôi mắt ngơ ngác, thẫn thờ :
– Thế nào là một đám cưới hả chị Phương ?… Đám cưới đâu có phải là cứ có xe kết hoa, có chú rể, có cô đâu, là đã thành một đám cưới. Như ngày mai của em. Tất cả mọi người đều thì thầm, nói rằng, đám cưới Thư Hương đấy, nhưng riêng em, thì em thấy rằng không phải. Chắc chị Phượng cũng nghĩ như em.
Phượng thở dài:
– Phượng chẳng nghĩ gì cả.
Tuy Phượng nói như vậy, nhưng lòng Phượng thật ngổn ngang trăm mối. Buổi sáng hôm nay, Dương đã dẫn Phượng đi thăm căn phòng cưới, được mướn tại một nhà cưới để đón dâu. Cũng lại những cảnh làm Phượng xao xuyến.
Chiếc nệm thật trắng, đặt đôi gối song song, lọ hoa đặt trên bàn ngủ, với những cánh hồng nhung đỏ thẫm, đẹp như môi một nàng con gái. Phượng đã ngồi lên tấm nệm thật dầy, thật êm. Đêm mai, Dương và Thư Hương sẽ về đây.
Họ đối xử với nhau làm sao khi đối với thiên hạ, họ đã có danh nghĩa vợ chồng, với một khung cảnh đầy quyến rũ như thế này. Nhìn đôi mắt thoáng buồn của Phượng, Dương đã hiểu ngay Phượng đang nghĩ gì. Cái tài của Dương là ở chỗ đó. Chỉ cần nhìn vào mắt Phượng là Dương đã đoán biết ý nghĩ của Phượng. Chàng nói ngay :
– Anh sẽ dấu đi hai chai rượu. Tối mai, lúc cưới xong anh giữ lại một bàn. Anh, Phượng và mấy bạn hữu thân thuộc sẽ ở lại, uống rượu cho say tới sáng.
Phượng cắn chặt lấy môi dưới, vầng trán thanh tú thoáng một hai nếp nhăn.Phượng lại sắp sửa có một ý kiến gì nữa đây. Dương im lặng nhìn Phượng chờ đợi…
– Phượng đề nghị với anh chuyện này…
– Phượng cứ nói…
– Anh cứ để cho Thư Hương về đây một mình ?..
– Đành vậy, chứ biết làm sao. Nhưng nếu Thư Hương muốn chung vui với tụi mình, Thư Hương vẫn có thể ở lại với chúng mình. Anh tin là Thư Hương sẽ ở lại.
Nét mặt nghiêm trang của Phượng như tươi hẳn lên :
– Anh nhờ chủ nhà cưới mang lên phòng này một cái bàn và mượn độ mười cái ghế. Tối nay, anh mang rượu và thức ăn về đây. Chúng mình kéo hết cả đến đây, sống như một đêm trong dịp tết. Ăn xong chúng ta sẽ đánh bài cho tới sáng. Như vậy Thư Hương vui hơn…
– Anh đồng ý như vậy.
Khi mà Phượng đã nói lên ý kiến gì là Dương sẵn sàng đồng ý. Với lại, ý kiến ấy, đối với Dương là một cách giải quyết đẹp nhất. Không còn gì đẹp hơn. Chàng bấm chuông gọi người bồi phòng và thực hành ngay. Phượng mượn khăn, trải lên bàn ăn, ngắt một hai bông hồng, bứt từng cánh hồng rắc lên bàn. Căn phòng tuy hẹp thêm, nhưng lại ấm cúng hơn.
Phượng dấu câu chuyện này không muốn kể với Thư Hương, vì biết rằng kể chuyện đó với Thư Hương, cũng chẳng lợi ích gì, mà lại làm cho Thư Hương buồn thêm. Nàng cầm chiếc bàn ủi vào chỗ cắm điện, rồi hỏi Thư Hương :
– Quần áo mặc ngày cưới đâu?… Đưa đây cho Phượng.
Thấy Phượng làm công việc đó, Thư Hương ngồi bật dậy:
– Để em gọi chị người làm ủi quần áo. Chị Phượng đừng làm cho em ân hận.
– Có cái gì mà phải ân hận. Phượng thích làm công việc này để qua đi một chút thời giờ. Còn quần áo của Phượng nữa chứ. Sợ chị người làm không khéo tay, làm cháy áo…
Buổi tối hôm đó, Phượng đã săn sóc tới Thư Hương hơi kỹ. Nàng ủi từng chiếc áo, chiếc quần cho Thư Hương mặc vào ngày mai. Nàng chải lại đôi giày nhung cho sạch bụi. Rồi nàng bắt Thư Hương tới ngồi trước gương để nàng cuốn lại tóc. Mái tóc của Thư Hương thật đẹp, thật mướt, dài xõa xuống đôi vai. Thư Hương cảm dộng, đôi mắt sâu thẳm nhìn vào bóng mình trong gương và bàn tay Phượng khéo léo cuốn từng lọn tóc, Thư Hương chớp mắt:
– Em chỉ muốn hai chị em mình sống mãi như thế này…
Phượng ngậm năm sáu cái kẹp tóc trong mồm, nên không trả lời Thư Hương. Nàng cũng cảm động lắm. Từ lâu nàng cũng muốn có một đứa em gái để săn sóc và trang điểm cho em, như lúc này, đang săn sóc và trang điểm cho Thư Hương. Vì vậy, hồi Vinh còn nhỏ, nàng và các chị Yến, Loan đã bắt Vinh làm con gái. Từ ngày Vinh lớn, đã biết thẹn thò mắc cỡ thì cái trò đó đã bị Vinh phản đối.
So với tình cảnh của Phượng, thì Thư Hương lại cô đơn hơn. Bố mẹ chỉ có hai anh em. Từ ngày Tâm lớn, ít khi Thư Hương được gặp anh, nói chuyện với anh một ngày. Hai anh em cũng thân mật với nhau đấy nhưng nàng vẫn mong ước có một người chị. Giá mà anh Tâm chịu lấy vợ, nàng có một người chị dâu chắc rằng cuộc đời sẽ vui hơn.
Nàng đã tự nguyện với mình, dù chị dâu khó chịu tới đâu, nàng cũng cố chịu đựng. Thấy Phượng săn sóc cho mình, Thư Hương cảm động gần như muốn bật khóc.
Mới có mười giờ đêm, mà con đường này đã thật yên lặng. Nhìn qua cửa sổ, Phượng thấy ánh đèn đường chiếu vàng vọt lên những mảng tường loang lổ. Chiếc chao đèn lắc lư theo từng cơn gió đu đưa…
Ngõ hẻm này thật khác xa với cái ngõ hẻm của nhà nàng. Tiếng động ồn ào, vang dậy tận nửa khuya. Đấy là không kể tới tiếng động ầm ầm của những con tàu xình xịch chạy qua, trong những đêm khuya. Những buổi sáng sớm, nhiều lần còn nhìn thấy mặt trăng nằm xiên chênh chếch, Phượng đã nghe thấy tiếng nhà hàng xóm gọi nhau thức dậy, sửa soạn dọn hàng ra chợ.
Vào giờ đó, chỉ có căn nhà Phượng là không còn ánh sáng. Tất cả mọi nhà, đều đã bật đèn sáng, nhờ ánh sáng đèn diện, để chờ cho tới khi có ánh sáng mặt trời. Căn nhà ngoại ô, và những căn nhà giữa thành phố, có lẽ chỉ khác nhau có vậy.
Phượng cuộn cho Thư Hương lọn tóc cuối cùng:
– Thôi, Thư Hương đi ngủ đi !…
– Còn sớm mà chị Phượng. Mới có hơn mười giờ…
Phượng ngạc nhiên :
– Mới có hơn mười giờ thôi sao ?… Phượng tưởng rằng đã khuya lắm. Ở xóm Phượng, nếu im lặng như thế này là đã quá nửa đêm.
Mắt Thư Hương chợt sáng lên :
– Em sắp sửa được về xóm chị Phượng ở rồi. Có lẽ rồi đây, đêm nào em cũng sang nhà chị Phượng ngủ, nói chuyện với chị Phượng. Ở trong phòng với chị Phượng, chắc vui lắm…
Nghe Thư Hương nói vậy, Phượng nhớ tới căn nhà của Dương.
Mọi người trong xóm, đều như vui hẳn lên, khi nghe tin ông Trung úy lấy vợ. Dương muốn tránh cho Phượng sự ngượng ngùng, nên định dọn nhà đi chỗ khác. Nhưng Phượng cản lại. Cả bà chủ nhà của Dương cũng nhất định giữ Dương lại, không muốn cho Dương dọn nhà đi. Bà ta sẵn sàng nhường cái bếp cho vợ chồng Dương, hay nếu Dương muốn, sẽ dùng hành lang đằng sau căn gác ấy, sửa lại thành cái bếp. Dương lại phải bàn với Phượng, nhưng Phượng lại khôn khéo đẩy việc đó cho Thư Hương. Khi nói tới chuyện đó, Thư Hương thật ngỡ ngàng, Nàng nói với Dương là chỉ nên ở căn nhã ấy chừng một tháng, rồi về đây sống chung với bố mẹ nàng. Dương sẽ ở chung phòng với Tâm. Thấy đề nghị ấy cũng hay, nên Phượng và Dương đều đồng ý.
Phượng vươn vai đứng dậy :
– Nào, sửa soạn cho cô em gái tôi về nhà chồng…
Thư Hương cúi mặt xuống :
– Có gì đâu mà phải sửa soạn hở chị Phượng ? Em chỉ mang theo một ít đồ đùng, vài bộ đồ thay đổi, một ít sách để học thi… Thời gian có một tháng, chỉ nên coi như một cuộc nghỉ mát…
– Một cuộc nghỉ mát rất tốn sức, và rất tốn tiền.
Thư Hương cười cay đắng :
– Em đã xếp vài ba thứ đó vào một chiếc va-li thật lớn để có vẻ như sắp sửa về nhà chồng. Chiếc va-li của em sẽ được đi một cuộc du lịch vòng quanh Saigon. Từ đây tới nhà cưới. Từ nhà cưới về nhà anh Dương, rồi lại từ nhà anh Dương trở về đây. Thôi thì như thế cũng là đầy đủ sự long đong rồi.
– Cũng còn chưa long đong đâu, Thư Hương ạ.
Phượng kể cho Thư Hương nghe chuyện vợ chồng Hậu và Hằng. Với Thư Hương, thì Hằng không phải là người xa lạ. Thư Hương cũng gặp Hằng vài ba lần, cũng có trò chuyện thân mật. Thư Hương nhận thấy Hằng vui vẻ và sống hạnh phúc. Ạnh Hậu hơi ít nói một chút, nhưng lâu lâu mà nói một câu, thì như cóc mở miệng, làm mọi người phải ôm bụng mà cười. Bây giờ nghe Phượng kể chuyện, Thư Hương mới biết cái túng thiếu và nghèo đói của vợ chồng Hậu và Hằng. Sở dĩ cuộc đời của hai kẻ ấy tươi vui như vậy là vì họ yêu nhau…
Thư Hương hỏi :
– Thế thì yêu nhau mà lấy nhau, cũng có những điều lợi đấy chứ chị Phượng ?…
Phượng cười buồn :
– Chỉ có lợi ở sự chịu đựng. Không thể nào than van với ai được, vì đó là do mình lựa chọn. Không thể oán trách và đổ vạ cho ai. Sướng ở chỗ đó, mà khổ cũng ở chỗ đó. Khi con người mà đau khổ, nếu nói được lên nỗi khổ với người khác, thì nỗi khổ ấy cũng giảm đi được đôi chút. Nhưng nếu cứ cắn răng mà chịu, thì sự đau khổ ấy lắng vào trong tim, thấm vào trong máu, để rồi làm cho con người héo hắt…
– Chị Phượng cứ như một triết nhân…
Phượng dọn dẹp cho gọn căn phòng Thư Hương. Có lẽ đã sửa soạn cho một sự trở lại, nên không mang theo một thứ gì của căn phòng này. Nàng đã dặn chị người làm, ngày mai, nàng đi ra khỏi phòng, thì khóa căn phòng của nàng lại, giữ dùm cho nàng chìa khóa. Để khi nàng trở về, vẫn còn phảng phất mùi hương quen thuộc và vẫn còn những cảnh cũ không xê dịch.
Nàng coi chuyến đi nầy của nàng như một giấc chiêm bao. Một giấc mơ hiền hay mơ dữ, có thế thôi.
Phượng hỏi :
– Bao giờ Thư Hương trở về đây ?
– Cái đó tùy anh Dương, tùy chị Phượng.
Rồi Thư Hương tâm sự :
– Ngày mai căn phòng này sẽ khóa kín. Em sẽ nhốt lại hết kỷ niệm của đời con gái vào đây. Khi nào trở về, em mới mở ra coi lại, coi lại từng kỷ niệm để mà nhớ, mà thương.
Giọng Thư Hương thiết tha. Phượng ngồi trên chiếc ghế dựa, duỗi thẳng hai chân để nhìn thấy những ngón chân đỏ hồng. Ngoài nhà, tiếng chuông đồng hồ dìu dặt điểm mưòi hai tiếng. Thế mà đã nửa đêm…
Phượng đứng dậy, đi về phía công-tắc đèn :
– Tắt đèn nghe Thư Hương !
– Để em bật chiếc đèn ngủ đã.
Một tiếng tách khô khan. Căn phòng chìm vào một màu xanh dịu. Chiếc đèn ngủ, đặt ở đầu giường Thư Hương đặt gọn gàng xinh xắn. Đây cũng là thói quen của một cô gái lãng mạn. Phượng thầm nghĩ như vậy. Với nàng, thì thức phải để đèn thật sáng, và ngủ phải tắt đèn tối thui…
Ánh đèn xanh chiếu lên mặt Thư Hương, càng làm cho người con gái ấy thêm yếu đuối. Phượng lại ngồi xuống ghế. Nàng muốn có một chút yên tĩnh để mặc cho ý nghĩ được tự do phiêu lưu, muốn lạc tới bất cứ một phương trời nào, dù vui hay buồn… Những lúc như thế này, nếu ở nhà, nàng sẽ thầm đọc kinh, chẳng cần biết cầu nguyện cái gì, chỉ biết rằng, đọc kinh như vậy, hồn nàng đỡ lạc lõng, cô đơn.
Thư Hương dục:
– Chị Phượng lên giường thôi chứ. Định ngồi trên ghế suốt đêm nay sao. Ngày mai chị Phượng bận lắm đấy!
Phượng gõ nhịp nhẹ mấy ngón tay trên thành ghế :
– Người cần ngủ nhiều là Thư Hương Còn nếu Thư Hương không thích ngủ thì chúng mình thức nói chuyện với nhau suốt đêm nay.
– Em muốn ngủ quá mà không ngủ được !…
Phượng nói đùa :
– Cô gái nào tới ngày về nhà chồng mà không hồi hộp…
Thư Hương chống tay ngồi dậy… Trong ánh sáng mờ ảo, Phượng nhìn thấy đôi mắt Thư Hương long lanh. Thư Hương nhìn Phượng rồi một lát sau mới nghẹn ngào :
– Đừng mỉa mai em làm gì, tội nghiệp cho em. Chị Phượng không thương em sao mà lại nói với em câu đó. Em mà đi lấy chồng ?… Em đã khổ quá rồi mà chị Phượng nói vậy, lại càng làm em khổ thêm…
Phượng bùi ngùi:
– Phượng tưởng rằng chỉ là một cầu nói đùa chơi. Thôi thì Phượng xin lỗi Thư Hương.
Thư Hương lại đặt đầu lên gối. Mái tóc nổi trên vải trắng và lẫn vào màu đen đó là đôi mắt sáng, nhìn thẳng lên trần nhà. Nhìn nghiêng, Phượng thấy đôi mi Thư Hương nhiều lúc chớp mau như đôi bướm đen đập cánh trên một vườn hoa trắng. Thư Hương nói như người đang nằm mơ:
– Em chỉ mong cho thời gian qua mau. Vài tháng nữa, sinh nở xong, em sẽ trả lại anh Dương cho chị Phượng. Có cháu bé, em sẽ bớt cô đơn… Em sẽ đi làm, nuôi con và có lẽ chẳng bao giờ, em lấy chồng.
Phượng an ủi:
– Thư Hương bi quan với cuộc đời nhiều quá. Nếu cần, Thư Hương cứ để cho Phượng với anh Dương nuôi cháu bé.
Thư Hương vùng ngay dậy :
– Không ai có thể cướp con của em được. Kể cả chị, cả anh Dương. Vì nó, mà chút nữa là hết cuộc đời em. Em đã nhục nhã vì nó, khổ sở vì nó. Em phải giữ nó, để nhìn nó mà nhớ tới những người đã khổ vì em…
Nàng ngừng nói. Một chút thảng thốt làm cho nàng mệt và thấy đau nhói ở tim. Giọng nói của Thư Hương trầm hẳn xuống :
– Trong số những ngưòi đã khổ vì em, có cả anh Dương và chị…
Phượng nhìn Thư Hương và đôi mắt thật xót xa :
– Không, Phượng đâu có ý nghĩ cướp con của Thư Hương. Ý của Phượng muốn nói rằng, rồi đây Thư Hương sẽ phải làm lại cuộc đời. Vướng cháu nhỏ, sợ rằng sẽ cản trở Thư Hương. Nhưng nếu Thư Hương cần, thì Phượng hứa sẽ thương yêu nó như con của Phượng. Vì dù sao, trên giấy khai sinh, tên cha nó, vẫn là tên anh Dương…
Thư Hương thở dài. Trong đêm khuya, tiếng thở dài nghe thật não nề. Một mầm sống, mới chỉ vừa thành hình, đã nhìn thấy một tương lai đầy sóng gió. Dưới làn áo mỏng, hình như đứa nhỏ đang cựa quậy… Thư Hương hơi nhăn mặt và giòng lệ nóng hổi chực muốn trào ra. Con ơi ! Mẹ sẽ thương yêu con, để cho con phải được sung sướng như những kẻ có cha, có mẹ. Nàng cười, một nụ cười thật thảm :
– Em cám ơn chị Phượng đã nghĩ tới em, nghĩ tới cháu. Em sẽ dạy nó nói, những tiếng đầu của nó tập nói sẽ là tiếng mẹ, rồi tới mẹ Phượng, bố Dương. Cho nó gọi anh Tâm của em bằng bố luôn, chứ không gọi bằng bác. Như vậy nó sẽ có hai mẹ, hai bố. Đời nó chắc sướng hơn…
Nghe Thư Hương nói vậy, Phượng vừa thấy thương Thư Hương, vừa muốn cười thầm một cô con gái khuê các như Thư Hương, đâu biết được những câu ca dao, tục ngữ. Thì đã nói, nhà Phượng ở gần chợ của một xóm di cư mà. Những đứa nhỏ bị cha mẹ mắng là “đồ năm cha, ba mẹ “, tuy rằng chẳng hiểu câu đó có ý nghĩa gì, nhưng chắc cũng không đẹp đẽ gì cho lắm. Bây giờ lại thấy Thư Hương định tập cho con, một đứa con chắc chưa có đủ hình người gọi hai người là bố, hai người là mẹ. Nghĩ tới đó, bất giác Phượng mỉm cười…
– Tai sao chị Phượng lại cười ?…
Phượng chống chế :
– Phượng cười vì thấy Thư Hương lo xa quá. Hãy nên lo đến những chuyện gần hơn. Ngày mai, là đám cưới, phải cố ngủ đi mà lấy sức để chào hai họ. Còn vài tháng nữa thì phải cố làm sao mà ra trường, đậu cao để mà lựa chỗ tốt. Còn về chuyện khác là những chuyện về sau. Đừng có đặt cái cày trước con trâu…
Thư Hương cũng mỉm cười:
– Hai chuyện đáng lo thì đã có người lo cho rồi. Về chuyện đám cưới ngày mai, thì chị Phượng đã lo hết rồi còn gì. Còn về chuyện thi cử và ra trường thi lại có anh Dương. Luật của hành chánh là chồng làm ở đâu thì vợ có quyền tòng phu.
Thư Hương nói như vậy với một giọng đầy bi thảm. Nhưng Phượng lại bàng hoàng. Vì Phượng biết Dương đang xin đi Phi Đoàn, hay đổi đi bất cứ một nơi nào, để tránh phải ở chung một nhà với Thư Hương. Hơn nữa, Dương cũng muốn xa cái không khí bàn giấy mà Dương đã chán ghét đến cùng cực. Đã nhiều lần, Dương kể những nỗi chán nản cho Phượng nghe.
Bốn bức tường bàn nơi giấy cứ càng ngày càng thu hẹp lại để rồi một ngày nào đó ép chặt con người bẹp dí. Khoảng không gian chỉ còn một mảnh vuông vắn của khung cửa sổ, thì lại bị che lấp vì những căn nhà đang xây cất. Tính phóng túng và thích tự do của Dương không cho phép chàng ngồi lì mãi ở đây.
– Anh Dương đang làm ở Sàigòn. Chỉ cần nạp cái chứng chỉ tại ngũ và cái giấy chứng nhận của đơn vị trưởng, thì dù cho Thư Hương có đậu hạng chót, cũng vẫn được ở Saigon. Cái nghề dạy học nó kỳ lắm. Ngồi ở đâu là chết dí luôn ở chỗ đó. Đã dạy ở Sàigòn, nhất lại là cô giáo, nếu không làm đơn xin đòi đi, thì có thể ở đây cho tới lúc xin một mảnh đất tại nơi nghĩa địa Thánh Tây.
Phượng rùng mình… Nàng yên lặng nghe tiếng đêm buồn lặng nhỏ giọt. Vì đã đến giờ giới nghiêm, nên tiếng động cơ xe hơi không còn vọng vào từ con đường lớn. Nỗi lo của nàng , có lẽ thành sự thật mất thôi… Một người đàn ông và một người đàn bà sống chung với nhau dưới một mái nhà, lại có danh nghĩa là vợ chồng, dù cho giữ lòng như ngọc, cũng không thể nào không thở dài trong những lúc đêm khuya. Một cái tặc lưỡi, một phút bốc đồng, cũng đủ phá vỡ hết những sự gìn vàng, giữ ngọc. Phượng nhếch mép cười chua chát. Mà nào có còn là vàng, là ngọc gì nữa đâu. Nàng cúi đầu xuống để không phải nhìn Thư Hương, nhìn cái sắc đẹp khắc khoải u buồn ấy để cho lòng thêm não nuột. Thời gian như dài ra lê thê mệt mỏi. Phượng muốn có một tiếng động nào đó, một tiếng nổ ầm lên phá vỡ cái tịch mịch đêm khuya, cũng như phá vỡ những ý nghĩ đen tối đang vướng vít như những sợi tơ mỏng mà bền, trói chặt lấy khối óc thích suy nghĩ của nàng…
Bây giờ Dương đang làm gì ? Buổi chiều, Dương có hứa với nàng là sẽ lo công việc cho xong sớm, để ngủ một giấc thật dài không mộng mị. Công việc mà Dương lo, chỉ là việc đi mướn hai chiếc xe kết hoa, dùng cho đám cưới. Tới nhà những người bạn có xe hơi, nhờ họ đi dự đám cưới ngày mai, cho đẹp mặt với thiên hạ. Công việc đó thật dễ đối với Dương… Phượng thì thầm với bóng đêm, đọc vài câu cầu nguyện, mái tóc dài của nàng vướng lên khuôn mặt.”Phượng sẽ chải những sợi tóc này, nối liền với nhau, làm thành một con đường đưa Phượng tới gần anh”. Phượng tự nhiên, mỉm cười. Sống cái không khí này, cạnh người con gái như Thư Hương, mình cũng đâm ra lãng mạn, lẩm cẩm rồi sao ?…
Phượng nhìn sang Thư Hương. Người con gái bé nhỏ đã nhắm mắt lại, ngực lên xuống phập phồng, làm rung nhẹ làn vải mỏng. Nàng đưa chân tìm đôi dép, làm thành một tiếng động nhẹ. Thư Htrơng mở mắt ra:
– Chị Phượng vẫn chưa đi ngủ sao.
– Không, Phượng vẫn ngồi trên ghế. Từ nãy tới giờ Thư Hương cũng chưa ngủ sao ?
Thư Hương xoay mình nằm nghiêng :
– Cả mấy tháng nay, em không lúc nào ngủ được yên giấc. Cứ chập chờn trong tình trạng nửa tỉnh, nửa mê. Tuy rằng nhắm mắt, nhưng một tiếng động nhẹ cũng đủ làm thức giấc. Nhiều đêm, em mong có một người ngồi nói chuyên với em…
Phượng an ủi :
– Thư Hương phải cố ngủ nhiều giữ sức khỏe cho cháu bé. Những lúc này, Thư Hương phải nghĩ nhiều tới cháu bé.
– Em cũng biết vậy, nhưng không làm sao mà trở lại trạng thái bình thường. Em định nhờ chị Phượng…
Nghe Thư Hương nói vậy, Phượng lại thấy buồn. Thư Hương nhờ Phượng giúp Thư Hương trở lại trạng thái bình thường, mà chính Phượng, Phượng đang muốn như bất bình thường… Có lẽ từ đêm nay, Phượng rất khó tìm lại được giấc ngủ yên lành.
Mắt Phượng như mờ hẳn đi. Cảnh vật trước mắt như mông lung mờ ảo. Hình ảnh Thư Hương nằm trên giường, lãng đãng như đám mây trắng trôi trên nền trời… Phượng chớp mắt nhiều lần mới thấy rõ khuôn mặt u buồn của Thư Hương. Phượng than thở như nói thầm với chính minh :
– Làm thân con gái thật khổ.
Thư Hương hỏi lại :
– Chị Phượng nói gì ?
– Phượng nói rằng, làm thân con gái như chúng mình, chịu nhiều thiệt thòi. Những đêm mất ngủ người đàn ông có nhiều cách để tìm giấc ngủ. Anh Dương, cứ khi nào mà không ngủ được, lại đi uống rượu cho thật say. Lúc về đến nhà là lăn lên giường ngủ như chết. Chúng mình thì không có quyền làm như vậy. Một người đàn bà con gái, say rượu trông xấu lắm.
Im lặng một giây, Phương nói tiếp :
– Nếu có những lúc trống vắng như lúc nầy, đàn ông họ ngồi một mình, hút thuốc lá, cũng đủ ấm được một chút tâm sự. Chúng mình lại không làm được.
– Em vẫn thấy có nhiều người con gái, hút thuốc nhiều không kém đàn ông.
– Tiếc rằng những người con gái ấy không phải là Phượng và Thư Hương.
Phượng nói câu đó với một giọng tràn đầy hãnh diện. Nhiều lúc tự nghĩ, nàng cũng thấy một chút tự hào là mình chưa sa ngã.
Thời gian về trước khi nàng và Dương giận nhau, nàng cũng đã lăn mình vào những trận vui thâu đêm trận cười suốt sáng. Nàng cũng từng uống rượu say để chợt khóc, chợt cười, tụt giày ra, nhảy chân không trên sàn nhảy, cạnh những tên đàn ông, với những đôi mắt cú vọ rình rập. Nhưng nàng vẫn còn tỉnh táo ở nơi chót tận cùng của khối óc. Một sự đụng chạm khác lạ, một câu nói bóng gió, cũng làm cho nàng chợt bàng hoàng, để về với cái lương tri bừng sáng. Nhiều tên đàn ông đã tán tỉnh nàng không được, thêu dệt nên những lời đồn đại đầy chất cay độc… Những lời đồn đại đó, một hôm đã tới tai nàng, để cho nàng ý thức được rằng sự hành hạ thân xác, sự lao đầu vào lửa để tìm quên, sẽ làm cho nàng rơi vào một hố sâu rách nát, bốn bề tối đen cả ở trước mặt lẫn sau lưng… Nàng ngừng ngay những trò chơi nguy hiểm. Mới đầu, thói quen cũng làm cho nàng khó chịu, nhưng rồi sau, nàng đã là một kẻ chiến thắng.
Nàng rất mừng, vì biết rằng nếu cứ tiếp tục mãi, nàng sẽ chẳng còn tự hào gì, khi gặp lại Dương, để nối tiếp mối tình đẹp như bây giờ.
Thư Hương cắt đứt luồng tư tưởng của Phượng :
– Chị Phượng lên giường nằm. Chị cứ ngồi ở ghế với nét mặt bất động như thế, em tưởng rằng chị đã hóa đá.
Phượng lại uể oải đứng dậy :
– Ừ, cho lẽ cũng phải nên nghỉ một chút cho đỡ mệt.
Phượng vươn vai cho đỡ mỏi.
Người Phượng rướn lên, làm xô lệch chiếc áo mỏng và rộng. Bóng Phượng in lên tường cao lớn, lừng lững. Con thằn lằn trên trần nhà, tắc lưỡi kêu lên một tràng dài. Phượng dơ tay xé tờ lịch :
– Sang tới ngày của Thư Hương rồi ..
Thư Hương thở dài :
– Tờ lịch này sẽ nằm lâu nhất trên cuốn lịch. Từ ngày mai, em sẽ không xé lịch nữa. Cho tới khi nào, em trở về đây với một thân xác và tâm hồn hoàn toàn là của em, lúc đó, em sẽ thay một cuốn lịch mới, và cất cuốn lịch này đi, coi như một kỷ niệm.
Người con gái này còn khổ nhiều, Phượng nghĩ như vậy. Thư Hương chưa biết tập quên. Đời ngườì con gái mà cứ để cho những sợi giây kỷ niệm trói chặt lấy con tim, thì trái tim làm sao có thể đập được những nhịp bình thường. Phượng nằm xuống giường rồi cũng nhìn lên trần nhà. Màu trắng của trần nhà như dần dần sa xuống thấp, để rồi trùm lên đôi mắt Phượng một màu đục mênh mông…
CHƯƠNG IX
Thời gian cứ qua đi, thật lãnh đạm và vô tình. Cây trứng cá mà Dương trồng nơi cửa bước lên thang lầu, ngày mới tới mướn căn lầu này, lá đã mọc xum xuê, cành đã đầy trái, là chỗ dụ dỗ con nít tới leo trèo hàng ngày. Cuộc đời mọi người cũng chẳng có gì thay đổi. Chỉ khác một chút là căn lầu này bị chật đi một chút, vì có thêm một chiếc giường lớn. Chiếc giường ấy là giường tân hôn đấy, nhưng chẳng bao giờ được đón tiếp đôi vợ chồng. Thư Hương thì bên nhà Phượng nhiều hơn. Những lúc về sau này, vì cái thai đã lớn, nên Thư Hương đi lại thật khó khăn. Dương có khuyên Thư Hương nên về nhà mẹ, vì ở đó, có đầy đủ tiện nghi, nhất là có mẹ nàng săn sóc cho nàng trong lúc đêm hôm tối trời. Nhưng Thư Hương từ chối. Nàng cho rằng ở đây cũng đã tốt lắm rồi. Có bà chủ nhà lúc nào cũng săn đón hỏi thăm bà Trung úy, ngày nào thì đập chum. Bà chủ nhà, chẳng mấy lúc mà thành bạn thân của Thư Hương, vì tính Thư Hương hiền lành và tốt nhịn. Nghe thấy bà Trung Úy sắp ra trường làm giáo sư, bà chủ nhà lại càng kính trọng. Thằng con lớn, đang ở một trường Trung Học công, cũng biết Thư Hương vì mỗi tuần, Thư Hương có mấy giờ thực tập sư phạm tại lớp nó. Bởi vậy, khi nghe con trai nói chuyện, bà chủ nhà thường lên chơi những lúc Dương vắng nhà, ngồi kể chuyện, rồi sau cùng, nhờ Thư Hương dạy dỗ thêm cho mấy đứa con. Thư Hương vui vẻ nhận lời…
Thư Hương cười rồi bảo với Dương:
– Anh cứ lo công việc của anh, coi như là chưa có mặt em ở đây. Việc của em để em tự lo liệu lấy. Chị Yến, chị Loan, chị Phượng lo cho em là quá đủ rồi…
Có một lần sang nhà Phượng, một cảnh đã làm cho Dương cảm động. Bốn người con gái đang xúm nhau lại, khâu vá rất chăm chỉ. Nhìn trên tay họ, thì thấy những chiếc tã lót, những chiếc áo nhỏ thật xinh. Những hình vẽ thêu bằng chỉ xanh, nổi bật trên những miếng vải trắng.
Những người con gái ấy từ nhỏ cho tới bây giờ, chỉ may quần áo cho búp bê. Bởi vậy, khi sửa soạn cho một đứa bé thật, một con búp bê biết khóc, biết cười, họ rất tận tâm với đường kim, mũi chỉ. Bàn tay của chị Yến thoăn thoắt đưa kim.
Dương hỏi:
– Tại sao không cho lên máy may mà đạp một hồi, có phải lẹ hơn không ?
Yến trả lời, mắt không rời những mũi kim:
– Quần áo của con nít, may bằng máy, sợ rằng đường chỉ cứng quá, làm đau nó…
Loan đã khâu xong một chiếc áo. Nàng cầm lên, dơ về phía trước mặt. Chiếc áo chỉ lớn hơn bàn tay có một chút xíu. Loan cười, hỏi Dương :
– Đặt tên cho con là gì, thì nói cho người ta biết để còn thêu tên vào áo.
Dương cười:
– Cái đó, Loan nên hỏi Thư Hương. Đặt tên cho đứa nhỏ là gì, thì là quyền của Thư Hương.
Thư Hương cúi mặt xuống :
– Em định để anh và chị Phượng cái trách nhiệm đó. Coi như một kỷ niệm. Thôi thì mẹ Phượng đặt tên cho con đi.
Dương lúc đó mới nhìn sang Phượng, và nhận thấy Phượng buồn. Hôm nay, Dương định sang báo cho Phượng một tin vui. Chàng vừa được lệnh thuyên chuyển trở lại Phi Đoàn để đi bay lại. Còn phải qua một kỳ tái khám sức khỏe, nhưng Dương biết rằng chàng sẽ qua một cách rất dễ dàng.
Chiến tranh hồi nầy đã đến thời kỳ quyết liệt. Quân chủng của chàng đang thời bành trướng, đang mở nhiều lớp huấn luyện để đào tạo hoa tiêu. Vì vậy người ta không bỏ phí một hoa tiêu nhiều giờ bay như chàng. Dương cũng chẳng nghĩ ngợi gì nhiều. Cứ về bay lại, gặp lại những người bạn cũ ngày xưa là cũng đủ mừng rồi.
Hơn nữa, chàng muốn tránh phải ở chung một nhà với Thư Hương. Lên tới Phi Đoàn chàng sẽ sống lại cuộc đời độc thân như ngày nào, bên cạnh những bạn cũ như Tâm, như An, và những người bạn mới mà chàng chắc là sẽ dễ dàng thân thiết. Những người cùng sống với nhau một nghề nguy hiểm rất dễ yêu mến lẫn nhau…
Chàng nhìn thấy đôi mắt của Phượng thật xa vắng mênh mông. Lúc chàng vừa tới, Phượng chỉ ngước mặt lên, nhìn chàng, môi chỉ hơi nhếch mỉm cười để thay cho một câu chào. Dương không hiểu nổi được nỗi buồn của Phượng. Mà Phượng cũng chẳng hiểu được tại sao Phượng buồn. Nàng vẫn có những ngày trống vắng như thế, nhất là sau ngày cưới Thư Hương và Dương.
Nàng thường có những lo sợ vẩn vơ, dù biết rằng Dương vẫn yêu nàng, biết Thư Hương vẫn cam phận coi nàng như một người ơn. Nàng có cảm tưởng như một cánh chim gặp một cơn gió mạnh. Cơn gió ấy có thể đưa cánh chim lên cao mà cũng có thể làm cho chim gãy cánh, rơi xuống đất để gãy nát một cách thê thảm. Thấy Thư Hương hỏi vậy, Phượng cười buồn:
– Nào đã biết là con trai hay con gái mà đặt tên…
Thư Hương vẫn nhí nhảnh :
– Thì chị Phượng cho nó một cái tên. Con trai hay con gái, chỉ khác nhau có một chữ lót ở giữa. Nếu là con trai thì lót bằng chữ “văn”, còn con gái thì lót bằng chữ “thị”.
– Văn với thị, quê một cục…
– Quê hay không quê, thì cũng cứ được đi…
– Nhưng thí dụ đặt tên là Dũng, con gái lại là Thị Dũng được à ?
– Cũng được chứ sao không.
Nghe Thư Hương cố cãi lấy được, Dương cũng thấy vui. Thư Hương như người đã đổi xác. Từ một người con gái âm thầm lặng lẽ, Thư Hương đã biến thành một cô gái hay cười hay nói, nhiều khi còn nói nhiều hơn cả Yến, Loan và Phượng. Có lẽ Thư Hương được rời khỏi căn nhà âm u, đầy khói hương trầm, và những người sống như những chiếc bóng.
Về đây, gần những người quấy phá, đùa nghịch như Yến, như Loan, như Phượng, nhất là Phượng, thì Thư Hương không có quyền buồn. Thư Hương như một con sâu, thay lốt bướm. Con sâu thì nằm yên, còn khi đã mọc được đôi cánh sặc sỡ để hóa bướm thì bay nhởn nhơ. Thư Hương không về nhà, có lẽ cũng vì vậy.
Thư Hương nắm lấy tay Phượng đặt lên bụng :
– Nó đạp khỏe quá, chị Phượng có thấy không? Em chắc nó là con trai. Ông tướng này cũng phá ghê gớm lắm…
Phượng đặt tay lên làn vải mỏng, phủ ngoài chiếc bụng lớn của Thư Hương, cũng cảm thấy một mầm sống nhè nhẹ cử động dưới bàn tay mình. Nàng đưa tay về cầm lấy kim, khâu thêm vài ba mũi nữa. Phượng nghĩ tới một ngày nào đó, nàng cũng sẽ có con, đứa con được tạo thành do tình yêu của nàng và Dương.
Không hiểu rằng lúc đó, những người con gái ngồi quanh đây, có còn tụ họp đủ mặt, để bận rộn may áo cho con nàng? Phượng chắc nàng sẽ còn đủ cả. Nếu thiếu, thì chắc là thiếu Loan, vì Loan được học bổng, sắp đi du học. Có lẽ thiếu cả Thư Hương, vì lúc đó, biết đâu Thư Hương không có một cuộc đời khác bận rộn hơn, không thể có mặt được. Chỉ còn lại chị Yến vì chị Yến đã cam chịu là một thứ gái già, lại tình nguyện ở nhà để hầu hạ mẹ và các em. Nhưng rồi lũ em chỉ còn lại chú Vinh, mà chắc đâu Vinh đã ở nhà, để cho chị Yến hầu hạ? Mãi suy nghĩ nàng đã khâu vụng mất vài ba đường chỉ.
Dương hỏi Thư Hương:
– Tới bao giờ thì Thư Hương thi ra trường ?
– Còn ba tháng nữa…
Rồi Thư Hương cưòi thật tươi :
– Em có học hành gì đâu mà thi với cử. Nhưng em cũng định lợi dụng mấy tuần lễ nằm ở nhà bảo sanh, mang sách vào coi qua một chút, để còn có một tí chữ nghĩa đi thi. Nhưng nghe nói, mấy bà Sơ ở Saint- Paul khó lắm, không cho mấy bà đẻ được coi báo, đọc sách…
Dương nói với Thư Hương nhưng mắt vẫn nhìn Phượng:
– Anh không đưa Thư Hương đi thi được rồi…
Những lúc về sau nầy, Dương thường đưa Thư Hương đi học, vì thấy bụng Thư Hương đã lớn, không thể đi bộ hay đi một thứ xe nào khác. Ngồi sau Vespa của chàng, Thư Hương thấy thoải mái hơn, nên Dương dù bận còng việc, vẫn đưa Thư Hương tới trường rồi lại tới đón Thư Hương về. Trông bề ngoài thì cặp vợ chồng ấy thật là hạnh phúc nhưng biết đâu họ sống như một đôi anh em. Không ai dám phá bỏ công trình của mình, để làm đau lòng một người con gái khác, mà mình yêu thương. Thấy Dương nói vậy Thư Hương trả lời :
– Lúc đó em khoẻ, có thể đi một mình được rồi. Nhưng anh Dương cũng nên đi cùng với em, để coi em thi đậu hay rớt chứ. Hôm đó, em định rủ cả nhà cả chị Phượng, chị Yến, chị Loan đi để ủng hộ tinh thần cho em..
Loan nói ngay :
– Tôi rất tiếc là tháng sau tôi lên đường rồi.. Nếu còn ở lại, không chừng tôi cũng xin đi dạy học khế ước, cùng trường với Thư Hương cho vui.
Chị Yến hỏi Dương :
– Còn Dương có lẽ vì môt lý do khác ?
Dương chậm chậm trả lời:
– Tôi vừa được giấy đổi đi Phi Đoàn, bay lại. Cũng chẳng đâu xa, chỉ cách Saigon có ba chục cây số.. Nhưng như thế cũng là xa rồi. Ở đây với chị Yến, với Loan, Phượng chừng nửa tháng nữa thôi…
Ánh mắt Phượng chợt sáng lên, vui mừng. Nàng nhìn Dương, như muốn nói thầm một lời cám ơn. Dương đã vì nàng mà xin đi khỏi nơi dây, để cho nàng yên chí là Dương vẫn là của nàng, vẫn thuộc về nàng.
Phượng cũng hơi buồn, vì nếu Dương đi, Thư Hương lại phải về nhà, sống lặng lẽ như trước kia, không còn những lúc sum họp như thế nầy nữa. Phượng liếc nhìn sang Thư Hương, thì thấy ngưòi con gái ấy cúi mặt xuống, thoáng một chút ưu tư. Có lẽ Thư Hương đang luyến tiếc những ngày vui qua mau.
Thư Hương nhìn sang Phượng, thì cũng bắt gặp đôi mắt Phượng đang nhìn mình. Cả hai người con gái đều tránh nhau, cúi mặt xuống. Thư Hương có cảm tưởng như trong vụ Dương đòi di xa nầy, có một điều gì mờ ám. Nàng nghi cho Phượng, đã xúi dục Dương, bắt buộc Dương phải xa nàng. Ấy là nàng đã nghi oan cho Phượng, vì Phượng đâu có dính dáng gì đến chuyện nầy.
Dương đã có ý định xin đi bay lại đã từ lâu, từ ngày còn nằm ở nhà thương, sau một tai nạn phi cơ, được lệnh thuvên chuyển về một bàn giấy ở Saigon. Nhiều lúc Dương cũng đã thổ lộ nỗi bực dọc ấy cho Thư Hương biết. Với tính tình phóng khoáng và thích tự do như Dương, văn phòng là một nhà tù. Sống ở đây, Dương như con cọp trong vườn Bách Thú, như con chim bị nhốt trong lồng. Tới bây giờ được trở về với anh em, Dương như cá gặp được nước, sẵn sàng vẫy vùng biển khơi… Tuy rằng biết vậy, nhưng Thư Hương vẫn bất bình. Từ mấy tháng nay, nàng đã sống một cuộc đời thật đẹp, thật vui. Cứ tưởng rằng đời nàng cứ tiếp tục như thế này mãi mãi, nào ngờ chỉ một biến cố nho nhỏ nầy, cũng đưa nàng tới một sự đổi đời. Biết đâu từ đây là sóng gió lại nổi lên rồi.
Thư Hương là một loài chim bé nhỏ. Rất sợ dời đổi.Trước ngày đám cưới, nàng đã hoang mang rất nhiều, cảm thấy như mình được tung ra ngoài trời bão to. Nhưng rồi trời êm, biển vẫn lặng, mà cuộc đời mới lại thích thú hơn cuộc đời cũ… Nàng đã tưởng yên thân, nhưng nếu Dương đổi đi, nàng lại bắt đầu một cuộc đời mới nữa…
Thư Hương hỏi Dương :.
– Anh sẽ trả lại căn lầu cho bà chủ nhà ?
– Nhất định như vậy rồi . Không ở đây thì giữ lại căn lầu đó làm gì phí tiền. Thư Hương nên về nhà ở với mẹ. Những thứ gì trong căn lầu đó mà Thư Hương thấy thích, cứ việc lấy mang đi. Còn lại, anh sẽ tặng luôn bà chủ nhà, coi như một món quà… giao duyên văn nghệ.
Phượng xen vào :
– Phượng sẽ dọn về nhà này hết. Anh đừng mang cho. Ít lâu nữa lại phải mua, thì tốn tiền lắm. Phượng dùng thừa đồ dùng của Thư Hương cũng được quá rồi…
Thư Hương bỗng thấy tủi thân. Đối với mọi người, thì nàng là vợ Dương, ấy vậy mà Phượng lại nói đến chuyện tương lai, chuyện chung sống của Phượng và Dương… Thì ra nàng vẫn là kiếp tầm gửi. Người ta dàn xếp tương lai cho nàng vì lòng thương hại, vì người ta nghĩ rằng, nàng là một đứa con gái yếu đuối, không thể an bài được cuộc sống.
Thì nàng cũng đã tự nhận như vậy, vì một thời, nàng không còn nghĩ được phương kế, đành mượn ống thuốc ngủ giải quyết cuộc đời. Những người ở quanh đây, đối với nàng là ân nhân. Nàng không có quyền giận ghét. Tuy rằng nghĩ như vậy, nhưng Thư Hương vẫn thấy lòng sôi nổi, bốc hờn.
Nàng thấp giọng, nói trong tiếng thở :
– Nếu có thể được, anh Dương cho em giữ lại căn lầu ấy. Em thích cái xóm nầy, để gần chị Phượng, chị Loan, chị Yến. Bà chủ nhà đối với em cũng tốt lắm, Em chưa muốn rời nơi đây.
Dương nhìn Thư Hương :
– Em không thể nào ở một mình một nhà như thế. Một người con gái đứng đắn, nếu cha mẹ còn sống, không thể nào ở một mình. Nhất là sắp sửa tới ngày sinh nở. Phải có mẹ trông nom cho em…
– Thì em đã có chị Yến, chị Loan, chị Phượng…
– Cũng không thể nào bằng mẹ được. Anh muốn rằng, anh đi, không có một chuyện gì ân hận. Điều anh lo nhất là Thư Hương, về chuyện sinh nở của em, về chuyện thi cử của em.
Thư Hương vẫn cúi đầu cam phận :
– Em cám ơn anh nhiều lắm. Nhưng nếu em về nhà, em sẽ buồn lắm…
Dương khuyên nhủ Thư Hương, với một giọng của người anh trai, nói với một cô em gái, không phải là lời nói của người chồng nói với người vợ. Cũng êm dịu, cũng âu yếm, nhưng cái êm dịu và âu yếm ấy không nồng nàn, lộ liễu. Dương cũng có mấy cô em gái, mà mỗi lần nghĩ tới thì lại thương chúng nó vô cùng.
Ngày còn đi học ở nhà, chàng và mấy đứa em, mỗi tháng được phát một số tiền nhất định, để chi tiêu cho cả tháng. Số tiền đó, đối với chàng không thấm vào đâu, nhưng lũ em gái lại để dành được. Chàng chỉ dùng số tiền ấy được chừng mười ngày, rồi sau những ngày đó, phải vay mượn của lũ em gái
Vay để không bao giờ trả lại. Những lúc về sau này, các cô em gái không cho vay nữa, thì chàng đã làm một công việc rất xấu là… tự ý cầm tiền trước, rồi thông báo sau. Mấy đứa em gái bị mất tiền, đã khóc, rất đáng thương… Tới khi chàng đi làm, có tiền để có thể trả lại cho em gái, thì lại không còn em gái. Gia đình chàng ở lại ngoài Bắc. Tình thương yêu em gái của những ngày xưa, bây giờ Dương dành cho Thư Hương.
Phượng và Thư Hương đang ngồi cạnh nhau, nhưng chắc rằng cả hai không có cùng một ý nghĩ. Từ khi Thư Hương tập nói nhiều, sống thật vui vẻ hồn nhiên, thì Phượng lại ít nói hẳn đi,, và có vẻ chín chắn, già dặn. Dương không muốn cho Phượng phải như thế. Nhiều lúc, Dương đã trách Phượng làm cho mọi người mất vui vì Phượng, thì Phượng chỉ ngồi im, nhìn về một phía thật mênh mông, đôi mắt thật xa vắng. Hình như những lời nói của Dương không lọt được vào tai Phượng. Từ lúc Dương đến cho tới lúc này, Phượng mới chỉ nói một câu.
Thư Hương cũng cảm thấy cái không khí đang vui, như trầm hẳn xuống. Nàng ngồi thẳng người lên, ngừng tay kim rồi hỏi lại Phượng :
– Chị Phượng vẫn chưa đặt tên cho cháu ? Ai cũng muốn giao cho chị Phượng trách nhiệm mà chị Phượng có vẻ sợ trách nhiệm ?…
Tiếng Phượng vẫn đều đều phát nản :
– Nào Phượng có sợ gì đâu. Chẳng qua chỉ ngại một chút là mình đặt cho đứa bé một cái tên xấu, rồi nó cứ phải mang cái tên xấu suốt đời. Khi được người lớn kể chuyện lại, không chừng nó sẽ oán trách kẻ đặt tên…
– Chị Phượng cứ nói vậy,..
– Đó là kinh nghiệm bản thân của mình đấy, Thư Hương ạ. Anh Cả của mình có kể chuyện là lúc mới đẻ Phượng, bố mẹ định đặt tên là Phụng. Nhưng ông anh viết giấy khai sanh, sửa lại tên cho mình là Phượng. Mình vẫn cám ơn anh Cả về chuyện này. Vẫn biết rằng Phụng hay Phượng thì cũng thế, nhưng Phượng có vẻ học trò hơn. Nếu tên là Phụng thì tương lai có thể nổi tiếng, vì đã thành một cô đào cải lương…
Phượng cười khi nói câu đó. Thư Hương và Yến, Loan cười theo. Như một bông hoa nở báo hiệu mùa xuân, nụ cười của Phượng làm tan đi cái không khí giá lạnh. Nụ cười của Phượng đã tươi, không còn gượng ép. Trong tâm tư của Dương như được đốt lên một ngọn lửa yêu đời, Dương góp chuyện:
– Thì Thư Hương cứ đưa ra một cái tên, rồi mọi người bàn cãi. Sau cùng lấy biểu quyết…
Thư Hương làm ra cái điều nghiêm trang:
– Em nghĩ được một cái tên rồi. Với cái tên này thì có thể đặt tên cho cả con trai và con gái. Hơn nữa lại có liên quan tới chị Phượng. Em sẽ đặt tên cho nó là Hoàng vì em nghĩ tới khúc nhạc ” Phượng Cầu Hoàng”. Phượng Hoàng, một loài chim đẹp…
Phượng phản đối :
– Tên con gái là Hoàng có vẻ không được êm tai…
– Nếu con gái, thì sẽ kiếm cho nó một chữ đệm lạ tai một chút là xong ngay. Hôn Hoàng chẳng hạn. Lấy thơ trong truyện Kiều của Nguyễn Du đấy, chị Phượng ạ. “Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”…
Trong phòng có bốn người, chẳng ai kịp trả lời Thư Hương. Còn Dương thì đốt một điếu thuốc lá, mỉm cười một mình. Chàng có một thằng bạn nhà văn cũng đặt tên cho con gái, có chữ đệm giống như vậy. Đến lúc học tới những lớp trên, cô con gái ông nhà văn bị lũ bạn bè con trai trêu chọc bằng cách gọi tên thật lớn. Đứa con gái bé nhỏ ấy đã khóc nhiều lần và trách bố.
Thư Hương nhìn Dương và hỏi :
– Anh Dương nghĩ sao về cái tên đó ?… Nhất định anh Dương có ý kiến rồi.
Đang mải nghĩ ngợi về thằng bạn nhà văn, Dương giật mình khi nghe câu hỏi của Thư Hương. Chàng đành phải trả lời một cách ồn ào.
– Anh mong cho Thư Hương đẻ con trai…
– Tại sao vậy ?
– Vì anh không muốn cho đứa con gái phải mang cái tên Hôn Hoàng…
Thế là Thư Hương thua, thua đậm nữa là đằng khác. Nghĩ được cái tên Hoàng, để cho vần với tên Phượng để mỗi lần nhắc tới Phượng Hoàng, là nhớ tới cả một thời đoàn tụ vui vẻ, mà tất cả mọi người đều như muốn xúm lại bác bỏ. Sự tức tối làm cho Thư Hương đỏ bừng mặt. Thấy vậy, mọi người càng muốn làm cho Thư Hương tức tối thêm. Nhất là Dương, chàng thêm vào một câu :
– Thôi, Thư Hương nghĩ một cái tên nào khác đi…
Thư Hương bướng bỉnh :
– Em nhất định đặt tên con em bằng cái tên đó. Hoàng Hôn hay Hôn Hoàng, có nghĩa là buổi chiều. Những thi sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ đều gợi hứng khi chiều xuống. Những bản nhạc tả cảnh chiều như Sérénade, Sérénata, Dạ khúc, Chiều tím, Hình ảnh một buổi chiều, là những bản nhạc hay…
Dương cười vang :
– Thư Hương nhắc tới những bản nhạc hay, những bài hát, lại làm cho anh nhớ tới một nhân vật trong chuyện Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng. Cô ta cũng tên là Hoàng Hôn. Sở trường về ca hát của cô ta là bài ” dè đơ là múa”. Tôi có hai tình yêu. Tình yêu chồng tôi và tình yêu người tình của tôi. Vũ Trọng Phụng đã tả rằng cô ta hát bài hát đó một cách rất véo véo, von von. Tên cô ta cũng là Hoàng Hôn đấy.
Thư Hương lại càng bướng bỉnh :
– Về văn thơ thì hình ảnh của Chiều cũng được ghi lại nhiều. Em thích nhất là câu “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Rồi ở trong truyện Kiều như em đã học hồi nãy, để chỉ về thời gian. “Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”. Rồi thì ca dao, một thứ thơ tuyệt diệu. “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều, nhớ người áo trắng, khăn điều vắt vai”. Em chịu tên Hoàng. Con em sẽ có tên là Hôn Hoàng…
Thư Hương xoa nhẹ tay vào bụng, chớp mắt ra cái điều mơ mộng :
– Mẹ đặt tên cho con là Hôn Hoàng nhé…
Cử chỉ của Thư Hương đã làm cho mọi người không nhịn đựợc cười. Phượng bĩu môi:
– Đúng là đặt cái cày trước con trâu. Đã đẻ đâu mà bàn cãi đến chuyện đặt tên. Cứ lúc nào cũng nghĩ đến tên con là Hoàng, rồi đẻ con ra thế nào nó cùng vàng như nghệ.
Thư Hương đứng đậy, vươn vai:
– Thì mình là giống da vàng mà… Mỏi lưng quá ! Giá mà chị Phượng đấm cho vài phát lên lưng thì tuyệt quá !…
Thư Hương vẫn còn như con nít, thích được bạn bè chiều chuộng, hầu hạ. Nhìn cảnh bốn người con gái vui vẻ, thân mật với nhau như thế này, Dương bỗng cảm thấy bồi hồi. Rồi có được như thế này mãi hay không ?…
Chàng không dám vẽ một tương lai quá xa vời. Ngày sinh nở của Thư Hương càng gần tới chừng nào, thì Dương càng cảm thấy sự tan vỡ tiến gần tới chừng ấy… Rồi đây, hai người con gái là Phượng và Thư Hương sẽ phải quyết liệt với nhau vì chàng. Chắc chẳng đến nỗi nào. Những sự linh cảm bén nhậy của chàng, làm cho chàng e ngại. Những lúc về sau này, chàng nhận thấy Thư Hương có vẻ quyến luyến chàng, săn sóc tới chàng hơi kỹ. Nhiều lúc, chàng phải tỏ ra lạnh nhạt, âu yếm Phượng trước mặt Thư Hương, để cho Thư Hương hiểu tới địa vị của nàng, nhưng hình như cô gái ấy cố tình không hiểu. Trên giấy tờ, đối với pháp luật, chàng vẫn là chồng Thư Hương. Cái rắc rối, là ở chỗ đó…
– Hôm nào anh Dương đi Biên Hòa ?…
Nghe Thư Hương hỏi tới ngày đi, Dương giật mình :
– Còn chừng mười ngày nữa. Nhưng Thư Hương hỏi như vậy để làm gì ?
Thư Hương nhìn Dương:
– Để em với chị Yến, Loan, Phượng, làm một bữa cơm thật ngon, để tiễn anh lên đường .
Dương vội lắc đầu, xua tay :
– Thôi, tôi xin các bà trẻ. Từ Saigon đổi lên Biên Hòa, mà cứ như là đi tới một xứ nào xa lắm. Các bà cho ăn thì xin nhận, vì từ nhỏ tới lớn, cái thằng tôi chưa từ chối cái chuyện ăn. Nhưng nếu lấy cớ là tiễn đưa thì xin miễn…
Thư Hương cúi đầu xuống giọng thật buồn :
– Em định tổ chức bữa ăn đó bên nhà mình. Mời cả bà chủ nhà nữa. Bà ta đối với em rất tốt. Mình chỉ ở nhà bà ta tới cuối tháng này, nên cũng gọi là gây cảm tình một chút. Anh nên bằng lòng đi. Em sẽ nhờ chị Yến, chị Loan, chi Phượng sang giúp một tay…
– Cái đó, tùy ý em.
Dương nói xong câu đó, như một hành động chán nản và cam phận. Chàng không thích việc mời ăn uống ở nhà. Chốn thoải mái của chàng phải là một quán ăn. Ồn ào tiếng nói, tiếng máy phát thanh, đông đảo thực khách. Ăn mà không phải đứng dậy, đi lấy những món cần dùng. Nhìn những người thân với mình phải hầu hạ mình thì ăn cũng đã mất ngon. Nhưng Thư Hương muốn làm như vậy, để tỏ ra thiên hạ biết mình là chủ gia đình. Thư Hương lại hỏi :
– Ngoài anh Tâm ra, anh còn mời ai nữa không ?…
– Có lẽ chỉ có vợ chồng thằng Hậu.
Thư Hương reo lên :
– Thế thì mình lại có thêm một tay đầu bếp nữa rồi… Nghe nói chị Hằng làm bếp cũng khá lắm.
Yến chê ngay :
– Mời người ta mà bắt người ta xuống bếp, thì Thư Hương có vẻ hơi lợi dụng đấy nhé. Tôi không đi cho mà xem.
Thư Hương năn nỉ:
– Thôi mà chị Yến….. giúp em một tay….
Rồi Thư Hương quay sang Phượng :
– Chị Phượng cũng phải có mặt chứ
– Cái đó là điều bắt buôc…
Phượng vênh mặt lên khi nói câu đó như một thái độ khiêu khích và kiêu ngạo.
Hình như Phượng cho rằng, bữa tiệc có đầy đủ bạn bè của Dương, thì Phượng phải có mặt, để kìm hãm bớt đi thái độ chủ nhà của Thư Hương. Cuộc chiến tranh ngầm như sắp sửa bắt đầu. Còn mắt môi, còn trái tim đập trong lồng ngực thì người con gái nào cũng vẫn chỉ là người con gái, vẫn có sự ghen tuông như thường lệ.
Phượng bắt đầu thấy những sự khó chịu ngay từ đám cưới của Dương và Thư Hương, thấy hai người sát vai nhau đi từng bàn, chào bà con, bạn bè. Nếu không vì lòng thương hại, thì chỗ đứng của Thư Hương kia phải là chỗ đứng của Phượng. Bước chân của Thư Hương, phải là bước chân Phượng. Tối hôm đó, nàng uống rượu thật say làm cho Hằng phải ngăn cản.
Chưa mất Dương mà nàng đã cảm thấy nỗi đau đớn như dằn vặt thể xác.
Thư Hương hỏi Dương :
– Anh định ngày nào ? Chủ nhật này nhé ?
– Cũng được!
Dương trả lời xong uể oải đứng đậy. Chiều nay chàng muốn đi khám sức khỏe cho xong.
Buổi sáng nay đo mạch, anh chàng “tu-bíp ” đã cẩn thận khuyến cáo : ” Mạch nhảy tới chín chục. Bớt du hí đi, không có thì nhào đấy, thằng con trai ạ”. Câu nói âu yếm của anh chàng “tu-bíp”, làm cho Dương thêm lo lắng, muốn tu tỉnh con người lại.. Trong mấy tháng nay, chàng đã tìm đến rượu, để lúc trở về nhà là nằm lăn quay ra ngủ không thắc mắc, không bận rộn về sự ở trong nhà lại có thêm một người con gái. Quen như thời còn độc thân, nhìều khi chàng thiếp ngủ khi giày còn mang dưới chân, điếu thuốc còn ngậm trên môi. Dù trong cơn say và buồn ngủ chàng cũng thấy bàn tay dịu dàng gỡ điếu thuốc, nhẹ nhàng tháo đôi giày. Không mở mắt nhìn chàng cũng biết đấy là Thư Hương, người con gái mang danh là vợ chàng chỉ ở trên mặt giấy tờ…
Rồi cũng trong những cơn say ngây ngất ấy, chàng còn cảm thấy, làn vải mùng nhẹ nhàng bò qua mặt, và những tiếng động nhè nhẹ dưới lưng. Thư Hương buông mùng cho chàng và hình như có đứng ngoài giường, nhìn dáng say ngủ của chàng. Dương đã cố để cho thính giác được thức tỉnh, để nghe những bước chân đi nhè nhẹ. Nhưng lần nào cũng vậy chàng thiếp ngủ đi trước khi Thư Hương trở về giường nàng.
Đã nhiều buổi sáng thức đậy, chàng ngượng ngùng xin lỗi :
– Tối hôm qua, anh say quá.
Những lần như vậy, Thư Hương cố gợi lên những câu hỏi để cho chàng phải tâm sự :
– Ngày trước, chưa có em ở trong nhà này, anh có hay uống rượu như thế này không ?
Chàng lơ đãng trả lời:
– Rượu là một thứ ma túy. Mới đầu thì vì buồn mà đi uống rượu. Những lúc về sau, không uống thì buồn chịu không nổi…
– Cái gì làm cho anh buồn ?
Thư Hương như một quan tòa chất vấn phạm nhân. Nếu Thư Hương là vợ của Dương thực sự, thì những câu hỏi ấy còn đựợc mang một vài ý nghĩa là vợ lo lắng cho chồng. Nhưng Thư Hương chỉ là một thứ vợ hờ, một thứ vợ nhân đạo, tình thương thì có, chứ chưa có được tình yêu. Dương đã làm thinh, không trả lời Thư Hương những lý do đã làm cho mình buồn. Có thể rằng có rất nhiều lý do mà cũng có thể chẳng có lý do nào cả.
Những buổi sáng ấy, chàng đã vào phòng tắm trầm mình vào trong nước lạnh để tìm lại sự tỉnh táo và yêu đời. Từ phòng tắm, chàng đã hát vang nhiều bản nhạc không đầu không cuối, để cho tiếng động âm vang ấy đuổi bớt đi những sầu muộn ám ảnh. Tới khi khám lại sức khỏe nghe anh chàng “tu-bíp” nhắc chàng về chuyện giữ gìn sức khỏe, khuyên chàng bớt uống rượu, chàng mới giật mình tỉnh ngộ. Anh chàng “tu-bíp” còn thêm vài lời diễu cợt:
– Tôi đã để dành sẵn cho bạn một toa thuốc, nếu bạn cứ tiếp tục say sưa. Về già, lá gan của bạn bị cứng lại như hòn đá. Lúc đó thì hết thuốc chữa.
Dương chỉ cười, mặc áo, bắt tay anh chàng “tu-bíp” rồi đi ra cửa.
Trong suốt thời gian khám sức khỏe, chàng không uống một giọt rượu nào, kể cả la-de, một thứ mà chàng và bạn bè coi như một thứ giải khát. Tới hôm nay, chỉ còn vài ba môn khám lẩm cẩm nữa là xong.
Thấy Dương đứng dậy, Phượng hỏi:
– Anh đi dâu bây giờ ?
– Anh vào trong trại…
Phượng nhìn Dương bằng một con mắt dò hỏi. Thường thường thì trong khi thuyên chuyển từ một đơn vị này tới một đơn vị khác, những người lính có một thời gian rất an nhàn. Chỉ việc lo ký vài ba thứ giấy từ vụn vặt. Công việc ấy làm một cách rất tà tà, kéo dài cả hàng tuần lễ. Rồi sau khi ký xong mới nạp cái giấy đó, chờ lấy lệnh di chuyển. Thời gian ấy, cũng phải mất cả tuần lễ nữa, đủ để cho người đi xa thăm hết bạn bè, khóc với ngựời yêu cho tới khi hết sạch không còn nước mắt. Chàng giải thích:
– Anh phải khám sức khỏe lại. Buổi sáng ngày hôm qua, phải nhịn ăn để thử máu. Không ăn sáng mà bị hút mấy “xê-xê ” máu, người cứ như lả đi. Chiều nay lại khám tai, mắt, mũi…
– Nếu bị hư một bộ phận nào thì sao ?
– Ít khi xảy ra chuyện đó lắm. Đối với tụi anh thì khám sức khỏe chì là một hình thức. Mấy anh thầy lang cũng thường áp dụng chính sách “chín bỏ làm mười”.
Dương chào mọi người rồi đi ra phía cửa. Mọi người ngồi lại, tiếp tục công việc cho một mầm sống sắp sửa chào đời. Chỉ có một mình Phượng theo Dương ra cửa để tiễn đưa. Chàng biết Phượng có một câu chuyện gì muốn nói với chàng. Hai người dừng lại ở chỗ hàng rào sơn trắng, có cây hoa giấy đang nở những bông hoa đỏ mướt, cành lá lên tận cửa sổ căn lầu, chỗ Phượng nằm.
Phượng vẫn yên lặng nhìn chàng và chàng cũng nhìn lại Phượng. Nếu không phải là ở ngoài đường, nơi có nhiều người qua lại, thì chàng hôn lên đôi mắt ấy, đôi mắt như vời vợi buồn, thương và nhớ.
Chàng hỏi Phượng :
– Hình như Phượng muốn nói với anh điều gì ?..
Tay Phượng vịn vào thành gỗ, lơ đãng bóc từng miếng sơn loang lở. Rồi nàng nhìn ra con đường tàu sâu thẳm, hun hút, mà Dương tưởng rằng đôi mắt của Phượng còn sâu thẳm hơn con đường tàu. Hai thanh sắt trên con đường tàu kia lúc nào cũng chạy song song với nhau, nhưng chẳng bao giờ lại gặp được nhau.
Nếu thanh sắt ấy mà gặp được nhau, thì thế nào cũng có những vụ chết chóc đổ vỡ. Phượng chớp đôi mắt :
– Phượng muốn nhờ anh một chuyện…
– Chuyện gì, Phượng cứ nói.
– Anh có thể xin được giấy chứng chỉ tại ngũ của anh mà nơi làm việc là Saigon hay không ?
– Phượng xin cái đó để làm gì?
Nghe Dương hỏi câu đó, Phượng cúi đầu xuống, ngượng ngập:
– Phượng không xin mảnh giấy đó cho Phượng, mà xin cho Thư Hương. Nghe Thư Hương nói, thì theo luật hành chánh, chồng làm việc ở đâu thì vợ có quyền xin làm việc ngay lại nơi đó. Nếu anh xin được giấy chứng chỉ tại ngũ, đang làm việc tại đây, thì sau, khi tốt nghiệp Thư Hương được ở Saion. Nếu không thì Thư Hương lại phải lên ở chung trên Biên Hòa với anh. Điều đó làm cho em lo ngại quá. Vì rằng bây giờ, dù anh với Thư Hương ở chung với nhau, nhưng em còn có cơ hội ở gần cả hai ngưòi. Lên đến trên đó, thì…
Dương ngắt lời Phượng:
– Em không còn tin anh nữa sao ?
Phượng nói trong một sự thảng thốt sững sờ:
– Không, Phượng lúc nào cũng tin anh. Nếu không tin được anh nữa, thì Phượng sống làm sao nổi. Nhưng không hiểu sao, Phượng vẫn cảm thấy cuộc tình duyên của chúng mình như bấp bênh, khó vững. Điều mà Phượng lo là Thư Hương.
– Thư Hương đã nói gì với Phượng ?
– Chẳng nói gì cả, nhưng với mắt đàn bà nhìn đàn bà, thì Phượng thấy Thư Hương có vẻ yêu anh rồi…
– Anh không tin như vậy.
Tuy nói rằng không tin như vậy, nhưng Dương thấy thoáng một chút ngỡ ngàng.
Chàng biết rằng chuyện đó có thể xảy ra đựợc lắm. Thư Hương vốn yếu đuối về tình cảm. Những đứa con trai giang hồ như Dương, đối với những người con gái khuê các, có một sức quyến rũ lạ lùng. Thư Hương nhìn vào Dương để thấy một vóc dáng lừng lững, đứng vươn cao lên có thể che lấp được cả mặt ười.
Nhất là từ trước tới nay, những người con trai mà Thư Hương quen biết, chỉ là những anh chàng sinh viên sống với cái vỏ đạo đức bề ngoài. Đâu có thể so sánh được với Dương. Chàng thẫn thờ nói với Phượng :
– Bắt đầu từ bây giờ, anh sẽ để ý tới chuyện đó. Phượng cứ tin ở anh. Sẽ không có chuyện gì đáng tiếc xảy ra đâu.
Chàng đạp máy cho xe nổ rồi phóng xe đi. Phượng nhìn theo Dương khuất đi ở con đường rẽ vào đâu xóm. Nàng tì tay vào hàng rào cửa, nghĩ lại những lời nói của Dương để rồi thấy lòng thật bâng khuâng và lo lắng. Nàng không muốn vào trong nhà, muốn đứng ở ngoài này cho tâm sự thật lắng xuống. Trước mặt nàng, nhiều chiếc xe vẫn chạy ngang qua, để lại đằng sau những đám bụi và những vệt khói xanh mờ. Một cơn gió về chiều bỗng nổi lên, cuốn tung bụi đường, làm bay những mảnh lá chuối khô, những miếng giấy báo cũ còn sót lại của buổi họp chợ hồi sáng. Phượng thở dài, đi vào trong nhà, khép cửa thật nhẹ, rồi ngồi vào chiếc ghế hồi nãy, hãy còn ấm hơi Phượng.
Chị Yến hỏi Phượng :
– Nói chuyện gì ở ngoài đó mà lâu thế ?
Ba cặp mắt đều nhìn Phượng, làm cho Phượng đỏ mặt :
– Có chuyện gì đâu. Thì lâu lâu, cũng phải để cho người ta nói chuyện riêng một chút chứ. Các người thật tò mò.
Yến và Loan đều biết rằng, những lúc ấy là lúc Phượng dễ nổi giận. Hồi này, con bé thật khó tính. Dễ giận, dễ hờn. Nhiều lúc nói đùa Yến vẫn nói rằng Phượng như một bà mẹ chồng. Nhưng được cái là những cơn giận ấy chỉ như những cơn mưa bóng mây, chợt đến rồi chợt đi, không để lại dấu tích. Thư Hương muốn đổi hướng câu chuyện :
– Chị Phượng tính coi, chủ nhật này chúng mình mời thiên hạ đớp những món gỉ ?…
– Đó là công việc của Thư Hương.
Thư Hương trợn mắt ngạc nhiên, ra cái điều ngây thơ :
– Tại sao lại là công việc của em ?… Phải là công việc chung phải chứ. Vai chính ngày hôm đó, phải do chị Phượng diễn xuất.
Phượng lắc đâu :
– Có lẽ Phượng cũng không thể có mặt vào ngày hôm đó. Chủ nhật này, Phượng định để hẳn ra cả buổi sáng để tới nhà thờ, xưng tội và cầu nguyện…
Thư Hương buồn rầu, cúi mặt… Thế là Thư Hương đã làm một điều gì lầm lỗi cho Phượng giận rồi. Không hiểu rằng trong cái đầu bé nhỏ xinh xinh kia của Phượng, đang nghĩ tới những chuyện gì đây. Phượng nhận lời hay từ chối, đều ở trong những giây phút bốc đồng. Tính của Phượng như trời Sài gòn vào những ngày cuối mùa thu. Đang nắng thì chợt mưa đổ xuống ào ào. Hay có khi trời mưa, không ngờ chỉ một lúc sau mặt trời lại hiện ra để chiếu những tia sáng chói chang.
Phượng nghĩ tới những lần trước. Mỗi khi có bạn bè của Dương tới chơi, Thư Hương lại đóng vai một người vợ hiền ầu yếm săn sóc cho chồng. Những cử chỉ âu yếm của Thư Hương với Dương, như những vết gai cứa vào da thịt Phượng, làm cho Phượng nhức nhối. Những lúc đó, có một cái gì như bóp nghẹt lấy tim Phượng, một chút xao xuyến trong lòng làm cho Phượng nao nao, khó chịu. Có nhiều khi, Phượng lại còn cho rằng Thư Hương cố tình làm như vậy, để chọc tức Phượng, vì trên giấy tờ, tờ giấy giá thú có hai người làm chứng hẳn hoi, thì Dương là chồng của Thư Hương. Cơn choáng váng đã làm cho Phượng trở thành câm lặng. Dương thì vẫn vô tình, không biết được những phong ba sôi nổi, đang muốn nổ bùng giữa hai người con gái.
Ngoài nhà có tiếng gõ cửa. Phượng hỏi vọng ra :
– Ai đó ?…
Có tiếng hỏi :
– Phượng đấy phải không ? Có thằng Dương ở trong này không ?…
Tiếng cửa mở rồi tiếng bước chân nhẹ vào nhà. Thư Hương reo lên, mừng rỡ :
– Anh Tâm… Mẹ có nhắc gì đến em không ?… Đang định nhắn anh và nhờ anh mời dùm anh chị Hậu với vài ba anh nữa, chủ nhật này về đây ăn cơm.
– Xong rồi !… Thằng Dương đâu ?
– Vừa ngồi đây. Có lẽ đi vào trong trại. Nghe nói chiều nay khám sức hhỏe. Anh kiếm anh Dương có chuyện gì vậy ?
Tâm lắc đầu :
– Chẳng có chuyện gì cả. Ở trên đó, anh em nhắc tới nó hơi kỹ nên anh về, giục nó lên cho sớm sớm. Thiên hạ đã sửa soạn một chầu tái ngộ. Anh đi kiếm nó đây
Phượng nói với Tâm :
– Anh cứ ngồi đây lát nữa anh Dương thế nào cũng về.
– Không được. Tôi phải vào, đi kèm nó, không có nó phá thối chuyện khám sức khỏe. Ai chứ thằng đó, nó dám chửi nhau với mấy thằng “tu-bíp” để được loại. Hồi này cũng thấy nó ốm yếu quá, sợ rằng nó bước lên cái cân, mà kim không nhúc nhích. Tôi phải vào đó, giúp nó một bàn tay…
Tâm cười vang khi nói đến chuyện giúp một bàn tay. Kẻ nào, dù chưa đủ năm chục ký lô, chỉ cần một bàn tay của Tâm đặt lên vai, ấn xuống, cũng thành ra sáu chục ký lô. Tâm nói vậy là để đùa chơi cho vui, chứ với cái thân xác của Dương, dù rút tất cả phụ tùng, cũng vẫn còn thừa thãi chán. Chàng nhìn vào trong gương của chiếc tủ đứng, sửa lại chiếc nón “dô-kề”:
– Tôi đi nghe mấy bạn…
– Vâng, anh đi. Chiều nhớ về đây nhé…
Tâm lại cười:
– Tôi với thằng Dương mà gặp nhau, thì chưa chắc đâu ạ.
Tâm đi ra ngoài cửa và khép cửa vào thật nhẹ. Chàng vọt xe qua đường tàu, trong lúc ông già gác đường tàu đang chuẩn bị hạ cây càn xuống ngăn đường, sửa soạn cho một chuyến tàu sắp sửa chạy qua.
Từ một lối ngõ gập ghềnh sỏi đá, chàng đã đi ra ngoài con đường chính, thật nhẵn, phẳng lì. “Các bạn ta làm đường hay thật”. Chàng gật gù, nói thầm vài câu khen ngợi.
Mà quả thực, từ ngày người Mỹ qua đây, dân nước nầy mới được xử dụng những con đường thật rộng, thật êm. Nhưng ở chỗ này phẳng lì, thì ở những nơi khác lại lồi lõm, đầy những hố sâu, bom đạn. Tâm vẫn thích cảnh của ngày xưa hơn. Tuy phải đi những con đường không được phẳng cho lắm, nhưng đồng quê, rừng núi, lại không có những hố bom.
Tâm nghĩ tới cảnh bốn người con gái đang quây quần vui vẻ. Thấy Thư Hương khỏe mạnh, cười luôn, Tâm rất mừng. Càng mừng bao nhiêu thì Tâm lại thấy có bổn phận phải tri ân Phượng. Hồi nãy, chàng chưa trả lời câu hỏi của em gái. Thư Hương đã hỏi chàng, ” mẹ có nhắc gì đến em không “. Đã nhiều lần mẹ chàng có nhắn em gái về chơi, nhưng chàng không nói lại với Thư Hương.
Chàng muốn cho em gái xa cái không khí âm thầm tẻ lạnh của căn nhà ấy một ít lâu. Chàng thường nói với mẹ, rằng chỉ ít lâu nữa là Thư Hương lại về đây, sống luôn với mẹ, nân vài tháng xa nhà này, để cho nó được thay đổi lối sống. Mẹ chàng đã quay mặt đi, thở dài.
Vài chiếc xe to lớn kềnh càng chạy qua mặt Tâm, làm chàng phải ép sát hẳn vào lề. Trên những chiếc xe ấy, chở đầy bom đạn, rồi đây sẽ được chàng và các bạn chàng chở đi mang bỏ xuống khắp miền đất quê hương.
Vì chiến tranh, chàng đã phải chọn một cái nghề giết người. Có khác gì môt đao phủ thủ. Còn hơn thế nữa là đằng khác. Người đao phủ thủ, lúc vung đao lên chém một tử tội, chỉ giết có một người. Nhưng khi mà chàng ra tay, thì số người chết phải nhiều hơn Chàng chợt bưồn vì ý nghĩ đó.
Chiến tranh thì phải đưa tới những cảnh đó, Không giết người thì người cũng giết mình.
Hàng ngày, trên trang sau cùng của tờ nhật báo những giòng cáo phó, phân ưu, chia buồn, đều có ghi tên những người chết rất trẻ. Những người đó là bạn chàng, là chiến hữu của chàng. Tâm đành phải an ủi bằng những câu thơ của một người bạn làm thơ. Ngưòi đó không phải là An thi sĩ, vì anh chàng phi công thi sĩ tên An, chỉ thích làm thơ tình ái.
Lý đo mà thi sĩ An đưa ra cũng có thể tha thứ được phần nào. Cả một nửa đời người, ngày nào cũng vậy, đều phải sống với lửa, với máu và gang thép. Lúc làm thơ, phải thoát ra ngoài cuộc sống hàng ngày. Nếu cứ bo bo giữ lấy những lời thơ sắt đá, thì có khác gì con kén, cứ nhả ra những sợi tơ, rồi lại trói lấy mình.
Anh thi sĩ hùng hồn giảng giải về chữ tình ái, trong một bữa say sưa, có nhiều đàn bà. Anh chàng nhà thơ kia, đã bị An đả kích thậm tệ, vì đã làm những câu thơ… tranh đấu :”Kẻ thù ta, không phải là người. Giết người đi, thì ta ở với ai ?”. Những câu thơ hay như thế mà bị An thi sĩ mang ra dày vò hiếp dâm thì ai mà chịu cho nổi. Ngày hôm đó, nếu không được bạn bè cản ngăn, thì hai chàng thi sĩ dám giải quyết với nhau về chuyện thi ca bằng tay chân lắm…
Mải suy nghĩ, Tâm đã đi tới cổng trại. Chàng lơ đễnh đến người lính gác cửa dơ tay chào, chàng cũng không chào lại. Tới lúc giật mình nhớ ra, thì chiếc xe đã qua mặt người lính gác một quãng ngắn. Chàng đành phải quay mặt lại, cười một phát thay cho cái chào… Chàng và Dương vốn ghét những trò lễ nghi quân cách. Chỉ vì chàng đã qua cái thời kỳ làm sinh viên sĩ quan, sống ở quân trường, chỉ có việc chào kính không thôi, cũng đủ rách tã người.
Có một lần, chàng và Dương đã bàn tính với nhau khi còn làm huấn luyện viên quân trường Nha Trang. Khi nào có ai chào, hai chàng cứ thản nhiên quay mặt đi, không chào lại, thế là đám sinh viên sĩ quan hay đám khóa sinh, sẽ chán hai chàng không thèm chào kính hai anh chàng sĩ quan ấy nữa. Không ngờ, vẫn cứ bị chào như thường, và lại còn bị trách móc trong một kỳ hội thảo cuối tuần. Bắt đầu từ đấy, chàng mới biết rằng đã ở trong một tập thể, thì muốn sống cho riêng mình cũng khó lắm.
Con đường trong căn cứ không quân này thật tấp nập, đầy đủ các loại xe cộ. Nơi đây như một thành phố mà con người sống rất có tôn ti, trật tự và… hoà bình. Từ ngoài thành phố, đầy chất hỗn loạn, bước vào đây, chàng cảm thấy một chút e dè và tự hào… Nhìn những chiếc xe Mỹ, chạy đúng tốc độ và luật đi đường, chàng lại thấy cảm phục vị sĩ quan trẻ, hiện đang làm Tư lệnh.
Nhờ sự áp dụng kỷ luật một cách chặt chẽ, nên căn cứ này mới còn giữ được một chút chủ quyền mà đã từ lâu, trên mảnh đất này đã bị mất mát khá nhiều.Tâm và các bạn, ai cũng biết câu chuyện một Thiếu Tá người Mỹ, đã bị nhốt hai ngày tại một nơi chỉ định của vị chỉ huy trưởng căn cứ ngưòi Việt, chỉ vì bất tuân kỷ luật. Việc này đã được mọi ngưòi kể lại, coi như một huyền thoại…
Trong căn cứ có những con đường sạch sẽ và ít bụi. Chàng quẹo xe về phía Trung Tâm Giám Định Y Khoa. Đám cây trước cửa bệnh viện, người ta đã trồng khi chàng mới vào lính, bây giờ cành lá xum xuê. Một vài cây đã nở những bông hoa rực rỡ hai màu xanh trắng.
Nhìn thấy xe của Dương còn dựng ở đầu nhà, chàng mừng quá, reo lên :
– A, thằng nhỏ vẫn chưa biến…
Chàng dựng xe cạnh xe Dương, rồi bước đi trên con đường trải nhựa để vào một căn phòng. Những bông hoa rụng nằm rải rác trên lối đi. Buổi chiều, những phòng làm việc phần nhiều trống vắng. Người nữ y tá đã thay chiếc áo blouse bằng chiếc áo dài đầy hình vẽ kỷ hà, ngồi giũa móng tay, chờ giờ tan sở.
Chàng cũng muốn ghé vào, nói đùa chơi năm bảy phát nhưng nhìn vào ngón tay cô y tá, thấy có mang chiếc nhẫn cưới, lại thôi. Kỵ nhất là thứ đàn bà có chồng, nhất là thứ đàn bà làm việc trong căn cứ Không Quân. Lỡ mà trêu chọc phải vợ của bạn mình là có quyền vỡ mặt. Chàng đẩy cửa một văn phòng đi vào, không thèm gõ cửa vì biết đó là phòng đợi.
Vừa đúng lúc đó, Dương cũng ở phòng trong đi ra, trên mình chỉ mang một cái “xì-líp”. Hai người bọn thân gặp nhau chẳng bao giờ thèm bắt tay nhau lấy một cái.
Dương hất hàm hỏi Tâm:
– Mầy về làm gì ở đây ?
Tâm dơ tay, ngoáy vào rốn Dương :
– Tao đi kiếm mầy để giục mầy lên cho sớm. Ở trên đó, chúng nó nhớ mầy ghê quá. Nhất là thằng An thi sĩ. Nó làm được mấy bài thơ, không có ai chịu ngồi nghe nó đọc thơ, nên nó lại càng nhớ mầy quá…
Rồi Tâm nhìn làn da trắng của Dương, vỗ vào bụng Dương mấy phát lạch bạch:
– Mày cứ ngồi ở bàn giấy hoài, làm cho con người của mầy hỏng rồi đấy. Trước kia, mầy đâu có cái nước da công tử và cái bụng giám đốc như thế nầy.
Dương chui đầu vào cái áo thung, nói trong cái lùng bùng của vài mỏng :
– Bởi thế nên tao mới phải xin đi… Nhưng đi lên trên đó để mỗi đêm phải nghe thằng An thi sĩ ngâm thơ, thì thà rằng… đào ngũ mẹ nó cho rồi.
Tâm giả vờ ngây thơ con cóc cộ :
– Tại sao vậy ?… Ngày trước mầy khoái nghe nó ngâm thơ lắm cơ mà…
– Trước khác, bâv giờ khác. Hồi trước vì tao còn có một triệu bạc máu lịch sự ở trong người. Còn bây giờ, thì lịch sự và kiên nhẫn đã được phép đi chỗ khác chơi.
Dương đưa tay lên mắc, lấy cái áo, mặc vào người. Tâm ngồi trên ghế, chờ Dương. Nhìn qua cửa sổ, thấy nắng đã ngả sang màu úa. Một cô y tá thò đầu ra:
– Trung úy Dương!
– Có tôi.
– Hồ sơ Trung úy xong rồi. Mai không cần trở lại. Trung úy định cầm tay mang đi hay để chúng tôi gửi theo văn thư ?…
Dương lắc đầu :
– Thôi, cô cứ gửi đi cho tiện việc chính phủ..
Trong lúc nói chuyện, Dương vẫn không quên gài nút áo và mặc quần. Những nàng y tá thì cũng đã quen với cảnh này quá rồi, nên ít khi ngượng ngùng, mắc cỡ.
Tâm nhìn theo cánh cửa vừa khép lại, rồi tới bên Dương hỏi thì thầm :
– Bây giờ, lại có con gái làm ở phòng khám tổng quát hay sao hở mầy ?…
Dương hững hờ:
– Hình như em thay thế vài ngày cho một chàng y tá, nghỉ phép thường niên…
Tâm lại hỏi :
– Thế mầy có phải triển lãm ông cụ trước mặt em không ?
Dương đấm nhẹ một phát vào bụng Tâm. Lúc nào nó cũng có thể đùa rỡn được. Những kẻ vô tư như Tâm ấy vậy mà sướng. Cuộc đời của Tâm, thật không có một chút gì là vướng mắc, âu lo. Có lẽ Tâm được sinh ra trong một gia đình giàu sang, trưởng giả, được nuông chiều từ tấm bé. Dương đội chiếc nón lên đầu:
– Đi thôi chứ mầy ?
Tâm hỏi lai :
– Đi đâu bây giờ ?…
– Thì tao với mầy mà gặp nhau thì còn đi đâu nữa… Mày hỏi câu nầy cứ ngây thơ như con gái nhà lành. Khám sức khỏe ngày hôm nay nữa là xong hết rồi, bởi vậy, chúng mình có quyền đi uống rượu.
Tâm đứng lên :
– Uống thì uống, chứ tao lại sợ mầy sao ?…
Hai người đi ra ngoài nắng úa. Buổi chiều ở những căn cứ không quân thật buồn.
Tuy rằng chưa tới giờ tan sở, nhưng những con đường đã vắng, chỉ còn lại vài ba chiếc xe lớn kềnh càng, chạy chậm chạp đến phát nản. Có lẽ Dương và Tâm là hai thân chủ cuối cùng rời khỏi khu bệnh xá. Phía bên kia, vài anh chàng mặc đồ xanh bệnh viện ngồi vắt vẻo trên thành cửa sổ, vẫy tay cười.
Khi Tâm và Dương ra khỏi căn cứ thì thành phố đã lác đác lên đèn. Khu Lăng Cha Cả bắt đầu nhộn nhịp sửa soạn cho cuộc sống về đêm.
Chỉ qua có một cái cổng, ngăn cách căn cứ và thành phố, hai nơi đã diễn ra hai cảnh thật khác. Một phía thì vắng lặng như nghe thấy cả tiếng gió luồn vào đám cỏ, tiếng ếch kêu vọng lại từ xa. Còn một phía thì tấp nập, ồn ào, đầy những sự mời mọc lẳng lơ, dâm đãng. Dương chạy xe qua mặt Tâm, nói trong tiếng gió :
– Phải xa lánh chỗ này cho mau!…
Tâm cười vang đuổi theo.. Hai chiếc xe chạy song song với nhau, rồi Tâm hỏi Dương :
– Uống ở đâu ?…
– Tao thèm được ngồi gần sông nước. Có lẽ nên tới cái quán nổi trên bờ sông. Ngồi ở đấy để nhìn thấy thiên hạ tranh sống. Khi một chiếc tàu chạy ngang qua, liệng xuống nước vài ba mảnh ván, một chiếc thùng cây, là ở trong bờ, năm bảy chiếc ghe ào ạt chèo ra. Khi một chiếc tới đích rồi, thì những chiếc kia uể oải quay đầu trở lại… Tao đã ngồi ở đó nhiều lần…
– Mày có nhiều thời giờ đến như vậy sao ?…
Dương trả lời, giọng chán nản :
– Thì là dân bàn giấy mà. Buổi chiều, sau khi tan sở mà phải trở về nhà thì có thể chết được. Bởi vậy, tao chỉ ra ngoài đó, cho tới khuya mới về…
Một tiếng còi xe phía sau. Biết là có kẻ đang phiền hà vì lối chạy xe sóng đôi của hai ngườỉ, Tâm vọt lên phía trước. Một chiếc xe hơi bóng loáng chạy qua mặt, trên xe có một đôi trai gái. Đứa con gái nép sát vào bên đứa con trai, nhí nhảnh cười….
Tâm lùi lại ngang hàng với Dương :
– Những thằng con trai thành phố nhà giàu, sướng thật!
– Nếu mà mầy muốn thì chắc mầy cũng như nó. Lỗi tại mầy. Đường thênh thang không chịu, lại cứ tìm “những lối đoạn trường” mà đi.
Tâm cười vang, rú tay ga cho xe vọt mạnh. Nghe Dương nói như vậy, chàng cũng thấy một phần nào hãnh điện. Mẹ chàng vẫn muốn đưa tiền cho chàng mua một chiếc xe hơi, để mỗi lần từ Biên Hòa về Sàigòn đỡ nắng gió, vất vả. Nhưng chàng đã từ chối, đi chiếc xe Vespa cà cộ, mua được bằng tiền do chàng kiếm được. Mẹ Tâm đã phàn nàn rất nhiều về câu chuyện đó.
Con chim phải bay bằng đôi cánh của nó. Câu nói đó được chàng nhắc tới nhiều lần. Mẹ chàng còn than phiền cả Dương. Ngày cưới của Dương với Thư Hương, dù cho mẹ Tâm nài ép, Dương cũng không nhận một đồng nào để lo cho lễ cưới. “Hai cái thằng chúa gàn, thảo nào chúng nó chơi được với nhau”. Tuy rằng buồn và than phiền như vậy, nhưng bà thấy Tâm và Dương vẫn đáng kính phục, và bà có cảm tưởng rằng hai người con trai ấy, khác hẳn với những người con trai mà bà thường gặp ở nhà những bà bạn. Bà cũng thấy hãnh diện một phần nào vì có một người con trai như thế.
Nhìn lại đằng sau, Tâm vẫn thấy Dương theo sát. Hai người đã đi vào con đtrờng chính của thành phố. Buổi chiều là lúc những người ra đường. Từng cặp sóng đôi đi bộ trên vỉa hè, trong những đám lá me rụng bay. Nhìn mặt những người đó, Tâm thấy họ hớn hở, vui sướng đến phát ghét. Bộ quần áo nhà binh của Tâm, của Dương như lạcc lõng giữa dòng người thành phố.
– Trung úy để em coi xe nhé, Trung úy.
Tâm dễ dãi gật đầu :
– Ừ, mầy coi xe cho tao, nhưng lát nữa thì đòi tiền ông Trung úy kia, nghe không ?… Nếu có buồn, thì lau cái xe một phát cho vui…
Tâm và Dương ngồi nhìn ra sông nước mênh mông. Thỉnh thoảng, một vài con tàu lại lặng lẽ lướt qua, rồi sóng vỗ mạnh vào kẽ đá. Cảnh nước mênh mông về chiều bao giờ cũng gợi buồn. Tưởng rằng lúc ngồi với nhau, có nhiều chuyện để nói, không ngờ từ lúc ngồi xuống tói bây giờ, mỗi người uống hết hai ly rượu, thì sự câm lặng đột nhiên tới. Gió buổi chiều, từ ngoài sông thổi vào cũng bắt đầu lành lạnh.
– Hình như mầy có chuyện gì buồn ?..
Nghe Tâm hỏi, Dương gật mình quay sang Tâm :
– Có thể, nếu gọi được chuyện của tao hiện nay là chuyện buồn. Găp mầy, tao cũng muốn nói nhưng cứ ngập ngừng, nhưng rồi tao nghĩ, chỉ có mầy mới có thể giải quyết được thôi…
Tâm ngạc nhiên, ngồi thẳng lên, nhìn sang Dương:
– Nhưng chuyện gì vậy ?
Dương thẫn thờ, ném từng viên đậu phộng xuống lòng nước đục lờ. Sự yên lặng của Dương làm cho Tâm càng thêm ngạc nhiên. Chàng cầm ly uống cạn, gọi bồi lấy thêm ly khác. Lúc đó, Dương mới chậm rãi:
– Chỉ còn gần một tháng nữa là tới ngày sinh nở của Thư Hương…
– À, ra thế !
Dương không nhìn Tâm, trầm giọng kể những nỗi lo âu của Phựợng. Rồi như một đầu sợi chỉ đã được gỡ rối, Dương kể hết cho Tâm nghe những chuyện đã xảy ra từ mấy tháng nay. Tâm là người bạn mà chàng quí nhất. Thư Hương lại là em của Tâm. Người con gái ấy yếu đuối quá, mỏng manh quá, như một chất dễ vỡ, cần phải đụng chạm rất nhẹ. Câu chuyện ngừng lại ở chỗ nào, ngay chính Dương cũng không được biết, tuy rằng chỉ có mình chàng nói. Nhưng thời gian lặng lẽ còn dài hơn thời gian nói chuyện. Cạn đến ly thứ năm, Tâm mới nói thật âm thầm
– Ngày mai, tao sẽ đưa Thư Hương về nhà thăm mẹ, rồi nói chuyện với Thu Hương. Nhưng thôi, có lẽ nên chờ nó sinh nở xong đã…
CHƯƠNG X
Tâm có ý định, tới sau ngày sinh nở của Thư Hương, sẽ nói với Thư Hương về câu chuvện Phượng và Dương. Nhưng rồi Tâm cứ suy tính mãi, không biết sẽ nói với Thư Hương như thế nào… Từ trước tới nay, chàng chỉ có thể nói để người ta tức giận, nói để người ta cười, nói những câu chuyện gió bay lên trời.. chứ không thể nói những lời khuyên răn. Cứ tưởng đến sự phải bắt chước giọng nói của một ông giáo già, cũng đã đủ làm cho Tâm phát nản. Đã nhiều lần suy nghĩ, chàng đã dựng lên một màn đối thoại giữa chàng và em gái.
Chàng khéo léo để mở đầu… “Thư Hương thấy Phượng đối với Thư Hương như thế nào ?..” Tất nhiên là Thư Hương sẽ trả lời rằng chị Phượng rất tốt, chị Phượng là ân nhân của Thư Hương, của gia đình mình. Lúc đó chàng sẽ cố tạo lấy một bộ mặt thật nghiêm trang, để đúng vói những câu nói mà một người anh, khuyên bảo một cô em gái : “Chị Phượng đã hy sinh cho em, hy sinh một mối tình đầu đẹp đẽ, để che cái tiếng xấu cho em, để cứu vãn danh dự của gia đình mình, em cần phải cư xử làm sao cho phải đạo. Bây giờ, em đã sinh nở, mẹ tròn con vuông rồi, em hãy thực hiện lời hứa khi xưa…”
Chỉ dễ dàng như thế, mà sao chàng lại ngần ngại. Những cái khó khăn có lẽ chỉ là lúc mở đầu…
Chàng đã định nhờ tới mẹ. Bà Phủ với Thư Hương, dù sao thì là đàn bà, con gái, hai mẹ con nói chuyện với nhau vẫn tiện hơn. Cả bốn người, mẹ chàng, Thư Hương, Phượng và Dương, đối với chàng, đều có một vị trí dặc biệt trong tim. Mỗi người có một ngăn kéo yêu thương, nếu trái tim của chàng được chia thành nhiều ngăn..
Nhiều lúc chàng thấy thương mẹ, thương em gái hơn và cũng có nhiều lúc chàng thấy thương Dương, thương Phượng hơn… Mà có lẽ cả bốn người ấy, chàng không thể thiếu được một ai… Chỉ cần mất một người, thì cuộc đời của chàng hầu như có một khoảng nào trống vắng…
Một hôm chàng đã ngồi với mẹ, cố gắng lấy can đảm, để nói chuyện với mẹ về Thư Hương và Phượng. Mẹ chàng đã lặng lẽ ngồi nghe. Rồi sau cùng, mẹ chàng nói một câu làm cho chàng có cảm tưởng như trời đất sụp đổ :
– Hay là mầy lấy con Phượng đi.
Chàng nổi giận, gắt lên :
– Ai lại làm như thế. Thằng Dương với con như thế thì làm sao còn nhìn được mặt nhau. Với lại chắc gì Phượng đã bằng lòng lấy con, nhất là trong lúc mà con Thư Hương như thế.
Bà Phủ thở dài :
– Mẹ chẳng biết nói thế nào cả. Chuyện của chúng mầy, thì chúng mầy lo.
– Con chỉ cần mẹ khuyên bảo Thư Hương.
– Mẹ cũng muốn lắm. Nhưng rồi mẹ lại sợ nhìn cái mặt nó buồn thiu. Mẹ đã sợ một lần rồi…
Bà Phủ nói vậy vì mấy tháng nay, lúc trở về nhà, Thư Hương như được đổi lốt. Từ một cô gái lặng lẽ, ít nói nàng thành một cô gái nhí nhảnh, vui tươi ca hát suốt ngày. Nhiều lúc bà Phủ phải can ngăn Thư Hương, khi thấy Thư Hương đùa rỡn quá, sợ động tới cái thai. Tới bây giờ, bà mới được con gái săn sóc, hầu hạ, để cho nhà vui vẻ, có được những tiếng cười hồn nhiên, yêu đời. Cảnh đó mất đi thì ai mà chẳng tiếc, nhất là bà Phủ đã già, chỉ còn một đoạn chót của cuộc đời.
Tâm vẫn băn khoăn :
– Nhiều lúc, con thấy ân hận quá. Nếu mẹ giúp con, nhắc lại cho Thư Hương nó nhớ tới hạnh phúc của đời Phượng, thì đỡ mệt cho con quá.
Bà Phủ trầm ngâm :
– Thôi thì con thương nó, cứ để chờ nó sinh nở xong xuôi đã. Nó cần giữ gìn sức khoẻ.
Ai cũng chờ ngày Thư Hương cho một mầm sống ra chào đời. Bà Phủ, Tâm, Dương và Phượng. Nhất là Phượng. Nàng thấy thời gian như gậm nhấm từng chút một.
Có nhiều lúc, Phượng có cảm tưởng như đứa nhỏ chỉ thích nằm lì trong bụng Thư Hương, vì không muốn ra ngoài để chịu nắng, chịu gió và để làm buồn cho mẹ nó.
Ai cũng mong tới ngày Thư Hương sinh nở. Chỉ có Thư Hương là cứ nhởn nhơ… Nàng ca, nàng hát vang cả nhà. Nhiều khi, nàng còn đùa rỡn với cả chị người làm, xuống dưới bếp giúp chị người làm sửa soạn bữa cơm, điều mà từ trước tới giờ, ít khi nào xảy ra. Mẹ nàng thường nhìn thái độ phá phách của nàng với cặp mắt đầy bao đung. Nhưng rồi bà lại chợt buồn :
– Không hiểu rằng nó vui được bao lâu ?…
Tâm và Dương lại sống cuộc đời như ngày xưa, cái ngày mà mỗi buổi sáng, ngồi ngoài đầu hè Phòng Hành Quân, nhin dáng còm cõi của người trung sĩ Bưu tín viên, hờ hững bỏ từng lá thư vào hộc. Nhưng có lẽ chỉ có Tâm là còn giữ được tâm trạng, tính tình ngày xưa. Còn Dương đã thấy đời mình hơi đổi khác rồi…
Những ngày nghỉ, Tâm rủ chàng về nhà chơi. Khi tới vùng Bà Chiểu, thì hai người chia tay. Dương muốn về thăm Phượng, trước khi về nhà Tâm gặp Thư Hương. Những lúc thấy Tâm về một mình như thế, Thư Hương lại hỏi săn, hỏi đón về Dương. Mặt Thư Hương thoáng một chút hờn giận, khi nghe Tâm nói rằng Dương về Phú Nhuận. Tâm cũng muốn nhân cơ hội này nói với Thư Hương về câu chuyện mà Dương đã nhờ chàng buổi tối ngồi uống rượu trên mặt sông lấp loáng ánh đen. Nhưng nhìn cái bụng lê thê của em gái. chàng không nỡ, chỉ nói đùa :
– Cứ làm như chồng thật của mình ? Săn sóc kỹ thế !
Thư Hương cãi lại :
– Thì em cũng săn sóc anh như thế. Khi nào mà thấy anh Dương về một mình, thì em cũng hỏi thăm về anh chứ bộ không sao ? Anh hay anh Dương thì cũng vậy.
Thư Hương, ngoài miệng nói như thế, nhưng Tâm hiểu rằng không nên tin ở Thư Hương. Từ ngày được biết là Thư Hương có vẻ yêu Dương, chàng thường để ý tới hành động của em gái. Lúc trước, quần áo của Tâm và Dương thay ra, hai người đã dặn chị người làm mang đưa ra thợ giặt.
Lúc về sau, lấy cớ rằng tốn tiền, những bộ quần áo ấy để ở nhà giặt lấy. Chàng vẫn tin tưởng rằng, công việc giặt quần áo như thế, là công việc chị người làm, không ngờ một hôm chàng bắt gặp Thư Hương giặt và ủi quần áo cho Dương, đúng như một người vợ hiền. Chàng thấy lòng rưng rưng và xót thương cho cô em gái. Nó thèm có một hạnh phúc. Những ngày vừa qua, cảnh sống vợ chồng như hằn sâu vào trong trí, để rồi làm cho nó mê muội, chụp vội lấy cái ảo ảnh hạnh phúc. Chàng không muốn kể cho Dương nghe câu chuyện đó.
Dù muốn cho thời gian qua mau, hay không muốn cho thời gian bước đi, thì thời gian cũng vẫn qua. Trời đất vẫn một ngày hai lần sáng tối. Những tờ lịch trên tường cứ rụng dần. Và rồi cũng phải tới ngày Thư Hương nở nhụy khai hoa.
Người con gái ấy chưa có một kinh nghiệm nào về sinh nở. Được một người bạn có chồng con như Hằng, thì cái bà nội Hằng ấy, chẳng có coi việc gì là quan trọng. Theo như Hằng nói, thì việc sinh đẻ cũng như việc đi cầu. Chỉ hơi táo bón một tí. Mấy người con gái cười vang, cho là Hằng nói phịa, nhưng kẹt một nỗi là trong đám đó, chỉ có một mình Hằng là đã được biết thế nào là cái bàn đẻ. Còn mấy cô kia thì mù tịt. Chỉ có Thư Hương là sắp sửa khai mạc một cuộc đời.
Hằng đã dặn Thư Hương :
– Đừng có sợ, đừng có để ý tới cái bụng của mình nữa, thì đẻ mới không đau. Thư Hương đừng lo lắng quá. Chỉ cần đi thăm thai cho đều đặn.
Thư Hương nghe lời Hằng, yên chí rằng cứ đủ ngày, đủ tháng, là nó phải tụt ra. Ấy thế là Thư Hương phây phây đùa nghịch. Vác cái bụng vào trường Đại Học Sư Phạm, chẳng có một tí tẹo nào mặc cảm. Nhiều cô bạn học cùng lớp đã khen Thư Hương là độ nầy có da có thịt, lúc cười thì cả đôi mắt cũng cười theo. Mà Thư Hương cũng nhận thấy, sau này, về nhà ở với mẹ, nàng ăn khỏe và ngủ khỏe thật…
Thư Hương đi nhà hộ sinh vào một ngày chủ nhật. Buổi trưa hôm đó, nàng thấy một cơn đau khác lạ trong bụng. Nàng cũng tưởng rằng, chỉ là một cơn đau bụng thường, và cho là buổi sáng, nàng đã xơi hơi nhiều món bún ốc của bà ba Bủng. Chỉ có một lát sau, cơn đau bụng qua đi, nàng lại vẫn có thể ngồi vào bàn ăn, ngồi cho tới lúc mọi người đã đứng lên hết. Nàng lại còn nói đùa với Tâm được vài ba câu khi thấy Tâm ngồi cứ như ỳ ra, không muốn nói chuyện, và nói trêu rằng chắc anh Tâm nhớ vợ Dương. Hôm nay, Dương phải trực nên Tâm về có một mình.
Nhưng lúc về phòng, Thư Hương lại nổi cơn đau bụng. Đợi cho cơn đau vừa bớt, nàng dò dẫm ra ngoài nhà với mẹ. Bà Phủ vẫn điềm tĩnh, sau câu nói “tới ngày rồi đấy”, là bà kêu chị người làm nấu cho Thư Hương một nồi nước nóng để Thư Hương gội đầu và tắm rửa sạch sẽ. Phải nằm cả tháng không được tắm, nên phải tắm trước đi… Thư Hương ngoan ngoãn nghe lời mẹ. Thấy Tâm bỏ giấc ngủ trưa, ra nhà ngoài nghe chuyện, nàng nói với Tâm :
– Anh báo tin cho anh Dương dùm em…
Tâm chớp đôi mắt ngái ngủ :
– Để làm gì ?…
– Để anh Dương đi khai dùm em cái giấy khai sinh…
Đấy chỉ là cái cớ để cho Dương về vì Thư Hương cần có mặt của Dương. Ngày sinh đẻ của người vợ, có được mặt người chồng cũng vẫn hơn, dù người chồng ấy chỉ là người chồng hờ… Mẹ Tâm đi xếp quần áo và tã lót vào trong rnột cái va-li, để cho Thư Hương vào nhà hộ sinh.
Tâm đi vào phòng mình, hối hả mặc quần áo. Thấy chàng đi ra cửa, Thư Hương hỏi:
– Anh đi đâu vậy ?…
– Anh đi gọi điện thoại cho thằng Dương…
Thư Hương dặn tiếp :
– Anh nhớ gọi điện thoại tới nhà hộ sinh, giữ phòng cho em nữa đấy nhé. Anh tìm số điện thoại của nhà hộ sinh trong điện thoại niên giám. Mau mau lên, không có em đẻ ra nhà là anh phải làm bà mụ đấy.
Tâm vội vã đi tới phòng điện thoại công cộng ở đầu đường. Con đường đầu ngõ hẻm nhà Tâm, không thiếu gì những nhà xuất nhập cảng, hay những cửa hàng lớn có điện thoại, nhưng Tâm không muốn nhờ vả ai. Ngay bên cạnh nhà chàng, là nhà một ông lớn mà Tâm chắc rằng phải có tới hai ba cái máy nói, ấy vậy mà Tâm vẫn đi tới phòng điện thoại công cộng. Tính của Tâm là như thế. Chàng không muốn làm phiền tới ai.
Ngày trước, bố Tâm cũng định mắc một cái điện thoại ở trong nhà cho tiện việc giao thiệp, nhưng Tâm và Thư Hương đã tận tình phản đối. Người phản đối nhiều nhất là Tâm. Ngồi ở phòng Hành Quân Phi Đoàn, đã khổ sở gần như muốn điên cái đầu vì đủ các thứ điện thoại, nay về đến nhà nghỉ ngơi lại còn bị phá phách vì những tiếng vô duyên ấy, thì thật không còn gì khổ hơn. Bởi vậy, bố Tâm đành chịu thua và ông cứ tiếp tục đi chơi lang thang, rất ít khi ở nhà.
Tâm đi chừng gần nửa giờ đã trở về nhà. Đẩy cổng bước vào, chàng thấy ở trong nhà cũng chẳng có gì khác lạ. Chàng nhè nhẹ xoay nắm cửa. Vẫn thấy Thư Hương còn ngồi ở ghế, nhưng mặt tái đi nhiều. Thấy Tâm vào nhà, nàng gượng cựời:
– Xong rồi chứ anh ?
– Ừ xong rồi. Đã gọi cho thằng Dương. Nó về ngay bây giờ. Nhà hộ sinh cũng dành phòng sẵn cho Thư Hương. May cho cô là có một bà đẻ vừa về nhà. Cô chưa đi sao ?
– Em còn chờ mẹ.
Bà Phủ từ phòng Thư Hương chậm rãi bước ra. Vẻ thản nhiên của mẹ làm cho Tâm ngạc nhiên. Chàng thấy rằng chàng còn thua xa mẹ. Trường hợp mà Thư Hương đau như thế, nếu chỉ có chàng ở nhà, có lẽ chàng đã lúng túng nhiều lắm. Chàng hỏi mẹ :
– Mẹ chưa đưa em Thư Hương đi ?
Bà Phủ đưa tay lấy hộp trầu :
– Cứ thong thả, có cái gì mà vội vã. Đừng có làm vậy mà em nó sợ. Thư Hương chưa đau lắm. Mới có một giờ một lần. Khi nào đau cứ năm phút một lần, đưa đi nhà hộ sinh cũng vẫn đủ thời giờ. Nói chuyện cho em nó quên đi…
Thư Hương lại nổi cơn dau. Nàng nắm chặt lấy ghế, cong người lên. Chiếc quạt máy quay tít, trong nhà mát lạnh, mà Tâm thấy trán Thư Hương lấm tấm vài giọt mồ hôi. Chàng thấy lòng dâng lên nỗi xót thương tất cả những kiếp sống của đàn bà, phải đau đớn khi dâng cho đời một mầm sống.
Cơn đau chợt đến rồi chợt đi cũng mau. Thư Hương thở một hơi dài khoan khoái. Từ hơn một tháng nay, nàng đã phải tới nhà hộ sinh tập thở, tập những động tác khi lên bàn đẻ. Chất tái trên mặt Thư Hương vẫn còn phảng phất. Bà Phủ lại nói:
– Càng ở nhà lâu, càng tốt. Tới nhà hộ sinh Thư Hương sẽ chứng kiến những cảnh đẻ khó, tiếng kêu la, tiếng khóc của con nít, chẳng có lợi ích gì. Theo mẹ thấy, thì Thư Hương sinh nở cũng dễ, không kkó lắm đâu. Nhưng cũng nên đi là vừa.
Rồi bà gọi chị người làm nhờ kêu dùm chiếc tắc-xi và mang dùm chiếc va-li của Thư Hương ra cổng. Giọng của bà Phủ nói với chị người làm vẫn từ tốn, ung đung, đầy chất sang cả quí phái. Thư Hương lại hỏi Tâm :
– Anh có chắc anh Dương về không ?…
Tâm lơ đãng :
– Nó phải về chứ…
Chàng tránh không nhìn vào đôi mắt khắc khoải của Thư Hương. Những giây phút này chàng thấy hình như em gái chàng chỉ còn nhớ tới Dương, nhắc tới Dương luôn luôn. Chị người làm đã vào đứng bên cạnh bà Phủ :
– Xin mời bà và cô…
Thư Hương theo mẹ ra khỏi nhà. Căn nhà thật vắng lặng, khi chỉ còn lại có một mình Tâm.
Tâm không theo mẹ và em gái tới Nhà Hộ Sinh. Người đàn ông chỉ có thể đưa vợ đi đẻ. Đưa em gái đi, trông kỳ cục lắm. Để mẹ chàng theo Thư Hương là đủ rồi. Hơn nữa, chàng còn ở lại nhà để chờ Dương.
Không hiểu thằng Dương đã về chưa ?… Tâm thắc mắc như vậy. Lúc chàng gọi điện thoại lên Biên Hòa, vì phải qua đến hai ba hệ thống tổng đài, nên chàng nghe được tiếng còn, tiếng mất. Có lẽ Dương cũng vậy. Hai kẻ ở hai đầu giây nói, cách nhau hàng chục cây số, đã vận dụng hết gân cổ để la vào cái máy. Nhưng chắc Dương đã nghe thấy đủ câu mà chàng muốn nói rồi..
Thật tình thì Dương cũng đã nghe được hết. Dương ngồi ở đây, trong Phòng Hành Quân, chỉ nghe tiếng máy lạnh chạy rì rầm và tiếng chuông điện thoại. Đủ tất cả các loại chuông điện thoại. Đủ tất cả các loại chuông. Có tiếng kêu lóc cóc như gõ mõ. Có tiếng rền vang như đồng hồ báo thức. Có tiếng rì rầm như tiếng dế kêu trong đám cỏ. Ngồi ở đây thật buồn. Ngồi cạnh Dương lại là thằng An thi sĩ, thì thật không còn cái gì có thể nản hơn được nữa.
Lần chuông điện thoại mà Tâm gọi reo vang, là lúc chàng định đứng dậy, đi ra hành lang để đón một chút gió chiều nơi phi trường. Vào lúc này, trời thương nổi những cơn gió mạnh, tuy rằng nóng bức, nhưng vẫn còn hơn là lúc im gió buổi trưa. Vừa đứng lên thì chuông điện thoại reo, cầm lên, chàng nghe thấy một tiếng mở đầu thật nhỏ, như từ nơi nào xa lắm vọng tới. Chàng phải bịt chặt lấy một bên tai và hét vào trong máy :
– Ai đó ?…
Mặt chàng chợt tươi lên :
– À, Tâm đó hả ?… Có chuyện gì vậy mầy ?…
Trong lúc Dương lắng nghe tiếng Tâm nói từ đầu giây bên kia, thì An thi sĩ cáu kỉnh :
– Mới xa nhau từ chiều hôm qua mà đã bày đặt gọi điện thoại. Vác xe chạy mẹ lên đây có được không ?
Dương nhìn An thi sĩ, xua tay :
– Thôi mầy, để tao nghe… Không, tao nói với thằng An. Cứ tiếp tục đi mầy..
Tâm chỉ nói với Dương vài câu vắn tắt. Như vậy quá đủ rồi. Lúc chàng đặt điện thoại xuống thì An thi sĩ hỏi :
– Chuyện gì vậy?
Dương thở dài:
– Vợ đẻ.
An thi sĩ reo lên :
– Thế thì nhất rồi còn gì. Mày có thể về nhà ngay bây giờ. Để tao “gồng” cho. Cũng còn có vài ba giờ nữa thì có đứa lên thay rồi. Về đi mầy !…
– Cảm ơn mầy nhiều lắm !
Dương nói với thằng An bằng một giọng thản nhiên. Không hiểu sao chàng lại có thể khách sáo với bạn bè như thế. Chậm chạp, chàng xếp lại vài ba cuốn sổ trực, lấy cuốn truyện kiếm hiệp, rồi mở cửa phòng :
– Mày để ý dùm tao…
An cười vang, đi theo Dương ra ngoài :
– Kể như xong… Mày nên về sớm. Nhưng nhớ đừng theo vợ tới nhà hộ sinh đấy nhé !
– Tại sao vậy?…
– Mày không nhớ câu chuyện thằng Hậu nó kể à?… Lúc vợ nó đẻ, nó ngồi ngoài chờ. Khi thấy vợ ở trong phòng sanh, rặn đẻ, ở ngoài nó cũng bắt chước vợ. Nhưng vợ nó còn có đứa con ở trong bụng để lòi ra, chứ nó thì làm sao mà có được. Kết quả là thiên hạ đều phải bịt mũi và cười đến đau cả bụng…
Dương đi ra đến xe rồi mà vẫn còn nghe thấy tiếng cười của An. Nhờ câu chuyện mà An kể, chàng mới nhớ tới vợ chồng Hậu và Hằng. Có lẽ cũng nên ghé qua, báo tin cho vợ chồng nó biết. Chàng đạp máy xe rồi lái về phía trại gia binh. Nắng về xế chiều, chiếu vào lưng áo như muốn làm phỏng da. Chàng phải đi lối tắt để núp dưới bóng mát của những tàng cây cao su xanh mướt.
Chàng gặp Hằng đang ngồi trên ghế đọc một tờ tuần báo. Khi được Dương báo tin về Thư Hương, thì Hằng lại cuống quít hốt hoảng hơn cả mọi ngưòi.
Nàng đặt ngay tờ báo xuống, lay vai Hậu đang nằm ngủ say trên chiếc giường gần đó:
– Dậy đi anh… Chúng mình về Sài gòn.
Hậu xoay mình nằm quay mặt vào tường, lại tiếp tục ngủ, Hằng bực mình quá, lay mạnh hơn :
– Dậy đi !…
Hậu mở hé một mắt :
– Làm gì mà ồn ào thế…
Nhìn thấy Dương đứng sừng sững ở giữa nhà, chàng chống tay uể oải ngồi dậy :
– Cả một tuần lễ, chỉ được có một buổi trưa chủ nhật để ngủ bù lại cho cả bảy ngày mà cũng không yên. Có chuyện gì vậy Dương ?…
Hằng nói luôn :
– Thư Hương đi sanh…
– Có vậy mà cũng phải làm ồn ào… Thì mang cái bụng chửa chán rồi là sanh đẻ chứ có cái gì mà phải rối lên. Cô cứ làm như cô có thể đẻ dùm được cho người ta.
Hằng đặt nặng người xuống ghế.
– Thì mình cũng phải về, coi xem có thể giúp được gì không ? Dầu sao thì mình cũng kinh nghiệm hơn.
– Thôi, tôi xin cô. Đấy chỉ là một cớ để cho cô về Sài gòn. Muốn về chơi thì cứ về, lại còn bày đặt.
Nghe Hậu nói vậy, Dương mới chợt hiểu. Biên Hòa cách Sài gòn chỉ có ba chục cây số. Những ngày nghỉ, nếu không về Sài gòn chơi, thì hình như thấy thiếu thốn. Cả một tuần lễ ấy gần như không còn nghĩa lý.
Những lúc về sau này, vì muốn tiết kiệm tới mức tối đa, nên vợ chồng Hậu và Hằng ở lại Biên Hòa cả những ngày chủ nhật. Hậu thì vì cả một tuần lễ mệt nhọc, có thể làm cho ngày đó qua đi bằng cách ngủ liên miên, nhưng Hằng, cứ nhìn thấy ở chung quanh trống vắng, thiên hạ đã bỏ đi hết, nàng lại thấy buồn một cách lạ lùng. Nàng cũng muốn về Sài gòn. Chuyện đẻ của Thư Hương cũng làm cho nàng sốt ruột, nhưng đó cũng là một cái cớ để mà đi khỏi nơi đây, trong những lúc thật buồn như buổi chiều hôm nay.
Dương thấy lúc này, chàng phải xen vào câu chuyện :
– Thôi, tụi mầy để mai hãy về. Có lẽ ngày mai, tui nó sẽ về thăm đông lắm. Thằng An nó có xe hơi, chúng mầy có thể quá giang.
Nhìn Dương vẫn đứng ớ giữa nhà, Hằng hơi thẹn vội nói :
– Từ nãy tới giờ vẫn quên, chưa mời anh Dương ngồi. Thì ngồi xuống một chút đã.
– Thôi, xin phép chị. Tôi phải đi bây giờ.
Hậu đã tỉnh ngủ hẳn. Chàng bước xuống giường, tới bắt tay Dương rồi nói:
– Ừ, thì mầy đi về… Nhớ cho chúng tao gởi lời thăm. Ngày mai, tụi tao về.
Nhìn thấy Hậu, Dương lại nhớ tới câu chuyện mà An kể cho chàng nghe hồi nãy. Chàng ghé tai Hậu nói thầm :
– Tao không vào nhà hộ sanh với Thư Hương đâu. Tao sợ sẽ giống mầy rồi lấy quần đâu mà thay…
Nghe Dương nhắc lại câu chuyện ấy Hậu mỉm cười. Những tên đàn ông dẫn vợ tới nhà hộ sinh, thật là phải chịu đựng tất cả mọi tâm trạng. Nào là vui, buồn, lo sợ. Tiếng người đàn bà la hét trong cơn đẻ khó, làm cho lòng người chồng se lại và tràn ngập nỗi xót thương. Khi tiếng khóc của đứa trẻ còn non nớt vang lên vài tiếng, cũng là tiếng reo vui trong lòng người chồng.
Nhìn vợ nằm trên chiếc bàn có bốn bánh xe, người phủ vải trắng, được đẩy về phòng, người đàn ông đi theo mà có cảm tưởng như đi sau một người chết, dù rằng đây là bắt đầu một mầm sống chào đời. ” Trai nuôi vợ đẻ gầy mòn, gái nuôi chồng bệnh, béo tròn cối xay”. Lời các cụ đã nói, quả thật không sai.
Hậu tiễn Dương ra ngoài cửa :
– Có chuyện gì, sinh trai hay sinh gái, mầy nhớ nhắn thằng Tâm nói lại cho chúng tao nghe.
Đường từ Biên Hòa vầ Saigon có hai lối. Một lối chạy theo xa lộ, con đường thật nhẵn, thật êm. Nhưng Dương vẫn thích con đường cũ hơn. Hai chiếc cầu bắc ngang sông Đồng Nai, đối với Dương và bạn bè vốn có nhiều kỷ niệm. Những người lính gác cầu hình như cũng quen mặt. Nhìn thấy Dương, họ vẫn mỉm cười, gật đầu chào. Chàng thích nhất những khúc đường chạy song song với đường xe lửa. Nhiều khi, chàng chạy đua với xe lửa, để nhìn những khuôn mặt ló ra ngoài cửa sổ. Sinh hoạt trên con đường cũ, vẫn không có gì thay đổi vì đi đi, về về, hàng ngày có nhiều chuyến xe lô, xe đò.
Đã vài lần, chàng thử đi về theo nẻo xa lộ. Không khí cũng có mùi khác lạ. Không thơ mộng như con đường cũ, có làng mạc, có nhà cửa ngay ven đường. Chàng không được nhìn thấy bóng mình ngã dài trên đường, không được đi vào cái mát lạnh của vườn cao su Thủ Đức, không nghe được những tiếng đồng quê vọng về từ đồng ruộng. Ở xa lộ chỉ thấy những sự vội vã, hối hả. Còn đây là con đường của riêng chàng. Buổi chiều, lúc trở về, chàng còn thấy cả những con nhện giăng mau màng lưới trên những cột đèn. Và sự chờ đợi dưới chân mấy cây cầu, đối với chàng, là lúc nghỉ ngơi, thảnh thơi và vui thú.
Từ nhà Hậu ra, chàng chạy xe chầm chậm, vì Dương thấy rằng không có gì làm cho chàng phải vội vã. Dù Thư Hương chưa vượt cạn hay đã xong xuôi rồi, thì sự có mặt của chàng cũng chỉ thế thôi. Chàng chẳng giúp ích gì cho Thư Hương. Hơn nữa, ở nhà đã có mẹ Tâm, đã có Tâm, như thế cũng đã là quá đủ. Qua hai cái cầu rồi, chàng mới chợt nhớ ra rằng, đã không dặn anh chàng An thi sĩ xin phép cho chàng nghỉ vài ngày.
Nhưng chàng chắc rằng anh chàng An thi sĩ sẽ không quên khoe câu chuyện “vợ thằng Dương” đẻ, để rồi cả lũ kéo về thăm, rồi tới ngày đầy tháng, thế nào cũng đòi ăn, đòi uống. Cái gì chứ việc đòi ăn uống, thì lũ bạn bè chàng vẫn coi như đó là điều bắt buộc
Chàng mỉm cười, nhìn lũ trẻ chăn trâu đứng nô đùa trong ngôi mộ Chú Hỏa, để cảm thấy thật vui vẻ và yêu đời.
Bánh xe của chàng vẫn lăn đều như suốt con đường. Vùng suối Lồ-ồ, vùng Linh Xuân thôn đã vượt qua. Bưổi chiều thật êm và thật mát. Chàng bỏ chiếc mũ “dô-kề” vào túi treo ở dưới chân, cho làn gió chiều thổi bay tung mái tóc, để hưởng hết hương vị của nắng của gió. Từ Thủ Đức chạy về cầu Bình Lợi, con đường thơ mộng hơn, với một con ngòi chạy dọc theo đường, có những căn nhà tranh với những hàng cau thẳng vút.
Nhiều khi, chàng và Tâm đã ngừng xe ở đây, qua chiếc cầu nhỏ đi bộ đọc theo con đường mòn mọc đầy những cây dừa nước, hay ngồi nhìn những con cá nhỏ, tung tăng lội ngược dòng. Tâm thường nói với chàng rằng dòng “tiểu khê” này chỉ thiếu có vài ba cành liễu thướt tha nữa, thì đúng là nơi mà Thúy Kiều gặp Kim Trọng. Gần con ngòi đó, cũng có vài ba ngôi mộ, để hoang phế, không người săn sóc mà Tâm cho rằng trong đó, thế nào cũng có một ngôi mộ của nàng Đạm Tiên, một em đĩ chết vì bệnh lậu hay giang mai.
Có một buổi chiều, nhìn thấy hai cô gái thấp thoáng ở một chiếc nhà tranh, Tâm đã xông tới định đóng một vở tuồng Kim Trọng gặp Thúy Kiều, Thúy Vân. Nhưng hỡi ôi, Thúy Kiều, Thúy Vân của chàng Kim Trọng Tâm, nhìn xa thì tưởng là xấu, tới gần thì xấu thật, mà nhìn kỹ thì xấu quá. Ấy thế mà Tâm cũng nói được vài ba câu rất ư là văn hoa, làm cho Dương phải ôm bụng mà cười.
Cứ nghĩ đến Tâm, thì Dương lại thấy vui. Và chàng lại không thấy hối hận về chuyện Thư Hương. Nghĩ tới đây, chàng lại thấy nao nao, nghĩ rằng bây giờ chắc Hương đang nằm trên bàn sanh, đau đớn trong cơn sinh đẻ. Chàng thương Thư Hương quá, nhưng cái thương ấy là thương một cô em gái.
Chỗ này, con đường chạy song song với đường tàu. Tiếng còi hú đằng sau lưng, rồi con tàu xình xịch chạy qua mặt chàng, bánh sắt quay nhiều vòng ngay ngang tầm mắt.
Đoàn tàu chạy qua, để lại trong không gian vương vương một chút khói than. Đầu cầu bị chặn lại. Xe cộ đậu nối đuôi, đứng chờ qua cầu. Tiếng rao hàng lảnh lót của cô nàng bán mía ghim. Tiếng ly chạm nhau vội vã, dáng hối hả của những chú nhỏ bán nước trà cho khách hàng ngồi trên xe lộ, xe đò, vẫn không khác gì những ngày cách đây vài năm, chàng mới đổi lên Biên Hòa kỳ trước, hay đi về Saigon bằng xe đò.
Chàng vượt qua đoàn xe, đậu lên hàng đầu cùng với những xe hai bánh.
Qua khỏi chiếc cầu là đã vào vùng Gia Định. Lát nữa đây, chàng sẽ tới ngã ba Bà Chiểu. Chàng phân vân không biết là mình nên quẹo trái hay quẹo phải. Rẽ về phía trái là về hướng nhà Thư Hương. Quẹo phía phải là đi về Phú Nhuận, nơi nhà Phượng. Chàng quyết định sẽ tới nhà Phượng trước, báo tin cho Phượng biết là Thư Hương đã được đưa tới nhà hộ sinh. Chàng cũng biết rằng như thế là không phải với Tâm và Thư Hương. Tâm đã gọi chàng về, có nghĩa là cần tới sự có mặt của chàng.
Nhưng rồi chàng lại an ủi rằng, chàng sẽ mang Phượng vào nhà hộ sinh, trông nom cho Thư Hương có bạn bè nói chuyện, đỡ cho mẹ Tâm phải thức khuya mệt nhọc, trông nom cho con gái. Chàng lái xe đi về ngã Phú Nhuận.
Lần nào cũng vậy, mỗi khi trở về Xóm Đạo nơi mà chàng sống cả một năm ở đó, chàng lại bâng khuâng. Con đường vẫn không đổi khác. Chàng chỉ thấy con đường hình như hẹp hơn, vì nhà nào cũng cố lấn ra ngoài một chút hành lang nơi trước cửa.
Con đường tàu, có vẻ nhiều rác rưởi hơn, và vẫn có những đứa con nít nô đùa nhởn nhơ ngay giữa đường tàu, coi thường nguy hiểm. Chàng đi qua căn nhà cũ. Trong nhà, vọng ra những tiếng cầu kinh rì rầm. May không gặp bà chủ đứng trước cửa, nếu không chàng cũng mất đi chút thì giờ để trả lời những câu hỏi xã giao.
Chàng gõ cửa nhà Phượng, và được Phượng ra mở cửa. Đôi mắt Phượng sáng lên ánh vui mừng :
– Hôm nay anh mới về ? Phượng chờ anh cả một buổi chiều hôm qua…
– Chiều qua và hôm nay, anh phải trực hành quân. Anh quên không cho Phượng biết.
Rồi Dương nhìn vào trong nhà :
– Thiên hạ đi đâu hết cả rồi ?
Phuợng mở tung hai cánh cửa sổ :
– Tất cả đi nhà thờ dự lễ nguyện chiều chúa nhật. Chỉ có Phượng ở nhà. Nhờ thế mà Phượng được ngủ một giấc dài, đến bây giờ mới thức dậy.
Dương đi vào nhà, ngồi xuống ghế xa-lông nơi phòng khách. Dương vẫn giữ ý như vậy. Khi nhà chỉ có một mình Phượng, chàng không vào trong nhà và chỉ nói chuyện với Phượng nơi phòng khách. Phượng dẹp vội mấy cuốn báo trên mặt bàn, xếp xuống ngăn dưới của chiếc bàn, rồi bảo Dương :
– Chờ Phượng một chút !
Dương mỉm cười, khẽ gật nhẹ đầu, rồi đốt một điếu thuốc lá. Chàng nhìn xuống tấm kính đặt trên mặt bàn, nhìn thấy mờ mờ khuôn mặt mình với làn da sạm đen và đôi mắt mệt nhọc. Chàng tựa lưng vào chiếc ghế, duỗi thẳng hai chân, thở ra những làn khói dài trên trần nhà. Phượng vào trong nhà, rửa mặt và chải sơ qua lại mái tóc. Nàng đi ra, ngồi xuống trước mặt Dương, bàn tay đỡ lấy má, đăm chiêu nhìn Dương :
– Hồi này anh hơi gầy đi.
– Nhưng mà khỏe, Phượng đừng lo. Phượng để đành những sự lo lắng ấy cho ngày sau. Chỉ chừng vài ba tháng nữa là Phượng phải lo cho anh thật nhiều.
Phượng cúi đầu xuống để cho mớ tóc xõa xuống, che lấp hẳn cả khuôn mặt :
– Không biết còn bao nhiêu lâu nữa ?
Dương ngồi thẳng dậy :
– Sắp sửa rồi. Anh báo cho Phượng biết một tin mừng. Thư Hương đi đẻ sáng hôm nay…
Như một bầu trời tăm tối loé lên ánh bình minh, như một khu rừng im vắng, bỗng vang lên tiếng hót của một loài linh điểu, khuôn mặt Phượng vương nhiều nét u sầu vụt như hoan hỉ. Nàng đứng ngay lên:
– Thế thì Phượng phải vào ngay nhà hộ sinh với Thư Hương.
– Ai coi nhà cho Phượng ?
– Để mặc đấy ! Khóa cửa lại, gửi chìa khóa cho bà hàng xóm. Anh chờ Phượng năm phút, để cho Phượng sửa soạn lại một tí dung nhan.
Phượng đưa vội bàn chân xuống tìm kiếm đôi dép. Nàng có thói quen ngồi ghế xa-lông là đưa cả hai chân lên, hai tay ôm lấy đầu gối. Trong lúc vội vã, Phượng xỏ lầm cả dép, chân nọ lẫn vào chân kia.
Nhưng khi nàng vừa đứng lên, Dương đã gọi Phượng, giọng thật dịu dàng :
– Phượng !
– Gì vậy anh ?
– Phượng ngồi xuống đã. Theo anh thì Phượng chẳng cần phải hấp tấp như thế. Lúc Tâm gọi điện thoại cho anh là lúc xế trưa. Anh phóng xe chạy về ngay. Có lẽ bây giờ, Thư Hương chỉ mới vừa tới nhà hộ sinh. Mai Phượng vào tới Thư Hương cũng vừa.
Phượng vẫn đứng, chưa chịu ngồi xuống ghế. Cái náo nức của nàng bị Dương làm cho xẹp xuống. Nàng tần ngần nhìn xuống chân, rồi cái vẻ yêu đời vừa mới thoáng hiện hồi nãy, lại chợt biến đi, như một ánh nắng hiếm của mùa đông, Phượng uể oải lê từng bước chân nhẹ vào nhà :
– Để Phượng pha cho anh ly nước.
– Không cần, Phượng ạ. Phượng hãy ngồi xuống đây.
Phượng lại trở về chỗ ghế cũ, ngồi xuống, rồi vẫn với cái tư thế đặc biệt, ngồi mà hai tay ôm lấy đầu gối, Phượng hỏi Dương:
– Tại sao anh lại không muốn cho Phượng vào với Thư Hương lúc nầy ?…
Dương nhìn bâng khuâng vào bức tranh treo trên ttrờng :
– Anh muốn tránh cho Phượng một xúc động. Hồi anh còn nhỏ, thường nghe mẹ anh nói, con gái không nên tới chỗ đàn bà đang đau đẻ. Vì như thế sẽ sợ hãi, rồi về sau này, có chồng, sự sinh nở sẽ khó khăn vì sự sợ hãi nó ám ảnh. Anh không biết rằng mẹ anh nói có đúng không nhưng tránh thì vẫn hơn.
– Phượng cám ơn anh.
Câu cám ơn của Phượng, Dương nghe sao mà nhạt nhẽo và khách sáo. Chàng có cảm tưởng như lưỡi dao sắc chạm vào một chất nhám. Rồi hai người ngồi im lặng, không nói gì, mà cũng không nhìn nhau. Hồi lâu Dương mới hỏi:
– Hồi nầy, Phượng khỏe không ? Anh trông Phượng có vẻ hơi gầy đi và ít nói hơn. Không hiểu rằng Phượng có điều gì muốn dấu anh ?
Phượng chỉ chịu đựng được có thế. Sao bây giờ anh mới hỏi Phượng điều nầy ? Anh có biết bao nhiêu đêm nay, Phượng không ngủ được không ?
Nỗi lo âu, thắc mắc lúc nào cũng như dày vò Phượng thường trực, theo đuổi Phượng những lúc thức, lúc ngủ, lúc ăn, ngay cả những lúc đưa những bước chân thẫn thờ đi trên hè phố. Phượng muốn dấu anh, đúng như vậy, vì có cho anh biết, cũng không ích lợi gì. Mà những điều thắc mắc của Phượng, chẳng cần nói thì anh cũng biết rồi. Nỗi lo lắng thường trực của Phượng, chắc anh cũng chẳng lạ gì, Phượng sợ mất anh. Phượng chỉ sợ một điều là mất anh.
Phượng đăm đăm nhìn Dương như muốn thu lấy hết tất cả hình ảnh của Dương, cái nhìn thật khắc khoải đến thê thảm. Rồi Phượng oà lên khóc.
Hai bàn tay Phượng ôm lấy mặt, đôi vai run lên theo từng nhịp những tiếng nức nở. Rồi Phượng thốt lên.
– Em khổ quá, Dương ơi!
Chẳng bao giờ, Phượng xưng em với Dương, nhưng tới lúc nầy, Phượng mới lại thấy mình nhỏ bé quá, yếu đuối quá… Vì nhiều lúc, nàng hay suy nghĩ để tìm ra những thí dụ lẩm cẩm.
Thí dụ như Thư Hương, sinh nở xong rồi mẹ tròn con vuông, nhất định không chịu ly dị với Dương. Thì cũng phải đành chịu chứ biết làm sao. Rồi tới một lúc nào đó, Phượng phải cắt đứt mối tình với Dương. “Chớ lấy vợ, chồng người” đó là một trong mười điều răn của Chúa. Dù sao thì Dương cũng là chồng Thư Hương, bởi thế Phượng không thể nào làm trái với lời răn của Chúa. Nghe tiếng em của Phượng, Dương cũng thấy như muốn lặng người đi, phải quay mặt ra đường để tránh nhìn cảnh Phượng ngồi khóc. Chàng nói với Phượng :
– Chúng mình sẽ chờ một thời gian cho Thư Hương mạnh khỏe, nói về chuyện đó với Thư Hương. Anh chắc rằng Thư Hương cũng là người biết điều. Nhất là có thêm lời của bác Phủ, của Tâm.
Lại phải chờ đợi, lúc nào cũng chỉ nói đến chờ với đợi. Lúc trước thì chờ tới ngày Thư Hương sinh nở, bây giờ lại phải chờ tới ngày Thư Hương khỏe mạnh. Phượng muốn gào lên rằng, Phượng không thể chờ đợi được nữa. Mối tình của Phượng và Dương, kể từ lúc bắt đầu, cho tới bây giờ, là sáu năm. Trong sáu năm trời ấy thì buồn nhiều hơn là vui, xa cách nhiều hơn là gần gũi, chờ đợi nữa, thì chờ đợi cho tới bao giờ…
Dương thoáng thấy bóng áo dài của Yến, và Loan đi về từ đầu phố. Chắc là buổi lễ nguyện đã chấm dứt. Hai người con gái ấy, tay cắp một cuốn kinh, đang lững thững bước về nhà với những bước chân thật nhẹ nhàng, bình thản. Dương nhắc Phượng :
– Chị Yến với Loan về…
Hình như Phượng không nghe thấy câu nói của Dương, vẫn gục đầu trên gối. Chị Yến và Loan đã bước vào nhà. Nhìn thấy cảnh đó, Loan la lên :
– Buổi chiều chủ nhật mà ngồi khóc, thì chẳng có sự vô lý nào bằng. Có chuyện gì vậy anh Dương ?
– Hôm nay, Thư Hương đến nhà hộ sinh.
Yến reo lên :
– Con trai hay con gái đấy Dương ?
– Tôi cũng chưa biết vì chưa ghé qua nhà. Được Tâm gọi điện thoại, là chạy về đây ngay.
Yến hỏi thăm Dương về chuyện, ở nhà hộ sinh nào, số phòng bao nhiêu.
Điều này thì Dương cũng mù tịt, vì chàng cũng có biết gì đâu. Yến bĩu môi chê ngay Dương là một ông chồng hạng bét. Phượng đứng lên đi vào trong nhà và cả Yến, Loan cũng vào theo. Nơi phòng khách chỉ còn trơ lại có một mình Dương. Chàng nói vọng vào trong nhà :
– Tôi đi đây!….
Tiếng của Yến nói ra từ trong phòng tắm :
– Sáng mai nhớ tới cho biết tin tình trạng sức khỏe của Thư Hương. Con trai hay con gái ? Nằm ở đâu, phòng số mấy ? Thư Hương cần mua những cái gì mà chỉ đàn bà mới đi mua cho nhau được. Chỉ có ngần ấy thôi. Nhớ kỹ lấy!
Dương đi về nhà Tâm. Nắng đã tắt hẳn trong thành phố, nhưng trời vẫn còn sáng. Chàng đi vào trong bụi và khói ngột ngạt của đô thành. Trên đường tấp nập đủ các loại xe.
Vì đã quá quen thuộc với nơi đây, nên chàng chẳng bấm chuông hay gọi cửa. Ngôi nhà thật vắng lặng và mênh mông. Vào nhà chàng thấy Tâm đang nằm trên chiếc ghế dài, lấy một chiếc nệm tựa lưng kê lên đầu, im lặng hút thuốc.
Chiếc gạt tàn, để trên bàn, tàn thuốc đã đầy. Chàng chắc rằng Tâm nằm như thế đã lâu lắm. Lần đầu tiên, chàng nhìn thấy khuôn mặt Tâm có những nét trầm tư.
Tâm hỏi mà không ngồi dậy :
– Sao tới bây giờ mầy mới về ?…
– Tao ghé lại nhà Phượng.
Dương nhìn quanh nhà, rồi hỏi tiếp:
– Đi hết cả rồi sao ?…
– Ừ, chị người làm cũng vừa xin phép tao đi vào nhà hộ sinh, coi Hương làm sao. Tao cũng đã dặn là có chuyện gì thì chạy về báo tin ngay. Mày cũng ở nhà chứ ?
Dương gật đầu :
– Vào trong đó cũng chẳng ích lợi gì. Bây giờ mà mua một chai rượu với lại một ít đồ ăn mang về đây, tao với mầy cởi trần ra mà uống thì tuyệt quá.
– Tao cũng nghĩ thế.
Dương đi vào trong nhà, thay quần áo rồi vào phòng tắm vặn nước chảy ào ào cho trôi đi lớp bụi đường. Nghĩ tới những ngày sống ở căn gác cạnh đường xe lửa, nhớ tới những ngày ăn chung với Phượng những bữa ăn buổi trưa chủ nhật. Rồi hiện lên ở đâu đây, đôi mắt của Phượng, thật khắc khoải trong sự đợi chờ. Chàng ngửa mặt lên cho nước từ bông hoa sen tưới lên mặt, và cảm thấy chất mát lạnh của nước như luồn vào từng thớ thịt da.
Nhưng rồi khi mở mắt ra, chàng lại nhìn thấy, trên miếng kính đặt dưới tấm gương rửa mặt, có vài ba thứ đồ dùng của Thư Hương. Chàng lại nghĩ tới Thư Hương, chắc rằng lúc này đang trong cơn đau đớn. Chàng cầm lấy bánh xà bông “săng-tan”, thứ xà bông thơm tròn trĩnh mà Thư Hương hay dùng, thấy như còn dính vào đó vài ba sợi tóc dài. Bánh xà bông vẫn còn ướt. Chắc Thư Hương đã gội đầu và tắm xong mới đi tới nhà hộ sinh. Chàng nhìn bóng mình trong gương, thì thấy mình cũng đã đen và già dặn đi nhiều. Trong có vài tháng nay, người nào cũng như thấy cuộc đời mình đổi khác.
Nghĩ tới câu chuyện nói với Phượng lúc ban chiều, chàng lại thấy thoáng một chút ưu tư. Giá mà bây giờ Thư Hương chết đi, thì tất cả mọi sự đều được giải quyết êm đẹp. Chàng lắc đầu thật mạnh để xua đuổi cái ý nghĩ hắc ám ấy nhưng rồi nó cứ lẩn quẩn mãi trong đầu óc. Ừ, sự sinh nở, khó khăn rất có thể làm cho Thư Hương kiệt sức. Thư Hương sẽ buông xuôi hai tay, nhắm mắt vĩnh viễn lìa bỏ cõi đời, sau khi trăn trối vài lời với Phượng, với Dương. Em để cháu lại cho anh chị, xin anh chị thương em, thương cháu, nuôi cho nó nên người.
Chàng và Phượng sẽ nắm chặt lấy tay Thư Hương, rồi hứa hẹn. Thư Hương sẽ mỉm cười… Nhưng không, không thể nào xảy ra chuyện đó được. Những nhà hộ sinh ở đây, có đầy đủ phương tiện để cứu sống người. Dù cho người mẹ có kiệt sức, đứa con sinh ra chỉ là một mớ thịt da dúm dó, gầy còm. Hơn nữa. sau mỗi lần đi khám bác sĩ chàng được Thư Hương cho biết cái thai rất tốt và Thư Hương sẽ sinh nở một cách rất bình thường…
Chàng ra khỏi nhà tắm, tuy đã trút được sạch lớp bụi đường, mà vẫn thấy tâm hồn nặng chĩu. Chàng khoác chiếc khăn tắm lên lưng, ngồi đưa cả hai chân lên ghế, đối diện với Tâm, lúc này vẫn liên miên hút thuốc lá. Tâm nói với chàng :
– Đợi chừng nửa giờ nữa. Nếu người làm không về thì tao với mầy phải đi ăn, hay đi mua thứ gì về đây ăn…
– Đợi một giờ đi !… Tao chưa thấy đói.
– Cái đó tùy ý.
Hai người trao đổi với nhau những câu nói gần như lơ đãng. Dương cũng đốt một điếu thuốc lá, để nhìn thấy bóng tối như dần bao phủ, chụp lấy cảnh vật chung quanh.
Trong bóng tối, chỉ còn hai đốm lửa thuốc lá lập loè. Cả hai người đều lười biếng, không ai muốn đứng dậy bật đèn. Mà ánh sáng lúc này, cũng chẳng cần thiết. Tâm nghe được cả tiếng thời gian đi chầm chậm, và chiếc đồng hồ treo trên tường, thỉnh thoảng lại gõ một vài tiếng chuông trầm ngâm. Dương hỏi:
– Mày đã đói chưa ?…
– Cũng chưa thấy cần ăn lắm.
Trả lời xong câu đó, Tâm chống tay ngồi dậy :
– Hồi nãy, mầy tới nhà Phượng, nói những chuyện gì ?
Dương duỗi chân gác lên mặt bàn cho người thoải mái. Chàng muốn nói câu chuyện hồi chiều với Tâm, mà không biết mở đầu như thế nào. May mà được Tâm hỏi trước. Nhưng rồi tới lúc này, chàng lại ngập ngừng. Biết tính bạn vốn nóng nảy, không để được câu chuyện gì nằm yên trong bụng. Nói ra những thắc mắc của Phượng là Tâm sẽ nói ngay cho Thư Hương biết.
Người đàn bà vừa sinh nở, nhất là sinh nở đứa con đầu lòng, vốn yếu ớt, làm sao mà chịu đựng được sự phũ phàng với câu nói của Tâm. Chàng ngập ngừng chưa muốn nói, vì thấy tội nghiệp cho Thư Hương. Mà có lẽ cũng chẳng có thể dấu được Tâm, thì thà nói phứt đi cho rồi. Chàng kéo mạnh một hai thuốc lá :
– Phượng nói đến những chuyện mà chúng mình đã xếp đặt từ trước, sau khi Thư Hương sinh nở.
Tâm thở dài:
– Cái đó là điều bắt buộc.
Tuy nói vậy, Tâm cũng thấy việc này thật khó khăn. Dương thì chưa biết cuộc nói chuyện giữa nàng và mẹ. Dương kể lể :
– Ngày mai, Phượng sẽ vào với Thư Hương, nói câu chuyện đó với Thư Hương. Nhưng tao cản Phượng, bảo Phượng hãy chờ cho Thư Hương cứng cáp đã. Tụi tao đã chờ nhau lâu quá rồi, thêm lên hay bớt đi một vài tháng thì cũng thế.
Tâm lại thở dài. Vì trời tối nên không ai nhìn thấy đôi mắt Tâm chớp thật nhiều lần. Chàng cảm động :
– Mày nghĩ như thế cũng phải.
Tới đây, hai người bạn lại im lặng để nhìn đóm lửa lập loè, sáng lên trong bóng tối. Cả hai người đều nghĩ tới hai người con gái mang tên Phượng và Thư Hương. Cả hai người con gái ấy đều đáng thương, như những cánh chim non, ngơ ngác trong vòng trời bão tố. Dương nhắm mắt lại, chàng có cảm tưởng rằng, bây giờ mà ngủ được một giấc không mộng mị, chắc là sung sướng lắm.
Có tiếng lách cách mở chốt ở ngoài cổng, rồi tiếng nặng nề của chiếc cổng mở hé, bước chân đi nhẹ vào cửa. Tâm hỏi :
– Ai đó ?…
Có tiếng chị người làm :
– Cháu đây! Sao cậu không mở đèn ?…
Rồi tiếng động nhẹ. Ánh sáng dịu dàng tỏa khắp căn phòng. Thấy Dương ngồi đó, chị người làm reo lên :
– Cô Thư Hương chỉ sợ cậu chưa về. Cô cháu hỏi là cậu làm giấy khai sinh, hay là để nhà hộ sinh họ làm ?…
Tâm lại hỏi:
– Nhưng mà cô đã sinh chưa ?
Khuôn mặt chị người làm chợt tươi lên. Chị hấp tấp kể như sợ người khác tranh mất lời :
– Dạ, cô sinh rồi. Vào được chừng một giờ thì cô nổi cơn đau bụng. Đưa xuống phòng sanh để đo, thì đã mở đựợc sáu phân. Bà cũng chưa cho nằm ở phòng sanh, nên cháu lại đưa cô về phòng. Chừng một giờ sau, thấy cô nhăn nhó nhiều quá, bà mới kêu cô đỡ, đẩy xe tới đưa cô đi. Cô đau có hai cơn. Em trai cậu ạ. Em xinh lắm, vừa đẻ ra đã khóc ầm ỹ. Tiếng khóc của em, lớn hơn hết mấy đứa trẻ khác. Cô đang nằm nghỉ. Em nặng ba ký.
Trên môi Dương thoáng một nụ cười… Thư Hương đẻ con trai, thật là may mắn. May nhất là có một đứa con gái không phải mang tên Hôn Hoàng. Dù sao con trai tên Hoàng, cũng hơi yếu một chút nhưng cũng được. Phượng Hoàng… Loài chim ấy thật đẹp, thật hùng mà cũng thật đa tình. Chị người làm lại nhắc :
– Thưa cậu…
Dương ngắt lời :
– Tôi đi làm giấy khai sinh.
Chàng muốn trong giấy khai sinh của đứa nhỏ, phải có đủ tên của những người thân. Tên cha là chàng, tên mẹ là Thư Hương. Hai người làm chứng sẽ là Tâm và Phượng.. Để cho nhà hộ sinh, tên hai người chứng sẽ là hai bà mụ, chẳng có liên hệ gì tới người có mang tên trong giấy khai sinh. Chàng sung sướng được làm bố, dù chỉ là một thứ bố hờ.
Khi nghe thấy chị người làm cho biết là Thư Hương sinh con trai, Tâm cũng cảm thấy náo nức, vui mừng. Chàng vẫn có tiếng là yêu con nít.
Bây giờ, lại có một đứa cháu, con của cô em gái, nghĩa là cũng một phần liên hệ với chàng, tất nhiên là chàng sẽ yêu thương hơn những đứa trẻ khác. Chàng vùng la lên với Dương :
– Thay quần áo cho lẹ. Chúng mình cần phải uống mừng cho một nhi đồng mới vừa được hưởng ánh sáng mặt trời.
Dương cũng đứng dậy :
– Cái gì chứ ăn với uống thì có ta ngay.
Thấy hai anh chàng vui vẻ một cách rất ồn ào, chị người làm vội can một câu:
– Hai cậu ở nhà dùng cơm. Cháu đã làm sẵn đồ ăn. Chỉ cần nấu nồi cơm nữa. Chừng nửa giờ nữa thôi.
Tâm cười vang:
– Cứ ăn mãi những thứ đồ ăn của chị thì có phen lại trở thành cậu ấm con quan. Chỉ những thịt rim cá kho, nếu không thì lại giò, chả. Chẳng bao giờ thấy chị cho ăn những món như cá nướng trui, lươn, ếch xào lăn, cua lột… Cần phải cho chị đi học một lớp về làm bếp để sửa soạn các món nhậu.
Chị người làm buồn buồn trả lời :
– Cháu cũng biết làm những món đó chứ. Nhưng cả nhà chẳng ai thích. Có một lần làm món đầu cá hấp mà chẳng ai đụng đũa…
Chị người làm đi xuống nhà dưới. Một lát, chị trở lên thì hai anh chàng đó đã đi mất. Chị thở dài nhìn cái gạt tàn thuốc đầy tới ngọn, một chiếc tàn thuốc còn cháy dở nghi ngút khói. Chị dọn dẹp lại cho ngăn nắp bàn ghế trong phòng khách, đổ tàn thuốc lá vào thùng rác. Chị thấy căn nhà như rộng mênh mông hơn. Chị làm ở đây đã lâu, nên đã coi đây là gia đình. Chị thấy rằng, mỗi người trong nhà là một thế giới riêng, phức tạp chẳng ai giống ai. Nhưng tất cả đều hiền lành phúc đức.
Nếu không có chuyện gì xảy ra, thì chị có thể ở đây cho tới lúc hết đời. Chị đã nói với Thư Hương như vậy. Chị theo gia đình bà Phủ, di cư vào đây, săn sóc cho Thư Hương từ lúc cô còn bé tí xíu, học trường Tiểu học, rồi tới bây giờ, lại bắt đầu trông nom cho em Hoàng. Khi Thư Hương sinh nở, chị là người bế bé Hoàng trước nhất, khi bà mụ trao cho. Chỉ nhìn thoáng qua, chị cũng thấy chú bé giống mẹ một cách lạ. Cũng đôi mắt to, đen láy. Cũng cái miệng ấy, có cái môi dưới bĩu ra, như sẵn sàng trêu chọc người khác. Thấy chỉ có một mình ở nhà, chị cũng chẳng muốn nấu cơm làm gì, vì chị không thấy đói.
Chị là một thứ người làm đã được coi như con cháu trong nhà, chẳng thế mà cả nhà bỏ đi hết, để mặc cho chị một mình một giang sơn. Ông Phủ đã đi ra miền Trung một tháng nay vừa đi họp Đảng, vừa đi thăm vài ba di tích của cố đô với vài ba ông bạn già. Chị nhìn những cổ vật được xếp đặt trong nhà, rồi nhớ tiếc thời kỳ vàng son ở ngoài Bắc. Những ông Chánh tổng, Lý trưởng mỗi lần vào nhà là lấm la lấm lét, sợ từ con chó sợ đi, và đối với chị một niềm kính cẩn lễ phép
Làm quan sướng như vậy mà không hiểu sao cậu Tâm cứ sợ trở thành một thứ cậu ấm con quan… Điều nầy, thì chị không thể nào hiểu được.
Chị cặm cụi làm việc từ chập tối cho tới mãi tận khuya. Chị dọn dẹp căn phòng Thư Hương kỹ nhất. Để vài hôm nữa, cô ở nhà hộ sinh về, sẽ reo lên khi nhìn thấy cái nóc tủ gọn gàng, những đôi giày được xếp lại có thứ tự, không phải mỗi nơi một chiếc.
Chị lựa ra những chiếc áo dài mà Thư Hương mặc khi còn con gái, ủi thật thẳng. Không còn cái bụng nữa, thì mặc những cái áo này được rồi. Còn những cái áo có bụng thùng thình, chị gấp lại, cất kỹ ở một ngăn tủ. “Cứ để dành đấy cho lần sau”. Và chị nghĩ rằng cái lần sau ấy, có lẽ cũng chẳng lâu gì. Không chừng chỉ bằng giờ sang năm là có đứa nữa. Các cụ chẳng nói “đầy năm mẹ thì đầy tháng con” là gì.
Chị người làm nhìn một vòng căn phòng của Thư Hương. Chị tìm chỗ để đặt chiếc nôi cho em bé. Chị cong lưng kéo chiếc tủ về một góc, để có một khoảng trống nơi gần cửa sổ. Từ ngày chị về tới nhà này, tới bây giờ, lần đầu tiên có tiếng khóc của trẻ con. Theo như chị, thì một căn nhà, đêm đêm phải có tiếng ho của người già, tiếng khóc của con nít, tiếng máy khâu, tiếng học bài mới đúng một ngôi nhà, của xã hội này.
Chị thấy những người ở trong nhà này sống im lặng quá. Cũng may là trong vài tháng nay, có Tâm, có Dương nên cũng bớt âm u, tẻ lạnh. Nhất là có cô Thư Hương, tuy rằng cũng có nhiều lúc làm cho chị bực mình, nhưng cô đã tạo ra những sự vui vẻ nhiều hơn. Chị thấy thương mến tất cả mọi người trong nhà, và chị nguyện sẽ hết lòng trông nom cho em bé.
Mãi tới nửa đêm, hai anh chàng Tâm và Dương mới về. Lúc nãy, họ để xe ở nhà. Chị nghe tiếng họ hát vang lên ở đầu ngõ. Những người trẻ tuổi, có cái vui thật ồn ào. Hình như con đường hẻm này, không hợp với Tâm vì chung quanh đây phần nhiều là những quan lại của thời xưa, có con cái làm lớn. Tiếng hát của Tâm và Dương đã đánh thức những con chó “bẹc-giê” của mấy căn nhà hàng xóm.
Tiếng chó sủa ong ỏng hòa với âm thanh lè nhè của hai chàng say, làm cho chị người làm muốn bật cười. Tâm đẩy nhẹ tấm cửa sắt. Trong nhà vẫn còn đèn sáng và cổng sắt vẫn chưa khóa. Tâm bá cổ Dương, và Dương ôm ngang lưng Tâm như một đôi tình nhân âu yếm nhau nhất đời. Chị người làm mở cửa rộng :
– Hai cậu say rồi l…
Tâm cười vang :
– Say gì mà say. Vui thì có. Chị có vui không ? Nhà này lại sắp sửa thêm một người. Dù rằng người này không biết nói, không biết chạy mà chỉ biết khóc nhè, ăn và ngủ. Lại còn tè bậy tùm lum. Ấy thế mà cũng vẫn vui. Chị chưa đi ngủ sao ?
– Cháu dọn phòng cô Thư Hương , dọn dẹp lấy một chỗ cho em bé. Cậu chưa nhìn thấy nôi em bé. Nếu nhìn thấy rồi chắc là cậu sẽ vui hơn.
Tâm đặt mình xuống ghế :
– Mai sẽ được thấy. Vội gì….
Chàng uể oải ngả lưng xuống tấm ghế dài nơi phòng khách:
– Đêm nay, tôi nằm đây.
Chị người làm vội can :
– Thôi, cậu vào trong phòng. Say rượu mà nằm ở dưới quạt thì không nên. Cậu mà nằm đây, sáng mai bà về thấy được, cháu lại bị mắng. Cậu vào phòng đi !
Dương đã vào phòng để thay quần áo. Đi ra ngoài nghe được chuyện của Tâm và chị người làm, chàng xen vào:
– Chị đừng can nó. Cứ để một lát nữa bị muỗi cắn, nó sẽ tự động vào trong phòng. Còn nếu mà chị cứ cản ngăn nó lại càng nhõng nhẽo làm gan.
Chị người làm cũng cười, đi xuống nhà dưới. Cậu chủ của chị, tuy rằng đã gần ba chục tuổi rồi, nhưng tính còn con nít, chị thích người như thế.
Những người giữ được tính tình con nít từ lúc trẻ cho tới già, là những người tốt. Ngày trước, cậu Tâm còn ở nhà đâu có như thế. Cậu cũng khó tính trong việc ăn uống, nghỉ ngơi. Không ngờ chỉ có mấy năm vào lính, đã thay đổi hẳn con người. Theo như chị biết, thì các có tiểu thư hàng xóm cũng có mấy cô hỏi thăm chị về ông Trung úy lái tàu bay, con của cụ Phủ. Chị cũng muốn cho cậu Tâm lấy vợ để vui cửa, vui nhà. Nhưng nếu vậy, thì chị lại mất cô Thư Hương và cậu Dương, vì không có lý gì mà hai cặp đó sống chung một nhà. Thêm cặp vợ chồng già là ông bà Phủ nữa là ba. Nghĩ tới đó, chị mỉm cười.
Chị ra khóa cổng và lấy miếng vải ny-lông lớn, trùm lên hai cái xe của hai cậu chủ. Lúc trở vào, chị lạ thấy cái gạt tàn thuốc mà chị mới đổ đi hồi chiều một đống đầy ắp, bắt đầu nghi ngút khói. Chị muốn can cậu chủ nhà một câu, nhưng biết rằng vô ích. Chắc hai người có chuyện gì đang cần suy nghĩ. Chị nghe thấy tiếng Tâm hỏi Dương :
– Mày bảo tao phải làm gì bây giờ ?…
Dương ngạc nhiên, hỏi lại :
– Mày định nói chuyện gì.
Tâm nhìn lên, lơ đãng ngắm mấy con thằn lằn đang bò trên trần nhà trắng toát. Chàng thở ra một hơi thuốc lá:
– Thì chuyện của mầy, của Phượng, của Thư Hương. Mày cần tao phải làm gì bây giờ ?
Thấy bạn cứ thắc mắc hoài về câu chuyện hồi chiều, Dương thoáng một chút ngậm ngùi thương bạn. Trong cái tối mờ mờ của ngọn đèn được che, hắt lên trần, chàng nhìn thấy khuôn mặt nghiêng của Tâm thật đẹp. Chàng cười buồn :
– Tao chỉ cần mầy ngủ. Mầy nên nhớ rằng sáng mai mầy phải lên Biên Hòa sớm.
– Ngày mai tao nghỉ…
Dương trầm ngâm:
– Ừ, tao cũng định nói với mầy nghỉ ngày mai, để đưa chúng nó vào thăm Thư Hương. Một mình tao vào nhà hộ sinh, cũng thấy ngại. Chắc rằng anh Tư cũng không trách gì mầy đâu.
Nhìn sang Tâm, chàng thấy bạn đã nhắm mắt, bàn tay thõng xuống, điếu thuốc lá cầm tay đã hững hờ, gần muốn tuột ra, rơi xuống dất. Thật nhẹ nhàng, chàng lấy điếu thuốc lá, dụi tàn vào chiếc gạt tàn. Chàng vào trong nhà, lấy chiếc gối, đặt đầu Tâm lên. Có lẽ trong một giây, Tâm cũng sực tỉnh, nhưng vẫn lười biếng, không chịu mở mắt ra mặc cho bạn săn sóc. Đêm lúc này thật tĩnh mịch. Không gian im lặng đến nỗi, lắng tai, Dương nghe thấy cả tiếng súng nho nhỏ nổ văng vẳng từ một nơi nào xa lắm. Chàng tắt đèn, đi vào phòng ngủ.
Chàng đã nằm ở trong nhà này mấy tháng nay, từ ngày trả lại căn lầu ở cạnh đường tàu. Cả bao nhiêu năm nay, chàng mới được hưởng không khí gia đình, có những người thân săn sóc cho mình. Ở nhà này, chàng không thấy thiếu một thứ gì. Chàng lại có cha, có mẹ, vì cha mẹ Tâm và Thư Hương, cũng như cha mẹ chàng. Lại còn có cả một cô vợ nữa, nếu chàng coi được Thư Hương là vợ. Nghĩ tới đó, chàng chợt thấy một sự ngao ngán vô cùng.
Nếu không có Phượng, thì Thư Hương và chàng rất có thể thành một đôi vợ chồng hạnh phúc. Chàng không có mặc cảm hay một sự đắn đo nào về mối tình trước, và cái bào thai của Thư Hương, mà không phải chàng là tác giả. Mối tình trước của Thư Hương chỉ là một thứ tình học ưò, chợt hiện rồi chợt biến. Không may cho Thư Hương là đã gặp một thứ học trò đàng điếm, để rồi nàng phải ôm một mối hận.
Chàng tin chắc rằng hiện nay, Thư Hương không còn một chút nào nhớ người tình cũ. Có nhiều người bạn chàng đã kết duyên với những vũ nữ, những cô gái điếm, ấy vậy mà hạnh phúc lại rất bền chặt. Thư Hương đâu đã đến nỗi nào, nàng chỉ dại đột. Nhưng rồi sau một lần dại, nàng đã khôn ra nhiều lắm. Nhưng chàng lại không thể bỏ được Phượng.
Chàng nhớ tới cái buổi trưa hôm ấy, buổi trưa thật buồn vì xảy ra chuyện không may của Thư Hương. Giọng nói của Phượng thật nghiêm trang, khác hẳn với giọng nói nhí nhảnh thường ngày : “Anh phải lấy Thư Hương. Anh lấy Thư Hương để giữ danh dự cho gia đình bác Phủ và anh Tâm. Chờ vài ba tháng, khi Thư Hương sinh nở xong, mẹ tròn con vuông, đứa nhỏ có một giấy khai sinh hợp pháp, Thư Hương sẽ xin tòa án ly dị với anh. Bao nhiêu tội lỗi tưởng tượng, anh sẽ phải nhận hết, phần phải sẽ về Thư Hương, để Thư Hương đi lấy chồng. Khi Thư Hương ly dị anh xong, chúng mình chẳng còn gì ngăn trở, lúc đó cưới nhau cũng chưa muộn. Chờ nhau cả sáu năm nay, thêm vài ba tháng nữa, đâu có bao nhiêu”. Phụ họa vào những tiếng nói của Phượng vang vang trong đầu Dương, chiếc đồng hồ treo ngoài phòng khách, gõ một tiếng chuông gọn ghẽ. Dương xoay mình, nằm quay mặt vào phòng, lẩm bẩm:
– Đã một giờ khuya.
Chàng thấy thèm một điếu thuốc lá. Thò tay lên mặt bàn ngủ, chàng thấy gói thuốc lá còn nằm quên đó. Chàng bật lửa đốt thuốc nhìn qua ngọn lửa, thấy cảnh vật in bóng chập chờn. Chiếc giường của Tâm ở đối diện, vẫn còn bỏ trống,
– Thằng đó định nằm suốt đêm ngoài phòng khách chăng ?
Chàng đốt một điếu thuốc lá. Mặt trăng vàng bệnh của những ngày cuối tháng, chiếu lên nền gạch, bóng cửa sổ với những chấn song có hình hoa lá. Trời khuya, có ánh trăng làm chàng chợt cảm thấy một chút lạnh. Rồi chàng nghĩ tới nỗi buồn khi phải rời xa căn nhà này. Nếu chàng ly dị với Thư Hương, cưới Phượng, chàng không còn lý do nào để ở lại đây. Khi nói chuyện này với Tâm, thì Tâm trách chàng vẫn còn những mặc cảm thế nhân, thường tình.
Tâm hỏi lại chàng rằng, sau đó thì hai đứa không còn là bạn nhau nữa hay sao. Chàng trả lời, thì vẫn là bạn. “Vậy mầy không ở nhà thằng bạn của mầy được à ? ” Tâm cau mặt, gằn giọng hỏi câu đó. Chàng thấy rằng Tâm có lý, nhưng chàng vẫn thấy có nhiều lý do mà chàng không thể mang ra cãi lại với Tâm. Không có gì vô duyên cho bằng một cặp vợ chồng, dù rằng chỉ vợ chồng hờ, đã ly dị với nhau, mà vẫn ở chung một nhà, đi ra, đi vào, gặp lại nhau.
Lại còn bố Tâm và mẹ Tâm. Tất nhiên là hai người đó vẫn thương yêu chàng, nhưng chàng vẫn cảm thấy bất tiện. Rời xa căn nhà nầy, chàng thấy luyến tiếc tất cả, vì ai đối với chàng cũng đầy ấp cảm tình. Ở nhà nầy, chàng và Tâm được đối xử ngang nhau, nhiều khi mẹ Tâm còn chiều chuộng chàng hơn cả Tâm. Từ hơn một chục năm nay, chàng vẫn khao khát tình thương.
Dương chắc rằng, hiện nay hai người con gái Thư Hương và Phượng đều mong có sự vắng mặt của một người.
Chàng lại lẩn thẩn nghĩ, nếu Thư Hương đẻ khó, băng ra một đống huyết, rồi đi về bên kia thế giới, Phượng cũng buồn, cũng khóc đấy, nhưng có lẽ cũng có một chút mừng. Hay Là Phượng có bị xe mười bánh nhà binh, cán cho lòi phèo ra, thì Thư Hương cũng khóc đến cả tuần lễ, sưng u đôi mắt nhưng lại nghĩ, bắt đầu từ đây Dương thuộc hẳn về Thư Hương rồi. Chàng ngao ngán thở dài. Chuyện đời, thật nhiều sự éo le.
Những ngày mới được đổi về nơi xưa, đất cũ là Biên Hòa, phải khó khăn lắm, chàng mới được ở chung với lũ bạn độc thân. Lũ đó, nhất định đuổi chàng đi chỗ khác chơi. Nơi nầy, không phải là nơi cho những thằng có vợ. Lớn tiếng nhất là thằng An thi sĩ. “Chỗ của mầy là ở đàng kia”.. Nó chỉ tay về mấy căn nhà khuất sau những rặng cây cao su xum xuê lá. Những căn nhà đó dành cho gia đình sĩ quan. Nơi đó, có khói bốc lên từ nhà bếp. Buổi sáng có tiếng chó sủa, gà gáy. Buổi tối có trẻ khóc hay là ê a học bài.
Anh Tư, Chỉ Huy Trưởng của chàng cũng thắc mắc hỏi chàng, rằng sao không xin nhà để đưa bà xã lên cho vui. Rồi anh nháy mắt “lâu lâu lại cho anh em thưởng thức tài nấu bếp của chị ấy chứ”, chàng gượng gạo cười, lấy cớ rằng Thư Hương còn đi học. Lúc nào thi ra trường xong xuôi, rồi thì xin nhà, đưa vợ lên. Thời gian cũng còn cả tới mấy tháng nữa, vội gì…
Ý của chàng là để dành căn nhà mà chàng sắp xin trong trại cho Phượng. Đã nhiều lần chàng tới chơi một người bạn có gia đình, hiện đang trú ngụ trong Căn Cứ để ghi nhớ vị trí những căn phòng và cách trang hoàng. Chàng kể chuyện này với Phượng, và Phượng cũng thích thú, bàn cãi với chàng, khi hai người có được căn nhà như thế. Nếu mà bây giờ, chàng xin một căn nhà trong Căn Cứ, thì căn nhà nầy lại thuộc quyền Thư Hương. Cứ nghĩ vậy, chàng lại ngập ngừng…
Chàng dụi tắt điếu thuốc… Đáng lẽ những đêm như đêm nay, chàng sẽ ngủ say lắm. Đêm qua vì trực, cứ hễ đặt mình xuống là có tiếng chuông điện thoại, nên chàng không ngủ được, cả ngày hôm nay, cũng thế… Chàng đã định sau phiên trực, sẽ nằm ngủ ngay một giấc, chờ Tâm ở Saigon lên, đánh thức dậy đi ăn sáng. Nhận được tin Thư Hương, chàng lại phải về, và bây giờ, nằm đây thao thức trong cái mỏi mệt và nghĩ ngợi mông lung. Tuy rằng còn thèm hút thuốc lá, chàng không đốt tiếp một điếu khác.
Chuông đồng hồ gõ 2 tiếng. Chàng lắc đầu thật mạnh. Thôi đi. Phượng và Thư Hương, hãy lánh xa đi, đừng ám ảnh giấc ngủ của tôi nữa … Chàng duỗi thẳng hai chân, hai tay, nhắm thật chặt đôi mắt, rồi cảm thấy cái mệt mỏi như thấm vào từng thớ thịt da. Chàng thiếp đi lúc nào không biết.
Lúc Dương thức dậy thì nhà ngoài đầy những tiếng ồn ào. Khung cửa sổ có ánh trăng chiếu vào trong đêm qua, đã được thay thế bằng ánh sáng mặt trời, chói chang hơn…
Ánh nắng chiếu vào sàn gạch đá hoa, hắt lên trần nhà làm căn phòng sáng bừng hẳn, Dương lười biếng, cầm chiếc đồng hồ đeo tay nơi bàn ngủ lên, nhìn vào những chiếc kim di động. Đã gần mười giờ sáng. Cơn mỏi mệt đã đưa chàng thiếp đi một cơn mê thật đài.
Chàng vẫn chưa muốn ngồi dậy.
Lắng tai nghe những tiếng nói, chàng phân biệt từng người. Nói lớn nhất phải là thằng An thi sĩ. Rồi có tiếng Hậu, tiếng Hằng và tiếng của cả vợ chồng thằng Luận.
Tiếng cười vừa vang lên là tiếng cười của Tâm. À, hôm nay chúng nó kéo về đây là để thăm Thư Hương đây. Chàng nghe thấy tiếng Hậu hỏi Tâm :
– Thằng Dương nó đâu rồi ?…
– Nó còn đang ngủ.
An thi sĩ kêu lên :
– Trời ơi, giờ này mà nó còn ngủ sao ? Chúng tao từ nơi cách xa hàng mấy chục cây số, chạy về đây thăm vợ nó, để được biết nó còn ngủ. Mày nắm đầu nó lôi dậy !
Tiếng một người con gái thật lạ, không phải là tiếng cửa vợ Hậu hay vợ Luận :
– Chắc là anh Dương mệt vì tối qua thức khuya, săn sóc cho chị Thư Hương. Cứ để anh Dương ngủ, anh Tâm ạ. Anh đưa tụi em tới thăm chị Thư Hương cũng được rồi.
Nằm trong nầy, Dương hơi ngạc nhiên, không hiểu là ai. Chàng muốn ra nhà ngoài để coi mặt người con gái ấy. Nhưng rồi thấy tiếng của Tâm trả lời :
– Đêm qua, nó vói tôi đi uống rượu… Tụi này ít khi săn sóc tới ai lắm, đâu có như cô Chi, lúc nào cũng săn sóc cho thằng An khốn nạn này…
Dương à lên một tiếng. Thì ra đây là cô nàng viết thư của thằng An thi sĩ. Người con gái này, hôm nay đã bỏ chỗ ngồi viết thư hằng ngày, để đến thăm Thư Hương. Đó cũng là một chuyện làm cho Dương ngạc nhiên. Chàng ngồi dậy, ngáp lên một tiếng thật ồn ào.
Tâm la lên :
– Nó thức dậy rồi đấy…
Hậu gọi vọng vào trong nhà :
– Mày mà không ra đây, tao hứa sẽ thân tặng mầy một chậu thau nước dơ lên mặt ngay lập tức. Mọi người đang chờ mầy đây, thằng con trai ạ. Dậy mà sửa soạn dung nhan đi.
Dương đi ra ngoài nhà. Chàng dơ tay lên quá đầu, chào mọi người, rồi đi thẳng ra sau nhà.
Chàng cần phải tắm một phát, đuổi những cơn mỏi mệt đi. Phải cần nước lạnh, tỏa xuống từ hoa sen, trùm lên từng phần da thịt của cơ thể. Chàng ngửa mặt lên chớp thật mau đôi mắt, cho nước lạnh làm tỉnh người. Chị người làm hỏi :
– Cậu có uống cà-phê không ạ ?
Chàng nói, trong tiếng nước tỏa rào rào :
– Chị pha cho tôi một ly thì tốt quá.
Có tiếng muỗng chạm vào ly. Người trong nhà này càng săn sóc chàng lại càng làm cho chàng ân hận và bối rối. Chàng lấy một chiếc khăn lớn, lau mạnh. Nhìn vào trong gương, chàng thấy đôi mắt đã sáng. Chàng cười, và thấy nụ cười của chàng đã hết gượng gạo.
Chàng đi về phòng, mặc quần áo thật nhanh, và nghỉ cách phá phách thằng An thi sĩ. Chàng và Tâm, vẫn nổi tiếng là hai kẻ ưa phá thối và rất hợp nhau trong việc “còm-bin” để làm cho thiên hạ tức tối. Tiếng của lũ chàng thường gọi hành động ấy bằng danh từ “bỏ bom “. Tâm và Dương mà hợp tác với nhau thì “bỏ bom” ít khi sai mục tiêu lắm.
Chàng đi ra nhà ngoài, cố tạo một khuôn mặt thật trang nghiêm, cứ y như một thầy giáo tỉnh lẻ. Chàng trịnh trọng bắt tay từng người một, làm cho An, Hậu và Luận phải mở to mắt ngạc nhiên. Lúc tới chỗ cô gái này, chàng được Tâm giới thiệu :
– Đây là cô Chi, vợ chưa cưới của An.
Dương cúi đầu :
– Hân hạnh được gặp cô. Tuy rằng lần đầu mới gặp cô, nhưng tôi đã được An nhắc tới cô luôn. Hôm nay mới biết mặt cô, nhưng văn chương của cô thì đã được đọc nhiều. Những lá thư mà cô viết gửi cho An chúng tôi vẫn thường được An cho đọc. Thật là “hàng hàng châu ngọc, lời lời gấm thêu”.
Thoạt nhìn sang người con gái, Tâm thấy khuôn mặt đang rực rỡ bằng những nụ cười, đột nhiên tối sầm lại. Tâm hiểu ngay ý định của Dương : “Thằng này định hại bạn đây”. Nghĩ vậy, Tâm thấy rằng mình có bổn phận tiếp tay với bạn. Thì hai thằng vẫn nổi tiếng là cặp bài trùng, rất hữu hiệu trong việc đồng lõa với nhau làm hại thiên hạ. Chàng hỏi Dương mà không nhìn người con gái :
– Có lá thư viết một câu hay lắm. Lúc thằng An đọc cho mọi người nghe, tao thấy có nhiều thằng lấy giấy và viết, lúi húi ghi vào sổ tay. Câu gì mầy còn nhớ không?…
– Tao không nhớ, mầy ráng nhớ thử coi…
Tâm gật gù cái đầu :
– À, tao nhớ ra rồi :”Em ngồi viết thư cho anh mà cảm thấy lạc lõng, bơ vơ như đứng nơi giữa biển trắng toát của trang giấy mênh mông”. Hay quá phải không mầy ? Óc tưởng tượng đến như thế, thật là xứng đôi với chàng thi sĩ của chúng ta.
– Mày đọc lên, tao mới thấv rằng văn chương của cô Chi hay thật. Cũng may nhờ thằng An hay khoe những lá thư rồi đọc lên cho chúng mình nghe, chúng mình mới được thưởng thức những bức thư tình… hay nhất thế giới.
Tâm ngước mắt nhìn trời, ra cái điều mơ mộng :
– Ước gì tao cũng có được một người yêu, văn chương lai láng như cô Chi. Có lẽ đổi cả mạng sống hay cái gì quí báu nhất của tao, để được thay chỗ của thằng An, tao cũng đổi…
Tới đây thì vụ oanh tạc có vẻ kết quả ngoài sự mong muốn. Khuôn mặt đẹp đã tối sầm, bây giờ, đôi mắt đã chớp mau chỉ chực tuôn ra cả chậu thau nước mắt. An hét lên :
– Thôi ! như thế đủ rồi !…
– Đủ nghĩa là làm sao ?…
– Đủ, có nghĩa là hai cái miệng lép nhép của chúng mầy phải câm lại, không có thì tao hứa với chúng mầy, ít ra là một tuần lễ, chúng mầy phải ăn cháo.
Dương làm ra vẻ ngây thơ :
– Ca tụng người yêu của mầy, mà mầy cũng cấm hay sao ?
Tâm phụ họa :
– Tao hỏi mầy câu này. Tại sao thư của cô Chi viết cho mầy, tao lại thuộc lòng, đọc cứ y như học trò đọc bài trước bàn cô giáo ?
Sự giận dữ làm An đỏ bừng măt. Môi hắn run lên, mồm định há ra, hét lên những tiếng thật lớn, nhưng vừa định la thì phải ngậm miệng lại. Người con gái tên Chi nói mát mẻ :
– Chắc là anh An khoái lắm, lúc đưa thư của em cho bạn bè đọc. Các anh phải cám ơn em, vì em mà các anh có được một trò cười.
Mặt An thê thảm :
– Em đừng nói vậy. Có bao giờ anh đưa cho chúng nó đọc. Chúng nó rình đọc trộm, rồi thừa lúc có mặt cả hai đứa chúng mình như thế nầy, chúng nó “bỏ bom”. Em cứ thử đi hỏi mà coi. Hai thằng nầy là hai thằng ưa phá phách nhất nước. Không hiểu sao mà Trời còn chưa phạt chúng nó để chúng nó sáng mắt ra…
Dương hỏi :
– Mầy rủa tao đấy hả An ?…
An nổi khùng, :
– Ừ, tao còn rủa nặng hơn thế nữa. Tao còn rủa cho chúng mầy tàn mạt, rủa cho tới khi nào người yêu của chúng mầy bị Tây đen nó hiếp.
Nói xong câu đó, An biết là lỡ lời, vội im bặt. Dù sao thì ở đây cũng còn có mặt đàn bà con gái, ngoài người yêu của An là Chi, còn có vợ Hậu, vợ Luận. Thấy sự giận dữ của An đã lên tới mức tột độ, Dương và Tâm coi như thế là đủ rồi. Làm thêm nữa, không chừng xảy ra án mạng. Bởi thế Tâm phá lên cười:
– Thôi mày Dương! Bỏ cái mặt thầy giáo của mầy đi! Như thế cũng tạm đủ trừng phạt thằng An rồi.
– Tao làm gì mà trừng phạt tao ?…
– Tội của mầy hả ?… Tội của mày là có một người yêu xinh và ngoan như thế nầy, đến bây giờ mới giới thiệu với chúng tao. Chỉ có thế thôi.
Câu nói của Tâm làm mọi người đều hả dạ. Nếu nói theo ngôn ngữ của mấy chàng, thì là vui vẻ cả làng. Người con gái nào được khen là ngoan, là xinh đều sung sướng. Bởi vậy nàng con gái tên Chi, ngưòi yêu của chàng phi công thi sĩ tên An, bèn biểu diễn một sự e thẹn. Hai má cô nàng hồng lên, mắt chớp thật mau. Nàng lại tỏ ra ngoan hơn, bằng cách nói nhỏ nhẹ :
– Em mà ngoan cái nỗi gì. Em không bằng lòng anh Tâm nói như thế đâu.
An thi sĩ vẫn cay cú :
– Nó chê em hay là nó khen em, anh đều coi như ngang nhau. Mối thù giữa anh và nó vẫn còn. Tới một ngày nào đó, anh mà gặp nó đi với người yêu, thì lúc đó, nó đừng có trách anh.
Nhìn dáng điệu hùng hổ của An thi sĩ, không ai nín được cười. Người cười lớn tiếng nhất là Hằng. Hình như Hằng cười thật nhiều, cười thật lớn, cho bõ với những lúc nằm buồn ở cái Trại Gia Binh Biên Hòa rầu thúi ruột vì tính toán chuyện công nợ và chi tiêu hàng tháng.
Thấy vợ vui, hình như Hậu cũng vui lây. Nhưng rồi. Hậu chợt nhớ ra chuyện của mình. Tất cả về đây để thăm Thư Hương sinh nở. Chàng hỏi :
– Chúng mầy định ngồi ở đây luôn sao ?
An đứng lên ngay :
– Ừ nhỉ, mầy không nhắc thì quên. Thằng Dương đâu ? Mầy có bổn phận dẫn chúng tao tới coi xem vợ mầy đẻ đái ra làm sao. Mục đích hôm nay xin phép nghỉ để về đây, là chỉ có vậy.
Dương lắc đầu :
– Thằng Tâm đưa chúng mầy đi. Chúng mầy cứ đến đó trước. Tao sẽ đến sau chừng nửa giờ.
– Mày còn đi đâu nữa ?
Dương không thể trả lời rằng chàng đi tới nhà Phượng, để đưa Phượng tới với Thư Hương. Chuyện của chàng và Phượng, Thư Hương, chỉ có những vai chính trong chuyện và gia đình Tâm biết mà thôi. Bởi thế chàng trả lời cho xuôi câu hỏi:
– Tao đi tới nơi này có chút việc cần.
– Không có việc gì cần bằng việc săn sóc cho vợ đẻ.
Dương khó chịu :
– Vợ tao đẻ chứ có phải vợ mầy đẻ đâu mà mầy biết được. Tới lượt mầy, tao cho là còn hốc hác.
Chàng định ra cửa trước hết cả mọi người, nhưng vừa đứng lên, thì nghe thấy tiếng chuông reo. Nhìn ra chàng đã thấy khuôn mặt Phượng hiện ra sau khung cổng sắt. Phượng đã đến đây rồi. Chị người làm ra mở cổng cho Phượng. Người con gái mặc áo đen vào phòng, nhìn thấy mọi người hình như trên môi vẫn còn phảng phất nụ cười, nàng hỏi Hằng:
– Có chuyện gi mà vui vậy ?
Hằng kéo Phượng ngồi xuống chung một ghế :
– Gặp nhau đông đủ như thế nầy, bắt buộc là phải có chuyện vui. Những cái áo đỏ của mầy đâu rồi ? Mầy không còn là Phượng áo đỏ nữa rồi sao ?… Da mầy trắng, mắt thì mênh mông như thế kia, mầy mặc áo dài đen, trông ghê quá. Tao có cảm tưởng như mầy mới ở nghĩa trang về.
– Em thấy chị Phượng mặc áo dài đen, trông thật là đẹp.
Phượng ngạc nhiên nhìn sang ngtrời con gái không quen, lại nói với nàng bằng một giọng thật tự nhiên và thân mật. Vẻ mặt tinh nghịch và sung sướng ấy nhất định là còn đang tuổi học trò và đang được yêu. Thấy Phượng có vẻ chờ đợi một sự giới thiệu, Tâm nói ngay :
– Cô Chi, vợ chưa cưới của thằng An.
Phượng quay sang An :
– Xin chúc mừng anh và…
An ngắt lời Phượng ngay :
– Thôi, tôi xin bà. Hồi nãy, hai thằng này, chúng nó đã làm cho tôi tức gần muốn bể toang cái lồng ngực. Chúng nó bỏ mấy trái bom nặng tới cả tấn. Cũng may là lúc đó không có bà Phượng, chứ nếu có thì cuộc đời tôi kể như hạ màn. Tôi xin cảm ơn những lời ngọt ngào và êm tai của bà…
Thấy cơn giận của An vẫn chưa nguôi, mọi người lại cười vang. Chỉ tội nghiệp cho Phượng. Mới vừa tới, đã nhận ngay được những lời cay đắng. Nhưng Phượng cũng đã đoán hiểu câu chuyện, nên cũng cươi. Nụ cười ấy đã làm cho Phượng quên đi những nỗi u buồn. Chi hỏi Phượng:
– Chị Phượng cũng cùng đi thăm chị Thư Hương chứ?…
– Cái đó là điều bắt buộc.
Chi trợn mắt :
– Chị Phượng nói gì vậy ?
Người con gái nầy chưa nhiễm phải những ngôn ngữ của lính tàu bay. Phượng nghĩ thầm như vậy. Nói chuyện nhiều với Dương, với Tâm, ngôn ngữ của hai người đã như thấm vào người Phượng. Nhiều lúc, Phượng bắt gặp trong câu nói của mình, cũng có những danh từ “nhờ anh tí”, “phần nào thôi”, “lạnh cẳng” v.v… Nếu những lời đó mà nói với Dương hay Tâm thì không sao, nhưng nói với người khác thì không khỏi có điều chướng tai. Đã mấy lần Phượng bị mẹ mắng vì những danh từ đó. Nàng nói lại với Chi :
– Dạ, tôi cũng vào thăm Thư Hương…
– Chị Phượng cùng đi với tụi này chớ ?..
Phượng mỉm cười, nhìn ra phía cổng, nơi đậu chiếc xe “tờ-rắc-xông” cà cộ của anh chàng An thi sĩ. Với ngần này người mà chất cả lên cái xe đó , thì cũng là một cành tượng đẹp mắt. Nàng hỏi An :
– Liệu cái xe của anh có chở được hết không ?…
Dương trả lời thay cho An :
– Bằng này người thì thấm vào đâu. Có lần từ Biên Hòa về đây, nó chở gần tới hai chục người Mỗi lần lên dốc, chiếc xe rú lên, ì ạch, nếu nó có cái lưỡi chắc nó phải thè cái lưỡi ra mà thở. Ấy mà thằng An hãnh diện lắm.
An thi sĩ vênh mặt lên :
– Thì chẳng gì, nó cũng là cái xe. Chủ nhân của nó cũng thuộc thành phần xế bốn bánh. Đi đâu cũng được, bất kể trời mưa nắng. Đâu có như chúng mầy, mỗi lần trời mưa, cứ như lũ gà chết.
Dương cười :
– May quá, hôm nay trời lại không mưa. Vậy tao sẽ đưa Phượng tới bằng xế hai bánh. Nhất định là phải đến trước chúng mầy rồi.
Cả bọn kéo nhau ra ngoài cổng. Tâm rất khổ sở phải leo lên chiếc xe của An thi sĩ. Nếu không có phận sự phải làm hướng đạo, thì chàng đã đi bằng chiếc “vét-pa” của chàng rồi. Anh thường gọi chiếc “tờ-rắc-xông” cà cộ của An thi sĩ là nhà tắm hơi. Buổi trưa, muốn tắm hơi, chỉ cần chui vào trong xe của An, quay hết cửa kính lên, một lát sau là cũng ướt hết người vì mồ hôi.
Vợ chồng Hậu và Luận ngồi ở băng sau. Vì lịch sự chàng mở cửa mời Chi vào trước. Nhưng chiếc chốt cửa nhất định nằm lì. Chàng cố giật mạnh. An thi sĩ la lên :
– Chờ tao một chút. Cửa đó mở từ bên trong.
Anh chàng ngồi vào tay lái, nhoài người ra mở cửa. Chi và Tâm chui vào. Tâm lẩm bẩm chửi thề :
– Mẹ kiếp !.. Thế mà cũng đem giai cấp xế 4 bánh ra khoe !…
– Chứ sao mầy!…
Đầu máy xe rung lên từng chập…. Lúc đó thì Dương và Phượng đã khuất vào đầu ngõ. Tà áo đen của Phượng nhảy múa trong nắng. Chị người làm ra đóng cổng rồi hỏi Tâm :
– Buổi trưa, các cô cậu ăn cơm nhà ?…
Tâm xua tay :
– Chị đừng lo chuyện đó. Có ba bốn mụ đàn bà, con gái ở đây rồi. Nếu có ăn cơm nhà, thì cũng không tới lượt chị phải sửa soạn. Cứ yên chí, lo chuyện của chị đi.
Chiếc xe rung máy một hồi rồi thở phì phì. Cuối cùng máy cũng nổ phành phạch, Tâm thở một hơi dài khoan khoái :
– Chỉ sợ phải quay ” ma-ni-vên” thi mất mặt thiên hạ.
An được dịp khoe ngay:
– Trông bề ngoài nó xập xệ nhưng mà máy tốt lắm. Mày không nhớ một lần, tao biệt phái Pleiku cả tuần lễ, ấy thế mà lúc về, “đề” có một phát…
Tâm lật tẩy ngay :
– Sao không nói là phải câu điện cả giờ đồng hồ. Người làm chứng là thằng Hậu ngồi đằng sau lưng mấy đó. Không có nó đẩy máy điện rồi cho chạy máy điện, thì mầy chỉ còn có cách là ôm cái đống sắt nầy mà khóc.
An ngoảnh mặt lại đằng sau nhìn Hậu cười. Nhưng Hậu vẫn lơ đãng nhìn ra ngoài cửa kính xe. Nghe Tâm nói như thế, Hậu chợt nhớ tói sinh hoạt nơi phi đạo thật nhộn nhịp vào những giờ nầy.
Hôm nay mình đi vắng, không hiểu chúng nó xoay xở ra sao. Còn tới hai ba chiếc phi cơ đang làm kiểm kỳ. Mấy chú lính mới, không hiểu đã chừa cái tật lười biếng, đổ nhớt chảy lênh láng ra đầy sân đậu phi cơ hay chưa ?… Có đi đâu một, hai ngày là chàng lại thấy nhớ.
Chiếc xe loay hoay lùi lại, tiến tới, để ra đầu ngõ. An thi sĩ vốn là một thằng nóng tính. Anh chàng lái xe huỳnh huỵch, như đang cử tạ. Nhưng rồi chiếc đầu xe cũng hướng được ra phía ngoài. Tâm nhìn sang An thấy trán hắn đã lấm tấm mồ hôi.
Nhưng ra tới đường phố, An lái xe lại rất bay bướm. Anh chàng lấn lướt và cướp đường rất cừ khôi. Thì ra anh chàng thi sĩ này, chỉ hợp với những nơi rộng rãi, không vướng víu. Anh chàng lái xe như đùa rỡn rất thích khịa nhau với người khác.
– Lối nào, Tâm ?
Tâm giật mình :
– Đường Phan Thanh Giản. Nhà thương Saint Paul !
Chi reo lên :
– Thế thì ở trước cửa trường em rồi. Những lúc đi học sớm, hay có giờ nghỉ, em sẽ chạy qua chơi với chị Thư Hương.
An thi sĩ gật gù, lên giọng triết nhân :
– Trường Nữ Trung Học mà để gần nhà hộ sinh thì cũng tiện thật. Có chuyện gì chỉ căn băng qua đường.
Chi đập cho An một phát :
– Chỉ được cái nói bậy.
An đưa tay lái một vòng rất đẹp. Cái lối vừa quẹo vừa đạp nhẹ thắng, cho bánh xe ôm lấy mặt đường của An, làm cho mọi người nghiêng ngả. Lúc này, mới thấy Hậu nói :
– Mày có thể làm tài xế xe đường Biên Hòa, Sài gòn được đấy.
– Được là cái chắc.
Rồi An nói với Chi:
– Anh làm tài xế, em làm lơ. Thật là thơ mộng. Vậy em hãy tập những câu thuộc lòng đi “Xin cô bác tắt thuốc, bỏ rác vào trong xe “. Phải tập cười, để mỗi lần qua cầu cười giao duyên với lính gác cầu một phát. Anh sẽ tập lái một tay, và chỗ ngồi chỉ cần một tí tẹo, dính đít trên ghế. Còn em sẽ tập khom lưng trốn dưới gầm ghế, mỗi khi qua mặt ông cò…
An nói một hồi như đã hành nghề rồi. Chỉ có Chi là ngạc nghiên. Những người ở trên xe này, thì đã quen thuộc với cái cảnh đó quá xá rồi. Con đường Biên Hòa-Saigon, những người này đã ngồi trên xe lô, không phải là hàng chục lần, mà phải kể là đã mấy trăm lần.
Khi chiếc xe của An chạy vào trong cổng, bánh xe lăn trên những con đường trải sỏi, thì nắng cũng lên cao. Chiếc xe của Dương dựng ngay dưới bóng rợp của một tàng cây me cao vút. Trên nệm xe đã phủ lác đác vài chiếc lá cây nhỏ xíu, chứng tỏ rằng Dương và Phượng tới đây cũng đã lâu. An cho xe ngừng lại bên cạnh xe Dương, rồi cả bọn mở cửa xe bước xuống.
Từ ngoài đường, qua một cái cổng và một khoảng sân rộng, người ta có cảm tưởng như từ một thế giới này, qua hẳn một thế giới khác.
Tiếng ồn ào ở ngoài kia như loãng hẳn đi, để còn lại ở đây một thứ không khí sợ sệt, nặng, trang nghiêm và cổ kính. Những người y tá và các bà Sơ đi qua, im lìm như những cái bóng. Cả những bước chân cũng thật êm nhẹ. Những người ưa phá phách như Tâm, như An, Hậu và Luận, hay những người đàn bà, con gái nổi tiếng là nói nhiều như Hằng cũng thấy e dè đến cả từng hơi thở. Mọi người đặt chân lên chiếc cầu thang gỗ nhẵn bóng, tay vịn thật sạch, không một hạt bụi. An hỏi Tâm :
– Có phải leo cao không ?
Câu nói của An vang lên nơi cầu thang, rồi như lồng lộng vọng đi. An cảm thấy khó chịu vì tiếng nói của mình, nhưng không thể nào giữ lại được. Chàng vốn ghét những tiếng nói thì thầm. Tâm trả lời :
– Hết bực thang này là đến rồi…
Đầu cầu thang là một hành lang sáng và dài. Mọi thứ ở đây đều sạch quá, sạch từ những chiếc lá cây cho tới viên gạch. Văng vẳng đâu đây, chỉ có tiếng máy lạnh chạy rì rầm.
Ngày nào đứng ở hành lang nhà trường, Chi cũng nhìn sang đây, nhưng bây giờ là lần đầu tiên mà Chi đặt chân tới. Tâm ngước mặt lên, nhìn vào những con số đánh số phòng.
An ngạc nhiên lại hỏi :
– Mày cũng chưa tới thăm em mày lần nào ?
– Thì bây giờ đến thăm đấy thôi. Trong đời tao, không có gì nản bằng đi thăm đàn bà đẻ, dù rằng đó là em gái mình.
Căn phòng của Thư Hương ngay ở cuối dãy. Tâm xoay chốt cửa và nhìn ngay thấy đôi mắt đen láy và sâu thẳm của Phượng.
Chàng reo lên :
– Chúng nó đây rồi ?
Thư Hương nở một nụ cười mệt mỏi nhìn mọi người. Cả hàng chục con người nhét vào căn phòng hẹp này, làm cho Thư Hương thấy ấm hẳn lên. Bà mẹ của Tâm vừa về nhà, khi Phượng và Dương tới. Những lúc về sau này, bà muốn tránh mặt khi có đầy đủ hai đứa mà bà yêu như con gái ruột, là Phượng và Thư Hương.
Nhiều khi, bà thấy yêu Phượng hơn, tuy rằng bà có công mang nặng, đẻ đau và nuôi nấng Thư Hương. Nhất là từ ngày thấy Phượng đổi tính. Từ một người con gái nhí nhảnh, ưa đùa nghịch, Phượng bỗng biến thành một thiếu nữ trầm lặng, ít nói, mắt chớp thật buồn. Bà cũng hiểu rằng sự đổi tính ấy là vì Thư Hương, con gái của bà, đã gây ra. Bà rất sợ bị mời can thiệp vào câu chuyện của hai cô con gái vì bà cũng không biết giải quyết ra sao.
Bởi vậy, thấy Phượng tới, sau khi nói vài ba câu chuyện, hôn hít cháu một lúc, rồi bà giao Thư Hương cho Phượng, lấy cớ về nhà nằm nghỉ. Phượng nhận lời và hứa sẽ ở lại với Thư Hương.
Chi sà xuống ngay bên cạnh Thư Hương :
– Ồ, chị Thư Hương cũng đẹp quá !…
An chỉnh ngay :
– Gặp ai cũng khen đẹp. Hồi nãy đã khen chị Phượng đẹp, bây giờ là khen chị Thư Hương đẹp, cứ nghe theo lời cô, thì ai đẹp đây ?
Chi nhí nhảnh:
– Xuân Lan, Thu Cúc mặn mà cả hai…
Cả bọn cùng cười.. Hằng giới thiệu Chi với Thư Hương. Nhìn thấy cảnh quyến luyến của Chi đối với An, Thư Hương lại chạnh nhớ tới hoàn cảnh của mình cảm thấy buồn đến rưng rưng.
Nàng hỏi :
– Chi còn đi học ?
– Dạ… phòng học của em có thể nhìn sang phòng chị, nhưng hết năm nay là không còn cái trường ấy nữa.
– Tại sao vậy ?
– Vì năm nay, học lớp cuối. Nếu thi đỗ thì lớp nào nữa đâu mà học.
Tâm bĩu môi :
– Thì nói phứt ra là đi lấy chồng cho được việc. Với đàn bà con gái, chẳng cái bằng nào quí giá bằng tờ giấy hôn thú. Có phải vậy không tụi mầy ?
Hằng cãi lại :
– Anh Tâm cứ làm như con gái thèm đi lấy chồng lắm. Thật là nhảm hết chỗ nói.
Tâm hùng hổ :
– Tôi không nói tới bà. Tôi nói tới những người con gái như cô Chi. Còn bà, đã là đàn bà thì miễn luận bàn.
Căn phòng lại vang lên những tiếng cười. Những tiếng cười, nói ồn ào đã khua thức giấc ngủ thằng bé. Tiếng khóc oe oe cất lên, làm cho mọi người im bặt, hướng về chiếc nôi, phủ chiếc màn mỏng dính màu xanh, đang nhẹ nhàng lay động. Thư Hương kéo chiếc gối cao lên :
– Chị Phượng đưa cháu ra đây dùm em…
Chi ngạc nhiên nhìn Thư Hương :
– Chị Thư Hương gọi chị Phượng bằng chị ?…. Em tưởng rằng, chị Phượng là em gái của anh Dương chứ ?..
Thư Hương thở dài ngao ngán :
– Gọi như vậy đã quen rồi.
Phượng bồng đứa nhỏ lên… Đứa bé nhỏ quá, chỉ như muốn lọt ra khỏi vòng tay. Bàn tay Phượng vừa đụng tới thằng nhỏ là nó nín khóc ngay. Thư Hương nói tiếp :
– Thằng cu Hoàng chịu mẹ Phượng rồi.
Phượng ôm lấy đứa nhỏ vào lòng. Nàng cũng thích thú khi nhìn thấy tất cả những cái gì của đứa bé cũng nho nhỏ, xinh xinh, nhất là đôi mắt và đôi môi. Hằng la lên :
– Lóng ngóng như thế kia, đánh rớt cháu bây giờ.
Hai chân đứa nhỏ thò ra ngoài đống tã lót, đạp lung tung. An cũng ghé mắt vào nhìn rồi khen :
– Đẹp trai ghê ! Cái mặt kia với mắt, mũi ấy sao mà giống thằng bố Dương nhà nó thế. Không thể làm sao mà lẫn lộn được là con thằng cu Dương…
Câu nói của An gieo vào trong lòng vài người ở trong phòng nầy một sự khó chịu. Phượng cười nửa miệng, một nụ cười đầy chất khinh bạc. Thư Hương chớp mẳt, cúi mặt xuống. Tâm và Dương bỗng nhiên nhìn nhau, như muốn chửi cho An một câu, “cái thằng vô duyên”. Cả hai đều nghĩ như vậy. Nhưng rồi cái không khí nặng như khối đá ấy chỉ thoáng qua rất mau, như một cơn mưa bóng mây. Hằng nói::
– Con của người ta, mà lại không giống người ta. Dễ thường giống ông hàng xóm chắc,
Câu nói của Hằng đáng lẽ làm cho Thư Hưqrng thêm tủi cực, nhưng nhờ tiếng cười của Chi. Tiếng cười thật hồn nhiên và vô tư một tiếng chim hót giữa mùa xuân của cuộc đời. Chi như một cánh chim non tung bay vào đời, chưa gặp những gì được gọi là phong ba, bão tố. Mắt Chi còn sáng lắm,nụ cười còn tươi lắm. Thư Hương ước mong sao cho Chi cứ mãi được sung sướng như bây giờ. Chi nhí nhảnh đi tới bên Phượng: .. ..
– Chị Phượng cho em bế cháu một tí.
Thư Hương cười nhìn Chi:
– Thôi, chị Phượng đưa cháu đây cho em. Cháu đói rồi. Cô Chi bế cháu, coi chừng cháu tè ra áo đẹp.
Chi năn nỉ :
– Chị cho bế cháu một chút thôi. Một tí tẹo rồi em đưa cho chị Thư Hương ngay.
Nhìn nét mặt khẩn khoản của Chi, xin được bế đứa cháu nhỏ, làm mọi người đều bật cười. Từ lúc lên tới phòng hộ sinh này, Dương chưa nhìn tới đứa bé. Dù sao thì mình cũng là bố nó, dù rằng chỉ trên tờ giấy khai sinh. Chàng cảm thấy bất nhẫn, nên la lớn :
– Không ai được giành với bố nó. Nào thằng cu Hoàng ra đây với bố. Bế một tí, lấy hên.
Mọi người đều cười. Phượng trao đứa bé cho Dương Người thằng bé, còn phảng phất mùi hương của Phượng, làm cho Dương ấm hẳn người. Hai người nhìn nhau một thoáng mà lòng thật bâng khuâng, làm cho Dương tưởng rằng đứa bé nầy là con của Dương của Phượng.
Thằng bé không còn khóc nữa mà mở cặp mắt đen láy, ngây ngô nhìn. Chàng bế nó một chút, rồi trao lại cho Thư Hương và chàng bắt gặp được sự cảm động làm cho Thư Hương muốn rưng rưng bật khóc.
Thư Hương cho con bú… Người sinh viên đã làm mẹ, không còn giữ thẹn thùng. Dù là đông người nàng vẫn ôm lấy con, cho con bú và hãnh diện như thế. Nàng cảm thấy đôi môi mềm của con như một bông hoa áp lên ngực êm ngọt và ấm áp.
Giòng sữa từ trong người nàng thoát ra rồi chảy vào người con, như chiếc rễ cây chui vào lòng đất. Con nàng cần những giòng sữa ấy, và nàng cũng muốn những giòng sữa ấy làm những sợi giây, buộc chặt tình mẹ con nàng…
Hằng nói với Thư Hương :
– Cho con bú có nhiều chuyện bất tiện lắm.
– Tại sao vậy chị Hằng ?
– Thư Hương còn phải đi học. Rồi ít lâu nữa phải dạy học. Những lúc ở trường tới giờ cho con bú, sữa ra ướt áo. Hơn nữa Thư Hương cũng chẳng khỏe gì.
Thư Hương cúi xuống nhìn vào mặt con :
– Nhưng em lại muốn như vậy. Lúc nào xảy ra sự bất tiện thì hẵng hay. Còn bây giờ, em chỉ thích ôm con vào lòng rồi cho con bú. Có như vậy, em mới có cảm tưởng mình đã là mẹ.
Hằng cười :
– Chỉ sợ rồi đây đẻ ra không kịp nuôi.
– Thì được lúc nào hay lúc đó. Chỉ nên biết bây giờ…
Cái ồn ào lúc ban đầu, đã như bắt đầu lắng xuống. Câu chuyện bây giờ chỉ còn để dành cho mấy người đàn bà như Hằng, như vợ Luận, như Thư Hương, nói về kinh nghiệm sinh nở và nuôi con. Phượng và Chi nghe bằng những đôi tai lơ đãng. Còn Dương, Tâm và An thì lại càng buồn nản hơn vì trong phòng kín, nhất là có đứa nhỏ, nên ba chàng nhịn thuốc lá đã khá lâu…
Thấy câu chuyện chỉ còn liên hệ tới đàn bà, mấy người đàn ông rủ nhau ra đứng ngoài hành lang. Tâm rút gói thuốc lá ra mời mọi người. Những hơi thuốc lá kéo thật dài. Gần tới buổi trưa, nhưng trong nhà thương này, nhờ có nhiều cây cối, nên vẫn mát. Luận nói với Dương :
– Sửa soạn bữa tiệc đầy tháng con đi chứ !
Dương nheo mắt cười :
– Vừa mới sanh ra nó được có hai ngày, chưa kịp làm giấy khai sinh, mà mầy đã gạ đến chuyện đầy tháng. Mày chỉ nhớ tới ăn thôi.
– Chứ sao ! “ Dĩ thực vi tiên “…
An nói ngay :
– Bây giờ, nó là khổ chủ, nên nó mới ra cái điều trách móc. Nếu là thằng khác, thì nó chính là thằng gạ ăn trước nhất.
Dương cười và thầm công nhận. Những người như chàng và bạn chàng ở đây, lúc nào cũng phải kiếm cớ gí để ăn. Câu viết treo trên tường, bằng một thứ chữ lớn, ngay trong phòng nghỉ của Phi Đoàn:”Tất cả những chuyện may rủi đều phải ăn khao”. Gặp chuyện vui mừng, thì ăn khao là việc dĩ nhiên. Nhưng gặp những chuyện rủi ro như đụng xe, rớt tàu bay, nếu còn sống sót trở về, cũng phải uống với nhau một bữa.
Đó là một luật lệ. Có nhiều thằng, cũng vì sự ăn nhậu đó mà đâm ra mang công, mắc nợ. Nhưng trong lòng vui và cảm thấy mến thương nhau. Dương nói tiếp :
– Việc ăn mừng đầy tháng cho cháu, không lo lắm.
– Tại sao vậy ?
– Vì tới đầy tháng con người ta, chúng mầy phải mua cái gì để mừng cho cháu chứ. Không lẽ cứ vác cái mồm tới ăn không. Như vậy, cũng đủ lấy lại được vốn rồi. Không chừng còn có lợi.
An chửi ngay :
– Thằng khốn nạn ! Chưa chi mầy đã định mang con mầy ra tính chuyện buôn bán. Không biết mắc cỡ sao? Mang đồ mừng tới là cho cháu, không phải là cho bố mẹ nó.
– Nhưng ai cấm bố mẹ nó xử dụng. Ai chứ, bác An và cô Chi phải cho cháu cái lắc vàng. Nếu không thì đừng hòng mời.
– Không mời cũng cứ đến.
Tâm, Dương, Hậu và Luận đều cười vang vì lối cãi bướng của An. Tính tình của An thật rốt, nhất là đối với bạn bè. Chỉ lâu lâu, hành tội anh em bằng cách bắt anh em phải nghe những bài thơ mà hắn vừa sáng tác.
Thằng nào dại dột chê một câu, là bị hắn cãi lại kịch liệt, cãi đến văng cả nước miếng vào mặt. Muốn yên thân, thì khi nghe hắn dọc xong một bài thơ phải gật gù cái đầu, khen hay là cứ loạn lên. Thế nào cũng được hắn bắt tay, lắc lấy lắc để mà nhận làm tri kỷ.
Tâm than phiền :
– Mấy mụ đàn bà này nói chuyện vói nhau dai thật…
Chiếc cửa kính đóng kín, nên những người đứng bên ngoài, không nghe thấy tiếng người nói chuyện trong phòng. Chỉ thỉnh thoảng, nghe vọng ra một vài tiếng cười. Mà tiếng cười lớn nhất là tiếng cười của Chi. Bên ngoài nầy, người nói nhiều là An. Sao mà đẹp đôi thế không biết. Nghĩ tới dây, Dương lại thấy thoáng buồn. Cách đây ít lâu, thì chàng và Phượng cũng yêu đời, nói nhiều và cười nhiều như thế.
Nhưng vì những biến cố xảy ra, để rồi tới bây giờ Phượng sống lặng lẽ như cái bóng, còn chàng thì những phút vui, cũng chỉ là vui gượng.
Tâm lại hỏi An .
– Sáng nay mầy đi sớm như thế làm sao mà gặp được anh Tư. Đột nhiên thấy vắng mặt cả một lũ, không chừng anh Tư nổi giận cho mà coi.
An phân trần:
– Tao có viết giấy để lại. Thằng Dương thì nghỉ là lý đương nhiên. Tao chỉ xin phép cho mầy và thằng Hậu, thằng Luận. Chắc anh Tư không nói gì đâu. Không chừng chiều nay, anh Tư lại tới thăm vợ chồng thằng Dương. Anh Tư vốn nhanh nhẩu trong công việc hiếu hỷ.
Dương búng mẩu thuốc lá còn lại, vẽ thành một đường vòng cung, rơi xuống mặt sân trải sỏi. Chàng lơ đãng nhìn lên những cành me rung rinh lá. Nơi đây vắng người, nhưng cũng vắng những cánh chim. Loài chim thành phố đã trốn biệt vào những hang hốc, lâu lâu mới có vài cánh nhạn sà xuống đất kiếm mồi rồi bay vụt lên cao tít.
Nhiều người bạn đã có gia đình, thường kể cho chàng nghe những sự hồi hộp, sung sướng khi có đứa con đầu lòng. Tới bây giờ, chàng cố tìm cái tâm trạng đó, mà không thấy. Hay là chàng có mặc cảm thằng cu Hoàng không phải đứa con của chàng, không phải là chàng tạo ra ? Không, chàng không bao giờ nghĩ như thế. Hồi nãy ôm thằng bé trong tay, chàng cũng bắt gặp một chút ấm áp và bâng khuâng. Nhìn vào đôi môi xinh xinh cảa thằng bé, chàng cũng thèm được nghe một ngày nào đó, từ đôi môi ấy thốt lên tiếng gọi bố. Tự nhiên, chàng thốt lên:
– Chắc chẳng có được ngày đó rồi.
– Mày nói gì vậy ?
Nghe An hỏi, chàng cười lặng lẽ, không trả lời. Chắc là Phượng chẳng thể chờ đợi tới ngày mà thằng bé biết đi biết nói. Nghĩ tới đây, chàng thấy thương hại Thư Hương. Người con gái ấy đã chọn nghề Sư Phạm, một nghề rất sợ tai tiếng. Một cô giáo ly dị với chồng, chắc chẳng thể làm cho học trò kính trọng và bạn đồng nghiệp nể phục. Nhưng biết làm thế nào, khi mà sự hy sinh của Phượng, tới lúc này là đã quá mức.
Nhiều khi, chàng nhận thấy mình quả thực bất lực trong việc quyết định chuyện Phượng và Thư Hương.
Cánh cửa phòng mở ra. Những người con gái đi ra cửa. Trên môi Chi vẫn còn phảng phất nụ cười, hình như vừa nói một chuyện gì vui thú lắm. Phượng đưa cho Dương một tờ giấy :
– Giấy chứng nhận của nhà hộ sinh. Anh giữ lấy để đi làm giấy khai sinh. Nếu cần thêm, để xin phép nghỉ, hay ăn tiền hộ sản phí, thì tới văn phòng ở đây xin thêm.
– Phượng giỏi chuyện đó quá.
– Nhất định là phải giỏi rồi. Anh không nhớ là Phượng có tới ba ông anh hiện nay đang mặc quần áo ka-ki. Nhớ làm giấy khai sinh ngay, đừng để trễ quá ba ngày.
– Phượng có về bây giờ không ?
Phượng lắc đầu :
– Không, Phượng ở lại đây với Thư Hương.
Rồi Phượng cười, nói tiếp:
– Lâu lâu, ăn cơm với bà đẻ một lần cũng vui.
Chàng nhìn sơ qua tờ giấy chứng nhận của nhà hộ sinh, rồi gấp lại bỏ vào túi. Mọi người náo nức chờ đợi sự ra đời của đứa bé, với nhiều tâm trạng phức tạp, nhưng nay, đứa bé đã ra đời, Dương thấy mọi việc hình như cũng chẳng có gì thay đổi.
Con người chỉ có thể ham sống và tranh đấu, với một mục đích không bao giờ vượt tới, như là đuổi bắt đường chân trời. Nhưng khi đạt được mục đích, thật không còn có gì chán nản hơn. Dương đi theo mọi người, bước xuống từng bậc thang lầu. Chàng muốn đi làm công việc lấy khai sinh cho đứa nhỏ ngay, nhưng nhìn vào đồng hồ, đã thấy gần đến giờ tan sở. Giờ nầy thì các nàng thư ký còn đang bận làm đẹp để trở về nhà. Có đến đó, thì cũng chỉ nhận được một lời từ chối lịch sự, và một cái hẹn vào buổi chiều. Thôi thì về nhà làm một giấc ngủ trưa, có lẽ đúng lý hơn.
Những người tới thăm Thư Hương, lúc tới thì ồn ào như thế, lúc về thì ai cũng im lặng. Có lẽ bao nhiêu chuyện, đã nói hết mất cả rồi, nên bây giờ, không còn chuyện gì để nói. Một chiếc bàn có bốn thiếc bánh xe nhỏ dưới chân, được đẩy đi qua trước mặt mọi người. Mùi gạo thơm, nấu chín bốc hơi và mùi những món ăn thanh khiết bay tỏa lên, làm mọi người thấy đói bụng. Chi nói nói với An :
– Thấy mấy bà đẻ ăn uống ngon quá, lại được nằm phòng lạnh, em chỉ muốn… được đẻ.
An trả lời, mặt thật lạnh:
– Thôi, tôi xin cô. Chưa cưới nhau, cô đã tính đến chuyện đẻ. Xin cô khoan làm chuyện đó cho tôi còn sống với chứ.
Nhờ câu chuyện đối đáp của Chi và An, không khí lại ồn ào lên một chút. Chỉ riêng Hậu và Hằng thì buồn. Nhất là Hằng. Nàng nhìn xuống cái bụng của nàng, đã kềnh càng nhiều lắm rồi. Chắc cũng chỉ vài tháng nữa thôi, nàng cũng phải vào nhà hộ sinh. Những ngày rảnh rỗi trên Biên Hòa, tiện đường đi chợ, nàng cũng ghé qua một cái nhà hộ sinh trên đó, với mục đích là thăm cho biết sự tình.
Những căn phòng dơ dáy, bẩn thỉu, cách nhau chỉ bằng một tấm “cạc-tông” hay ván mỏng, đã làm cho nàng phải khiếp. Nhìn thấy Thư Hương nằm trong một căn phòng đầy đủ tiện nghi, nàng thấy tủi thân. Cũng là một kiếp đàn bà, hơn nữa, cũng đã một thời nổi tiếng hoa khôi, cũng có những người thuộc loại giàu sang tới cầu cạnh. Nhưng rồi nàng lấy chồng, lấy Hậu, để phải từ bỏ tất cả. Có lẽ lần này, Hằng không dám dể bạn bè tới thăm. Nhiều đêm, nàng đã nói chuyện này với Hậu thì bị Hậu mắng thậm tệ. Hậu cho rằng, nếu đã bạn bè, thì không còn ai nghĩ tới chuyện giàu nghèo. Đứa nào mà mở cái miệng thúi hoắc ra chê sự nghèo của mình, thì mình có quyền phỉ nhổ vào mặt nó, không thèm nhận nó là bạn.
Nghe Hậu nói như vậy, nàng thấy có lý thật, nhưng không hiểu sao nàng vẫn thấy tủi cực cho sự nghèo đói của mình nhất là sau khi thăm Thư Hương, nàng thấy hai nếp sống của vợ chồng nàng với Dương và Thư Hương khác biệt nhau quá.
Tiếng của An hỏi Tâm :
– Mày về bằng xe của tao không ?
Tâm cười vang, lắc đầu:
– Phần nào thôi chứ ! Lúc đi, vì thằng Dương phải chở Phượng, với lại phải dẫn đường cho mầy, tao mới dám mạo hiểm ngồi lên cái xe của mầy. Còn lúc về, xin phép mầy để tao được ngồi sau xe của thằng Dương cho an toàn hơn. Mày cứ yên chí, nếu phải đẩy xe, đã có thằng Hậu, thằng Luận, lo gì.
An chửi thề một câu thật ngon lành, rồi bước lên xe, đóng cửa xe một phát thật mạnh. An lại phải nhoài người ra mở cửa xe phía bên kia cho Chi.
Chiếc xe để lâu ở ngoài nắng, lại quay cửa kính lên kin mít, mọi người chui vào, đã thấy muốn nghẹt thở vì nóng. Hậu và Luận quay vội cửa kính xuống. An trấn an ngay :
– Chạy một hồi, có gió là mát ngay đấy mà.
Dương và Tâm đã lên xe Vespa và nổ máy, Tâm ghé đầu vào xe An, hỏi :
– Chúng mày về nhà tao ăn cơm chứ ?…
– Không !
– Chúng mầy về Biên Hòa ngay bây giờ sao ?…
– Cũng không nốt. Chúng tao về nhà Chi. Trưa hôm nay, bà cụ nhà Chi mời ăn cơm. Nếu chúng mầy muốn đớp thì theo tao. Cái đó không bắt buộc.
An nói không bắt buộc vì biết rằng lũ bạn bè của chàng khi nghe thấy ăn nhậu là không bao giờ từ chối. Nhưng chàng lấy làm ngạc nhiên vì thấy Tâm và Dương cứ dửng dưng, không có ý gì vồ vập với sự ăn nhậu này. Dương thì mệt mỏi, dù rằng đã ngủ được một giấc dài. Còn Tâm thì lại không muốn ăn uống ở những nơi phải giữ lễ phép quá nhiều. Gia đình Chi, đối với chàng, dù sao cùng là chỗ sơ giao, chắc chưa quen với lời ăn nói gần như tự do quá trớn của chàng, nên chàng đồng ý với Dương là đi về nhà. Chàng định đi Biên Hòa chiều nay vì coi như mình đã làm đầy đủ bổn phận đối với em gái.
An hỏi lại một lần nữa:
– Chúng mầy không tới thật à ?…
– Thôi xin phép một dịp khác.
Nhìn mặt Chi, thấy một nét buồn thoáng qua.
Nhưng Tâm và Dương cũng chẳng để ý, phóng xe đi qua chiếc cổng sắt nặng nề, lẫn vào vòng xe cộ một chiều tên đưòng Phan Thanh Giản. Con đuờng thật nhiều bóng cây. Tà áo trắng của nữ sinh Gia Long loang loáng in màu hoa nắng. Chiếc cặp sách được ôm vào sát ngực, đám nữ sinh ấy ríu rít nói chuyện với nhau, đi những bước chân chim trên vỉa hè đầy xác lá. Dương hỏi :
– Mày đã chọn được em nào chưa?…
Tâm thì thầm vào tai Dương :
– Đứa nào cũng được cả. Không hiểu sao mà hồi này con gái chúng nó đẹp thế. Cứ phây phây ra thôi !…
Tới tuổi dậy thì học ở bậc trung học, hình như người con gái nào cũng đẹp, có đứa con gái cách đây mấy năm, còn nhem nhếch, bẩn thỉu, vài năm sau gặp lại đã làm Dương ngạc nhiên. Đã một lần, chàng và Tâm ngừng xe trước cửa một trường nữ trung học bên cạnh Sở Thú, trong một buổi chiều vừa tan học.
Hai người thử tìm một hoa khôi trong đám bướm trắng sân trường. Nhưng rồi mắt của hai người đã hoa lên vì những người đẹp đã xuất hiện nhiều quá. Tâm đã nói đùa rằng nếu chàng có quyền được lựa chọn một cô gái đẹp nhất của trường này để lấy làm vợ, thì chắc chàng sẽ chẳng lựa chọn được ai. Vì chẳng biết ai là người đẹp nhất.
Ngã tư bật đèn đỏ. Hai người dừng xe vào sát lề nhìn theo những gót chân đỏ hồng bước vội vã qua đường.
Những chiếc cặp sách ôm sát vào ngực, những cái chớp mắt, những tiếng cười làm cho hè đường bỗng như bớt nắng. Vài người con gái ngừng lại ở đầu vỉa hè, gần sát chỗ Tâm và Dương, ngập ngừng một chút rồi mới bước xuống đường. Hình như từ người những cô gái, toát ra mùi hương thoảng nhẹ, như mùi tóc, mùi da thịt… Tâm và Dương ngây ngất nhìn theo, quên cả lúc đèn ở đầu đường đã bật sang màu xanh.
Tiếng còi xe inh ỏi phía sau làm Dương giật mình. An thi sĩ ló đầu ra khỏi cửa xe, nhăn mặt, lè lưỡi ra làm điệu bộ xấu. Rồi chiếc xe của An vựợt qua mặt lẫn vào giòng xe cộ, không biết đi về ngã nào, Tâm và Dương trở về nhà…
Về đến nhà đã nghe thấy tiếng bà Phủ :
– Mẹ chờ mấy đứa về rồi mới ăn cơm. Mấy người kia đâu hết rồi ?.. Sao Tâm không mời tất cả về nhà ăn cơm ?…
Tâm trả lời mẹ :
– Hôm nay, chúng nó có người khác cho ăn rồi. Với lũ chúng nó, thì việc gì mà mẹ phải mời. Muốn ăn thì chúng nó tới. Còn nếu chúng nó đã không muốn ăn, thì có mời cũng chẳng được.
Sợ để mẹ phải chờ đợi quá lâu, Tâm và Dương để nguyên cả quần áo, ngồi vào bàn ăn. Bà cụ có vẻ mệt mỏi. Chắc đêm qua bà cụ đã thức để săn sóc cho con gái và cháu ngoại. Tâm thấy thương mẹ quá. Chàng nói với mẹ :
– Ăn xong, mẹ nên ngủ đi một giấc. Con thấy mẹ có vẻ mệt.
Bà Phủ chậm chạp chớp đôi mắt:
– Lát nữa, mẹ sẽ ngủ. Ăn xong, mẹ muốn nói với hai đứa một chuyện…
– Thì mẹ vừa ăn vừa nói chuyện…
– Mẹ không muốn vậy. Mẹ muốn ăn xong, dẹp bàn cho gọn, lúc hai đứa uống cà-phê mẹ mới nói chuyện. Vì câu chuyện nầy, cần phải bình tĩnh để quyết định. Mẹ cần biết ý kiến của cả hai đứa. Chiều nay chắc Tâm đi Biên Hòa ?
Tâm nhìn mẹ :
– Dạ, con đi Biên Hòa. Nhưng nếu mẹ muốn con ở nhà thì con sẽ ở lại…
– Còn Dương chưa đi chứ ?
– Thưa bác, con ở lại đây để coi nhà cho bác…
Tuy rằng đã lấy Thư Hương, nhưng Dương vẫn gọi mẹ Tâm bằng bác. Chàng rất ngượng ngập nếu phải gọi bà Phủ bằng mẹ. Nhiều người bạn của chàng lấy làm lạ về chuvện đó, có hỏi chàng, thì chàng trả lời rằng gọi như thế đã quen rồi.
Chàng muốn sửa soạn cho sự chia lìa sau nay, phải đổi cách xưng hô một lần nữa thì thật phiền phức. Mới đầu, bà Phủ cũng không bằng lòng cái tiếng “bác” của Dương nhưng rồi bà cũng mặc kệ. Trong lòng Dương lúc nào cũng coi bà Phủ như cha mẹ chàng. Như thế cũng đã được rồi. Tiếng xưng hô chỉ là bề ngoài không cần thiết.
Bữa cơm qua đi lặng lẽ. Tâm nhận thấy rằng những lúc về nhà, chàng được chiều chuộng nhất là trong việc ăn uống, mà không hiểu sao chàng ăn không được ngon, như những bữa cơm ở Biên Hòa, thường thường mấy đĩa thức ăn đều bị vét sạch. Lâu lâu, một tuần lễ một lần, về với gia đình thì được. Sống hẳn với gia đình, cái không khí lặng lẽ như thế này, làm cho chàng chịu không nổi. Chừng độ một chục năm nữa, thì may ra có thể được, vì lúc đó tính tình chàng chắc không còn sôi nổi, ưa sự náo động như bây giờ.
Chị người làm dọn dẹp, lau bàn rồi mang lên cho Tâm và Dương hai ly cà-phê. Dương nói một lời cám ơn, cho vào ly cà-phê hai muỗng đường. Bà Phủ uống nước trà… Tâm tuột giầy, ngồi đưa cả hai chân lên ghế rồi cười :
– Bây giờ mẹ nói chuyện đi.
Bà Phủ chậm rãi :
– Mẹ muốn nói đến chuvện của Dương và Thư Hương…
Mặt Tâm chợt thoáng buồn. Giọng chàng trầm hẳn xuống :
– Con cũng đoán rằng mẹ định nói chuyện này. Con cũng định bàn với mẹ cho dứt khoát. Bây giờ Thư Hương đã sinh nở, mẹ tròn con vuông, kể như đã xong rồi… Nhiều khi, nhìn Phượng, con cũng thấy buồn và ngượng ngập…
– Dương có ý kiến gì không ?
Dương khuấy nhẹ muỗng trong ly cà-phê :
– Cái đó tùy ở Thư Hương, ở Phượng, ở bác. Như bác đã biết đấy, con chỉ là một thứ được đặt đâu thì ngồi đấy…
Nói câu này, Dương cười nhẹ. Nụ cười ấy như phảng phất một cái gì cay đắng thương cảm. Bà Phủ cũng xúc động khi thấy nụ cười ấy. Bà nhấp một chút nước trà :
– Bác phải cám ơn Dương nhiều.
Dương ngắt lời :
– Xin bác đừng nói vậy, con thì cũng như Tâm. Không là con, thì cũng là cháu. Hai đứa con có nhiều món nợ với nhau, mà cả đời không thể trả hết được cho nhau. Bác nói những lời cám ơn, là bác không coi con như chỗ thân tình rồi…
Bà Phủ lắc đầu :
– Lúc nào bác cũng coi Dương như Tâm, như Thư Hương. Mấy tháng nay, là thời gian mà bác sung sướng nhất. Chỉ vì sung sướng quá, bác mới nghĩ tới “lạc cực sinh bi”. Nếu cứ được đoàn tụ với nhau mãi như bây giờ, thi bác chẳng còn ước muốn gì hơn…
Bà Phủ phải uống một ngụm nước trà lớn để che lấp sự nghẹn ngào… Bà muốn tránh cho Dương một sự khó nghĩ, nhưng cũng băn khoăn rất nhiều về hạnh phúc của con gái. Đã nhiều đêm, bà sang phòng Thư Hương, lấy cớ rằng muốn nằm ngủ với con gái, để dò ý tứ của nàng. Nhưng thấy Thư Hương vần hồn nhiên, vô tư, nhắc tới Dương với một giọng trìu mến, bà lại cảm thương cho con gái. Bà nói tiếp :
– Bác nhờ Phượng ở lại nhà hộ sinh trông nom cho Thư Hương , để có dịp, hai đứa nó sẽ nói chuyện với nhau. Bác không có quyền gì trong vụ này.
Dương muốn chia xẻ nỗi buồn với bà Phủ :
– Con cũng thế. Con cũng chẳng có quyền gì trong vụ này. Cứ để hai cô con gái, họ giải quyết với nhau, thế mà tiện và gọn.
Tâm ngồi thẳng ngay lại:
– Tao không đồng ý !Tao phải có trách nhiệm trong vụ này.
Bà Phủ vẫn ôn tồn :
– Tâm cứ bình tĩnh mà nói. Mẹ cũng cần biết qua ý kiến của Tâm…
Nghe giọng nói dịu đàng của mẹ, Tâm chợt thấy hối hận. Bà Phủ là một người hiền lành, thật đáng là bậc mệnh phụ. Chẳng bao giờ bà nói lớn tiếng với ai. Những lúc phải rầy la chị người làm, bà cũng chỉ dùng những lời nhẹ nhàng, từ tốn. Với con trai, con gái như Tâm và Thư Hương, thì bà chẳng nói nặng bao giờ.
Tâm cúi mặt xuống, nhìn vào ly ca-phê đen sánh, mà như nhìn thấy đôi mắt của mình ở trong đó. Chàng nói nhỏ hẳn xuống :
– Chắc mẹ cũng biết rằng, con thương em Thư Hương. Thương còn hơn là thương thân con nữa. Cái gia tài của bố mẹ đấy, nếu cần, con xin nhường hết cho em, để có tiền, nó dễ lấy chồng. Nhưng với việc nầy, thì mẹ cho con được dứt khoát.
Chàng ngừng lại một chút, nâng ly cà-phê lên, uống một hớp nhỏ. Tiếng ly chạm vào chiếc đĩa mỏng, sắc và gọn. Bà Phủ giục:
– Thì Tâm cứ nói tiếp đi.
– Chắc mẹ cũng biết rằng…
– Mẹ biết hết, biết tất cả mọi chuyện. Tâm không cần phải mở đầu bằng câu đó. Cứ nói thẳng ra đi.
– Chuyện xảy ra giữa Phượng, Thư Hương và Dương, tất cả đầu đuôi câu chuyện là tại con và vì con. Chính con đã kể câu chuyện của Thư Hương cho hai đứa chúng nó nghe. Dương lấy Thư Hương là ý kiến của Phượng. Thật ra thì Phượng muốn cứu vãn danh dự gia đình ta. Bởi vậy, bây giờ Thư Hương đã sinh nở mẹ tròn con vuông, bổn phận của gia đình ta là phải nghĩ tới hạnh phúc của chúng nó, vì chúng nó đợi nhau cũng lâu rồi
Câu nói của Tâm như rơi vào sự tỉnh mịch của căn nhà rộng. Nói được những lời đó, chàng thấy nhẹ nhàng, thảnh thơi hẳn lên. Những lúc về sau này, thấy Phượng lúc nào cũng buồn khổ, chàng thấy như có một tảng đá đeo nặng lên ngực. Với Dương, thì chàng không đặt chuyện ân oán, vì hai đứa, sống chết có nhau, đã từ lâu, nguyện coi nhau như ruột thịt. Bà Phủ trầm ngâm:
– Ai sẽ là người nói với Thư Huơng chuyện này đây?
Tâm nhìn mẹ :
– Mẹ không nói được sao ?
Bà Phủ lắc đầu :
– Mẹ nhìn cái mặt nó buồn, mẹ không nói được. Có lẽ mẹ bị ám ảnh vì những ngày nó nằm nhà thương, lần nó tự tử. Những lúc ấy, mẹ thấy nó bất động như là được nặn bằng sáp. Nó yếu đuối quá. Nhiều lúc mẹ có cảm tưởng như cả con người nó như bằng pha lê, chỉ cần đụng mạnh một chút, cũng đủ đổ vỡ. Tâm làm công việc này dùm cho mẹ đi.
Giọng của bà Phủ như van lơn, như cầu khẩn. Dương lơ đãng nhìn những câu đối, bức hoành phi với nét chữ vàng, nét thảo như rồng bay phượng múa, mà trong đám chữ đó, chàng chỉ biết được vài ba chữ dễ đọc. Rồi mắt Dương nhìn tới bàn thờ, Phật với hình dáng từ bi, bình thản. Chàng nhớ tới những buổi tối, nằm ngủ trong nhà, chàng đã ngủ được một giấc, lúc bừng tỉnh dậy, vẫn nghe thấy tiếng mõ và tiếng tụng kinh của bà Phủ.
Chàng nhìn thấy Tâm hai tay đỡ lấy cằm trong một trạng thái suy tư trầm lặng. Chàng chớp đôi mắt:
– Theo ý con thì cứ để từ từ cho tạo hóa an bài. Thư Hương sanh cháu được một hai ngày, mình bàn tới chuyện đó, e rằng sớm quá chăng ? Chờ dăm bữa, nửa tháng nữa thì đã sao đâu.
Tâm nhìn vào mặt Dương :
– Đáng lẽ thì tao gạt mầy ra khỏi câu chuyện này, vì mầy không thể quyết định. Với tính cả nể của mầy, dù cho tình của mầy và Phượng có sâu đậm đến mấy chăng nữa thì mầy vẫn sợ làm mất lòng gia đình tao. Tao nói có đúng không ?… Vì vậy, mầy phải để tao quyết định. Tao sẽ nói với Thư Hương. Tao sẽ bắt nó phải nghe lời tao, dù cho nó ghét hay oán hận tao…
Coi như là câu chuyện đã giải quyết xong, Tâm uống vội hết ly cà-phê rồi đứng dậy. Chàng vào thay quần áo để lên Biên Hòa. Chàng cũng muốn nghỉ buổi chiều hôm nay, nằm ngủ ở nhà thêm một đêm nữa, để rồi sáng mai đi sớm, nhưng chàng nghĩ rằng, lên đến Biên Hòa chàng mới đủ tỉnh táo, lựa những câu nói đúng lý, để nói với Thư Hương. Chàng vốn không mềm mỏng và tế nhị gì cho lắm.
Chàng sợ mới nói được một hai câu, Thư Hương đã bật khóc, thì câu chuyện không thể tiếp tục từ đầu cho tới khi kết thúc. Rất có thể vì chuyện nầy, Thư Hương ghét chàng. Nghĩ tới đây, chàng nhăn mặt. Ở nhà, có hai anh em mà lại ghét nhau. Thì chắc mẹ chàng sẽ khổ lắm. Càng nghĩ nhiều, chàng lại thấy câu chuyện khó có thể giải quyết theo ý của chàng.
Tâm mặc quần áo xong, đi ra nhà ngoài, vẫn thấy bà Phủ và Dương ngồi như bất động ở bàn ăn. Dương vẽ lên mặt bàn những hình vuông, hình tròn vô nghĩa. Bà Phủ hỏi Tâm : .
– Tâm đi Biên Hòa bây giờ đấy à ?… Sao mầy nói là ở nhà với mẹ ?…
Tâm đứng lại cạnh bà Phủ :
– Con lên đó, xin phép nghỉ, không chừng mai lại về. Mẹ nhớ vào nhà hộ sinh thay Phượng săn sóc cho em Thư Hương.
Chàng vịn tay vào thành ghế, nhìn xuống những sợi tóc bạc của mẹ. Chàng muốn sống lại thời thơ ấu ngồi nhổ từng sợi tóc sâu cho mẹ rồi tính từng sợi tóc sâu để đòi tiền. Bà Phủ lại hỏi:
– Bao giờ Tâm nói chuyện đó với Thư Hương ?
– Lúc nào tiện thì con nói. Có thể ngay ngày mai, ngày mốt.
Giọng bà Phủ trầm hẳn xuống thật buồn :
– Mẹ vừa nói với Dương. Con hãy chờ chừng một tháng nữa, cho em nó cứng cáp đã. Lúc đó thằng cu Hoàng cũng đã biết cười, biết làm trò để cho nó vui…Mẹ biết với máu gái đẻ, nếu bị xúc động mạnh quá, có hại nhiều lắm, dễ mắc những bệnh hậu sản. Tâm nghe mẹ, hãy để cho em nó một tháng để sửa soạn…
Tay Tâm nắm chặt lấy thành ghế :
– Con nghe mẹ. Con sẽ chờ một tháng.
Rồi chàng nhìn sang Dương :
– Mày có đi đâu không Dương ?
Dương trả lời mà không ngửng đầu lên :
– Tao cũng đi bây giờ. Tao đi làm giấy khai sinh cho thằng cháu Hoàng. Để lại cho tao cái thẻ kiểm tra, mầy giữ trong người mầy cái căn cước quân nhân cũng đủ rồi.
Tâm móc ví, lấy cái kiểm tra quăng cho Dương rồi đi ra phía cửa. Dương cũng uể oải, đi vào phòng. Chàng tìm những giấy tờ cần thiết. Nhìn tờ giấy giá thú, đọc tên chàng và tên Thư Hương, chàng lại thấy nao nao buồn. Chỉ vì một mảnh giấy vô tri vô giác này đây, mà đã gây ra lắm chuyện. Chàng mặc bộ quần áo nhà binh vào người. Tới những nơi hành chánh, mặc quần áo nhà binh, chắc cũng hưởng được vài ba sự dễ dãi. Chàng ghé qua nhà hộ sinh, rủ Phượng đi cùng với chàng. Buổi chiều nay, chàng thèm ngồi ở bờ sông nhìn ra cảnh sông nước và nói chuvện với Phượng.
Mặc quần áo xong, nhìn đồng hồ thấy hãy còn sớm chàng nằm dài ra giường, cho đỡ mỏi mệt. Tuy nhắm mắt, nhưng chàng cố chống lại cơn buồn ngủ. Nếu mà ngủ quên, chàng dám ngủ cho tới sáu giờ chiều. Công việc làm giấy khai sinh cho đứa nhỏ lại chờ sáng mai. Chàng mở chiếc máy phát thanh để ở đầu giường. Những điệu nhạc cổ điển lê thê, lại dễ làm cho buồn ngủ thêm, nên chàng tắt máy. Chàng mơ màng, nghĩ tới Tâm, bây giờ đang đi trên xa lộ đầy nắng chói. Nghĩ tới Phượng và Thư Hương, không biết bây giờ đang nói với nhau những chuyện gì. Cách chàng một bức tường, bà Phủ tuy rằng mệt mỏi, nhưng không biết có ngủ được một giấc nào không, hay là mải mê suy nghĩ về con trai, con gái. Những lúc gần đây, Dương thấy tóc của bà Phủ, hình như bạc nhiều hơn. Nghĩ tới mẹ chàng, hiện nay không biết tin tức ra sao, chàng lại thấy nao nao buồn. Chuông đồng hồ ở nhà ngoài, thảnh thơi gõ lên hai tiếng.
Không muốn nằm trên giường nữa, chàng đi ra nhà ngoài. Phòng khách và phòng ăn thật vắng vẻ, làm cho chàng phải đi nhẹ gót giày. Nhẹ nhàng mở cửa chàng đi ra và khép lại. Thành phố này, tuy nhiều bóng cây, nhưng về buổi trưa vẫn nóng. Cái nóng hừng hực bốc lên từ mặt nhựa. Chàng ghé vào quán nước, ngồi một mình trước ly bia sủi đầy bọt trắng. Rất ít khi, chàng uống một mình như thế này, trừ khi nào thật buồn, thật trống rỗng.
Điều kỵ nhất của bọn chàng, là uống rượu một mình. Ly bia trưa nay, sao mà đắng ngắt. Cố gắng lắm, chàng mới uống hết được một chai. Những quán nước ở khu thương mại như thế này, chung quanh đầy những náo động phức tạp.
Một chiếc xe phóng thanh, vừa đậu xịch tới và bắt đầu la hét những câu quảng cáo cho một loại thuốc chữa đủ các thứ bệnh, từ cảm sốt xoàng cho tới những bệnh nan y như ho lao, cùi hủi. Tiếng cô nàng nói trong máy phóng thanh, chua như dấm, sặc mùi máy móc, khó chịu. Dương nhăn mặt, khó chịu. Chàng đứng lên, trả tiền và phóng xe đi, như chạy trốn sự ồn ào của thành phố.
Vừa tới cổng nhà hộ sinh nhìn lên hành lang, chàng đã thấy Phượng đứng tựa tay vào thành lan can trên lầu. Mắt Phượng như nhìn vào đám lá cây và đám mây trắng, nằm im chết sững trên nền trời. Chàng không hiểu sao giờ này Phượng lại không ở trong phòng, nằm ngủ, trò chuyện với Thư Hương, mà lại ra đây, đứng im lìm bất động. Chàng dựng xe, hối hả bước lên lầu, nhảy hai bực thang một lúc.
Tiếng giày của chàng, có lẽ đã làm cho Phượng giật mình. Nàng từ từ quay lại và Dương nhìn thấy mắt nàng hoe đỏ… Rồi đôi mắt ấy chớp thật mau. Phượng quay mặt đi chỗ khác, để dấu những suy tư đã hằn lên khuôn mặt. Dương đi tới bên Phượng :
– Sao Phượng không ở trong phòng với Thư Hương?…
– Thư Hương và cháu bé ngủ rồi…
Hai người lại im lặng. Gió chiều bắt đầu nổi, thổi hun hút vào hành lang, thổi bay bay từng cánh lá me rơi li ti lên nền gạch đá hoa bóng loáng. Dương đặt tay lên tay Phượng :
– Hình như có chuyện gì làm cho Phượng không được vui?…
Phượng cười buồn:
– Thì chuyện của chúng mình…
Rồi Phượng kể lể:
– Hồi nãy, Phượng nói về chuyện chúng mình với Thư Hương, Phượng thấy mặt Thư Hương chợt tái đi, tay bồng cháu Hoàng run run, làm cho Phượng đỡ ngay lấy cháu vì sợ Thư Hương làm rớt cháu. Thư Hương ôm lấy mặt khóc nức nở. Phượng đặt cháu vào nôi, thấy Thư Hương khóc thì buồn quá, rồi nước mắt ở đâu cũng chảy ra đầy mặt. Phượng phải ra ngoài này đứng, vì ở trong phòng, nhìn Thư Hương, chắc là Phượng chết mất.
Giọng Phượng thật nghẹn ngào. Nhất là khi nói những câu sau cùng. Bàn tay Phượng nằm gọn trong tay Dương thật lạnh, dù rằng buổi xế trưa của thành phố là lúc nóng nhất trong ngày. Phựợng cúi xuống cho mớ tóc dài rủ xuống, che lấy khuôn mặt, rồi Phượng thốt ra một câu thật nhẹ, thật trầm :
– Em khổ quá, Dương ơi!…
Dương bóp mạnh bàn tay Phượng:
– Anh cũng chẳng sung sướng gì hơn Phượng đâu.
Rồi Dương kể cho Phượng nghe câu chuyện buổi trưa nay ở nhà, giữa chàng, Tâm và bà Phủ. Phượng đứng lặng im nghe. Những lời nói của Tâm mà Dương đang kể lại, an ủi Phượng thật nhiều. Nàng hối hận rằng mình đã nói chuyện nầy với Thư Hương, để Tâm hay bà Phủ giải quyết, thì câu chuyện sẽ đẹp hơn mà nàng vẫn giữ được tình bạn với Thư Hương. Nàng hỏi Dương :
– Anh Tâm đi Biên Hòa rồi ?…
– Sáng mai, chắc nó lại về.
Phượng đưa khăn tay lên thấm nước mắt :
– Chiều mai, anh rủ anh Tâm đi ăn nhé. Có Phượng nữa đấy.
Dương cười buồn :
– Đồng ý, chiều mai và cả chiều hôm nav nữa. Chiều nay, chỉ có anh và Phượng thôi. Đã lâu rồi, anh chưa được ngồi cái quán ở bờ sông. Chiều nay anh muốn ăn ở đó. Nhưng trước khi đi ăn, phải làm giấy khai sinh cho thằng cu đã. Phượng vào sửa soạn để đi cùng với anh. Anh đứng ngoài này chờ Phượng.
Phượng nghe lời, mở thật nhẹ cánh cửa đi vào phòng. Thư Hương nhắm mắt nằm ngủ, mái tóc đen dài xòa trên gối trắng. Phượng thay áo và nhẹ nhàng đưa bàn chân vào đôi giày. Chiếc gót giày gõ xuống nền gạch một tiếng động nhẹ, Thư Hương mở đôi mắt nhìn về phía Phượng :
– Chị Phượng về nhà đấy à ?…
– Không, Phượng đi làm giấy khai sinh cho cháu với anh Dương. Phựợng là người làm chứng cho cháu.
– Anh Dương đâu rồi ?
– Thấy Thư Hương ngủ, nên anh Dương đứng ngoài cửa. Đã hơn ba giờ, phải đi ngay không hết giờ làm việc.
Phượng mở cửa, đi nhanh ra ngoài. Nàng và Dương bên nhau, trên chiếc hành lang lác đác lá me bay. Gió thổi tà áo Phượng quấn lấy chân Dương. Hai người đi bộ về phía tòa Hành chánh, cách đó có một quãng đường, Phượng như lại tìm thấy sự tươi vui. Chỉ còn một tháng nữa. Một tháng nữa, nàng và Dương sẽ lại được tự đo bên nhau, như thuở nào, không còn gì làm ngăn cách nổi hai đứa nữa.
Nắm tay nhau, họ bước vội qua đường…
ĐOẠN CHÓT
Thời gian mà Tâm hẹn với mẹ để giải quyết vấn đề Thư Hương là một tháng. Một tháng có ba mươi ngày. Một ngày qua đi, Phượng có cảm tưởng như nàng bước thêm một bước gần tới hạnh phúc. Má Phượng lại đỏ hồng, môi Phượng lại có được màu thắm.. Như một cánh chim sau con bão tố, rủ sạch được nước mưa ướt trên đôi cánh, chim sửa soạn bay lên cao, thật cao về chân trời đầy nắng, đầy hoa. Nụ cười của Phượng không còn héo hắt. Vết nhăn nơi khóe miệng đã dần dần dãn ra, để khuôn mặt của Phượng rạng rỡ như mặt trăng đêm rằm.
Phượng không che dấu sự vui tươi trong lòng mình. Nàng cười, nói và hát suốt ngày. Chị Yến than phiền :
– Con nhỏ này nó điên rồi chắc…
Loan thì tức bực :
– Mày khép cái cửa miệng của mầy lại được một lát, không Phượng?… Đang buồn muốn chết mà cứ nhí nhảnh, ca với hát…
Loan buồn, vì Loan sắp sửa phải lên đường. Ba chiếc va-li to tổ bố đã xếp gọn ở một góc nhà. Chỉ còn vài ngày nữa là Loan sửa soạn cho một chuyến đi, rất dài và rất lâu.
Mấy năm xa mẹ, xa chị, xa em, xa quê hương đã làm Loan nhiều lúc buồn muốn phát khóc. Ấy vậy mà bên cạnh lại có Phượng lúc nào cũng chỉ trêu chọc, thì sao mà Loan không nổi giận. Nhưng dù cho một kẻ than phiền, một kẻ tức bực, mặt Phượng cứ trơ ra. Nhiều lúc đang ngồi yên lặng, cả nhà đang chăm chú lo việc riêng của mình, thì Phượng hét lên một tiếng. Chị Yến giật mình, kim đâm cả vào tay. Loan thì đánh rớt chiếc măng-tô mà nàng đang cầm chải bụi.
Vinh đang sửa xe, tuy vẫn giữ được bình tĩnh, nhưng cũng hơi hốt hoảng một tí. Vinh cười, tay vẫn siết con ốc :
– Chị Phượng lại nổi cơn điên rồi.
Cơn điên của Phượng tới thường trực hàng ngày. Vinh khoái nhất cơn điên của Phượng, vì lúc Phượng nổi cơn thì cái gì của Phượng, Vinh xin cũng được hết. Cả chiếc xô-lếch nầy, Phượng cũng đã hứa cho Vinh, nhưng phải chờ một tháng nữa. Tấm lịch treo trên tường, nhà đều lười biếng không ai chịu bóc, nhưng bây giờ, Phượng là người bóc lịch chăm chỉ nhất.
Mỗi tờ lịch bóc đi nàng lại vui hơn một chút, điên hơn một chút. Chị Yến và Loan chỉ đoán mò rằng, Phượng có một chuyện gì vui lắm. Câu chuyện của Phượng, của Dương, của Thư Hương, chẳng ai được bỉết, vì những người trong cuộc, ai cũng dấu diếm, không nói ra.
Ngày Loan đi, Phượng cũng buồn mất vài phút. Đấy là lúc Phượng nhìn mọi người, mắt đỏ hoe, đứng ở nhà ga phi cảng. Cái khung cảnh nhộn nhịp của sân ga phi cảng, không làm vui được cái không khí tiễn đưa. Loan dịu dàng nắm lấy tay Phượng :
– Chị đi, Phượng có buồn không ?
– Buồn, buồn chứ. Buồn bỏ xừ đi…
Chưa bao giờ Phượng thấy Loan ăn nói dịu dàng đến thế. Nhất là xưng chị với Phượng. Bởi thế Phượng lại trêu tức :
– Chị Loan có biết tại sao Phượng buồn không ?… Phượng buồn vì bây giờ, nhà thiếu mất người rửa chén, lau bàn. Lại phải chia thêm công việc. Buồn, buồn quá !…
Đang buồn như thế mà Loan phì cười… Công việc rửa chén, lau bàn là công việc của Loan.
Nhưng sau khi cười được một tí, Loan lại bâng khuâng vì nhớ nhung và luyến tiếc. Tiếng máy phóng thanh ậm ọe gọi những người sắp sửa lên đường, ra cổng số một, Loan ôm lấy các cháu, hôn mỗi đứa một cái, hứa hẹn sẽ mua quà gửi về cho cháu. Các bà chị dâu, cầm tay mấy đứa nhỏ, chắp tay lại, cúi đầu, ạ cô… Loan bước vào khung cửa kính, và thoát ra ngoài sân bay rộng thênh thang, gió thổi lồng lộng. Phượng, mẹ, chị Yến và các anh, các cháu lên trên lầu nhà ăn, nhìn cánh cửa phi cơ, có Loan bước lên bực thang sắt, một tay cầm áo măng-tô, một tay xách chiếc va-li nhỏ.
Liếc nhìn sang mẹ, Phượng thấy mẹ khóc. Lúc này Phượng mới thấy buồn thấm thía…
Buổi tối, nằm trên chiếc giường rộng, Phượng nhớ Loan ghê gớm. Nhưng rồi cái nhớ ấy phai dần. Chỉ ba ngày sau, Phượng đã tạm quên. Bây giờ ở nhà, người nhắc đến Loan nhiều nhất là mẹ, nhất là những lúc có những món ăn mà Loan thích. Mẹ Phượng cứ thắc mắc rằng sang đến bên đó, không biết Loan có chịu được lạnh, có ăn được đồ ăn của người ta không ? Phượng nói đùa với mẹ rằng, rồi đây không chừng mẹ có thêm một chàng rể người Mỹ. Mẹ Phượng mắng Phượng một câu, nhưng rồi lại thắc mắc, lo âu.
Buổi tối hôm đó, mẹ Phượng bảo Vinh viết thư cho Loan, viết luôn cả những lời dặn dò của mẹ.
Thư Hương ở nhà hộ sinh mười ngày. Nàng đã trở về nhà. Nàng sống trong sự nôn nao chờ đợi. Nàng chờ bà Phủ, anh Tâm hay là Phượng và Dương nói đến chuyện của nàng. Nhưng chẳng ai đả động gì tới. Chẳng lẽ nàng lại hỏi trước. Tâm vẫn giữ thái độ thản nhiên. Nhiều lúc Thư Hương bắt gặp đôi mắt xót thương của mẹ nhìn nàng. Những lần bắt gặp đôi mắt ấy, nàng thường cúi mặt xuống. Thời gian ấy, Tâm và Dương rất ít về nhà. Hai người lấy cớ là bận công vụ. Nhưng nàng hiểu rằng, họ tránh gặp mặt nàng.
Một buổi tối, không chịu được sự nôn nao khó chịu, nàng sang phòng mẹ. Nàng nói với mẹ :
– Tối nay, mẹ cho con ngủ ở đây với mẹ.
– Có con rồi mà còn sợ ma.
– Đâu có. Lâu quá không được ngủ với mẹ, thành ra con nhớ hơi mẹ quá.
Bà Phủ linh cảm rằng, không phải vì nhớ hơi mẹ mà Thư Hương đòi nằm với mẹ. Bà rất sợ phải nói với con gái những chuyện buồn, nhất là chuyện Phượng và Dương, Thư Hương. Bà thoái thác :
– Hôm nay mẹ mệt. Nằm với mầy, mầy cứ hỏi chuyện lang bang làm mẹ không ngủ được. Phải nằm ở phòng mà trông con chứ. Đêm thức dậy, cháu khóc thì sao ?
Thư Hương cúi đầu lặng thinh. Một lát sau, Thư Hương mới nhìn mẹ bằng đôi mắt thật khắc khoải :
– Anh Tâm với anh Dương có bàn tính đến chuyện con không hở mẹ ?
– Sao mầy không hỏi thẳng anh Tâm, anh Dương ?…
– Con biết hỏi như thế nào ?
Thư Hương nói như thế cũng là phải. Bà Phủ tránh nhìn vào đôi mắt của Thư Hương và nói tiếp :
– Mẹ muốn biết rằng con có yêu Dương không ?…
Bà Phủ hỏi câu đó cũng là bất đắc dĩ lắm. Chính ra thì bà muốn rằng, chuyện của tụi trẻ thì để chúng nó giải quyết với nhau. Bà đã già rồi, không muốn mệt óc vì những chuyện này, và có lẽ bà cũng không muốn làm cho con trai, con gái phải phiền lòng. Nhưng câu hỏi, đã thốt ra khỏi miệng mất rồi. Hỏi câu đó xong, bà chẳng muốn được nghe trả lời.
Hai mẹ con cùng lặng thinh… Thư Hương cúi mặt nhìn nhũrng ngón chân của mình đặt trên nền gạch hoa trắng bóng. Nàng nghĩ lại những ngày vui xưa khi còn ở căn nhà nhỏ cạnh đường tàu. Với Dương, tuy chỉ là vợ chồng hờ, không cần nhau trong chuyện chăn gối, nhưng trong căn nhà nhỏ ấy, cũng giữ nhiều hương đầm ấm của một tiểu gia đình. Có hương tóc, da thịt đàn bà, có mùi thuốc lá mạnh, vững chắc của đàn ông. Cảnh đó, hương sắc đó đã quyến rũ Thư Hương. Những lúc mà Dương vắng nhà, Thư Hương cũng khắc khoải chờ mong. Bà chủ nhà lại hay lên căn lầu đó, nói vài ba câu chuyện, thường là khen ngợi cái êm ấm của đôi vợ chồng trẻ. “Hai cô cậu ở nhà, chẳng bao giờ nghe thấy tiếng nói lớn.Thật là hiếm có. Vợ chồng trẻ là ưa cãi nhau lắm, nhưng hai cô cậu thì không”.
Bà chủ nhà khen Dương hiền lành và Thư Hương khéo léo. Hàng xóm thường nhìn Dương và Thư Hương bằng những đôi mắt đầy cảm tình. Một cảnh gia đình như thế mà không luyến tiếc sao được.
Bà phủ lại dịu dàng :
– Thư Hương chưa trả lời câu hỏi mẹ…
Nàng nghẹn ngào :
– Con biết trả lời mẹ làm sao bây giờ ?… Mới đầu thì con chỉ coi anh Dương như anh Tâm, hay hơn nữa, là ân nhân của gia đình ta. Nhưng về sau này, con thấy thiếu vắng anh Dương, thì lòng thật khắc khoải, lo buồn…
Thư Hương ứa nước mắy, nắm lấy tay mẹ, nói tiếp :
– Ngày anh nằng nặc xin đi bay lại, con muốn ngăn cản một lời, mà không nói được, vì con chẳng có quyền hành gì. Con đã tủi thân khóc mất mấy đêm. Nếu con là vợ anh thật, thì con mới có quyền can thiệp vào cuộc đòi của anh. Những lúc anh đi Biên Hòa, nghĩ tới cái ngày mà phi cơ của anh bị rớt, lạc trong rừng mất ba ngày, lòng con cứ như chết sững. Nhưng rồi cũng quen đi, không còn lo ngại như lúc mới dầu. Nhưng nếu bắt con phải bỏ anh Dương….
Bà Phủ ngắt con :
– Nhưng còn Phượng.. Mẹ không muốn gia đình ta mang tiếng là những kẻ vô ơn, làm đau khổ cả những người ơn của mình…
Bàn tay Thư Hương lạnh ngắt đi như vừa được nhúng vào nước đá. Số phận của nàng, trời định doạt như thế rồi. Trời đã bắt nàng phải long đong, vất vả như thế này, thì nàng đành chịu. Mặt Thư Hương hằn lên những nét đau khổ. Bà Phủ thấy lòng minh nhói đau, thật thương cho con gái. Bà an ủi:
– Con quên đi… Sau vụ này con nên nghỉ ngơi một thời gian, rồi còn phải sửa soạn lấy chồng.
Thư Hương lắc đầu một cách dữ đội :
– Chẳng bao giờ con lấy chồng nữa.
Bà Phủ biết tính tình con gái. Khi Thư Hương mà nói như vậy, là nàng đã chán nản lắm rồi. Không chừng nàng sẽ bỏ thi cử, bỏ hết tất cả, và coi cuộc sống của những ngày sắp tới như một cuộc sống của kẻ khác.
Bà không lo Thư Hương tự tử như lần trước vì còn bé Hoàng, bắt nàng phải sống.
Nhưng với cái rầu rĩ, buồn đến thê thảm, thì sống như thế, nào khác gì đã chết.
Tiếng bé Hoàng khóc vang lên ở phòng Thư Hương. Thằng bé khỏe mạnh nên khóc thật lớn. Bà Phủ đập mạnh vào Thư Hương :
– Con nó khóc, chạy về với con đi…
Thư Hương giật mình, nói một câu vô nghĩa :
– Ừ, cháu khóc…
Rồi nàng đứng dậy, hấp tấp bước đi. Bà Phủ nhìn theo, lắc đầu thương hại, Bà cũng hờn giận mình, vì đã nóng nảy quá, không chờ để Tâm giải quyết câu chuyện này. Nhưng rồi bà nghĩ lại, thấy rằng, biết trước được ý nghĩ của Thư Hương, như vậy cũng hay. Bà sẽ kể cho Tâm nghe câu chuyện buổi tối hôm nay, để Tâm lựa chọn lời nói với Thư Hương những câu có tính cách quyết định. Thằng bé Hoàng vẫn khóc vang vang.
Bà ngồi dậy, đưa chân kiếm đôi dép, đi chậm chạp sang phòng con gái.
– Thằng cu sao mà khóc dai thế ?…
Thư Hương đứng ở bàn sữa, trả lời mẹ :
– Chờ pha sữa mà nó khóc thế đấy… Không hiểu rằng đói một ngày, thì nó khóc tới đâu…
– Sao con không cho nó bú ?
– Con lo một vài tháng nữa phải đi dạy học, nên cho cháu ăn sữa hộp. Lúc con ở trường, lấy ai cho nó bú.
– Nếu vậy con phải tập cho người làm pha sữa…
– Dạ con sẽ tập dần đần… Còn bây giờ, con chỉ sợ chị ấy làm dơ, rồi cháu đau bụng. Cái thằng chó ấy, coi vậy khó tính lắm đấy, mẹ ạ…
Đứa nhỏ đã làm cho hai mẹ con tạm quên câu chuyện buồn vừa rồi. Thấy đứa nhỏ khóc lâu quá, bà Phủ cũng thấy sốt ruột. Bà bồng thằng cu Hoàng lên. Thằng nhỏ nín khóc ngay, mắt nhìn bà ngoại, miệng nhóp nhép đòi ăn. Bà Phủ giục Thư Hương :
– Mau lên con mẹ ranh! Cháu bà đói quá rồi đây..
Thư Hương lắc chai sữa :
– Mẹ cứ để thằng chó khóc một hồi nữa cho khỏe, không sao đâu. Khóc nhiều càng nở phổi…
– Thôi đừng có ác nhân, ác đức như vậy. Nghe trẻ con khóc, nhất là khóc đói, ai mà chịu được.
Thằng bé được bồng lên, tưởng là được ăn, nhưng chờ mãi không thấy, sắp sửa ngoác cái mồm ra khóc nữa, Thư Hương cười, dơ tay đón lấy đứa con từ trên tay bà ngoại nó. Thằng nhỏ tham lam, bú đến lõm chiếc vú cao sú, nổi bọt chai sữa.
– Từ từ thôi chú bé, không sặc bây giờ…
Nàng ôm con, nhẹ vỗ vào lưng con… Nhìn cảnh ấy bà Phủ thấy lòng mình ấm áp hẳn lại. Có đứa con, đứa cháu như thế nay, thì người lớn cũng vui lây, quên đi được những cảnh khổ, lúc nào cũng như rình rập quanh mình. Bà Phủ ngồi xuống cạnh Thư Hương:
– Con cứ cho cháu bú… Còn lâu, con mới đi dạy học mà. Ít ra thì cũng phải sáu tháng nữa, thì lúc đó, thằng cu Hoàng cũng đã lớn, có cai sữa mẹ cũng đỡ thấy thương. Cho con bú, tình mẹ con mới thắm thiết, đứa con lúc lớn lên mới yêu mẹ nhiều hơn…
Thư Hương mỉm cười hỏi mẹ:
– Hồi tụi con còn bé, mẹ có cho tụi con bú khônơ ?
– Có chứ ! Chúng mầy là bú tí mẹ lâu nhất. Nhất là thằng Tâm. Đi học rồi mà còn nhớ tí. Cứ đi học về là chạy vào tranh tí mẹ với em. Mãi về sau, bị chế quá, anh Tâm của mầy mới bỏ được, nhưng cũng ngẩn ngơ mất mấy ngày…
Nhắc đến Tâm, bà Phủ thấy nhớ bâng khuâng. Cái thằng tệ đến thế thì thôi. Cả nửa tháng nay, từ ngày Thư Hương ở nhà hộ sinh về là Tâm mất mặt, không về thăm nhà. Cả Dương nữa.
Hình như hai đứa chúng nó bàn tính với nhau chuyện gì, nên trốn biệt. Những ngày đó, ông Phủ cũng về nhà một đôi lần, nựng cháu ngoại vài câu, hỏi “thằng Tâm đâu”, rồi lại đi. Hồi nầy hình như ông cũng bận rộn chuyện gì. Nhà lại chỉ có hai mẹ con và chị người làm. May là có thằng Hoàng, bận bịu với cháu ngoại suốt ngày, nên cũng không đến nỗi buồn như ngày trước. Nhưng những lúc nói một câu chuyện gì, như chuyện hôm nay, có nhắc tới Tâm thì bà lại nhớ con trai. Thư Hương hỏi :
– Anh Tâm có nói chuyện gì về con không ?
Bà Phủ mặt lộ vẻ buồn:
– Anh con định rằng sau khi con sinh nở độ một tháng sẽ nói về chuyện của con và Dương. Tâm nó cứ có mặc cảm là vì nó, mới xảy ra chuyện của con, để cho Phượng buồn. Mẹ chẳng biết làm gì cả. Nói chuyện này với con, mà mẹ cũng đã ngập ngừng rồi…
Câu chuyện tưởng qua đi, không ngờ lại được nhắc tới. Từ phòng của bà Phủ bây giờ sang phòng của Thư Hương.
Thằng bé Hoàng, bú no nê xong, nhả chai sữa ra, lại nhắm mắt ngủ ngon lành. Nàng thèm được sống vô tư như đứa nhỏ này, cứ bú no là ngủ, không thắc mắc về những chuyện đời biển đâu biến đổi. Nhè nhẹ, nàng đặt con vào trong nôi, buông chiếc mùng xanh lơ xưống, nhìn thật lâu vào chiếc miệng xinh xinh.
Trong giấc mơ, đứa nhỏ nhoẻn một nụ cười. Nàng ngồi xuống bên mẹ, âm thầm nhắc nhẹ :
– Hôm nay, đã được hơn hai mươi ngày…
Rồi nàng ngước mặt lên nhìn vào tấm lịch treo trên tường. Tấm lịch ấy, đã một thời kỳ nàng không xé. Thời kỳ ấy là thời sau khi cưới, nàng về ở tạm nhà Dương ở xóm nhỏ, cạnh đường tàu. Những ngày đó sống thật vui vẻ, êm đềm. Lúc trở lại căn phòng này nàng đã bóc hơn một trăm tờ lịch ấy, cất đi, nâng niu nó và coi nhự một kỷ niệm đẹp trong đời.
Nhiều lần, ngồi buồn, nàng đã ngồi đếm từng tờ lịch ấy, như đếm những tờ giấy hạnh phúc. Rồi nàng trịnh trọng cất đi. Bây giờ, cũng vẫn cuốn lịch ấy, nhưng mà tập lịch đã mỏng đi nhiều. Cứ một tờ lịch rụng xuống, báo hiệu một ngày qua đi là lại thêm một ngày nàng sắp sửa phải buông tay, để cho hạnh phúc của cuộc đời thành một cánh chim vỗ cánh bay đi.
Bà Phủ bảo Thư Hương :
– Mẹ về phòng ngủ đây…
– Dạ, mẹ về ngủ.
Bước chân của bà Phủ, chậm chạp bước ra cửa. Thư Hương cũng bật đèn ngủ, rồi tắt đèn lớn. Nàng biết rằng, bắt đầu từ hôm nay, nàng sẽ mất ngủ như những ngày vừa từ bệnh viện về. Thư Hương muốn vất bỏ hết tất cả những lo nghĩ, mặc cho tạo hóa đã an bài cuộc đời, nhưng khổ một nỗi là cuộc đời, thế là đã được an bài rồi.
Nàng thở dài… Rồi ít lâu nữa, gặp Phượng nhất là gặp Dương, nàng sẽ nói những câu chuyện gì đây? Người ngoài nhìn vào, thì hai người cũng đã một thời là vợ chồng. Họ làm sao hay được những điều bí ẩn bên trong. Thư Hương không được biết những đôi tình nhân cũ, đôi vợ chồng cũ, tình cờ gặp nhau có xảy ra một sự ngượng ngập gì không, chứ nàng, nếu sau khi ly dị với Dương, nàng không còn mặt mũi nào gặp Dương, gặp Phượng. Có lẽ nàng sẽ xin đi dạy học ở một tỉnh thật xa. Như là một tỉnh của vùng cao nguyên chẳng hạn.
Nhưng rồi, nàng tự biết sức chịu đựng của mình. Cả thể xác và tinh thần đều yếu đuối, nàng làm sao chịu nổi những ngày dài lê thê, buổi sáng, buổi chiều đều làm những công việc giống như ngày hôm qua, rồi ngày mai…lại sẽ tiếp tục như thế. Một chút kinh hoàng vừa chợt nổi. Nàng thảng thốt không dám nghĩ tiếp nữa. Rồi còn mẹ, còn con nàng. Thư Hương chẳng thể mang thằng cu Hoàng đi theo, vì đứa trẻ sơ sinh, đâu có thể chịu được thay đổi thời tiết một cách bất chợt. Mà để lại ở nhà cho bà ngoại nó, thì sự nhớ nhung sẽ dằn vặt mình đến héo hon.
Thư Hurơng vẫn mở lớn đôi mắt, nhìn lên trần nhà. Nàng nghĩ rằng, nàng vẫn chưa thể xa rời được mẹ. Trừ khi nào anh Tâm cưới vợ. Mà bắt được Tâm cưới vợ, thật là chuyện khó. Mẹ nàng đã nhắc chuyện vợ con với Tâm, nhưng Tâm đều kiếm cách nói lảng sang chuyện khác. Hình như việc cưới vợ, đối với Tâm là một công việc lạ lùng, ghê gớm. Đã nhiều lần, nàng giới thiệu với Tâm, những người bạn học cùng lớp, nhưng đều bị Tâm chê bai đủ thứ.
Cô nầy Tâm chê là vô duyên. Cô khác, Tâm chê nhõng nhẽo, là điệu, là nặng phần trình diễn. Nhiều đứa bạn đã trách móc Thư Hương rất nhiều về Tâm.
Nói chuyện với con gái, mà Tâm ít khi tỏ ra “ga-lăng” như tất cả những chàng đàn ông, con trai khác. Tâm đã hỏi thẳng một người bạn của Thư Hương : “Cô cân nặng bao nhiêu ký lô ?…Chắc phải sáu chục ký. Cứ cái đà bành trướng và phát triển như thế nầy, chắc là tôi phải gọi thợ tới, nới rộng thêm cái cửa, thì mới mời cô tới chơi nhà được “. Hay là “Cô nầy ốm thế, mỗi khi ra đường, thấy gió thổi mạnh, nhớ kiếm một cái gốc cây nào mà ôm đấy nhé” . Dùng những lời lẽ đó mà nói với con gái, nhất là những cô gái học sư phạm, lúc nào cũng nghiêm trang, nghĩ tới cái nghề nghiệp sau này, thì hỏi rằng ai mà không giận.
Bạn bè Thư Hương đã trách nàng nhiều, nhưng nhìn mặt chúng nó, đứa nào cũng có cảm tình với Tâm. Chỉ cần Tâm gật đầu một phát, là chúng nó bằng lòng ngay. Nhưng Tâm chẳng bao giờ chịu gật đầu. Chỉ có lắc đầu thì hơi kỹ…
Nàng nói thầm với mình :
– Chỉ còn có mười ngày nữa. Không hiểu anh Tâm sẽ nói những gì với mình đây…
Thì còn nói gì nữa… Chỉ cần nói về cái ơn của Phượng, của Dương đối với gia đình mình là cũng đủ nói hết rồi. Phản ứng của nàng lúc đó, không biết ra sao? Thản nhiên chịu đựng ? Khóc lóc âm thầm ? Dù cái phản ứng có dữ dội, ồn ào hay bình thản, lặng lẽ, thì cũng chẳng thể nào thay đổi được tình cảnh vốn dĩ đã định từ trước. Việc ly dị, sẽ xảy ra thật mau lẹ và chóng vánh. Anh Tâm sẽ mời anh Phạm, một người bạn thầy cãi đến nhà, đẩy tới ngồi trước mặt Thư Hương, rồi hạ một câu ra lệnh :
– Mày làm thủ tục cho Thư Hương nó bỏ thằng Dương. Càng mau càng tốt…
Anh Phạm chắc cũng sẽ trợn mắt ngạc nhiên, nhưng rồi sau vài ba câu trần tình, Phạm sẽ bắt tay vào việc. Cũng phải mất vài ba tháng, để tòa án hòa giải, nhưng với Phạm, thì công việc sẽ mau hơn. Phạm vốn tận tâm với bạn bè…
Anh Phạm, bạn của anh Tâm, là một chàng thày cãi, chuyên môn lo về các vụ ly thân ly dị. Thân chủ của ảnh, phần nhiều là những cô ca sĩ, đào cải lương…
Anh Tâm đã nhiều lần nói đùa rằng, “vợ chồng người ta không ăn nằm được với nhau, là vì cái mồm thằng Phạm “.
Với kiến thức chuyên môn nghề nghiệp, anh Phạm sẽ lo cho vụ ly dị của Thư Hương và Dương, dễ dàng và mau chóng như một giấc ngủ. Đã nhiều lần, Dương chỉ trích cái nghề của Phạm là cái nghề thất đức, không ngờ tới bây giờ, lại phải là thân chủ của Phạm.
Nghĩ tới đấy, Thư Hương mỉm cười lặng lẽ… Chắc rồi đây, anh Phạm sẽ tới nhà này, gặp Thư Hương, gặp Dương, hỏi vài ba chi tiết, thâu thập một ít giấy tờ cần thiết như tờ hôn thú của Thư Hương và Dương, tờ giấy khai sinh của cháu Hương, lá đơn xin ly dị, rồi bỏ vào chiếc cặp khóa “tách” một phát. Anh Phạm gọi chiếc cặp ấy, là túi càn khôn. “Miệng túi càn khôn thắt lại rồi”.
Anh Phạm giảng nghĩa rằng, “càn” và “khôn” cũng giống như uyên ương, như loan với phụng, như cầm với sắt, đều là nói về vợ chồng. Bởi vậy, cái cặp đầy nhóc những hồ sơ, xin ly dị nhau, có thể gọi là túi càn khôn được lắm. Thư Hương lại thở dài vì nghĩ tới lúc xúm nhau lại, bàn tính việc đặt tên cho cháu Hoàng. Đặt tên đứa nhỏ là Hoàng, cũng là Phượng. Thư Hương gọi thầm vào bóng tối. Phượng Hoàng! Phượng Hoàng!…
Ôi, những kỷ niệm thật êm đềm, qua đi như một giấc mơ hay một câu chuyện cổ tích, có hoàng tử, công chúa, có Hằng Nga ngủ trong rừng. Ánh đèn xanh mờ, làm căn phòng của nàng thêm hiu hắt. Có một điều lạ là chẳng bao giờ nàng nhớ đến Hoạt, chàng trai thứ nhứt của đời nàng, đã phá nát cả cuộc đời nàng, đã một lần làm cho nàng phải đi tìm lối thoát về bên kia thế giới.
Nàng chắc rằng ngày đó, chưa phải là tình yêu. Đó chỉ là một thứ tình trai gái, cần thiết cho một người con gái, vừa lớn lên mà lại bị cấm cung như nàng. Không thể so sánh với tình của nàng và Dương bây giờ. Nghĩ tới đó, nàng lại thương cho Phượng và thương cho cả chính thân mình. Như một cọng rơm, trôi xuôi theo giòng nước lũ. Như một con ngựa đi vào ngõ hẹp, khó lòng mà quay đầu lại. Đành buông xuôi cho số phận, mặc cho giòng đời, nào biết trôi cuốn về đâu…
Nàng khắc khoải chờ cho hết kỳ hạn của Tâm. Chỉ còn mười ngày nữa. Nàng muốn cho mười ngày này cứ kéo đài ra, kéo dài mãi tới bất tận. Nhưng làm sao mà cưỡng lại được với thời gian, vì một ngày, chỉ là hai lần sáng tối. Thư Hương gục mặt xuống gối, và nước mắt nàng trào ra…
Tâm hẹn một tháng, sau khi Thư Hương sinh nở sẽ giải quyết chuyện về Thư Hương, về Dương, về Phưọng. Nhưng Tâm lỗi hẹn mất rồi.
Chưa tới thời hạn một tháng, Tâm đã bay một Phi vụ cuối cùng. Sổ hoạt động hàng ngày của đài kiểm soát phi trường, chỉ ghi giờ cất cánh, mà không ghi giờ hạ cánh…
Buổi sáng hôm đó, cũng như mọi lần, Tâm và Dương lại ngồi trên bực thềm, trước cửa Phòng Hành Quân, nhìn ra sân đậu phi cơ. Phía xa, nơi đầu phi đạo, từng chiếc phi cơ cất cánh và hạ cánh.
Người Trung sĩ Bưu tín viên của Không đoàn, vẫn làm phận sự của mỗi buổi sáng, bỏ từng lá thư vào ngăn của mỗi người. Hộc thư của Tâm và Dương, chỉ có được một lá thư lần đó thôi, và bắt đầu từ đó, vẫn trống hoác như chiếc mồm ông lão đã rụng hết răng. Khi người Trung sĩ đi ngang qua, Tâm nói đùa một câu :
– Hôm nay, thấy ông có vẻ mệt mỏi. Chắc đêm qua lại làm ăn nhiều quá chứ gì ?…
Người Trung sĩ lắc đầu:
– Đâu có ! Già rồi mà, Trung úy !…
– Thế cái gì làm cho ông mệt mỏi ?…
– Chạy gạo!… Trung úy tính coi, mười miệng ăn với số lương như thế này…
Rồi người Trung sĩ cắp cặp đi. An thi sĩ từ trong phòng Hành Quân đi ra, mặt hớn hở nhìn vào hộc thư, rồi lôi ra một bao thư dày cộm. Tâm và Dương vốn ghét cái mặt hớn hở của nó, khi nhận được thư người yêu. Nhưng An thi sĩ không đọc ngay, lại bỏ vào túi. Đó là một chuyện lạ. An thi sĩ quay sang Tâm :
– Đi vào nhận lệnh. Tao với mầy sửa soạn lên đường…
Tâm và An vội vã vào phòng nhận lệnh rồi mang dù và nón, leo lên phi cơ. Dương nhìn theo hai chiếc phi cơ bò đi chầm chậm trên đường vận chuyển. Chàng thấy Tâm và An cất cánh thật vội vã, gần như cùng một lúc. Còn lại một mình nơi đây, Dương cũng buồn, nên xuống Câu Lạc Bộ ăn sáng…
Nhưng buổi trưa, chỉ có một mình An về. Cả Phi Đoàn như náo loạn hẳn lên. Dương điên cuồng chạy tới chạy lui… An thi sĩ chỉ nói được vài câu rồi nước mắt chảy ra đầy mặt. Dương nhảy lên chiếc phi cơ trực thăng, đi kiếm xác Tâm. Tuy rằng xúc động và mệt mỏi, An cũng nhất định đi theo, để chỉ chỗ cho chính xác. Buổi xế trưa hôm đó, xác Tâm được đưa về.
Chiếc băng-ca đặt xác Tâm, trên phủ chiếc khăn trắng được đặt nằm trong nhà xác. Dương ngồi bên cạnh lặng đi, không khóc được. Trái tim như bị ai bóp nát. Cả Phi Đoàn, ngày hôm đó như chết hẳn hoạt động, để chịu tang cho Tâm. Tất cả bạn bè, người nào cũng tới, lật mặt Tâm lên, để nhìn người bạn mình lần chót, mặt Tâm đã lau sạch vết máu, đôi môi như vẫn mỉm cười… .
Dương bất động, gục đầu lặng lẽ. Chàng có cảm tưởng là bây giờ, chàng mà gào lên được, la lên được, chắc là sự đau thương sẽ giảm đi nhiều. Rồi tới lúc Hậu và Luận tới, thì nỗi đau đớn đã lên tới cùng cực. Chàng nắm chặt lấy tay Hậu:
– Sao nó lại chết ?… Tại sao những thằng khốn nạn, những thằng không đáng sống chút nào, thì vẫn sống, mà những thằng như nó lại chết ? mầy trả lời tao đi, Hậu ?…
– Đã ai báo tin về nhà chưa ?..
– Tao không có can đảm làm việc đó…
– Mày tưởng tao có can đảm làm việc đó hay sao ?… Cả mầy, tao, thằng Luận, thằng An, bất cứ một thằng nào ở đây chẳng ai có can đảm làm việc đó. Đành phải để anh Tư, làm sao đó thì làm…
Dương nuốt những giọt nước mắt cho trôi xuống cổ họng :
– Còn chúng mình phải làm gì bây giờ ?…
Luận bàn góp :
– Đi uống rượu… Chỉ còn có một việc là đi uống rượu…
Hậu nói thêm :
– Mày cũng nên đi ra ngoài một chút. Ngồi mãi trong phòng này, có hại nhiều lắm…
Dương nhìn thật lâu vào chiếc bàn đá, trên đó, Tâm đang nằm bất động. Căn nhà xác choáng ngộp một màu trắng. Nhiều người bạn của Dương, của Hậu, của Luận đã được đưa về nằm ở đây. Bao giờ tới lượt mình ?… Dương thì thầm tự hỏi như vậy.
Tâm ơi, mầy chỉ đi trước anh em. Rồi tất cả những thằng đứng quanh mầy đây, sẽ nối gót theo mầy đi về thênh thang, có nhiều hoa và trăng sao. Dương gọi “Tâm ơi” để cho nước mẳt được tự do trào ra, rơi từng giọt xuống chiếc khăn trắng phủ người Tâm. Giọt nước mắt, thấm vào vải, loang dần và mờ nhạt. Chàng muốn gào lên, kể lể những kỷ niệm xưa, may ra cái đau đớn đang nặng chĩu trong lòng vơi đi được chút nào chăng…
Luận kéo tay Dương:
– Đi thôi mầy !…
Dương nghẹn ngào :
– Tao không nỡ để nó nằm một mình… Rồi vài ngày nữa, người ta sẽ chôn nó xuống đất. Dưới đó, chắc lạnh lắm. Hơn nữa, lúc đó nó cô đơn. Bây giờ nó còn nằm đây, tao muốn ngồi mãi bên cạnh nó để cho nó vui… Biết đâu, nó chỉ đùa chơi với chúng mình. Lát nữa đây, nó sẽ ngồi dậy, bật lên tiếng cười…
Nghe Dương nói, Hậu và Luận cùng lạnh người. Bây giờ, đang là ban ngày. Khu nhà xác, ít người qua lại. Có người kể rằng, đã bị một ông phi công chặn đường lại “xin tí lửa”… Người này, móc chiếc quẹt máy trong túi quần, vừa bật lên để có được ngọn lửa, thì không thấy anh chàng đâu nữa. Câu chuyện có vẻ hoang dường, huyền hoặc, nhưng cũng đủ để cho khu “tử sĩ đường” này thành một nơi âm u, vắng vẻ vào lúc ban đêm.
– Tao sẽ ở đây suốt đêm nay…
– Đồng ý, nhưng bây giờ hãy đi uống rượu. Khi có một nỗi “sầu vạn cổ” thì không có gì quên mau bằng rượu…
Dương phải nghe lời Hậu và Luận. Đầu chàng cúi thấp, bước đi chậm rãi, dẫm lên xác những lá cây nằm rải rác trên lối đi. Bước chân như chĩu nặng. Ba người không nói một câu nào, trên con đường từ đây tới Câu Lạc Bộ. Đường đi không xa, nhưng mấp mô sỏi đá. Bước từng bước thấp, bước cao, Dương, Hậu và Luận thất thểu đi dọc theo bức tường ngăn cách khu Gia Binh và Căn Cứ.
Đầu đường là một trường học. Ba người bắt gặp những đôi mắt thơ ngây của những đứa nhỏ. Trong số đó, chắc có những đứa mất cha, mồ côi cha từ lúc còn nhỏ. Cuộc chiến tàn khốc này, còn kéo dài cho tới bao giờ ?… Chung quanh ngôi trường, được rào bằng giây kẽm gai, bao quanh ngôi trường, như nhốt vào đó tuổi ấu thơ, thật không còn gì đau xót cho bằng. Ngậm ngùi mà bước đi qua đó.
Tiếng reo cười vẫn đuổi theo, nhưng tiếng reo cười chim non ấy, lẫn vào tiếng phi cơ cất cánh từ đầu phi đạo. Có tiếng nổ thật lớn ở xa. Người ta đang phá hủy kho bom hư hỏng.
Giờ này, Câu Lạc Bộ vắng người, chiếc bàn mà mọi người thường ngồi vẫn trống. Dương bùi ngùi, vỗ vào thành một chiếc ghế :
– Thì bây giờ cứ để dành chiếc ghế này cho nó.
Hậu gọi mấy chai bia lạnh… Chỗ ngồi của Tâm ở đây, nhìn ra chiếc sân sau của Câu Lạc Bộ, có những cây cao su xanh mướt lá, có một khoảng trời xanh nhỏ với vài ba đám mây trắng nằm chết sững trên nền trời. Thỉnh thoảng, một cơn gió nổi, lá cây cao su lại ào ào rụng xuống, lãng đãng bay bay. Dương âm thầm nhớ câu thơ cổ: “Vèo trông lá rụng đầy sân, công danh phù thế có ngần đó thôi”. Người xưa đã gọi cuộc đời này là trôi nổi. Hai chữ “phù thế” là ý nghĩa ấy. Hậu nói :
– Nếu mà nửa tháng nữa, thằng Tâm hãy chết thì hơn…
– Nó đã được đề nghị lên Đại úy kỳ này… Chừng một tuần lễ nữa có lon về. Sau đó, nó mà chết, sẽ được vinh thăng lên cố Thiếu Tá. Bây giờ chỉ là cố Đại úy…
Dương chán nản :
– Nhưng rồi thằng Tâm có mang theo được những thứ đó đi cùng với nó vào trong đất lạnh hay không ?… Thằng Hậu chỉ thích nói những chuyện lẩm cẩm…
Nhưng rồi Dương thầm nghĩ tới cái chết của Tâm, nếu xảy ra chậm nửa tháng. Không phải là ý nghĩ “cố Thiếu Tá” như Hậu nghĩ. Chàng nghĩ tới chuyện của chàng và Phượng, để rồi chợt thấy bàng hoàng. Tuy rằng chưa được biết cái đau đớn của mẹ Tâm, nhưng chàng biết rằng nỗi đau ấy không thể có gì so sánh.
Chiếc lá xanh đã rụng trước chiếc lá vàng. Chàng nói với cô bán hàng, cho thêm một chai và một cái ly nữa. Chàng rót ra đầy ly :
– Chai nầy của mầy đó, Tâm! Uống đi !…
Hậu bật lên khóc… Hậu đã cố nén nhiều lắm rồi đấy.Chàng đứng dậy, nói như mê sảng :
– Cấm chúng mày khóc. Không thằng nào được khóc. Chỉ có một mình tao khóc thôi.
Người chủ Câu Lạc Bộ đã ra đứng ở cạnh đấy.
Mặt anh ta cũng thật buồn. Anh nói nhỏ :
– Tôi sẽ cất chiếc ghế nầy đi. Chiếc ghế nầy của Trung úy Tâm, chỉ có một mình Trung úy Tâm được ngồi. Nay Trung úy Tâm đã đi rồi, thì không ai được phép ngồi lên nữa…
Dương bùi ngùi:
– Xin cám ơn anh… Xin thay anh Tâm, cám ơn anh !…
Hậu đã ngồi xuống ghế, nhìn mông lung vào khoảng trống trước mặt. Như ở cách chỗ này thật gần, thật xa, hình dáng của Tâm như mờ, như rõ rệt qua màng nước mắt. Hậu than thở :
– Bây giờ ở nhà thằng Tâm, chỉ còn có một mình thằng Dương là con trai thôi…
Câu nói của Hậu chỉ ngắn ngủi có thế mà làm cho Dương bàng hoàng.
Chàng bắt đầu thấy nôn nao. Nếu vài ngày nữa có chuyện ly dị giữa chàng với Thư Hương, lũ bạn bè của chàng sẽ xúm lại sỉ vả chàng, và có lẽ không quên nhắc lại cái chết của Tâm ngày hôm nay. Hơn nữa, mẹ Tâm, người đàn bà mà chàng kính yêu như mẹ, liệu có thể chịu đựng được hai nỗi buồn vĩ đại tới cùng một lúc. Cái chết của con trai, và cuộc tình duyên dang dở của con gái.
Chàng uống một hơi cạn sạch ly bia mà như uống vào trong người một chút đắng cay. Chàng gọi ba chai khác… Cơn bão tố ngấm ngầm trong người chàng đang làm đảo lộn đầu óc. Chàng nhìn Hậu, nhìn Luận, muốn mang chuyện của mình ra tâm sự. Nhưng chàng lại e ngại rằng xác Tâm nóng hổi còn nằm đó, nói chuyện về mình mà có dính líu tới gia đình Tâm, thật có lỗi với bạn. Tay chàng cầm ly bia sủi bọt run run như chiếc lá khi gặp gió. Rồi chàng uống hết…
Trong phút đau buồn nhất đời này, Dương chợt nhớ tới thầy Mẫn Tử của truyện Nhị thập tứ hiếu. ” Nếu cha đuổi dì con đi, thì ba anh em đều khổ. Nếu đừng đuổi dì đi, thì chỉ có một mình con khổ mà thôi ” Chàng muốn đổi câu ấy đi, để cho hợp tình hợp cảnh của chàng lúc nầy. Nếu chàng bỏ Thư Hương ?… Thì chỉ một người sung sướng hưởng hạnh phúc, đó là Phượng. Còn thì những người khác đều khổ.
Thư Hương, với bao nhiêu đau khổ chồng chất, với thân xác yếu đuối dường ấy, lại làm một cái nghề bạc bẽo nhất thiên hạ là nghề dạy học sợ rằng Thư Hương sẽ quỵ ngã giữa đường. Còn bà Phủ nữa. Vừa mất một đứa con yêu bà quí còn hơn vàng, hơn bạc, lại mất thêm một chàng rể, cộng thêm sự sầu đau của con gái. Tuổi già, tưởng rằng như thế là quá với sức chịu đựng rồi. Lại còn bố Tâm, một bậc khoa bảng khả kính, mà mỗi lần nói chuyện, chàng có cảm tưởng như một đứa trẻ, đứng dưới chân tượng khổng lồ. Chắc ông cũng sẽ buồn, sẽ khổ.
Trong lòng chàng, thoáng một chút bâng khuâng. Nỗi đau khổ của Phượng, dù cho có to lớn, vĩ đại tới đâu, cũng không thể so sánh được với cái đau khổ của cả ba người. Bốn người mới phải chứ. Chàng quên, chưa tính đến thằng bé Hoàng. Rồi đây, khi lớn lên, nó đâu có biết những chuyện gì đã xảy ra cho mẹ nó. Chỉ biết rằng trong giấy khai sinh, có tên chàng là cha nó, để cho nó oán hận. Nếu chàng ở lại với Thư Hương, thằng Hoàng sẽ có cả cha lẫn mẹ, rồi nối tiếp theo chắc cũng có một lũ em để vui đùa. Nghĩ tới đấy, chàng thở dài…
Một bàn tay đặt lên vai chàng. Dương ngước mặt nhìn lên, rồi vội đứng dậy:
– Thiếu Tá !.. Xin mời Thiếu Tá ngồi đây…
Một giọng nói dịu dàng, bên tai Dương:
– Dương cứ ngồi xuống đi. Uống hết chai này rồi về với Tâm. Hình như vợ Dương và bà cụ mới lên rồi đấy
Dương ngạc nhiên :
– Ai báo tin mà ở nhà biết sớm quá vậy, Thiếu Tá ?
– Người đi báo tin là An… Rồi An đưa bà cụ và vợ Dương lên thẳng đây. Tôi chờ bà cụ nhìn mặt Tâm lần cuối, rồi mới cho khâm liệm. Dương nên về để coi chừng bà cụ…
Hai tay Dương ôm lấy đầu. Chàng muốn bứt từ đầu chàng ra từng sợi tóc để cái đau ấy làm cho chàng tỉnh táo. Anh Tư vẫn đặt hai bàn tay lên vai Dương đứng đằng sau lưng ghế bất động. Một lúc sau, Dương ngẩng đầu lên:
– Xin cám ơn anh !…
Bàn tay vỗ nhè nhẹ trên vai Dương :
– Hình như những tiếng cám ơn và xin lỗi, chúng mình đã đồng ý với nhau là xóa bỏ nó đi trong tự điển. Dương đưa linh cửu của Tâm về Saigon. Rồi Dương ở lại lo việc nhà, an ủi bà cụ và chị. Lúc nào thấy công việc gia đình có vẻ êm xuôi thì lên…. Tôi bằng lòng để Dương muốn nghỉ bao nhiêu ngày cũng được.
Bàn tay rời khỏi vai Dương. Nhưng hình như anh Tư chưa rời khỏi lưng ghế. Tiếng nói của anh vẫn trầm trầm :
– Dương hỏi dùm bà cụ về chuyện đất. Ý kiến của cụ là lấy đất ở Mạc Đĩnh Chi hay Bắc Việt Nghĩa Trang ?… Tôi sẽ đi lo ngay bây giờ…
Dương ngập ngừng:
– Xin anh cho ở Bắc Việt Nghĩa Trang, ở đó, Tâm có nhiều bạn…
– Nếu ở đấy thì xong ngay.
Dương nghe thấy bước chân đi ra khỏi Câu Lạc Bộ. Rồi tiếng động cơ xe jeep, và tiếng bánh xe lăn đi trên con đường đầy đá dăm lạo xạo… Hậu và Hằng vẫn còn ngồi trước mặt Tâm, mặt hằn lên những chán chường, mệt mỏi. Chàng hỏi :
– Chúng mầy ngồi đây?…
– Không, chúng tao cùng đi với mầy !..
Dương gõ chiếc ly vào chai, rồi chỉ vào chiếc bàn đầy vỏ chai, rồi chỉ vào mình. Người con gái ngồi trong quày hàng uể oải gật đầu. Những bước chân đi ra ngoài nắng. Một cơn gió thổi, lá cây cao su reo lên ào ào. Vài chiếc lá bay là đà. Ba người đi tắt, băng về nơi mà Tâm đang nằm yên nghỉ. Lòng ba người thật tê tái, đến phải cúi đầu mà đi…
Khi trở về tói cổng bệnh xá, Dương đã thấy những tiếng khóc vang lên từ nhà xác. Chàng muốn bước nhanh tới nơi, và cũng muốn đi chậm lại, để không phải sớm chứng kiến những cảnh não lòng. Nhưng dù chậm, dù nhanh, thì cái màu trắng toát cũng đã trùm lên chàng, để cho chàng ngộp trong tiếng động thê lương.
– Mẹ khổ quá, Dương ơi!
Bà Phủ ngã vào Dương. Chàng quài tay đỡ lấy bà mà thấy cái thân thể già nua ấy, như không còn sức lực. Qua đôi mắt đẫm nước mắt, chàng nhìn thấy Thư Hương và cô gái, người yêu của An, đang sụt sùi ở một góc nhà. Chàng gọi :
– Thư Hương, đi kiếm cho mẹ chiếc ghế…
Tiếng “mẹ” từ miệng chàng thốt ra thật tự nhiên, thật ấm. Bao nhiêu năm nay rồi chàng mới được gọi một tiếng mẹ.
Chàng dìu bà Phủ ngồi lên ghế, rồi bảo Thư Hương và cô gái ngồi hai bên để đỡ cho bà Phủ. Lúc này thì Tâm đã được khâm liệm. Chiếc quan tài, bên trên phủ lá cờ, có hình của Tâm đang cười…
Chàng thì thầm :
– Tao sẽ đưa mày đi…
Bà Phủ ngồi rũ xuống, khóc nức nở… Dương biết rằng, những tiếng khóc ấy là những tiếng khóc đau đớn nhất. Chàng thấy những người đàn bà khóc kể lể, khóc gào lên, tuy rằng cũng đau đớn nhiều đấy nhưng không bằng được những tiếng nức nở âm thầm. Tiếng khóc như bóp nghẹt tim Dương. Chàng hít vào và thở ra những hơi thật dài. Hàm răng cắn vào môi gần bật máu.
Tiếng động cơ xe hơi ngừng trước cửa. Tiếng chân người nhảy từ trên xe xuống và tiếng hô vang dội. Người chỉ huy toán dàn chào, cũng là bạn của Tâm và Dương, đứng nghiêm chào trước quan tài Tâm. Điệu kèn bi ai, não nuột nổi lên làm cho Dương bật khóc… Chàng đứng lặng đi như một người chết sững. Mấy người lính khiêng quan tài của Tâm đặt lên xe. Bà Phủ, Dương, Thư Hương, An, Hậu, Luận và người con gái tên Chi đi theo sau.
Chưa có lấy một vành khăn tang, Tâm ơi, tuy rằng theo sau mầy, không có một người con gái nào là người yêu của mầy tới tiễn đưa mầy, nhưng cần gì những cái đó. Mẹ đó, em gái đó, bạn hữu đó… Thế là đủ quá rồi còn gì. Dương vịn tay vào quan tài, khiêng phụ với mấy người lính. Cả An, Hậu và Luận cũng đưa tay vào để cho Tâm được nằm yên trong một khoảng không gian chật hẹp mà cũng bao la, rộng lớn, vô cùng…
Hai người con gái đỡ hai bên bà Phủ. Đôi chân già như không còn đủ sức đứng vững. Chiếc lá vàng kia như dính lắt lẻo trên cành, chỉ cần một cơn gió nhẹ là rụng. Không có cảnh nào thê thảm bằng chiếc lá vàng phải khóc những chiếc lá còn xanh. Nước mắt Dương nhỏ xuống lá cờ phủ trên quan tài. Một giọt rồi một giọt rơi xuống như những vì sao lạc hiện lên bầu trời ảm đạm màu vàng. Ôi cuộc đời sao mà ngắn ngủi ? Mới buổi sáng nay tiếng cười của Tâm còn vẳng lên trong nắng sớm, mà bây giờ đã nằm im bất động. Biết đâu, trong lúc này, Tâm vẫn đứng ở quanh quất đâu đây, buông ra những tràng cười ngạo nghễ, sang sảng như mảnh thủy tinh vụn cứa vào da thịt. Chiếc quan tài đi qua hai hàng người đứng dàn chào. Dương nhìn thấy những khuôn mặt bùi ngùi của những người lính. Ở đây, mọi người đều quen biết nhau, đối đãi với nhau bằng thứ tình ruột thịt.
Nắng đã gần ngã sang màu vàng. Cơn gió lốc thổi tung cát bụi, mịt mù ngoài sân bệnh viện.
Dương thấy nhiều người đứng dưới nắng. Những khuôn mặt quen thuộc nặng chĩu ưu tư và sầu muộn… Tâm ơi, mầy chưa chết đâu! Mày chỉ đi trước chúng tao thôi. Nơi phương trời ấy, chắc mầy đã gặp nhiều bạn bè ?…
Toán dàn chào bước lên xe theo hàng một, ngồi hai bên thành xe, mũi súng ngước lên trời và chiếc xe lăn bánh chầm chậm đi ra phía cổng bệnh viện.
Dương đưa bà Phủ về xe của An, chạy dẫn đầu đi ra ngoài thành phố. Một đoàn xe nối đuôi đưa tiễn Tâm về nơi thanh thản. Chỉ nghe thấy tiếng động cơ xe và tiếng bánh xe lăn đi chầm chậm.
Tâm được đưa về một ngôi chùa, khi tiếng chuông thu không vừa điểm, rền rĩ từng tiếng ngân đài. Ông Phủ đã ngồi đó chờ, lặng đi không nói một lời. Dương thấy ông tháo kiếng trắng xuống lau hai ba lần.
Ông đứng dậy, thắp vài nén hương, cắm lên bàn thờ Phật, và cắm lên chiếc quan tài của Tâm. Khuôn mặt quắc thước ấy như phảng phất một lớp sương mù, mỗi lần có tiếng thở dài, thì lại lung linh mờ nhạt…
Dương ngồi xuống cạnh ông:
– Con đã đưa Tâm về…
– Ừ!…Bố định lên trên đó, nhìn mặt nó, nhưng bố lại không có can đảm. Nếu mà bố lên đó, không chừng bố sẽ mắng cho nó vài câu… Cái thằng tệ quá. Đáng lẽ nó phải chờ bố đi trước. Ấy thế mà nó lại đi…
Câu nói của ông thật bình thản, nhưng thấm thía gấp ngàn lần những lời giảng về triết lý sắc, Dương không ngờ ông đã bình thản tới mức đó. Đứa con trai duy nhứt của ông chết đi, vèo như một chiếc lá rụng.
Tiếng khánh, tiếng mõ của vị sư già nổi lên trong khói hương trầm thơm ngát. Hoàng hôn bắt đầu phủ lên ngọn tháp chuông và những hàng cây mọc theo hai bên đưòng đất đầy sỏi đá.
Dương và An rủ nhau ra ngoài hiên, đứng nhìn ra không gian đang đổi sang màu tím, trùm lên phía trước mặt ngôi chùa, đầy những ngôi mộ chập chùng. Đứng ở đây, chàng thấy suốt một dọc nghĩa trang. Ngay lối vào kia là nơi yên nghỉ của Long. Và vào sâu trong kia là Mai Lâm, là Khánh… Một chiếc phi cơ bay ngang, ánh đèn lập lòe chớp tắt và xa xa có tiếng súng nổ vu vơ. Dương hỏi An :
– Câu nói cuối cùng của Tâm là câu gì ?
– Chỉ là những câu “in” và “out” thông thường. Không có điềm gì báo trước. Tao chỉ thấy tàu bay của nó chợt đảo dữ đội rồi cố lết lên, bò trên những ngọn cây. Tao nhào xuống cố theo nhưng rồi đầu nó cúi xuống, và bụi cát tung mù. Phút cuối của khúc phim từ biệt chỉ có vậy…
Hai người im lặng, nghe tiếng tụng kinh và tiếng mõ vang ra từ trong chùa, hòa với tiếng côn trùng rên rỉ, bắt đầu tấu lên những khúc nhạc đêm. Vùng thành phố rực ánh đèn. An ngồi tựa lưng vào một chiếc cột, vẫn còn hừng hực hơi nóng ban ngày. Khuôn mặt chỉ sáng lên mỗi lần ánh đỏ thuốc lá lập lòe. Bạn bè ở chung quanh, cứ dần dần ra đi gần hết.
Bao giờ tới lượt tao, tới lượt mày hả Dương ? Những lúc như thế này đây, là những lúc chán nản tới quá sức rồi… Viên đạn bay đi thật ngọt, thật êm. Giòng máu nóng hổi chảy ra thấm qua lần áo, thấm xuống đất để cho khoảng đất ấy nở hoa. Những bông hoa ấy mọc lên, sẽ thành những bông hoa dại không được đặt tên, nhưng bao giờ cũng là những bông hoa đẹp nhưng mong manh. Sớm nở đấy mà tối tàn ngay đấy… An nói như với chính mình :
– Không thể cưới vợ đựợc.
– Tại sao vậy ?…
– Không thể làm khổ lây tới người khác. Mày cứ thấy trường hợp thằng Tâm. Những giọt nước mắt già đã làm tao đau đớn. Cũng may là theo sau lưng nó, không có một người thiếu phụ góa bụa, và vài ba đứa trẻ đầu chít khăn tang. Mày thì không hiểu sao, chứ tao nhìn người góa phụ trẻ, lòng tao thật xót xa…
– Ai mà không như thế….
– Chiến tranh thật là phi lý.
Dương trầm ngâm:
– Trước mầy, đã có nhiều người nói tới cái phi lý của chiến tranh. Mày kém tao và thằng Tâm năm tuổi, nhưng coi chừng, mầy già trước chúng tao. Cái đáng suy nghĩ để mà sống là đừng suy nghĩ gì cả…
An ném mẩu thuốc lá đi thật xa. Cánh tay vung lên với những uất ức, phẫn nộ. Từ lúc sinh ra đời cho tới bây giờ, chẳng bao giờ được hưởng lấy một ngày, một tháng, một năm hòa bình.
Sinh ra trong chiến tranh. Lớn lên trong chiến tranh. Rồi trưởng thành nhờ chiến tranh. An rút một điếu thuốc khác, và ánh lửa bùng lên, soi rõ một khuôn mặt khắc khổ, đầy nét tượng đá. Sương đã bắt đầu xuống, nhưng vẫn chưa làm ướt đất. Trời đầy những vì sao. Mặt trăng không biết đã mọc lên bao giờ treo lơ lửng trên nền trời, in hình ngôi tháp chuông, đè lên những luống hoa, luống cỏ.
Tiếng tụng kinh vẫn đều đặn. Chỉ một hai ngày nữa, xác Tâm sẽ vùi xuống khoảng đất trước mặt kia. Chỉ có vài bước chân để mà xa cách ngàn trùng. Chất cay lại tràn lên mắt Dương.
– Anh cho em về!
– Anh sẽ đi bộ với em hết con đường kia. Ra khỏi con đường đất này, đã là thành phố. Em sẽ đi tắc-xi về nhà. Còn anh và anh Dương ở lại đây với Tâm suốt đêm nay.
Những câu đối thoại ấy thoảng qua tai Dương, như vọng từ một thế giới nào khác. Chàng lơ đãng nhìn ra những cây ngô đồng trơ trụi lá. Chàng không để ý đến cả câu chào từ biệt của người con gái trẻ. Rồi khi hai bóng người ấy bước ra ngoài ánh trăng, chàng mới giật mình, chợt thấy rằng mình có lỗi. Chàng nói theo :
– Mai nhớ trở lại…
– Dạ, mai em trở lại…
Người con gái và An đi ra khỏi cổng chùa, lẫn vào những bóng cây tối thầm. Dương ngồi vào chỗ của An hồi nãy, tựa lưng vào tường, hút thuốc lá liên miên. Hồi nãy, trước khi tới đây, biết rằng đêm nay sẽ không ngủ được, chàng đã mua thêm hai gói thuốc lá. Chàng muốn thay khói hương trầm tỏa ngát trong kia, bằng khói thuốc lá, để cho Tâm cùng hưởng với mình.
Chàng ngắm gói thuốc Lucky, để rồi nhớ tới Tâm. Mày vẫn cho rằng, bỏ gói thuốc mang tên Lucky vào túi,, là đã mang được vào trong người cái may mắn, mà mầy chẳng may mắn một chút nào. Dương thì thầm nói vào bóng đêm. Một tiếng hỏi sát cạnh Dương:
– Anh An về rồi sao anh ?
Chàng giật mình nhìn lên thì thấy Thư Hương. Chàng thu gọn đôi chân lại:
– Nó sẽ trở lại ngay. Nó chỉ đưa cô Chi tới đầu đường, rồi lại về đây, ở đây suốt đêm nay…
Thư Hương lúng túng như muốn tìm một chỗ ngồi. Thấy vậy, Dương đi vào trong chùa, lấy ra hai chiếc ghế. Chàng mang hai chiếc ghế ra phía đầu nhà, nơi bờ tường thấp, có nhiều ánh trăng nhất, rồi mời Thư Hương :
– Thư Hương ngồi đây…
Hai người ngồi song song với nhau, đối điện với mặt trăng sáng vằng vặc đã lên tới xế đỉnh trời. Khuôn mặt Thư Hương đẫm ánh trăng, như nhuộm lên làn da một màu trắng xanh, huyền ảo. Đôi mắt như mỏi mệt lắm, sụp xuống để cho đôi mi chĩu nặng, che khuất cả một quầng tối. Dương hỏi :
– Thư Hương để con ở nhà một mình sao ?
– Có chị người làm ở nhà rồi. Mấy lúc về sau này, em đã giao cho chị ấy trông con. Em thấy chị ấy có vẻ yêu thằng bé lắm, nên cũng yên chí.
Ngừng một chút, Thư Hương kể lể :
– Lúc được anh An về báo tin, mẹ và em như chết sửng. Mẹ không khóc lên được, làm cho em sợ quá. Em cứ phải dục mẹ khóc đi. Em lại càng nóng ruột, khi anh An dục em là phải lên ngay, vì anh An nói là chính tình trạng của anh mới đáng lo ngại.
Nói tới đây, nàng ngập ngừng…
Tuy rằng nàng là vợ Dương nhưng nàng đâu có quyền gì lo ngại cho Dương, nhưng nàng nghe thấy tiếng Dương nói thật nồng ấm:
– Anh cảm em, Thư Hương …
Một đôi vợ chồng trẻ ngồi dưới ánh trăng, ở một nơi yên tĩnh như thế này, tưởng rằng thơ mộng lắm. Nhưng cả hai đều ngượng ngùng. Dương và Thư Hương đều cùng có một ý nghĩ, là mặc kệ cho câu chuyện của mình qua đi, rồi lâu lâu, sẽ quen đi. Nhưng cả hai đều muốn dứt khoát. Thư Hương hỏi trước:
– Hình như anh có nhờ anh Tâm nói với em về câu chuyện của chúng mình ?
Dương tự nhủ thầm là cô bé đã bắt đầu vào chuyện rồi đây. Cái khôn khéo của cô bé là kéo Tâm vào câu chuyện. Chàng lơ đãng gật đầu.:
– Quả là có thật. Nhưng bây giờ Tâm nó chết rồi, thì câu chuyện của chúng mình không cần nói nữa.
Thư Hương quay mặt sang, đăm đăm nhìn Dương. Nàng muốn hỏi lại, để cho Dương nói rõ ràng câu nói vừa rồi, nhưng rồi nàng sợ cái hạnh phúc chợt đến ấy, nó mong manh dễ vỡ. Nàng hỏi trong tiếng tim đập :
– Thế còn chị Phượng ?
Dương nói trong cơn mê :
– Ừ, còn Phượng. Rồi Phượng sẽ nghĩ sao ? Nhưng tại sao chỉ hỏi rằng còn Phượng, mà không hỏi còn em, còn con, còn mẹ, còn gia đình chúng mình ? Đành phải chịu lỗi với Phượng vậy.
Dương nhìn thẳng vào mắt Thư Hương, giọng tha thiết :
– Ở đây, anh không cha mẹ. Nhờ em và Tâm, anh lại có cha, có mẹ. Anh lại có cả vợ, có cả con. Như vậy thì làm sao anh rời bỏ được, nhất là bây giờ. Tâm, người bạn của anh, một thằng bạn mà anh quí như một phần thân thể của anh, lại mất rồi. Anh không dám nói là anh có bổn phận, nhưng anh yêu… gia đình chúng ta.
Dương có cảm tưởng rằng Tâm, người bạn chàng, linh hồn vẫn còn phảng phất đâu đây. Những người chết còn trẻ, tâm tư còn chưa thanh thản, còn thắc mắc về một chuyện gì nơi nhân thế, thì linh hồn còn nặng, chưa thể bay về được tới nơi siêu thoát. Dương biết rằng Tâm lúc nào cũng nghĩ đến mẹ, đến em gái. Nhưng cũng không quên bạn bè như Dưong, như Phượng. Câu nói mà chàng vừa nói với Thư Hương, cũng là để nói với Tâm. Tâm ơi, mầy có nghe những lời tao nói không ? Nhờ mầy, mà nay tao có cha, có mẹ, có vợ, có con.
Có được cha, mẹ thương con hết lòng, có một người vợ yêu chồng, có đứa con ngoan, thì còn muốn gì hơn nữa ? Chỉ còn một sự vướng mắc là Phượng đó. Nhưng rồi chắc Phượng sẽ quên. Phượng còn trẻ còn đẹp, không thể khư khư ôm giữ mãi lấy nỗi buồn. Thời gian, vốn là một liều thuốc giải buồn thần diệu. Một ngày, một tháng, một năm, Phượng sẽ quên. Nếu chưa quên được thì hai, ba năm, mà hai ba năm chưa phải là một đời người… Dương nghĩ vậy để tự an ủ nhưng không hiểu sao, vẫn canh cánh bên lòng một sự xót thương Phượng.
Hai người ngồi cho tới lúc mặt trăng lên cao, không còn chiếu vào phía đầu nhà. Bà Phủ cũng đã một lần đi ra ngoài, nhìn thấy hai đứa ngồi sát bên nhau, lại lặng lẽ trở vào. Tuy rằng trong lúc buồn như vậy, mà bà cũng thấy len lén nhẹ xen vào một chút vui.
Một bóng người đội trăng đi vào cổng, dưới bóng những lá ngô đồng lấp loáng. An đã trở về, Dương đứng lên đi về phía An :
– Mày đi hơi lâu đấy !
– Tao đi bộ cùng với em, vừa đi vừa nói chuyện. Ấy thế mà đi bộ được từ đây về tới nhà em. Từ ngày từ bỏ quân trường, có lẽ đây là một phát đi bộ dài nhất. Lúc về đây, tao không có can đảm đi bộ nên phải leo lên một chiếc xe tắc-xi.
Nhìn thấy Thư Hương ngồi ở đầu nhà, An nói tiếp :
– Tụi mầy ngồi đây sao ? Chờ tao một chút. Tao vào trong chùa lấy một chiếc ghế, rồi cùng ngồi đây với chúng mầy. Lâu lâu làm một đêm không ngủ, ngồi nói chuyện với nhau, cũng là một điều hay.
An mang ghế ra ngồi cạnh Thư Hương. Trời đã về khuya. Những ngôi mộ nơi nghĩa trang trước mặt chỉ còn nhấp nhô mờ khuất. Dương hỏi An:
– Chúng mầy nói với nhau những chuyện gì ?
An thở dài :
– Về chuyện hoãn ngày cưới lại. Đáng lẽ thì chúng tao cưới nhau trong năm nay. Nhưng sau cái chết của Tâm, tao bỗng dưng thấy chán nản đến tột cùng. Hoãn lại một năm, là tao muốn để tang cho Tâm…
Thư Hương nghẹn ngào :
– Anh để tang anh Tâm ?
– Đúng đấy, chị Thư Hương ạ… Chuyến bay cuối cùng, Tâm bay cùng tôi. Dù sao thì tôi cũng được gần Tâm nhiều hơn, lâu hơn các bạn, tuy rằng chỉ vài phút ngắn ngủi, nhưng đó là những phút cuối của cuộc đời. Bắt buộc tôi phải nghĩ tới điều đó…
Thư Hương cúi mặt, nhìn xuống nền đất tối. Nàng thấy thế giới của đàn ông, có nhiều chuyện lạ, mà lại là những chuyện lạ đáng yêu.
Nhiều lúc Tâm và Dương đã làm cho nàng ngạc nhiên đến phải trợn tròn đôi mắt, khi hai người nô đùa với nhau ở nhà, như hai đứa trẻ nít. Bây giờ anh Tâm của nàng đã không còn. Cái đau khổ xé từng tế bào, thớ thịt, tới lúc này như trầm hẳn xuống, mà chỉ còn ngậm ngùi tức tưởi. Thư Hương thì thầm :
– Ngày mai chôn anh Tâm rồi…
Dương và An cùng ngạc nhiên :
– Ai quyết định như vậy ?
– Mẹ định như vậy… Mẹ không muốn kéo dài những ngày ngồi quanh quan tài anh Tâm để đau đớn đến xé lòng. Mẹ muốn cho anh được yên, để mẹ về nhà nằm khóc vài ngày, thì may ra, nỗi đau khổ mới vơi đi được chút ít. Em cũng đồng ý với mẹ…
An gật đầu :
– Như vậy cũng phải. Tâm còn nằm đây, hay nằm trong lòng đất lạnh thì cũng thế. Nên lo cho những người còn sống…
Dương thắc mắc :
– Nhưng làm sao mà thông báo cho mọi người…
– Sáng mai, tao với mầy lo chuyện đó. Mày đi gọi điện thoại cho Biên Hòa, còn tao đi thông báo cho bạn bè ở Saigon. Như vậy kể như xong rồi…
– Ừ như thế cũng xong…
Tuy rằng vội vã, nhưng đám tang của Tâm cũng đầy đủ bạn bè. Từ ngôi chùa ấy tới nơi mộ Tâm, chỉ có một quãng đường. Những người bạn Tâm, xúm lại khiêng xác Tâm, đưa Tâm vào lòng đất. Chiếc quan tài đặt xuống. Đất như một cánh tay mềm của mẹ, ôm lấy hình hài Tâm. Những tiếng khóc bật lên nức nở. Tới lúc đó, Dương mới liếc nhìn sang Phượng để thấy Phượng lặng lẽ làm dấu thánh giá.
Bà Phủ không còn khóc được nữa, nhưng sự câm nín ấy làm mọi người hoảng sợ hơn là những tiếng gào khóc. Từng nắm đất đã phủ lên. Thôi thế là từ nay trên thế gian này, không còn một người đàn ông tên Tâm nữa. Cả một cuộc sống chỉ còn sót lại nơi đây một tấm mộ bia, ghi ngày sinh ra đời và ngày lìa khỏi dương thế. Và thêm một nấm cỏ khâu xanh rì. Khi nấm mộ của Tâm đã được đắp điếm xong, nghi ngút khói hương, lúc đó bà Phủ mới bật lên tiếng khóc. Mặt Thư Hương thoáng hiện lên một chút vui :
– Mẹ khóc được rồi, con mừng quá…
Như một giòng sông bị con đê sầu khổ ngăn giữ, tới lúc con đê đã vỡ, giòng nước mắt của bà Phủ tuôn ra như bất tận… Bà chỉ gọi hai tiếng :
– Tâm ơi !
Từng người tới an ủi bà Phủ. Người bà rũ xuống như không còn đứng vững. Dương gọi An :
– Mày đưa bà cụ về. Tao và Thư Hương ở lại đây, cám ơn anh em !…
An đưa bà Phủ ra xe. Ông Phủ dìu bà Phủ đi. Những bước chân già đi thất thểu. Dương thay mặt ông bà Phủ, cám ơn tất cả mọi người. Mỗi người chia buồn một câu với Thư Hương, với Dương, rồi ra về. Chỉ còn lại nơi nghĩa trang này, Dương, Phượng, Thư Hương và bé Hoàng.
Ngôi mộ mới, đất còn ướt. Dương cúi đầu đứng đó thật lâu, tới lúc mà mặt trời lên đến tận đỉnh đầu.
Bóng cây đã thu ngắn lại. Những tiếng ồn ào đã qua đi, trả lại nghĩa trang sự vắng lặng. Những ngày thường, nghĩa trang đã buồn tanh, nhưng ngày hôm nay, nghĩa trang lại buồn hơn, buồn đến rưng rưng. Thư Hương mỏi mệt ngồi ôm con trên một bực thềm ngôi mộ, còn Phượng đứng lặng. Rồi nàng chớp mắt, ngắt một bông hoa trắng, đặt trên mộ Tâm. Dương đi bên nàng :
– Phượng đã về chưa ?
– Phượng về bây giờ.
Dương và Phượng đi qua mặt Thư Hương. Người đàn bà đang ngồi ôm con, chỉ hơi ngước mặt lên nhìn hai người, rồi lại cúi xuống. Hai người đi ra khỏi cổng nghĩa trang, bước lên con đường đất mà hai bên hoa phượng nở đỏ ối. Phượng dừng lại :
– Không hiểu trước khi anh Tâm chết, có nói chuyện với Thư Hương hay chưa ?
Dương bùi ngùi :
– Tâm chưa kịp nói. Nhưng theo tôi nghĩ, thì Tâm chẳng cần phải nói nữa…
– Như vậy nghĩa là làm sao ?…
– Phượng đã nhìn thấy hết những cảnh đau thương vừa diễn ra trước mắt như thế đấy. Tôi không có can đảm rời bỏ được gia đình nầy, vì bây giờ, gia đình này cần tới tôi. Tôi thật có lỗi với Phượng. Tôi xin lỗi Phượng !… Anh xin lỗi Phượng !…
Phượng bàng hoàng như bị ai đập mạnh một nhát búa. Bàng hoàng còn hơn cả sáng nay, nghe tin Tâm chết. Tai Phượng như ù đi không còn nghe thấy Dương nói gì nữa. Hình như Dương còn nói nhiều lắm, nhưng Phượng như bềnh bồng lao đao muốn ngã. Nàng phải vịn vào một thân cây để đứng vững. Dương muốn đỡ lấy Phượng, nhưng rồi lại thôi, sau một giây ngập ngừng.
Như thế, mối tình ấy tới đây là hết rồi. Trong một khoảnh khắc, Phượng thấy như trên thế gian này có hai người chết. Một người là Tâm nằm trong kia, và một người là Phượng, đang đứng ở đây. Mắt nàng mở lớn vào khoảng trống trước mặt và nàng biết rằng bây giờ chỉ cần nhẹ chớp mắt, là nước mắt sẽ ào ào tuôn ra.
Tiếng Dương thoảng như tiếng gió :
– Thôi, vĩnh biệt Phượng !
Phượng quay mặt đi để đấu những giọt nước mắt rơi xuống thánh thót. Không chào từ biệt Dương, nàng lảo đảo bước đi. Một chiếc tắc-xi từ phía trong đi ra, bụi bay mù mịt. Chiếc tắc-xi dừng lại và khi bụi vừa lắng xuống, Dương nhìn thấy thấp thoáng bóng Phượng chui vào chiếc xe đó, rồi bụi lại tung mịt mù, che khuất cả những cành hoa phượng mọc thấp.
Phượng đã đi rồi! Dương gọi thầm vào ánh nắng chói chang của trưa hè. Phượng ơi! Vĩnh biệt Phượng! Chuyện tình của chúng mình, thôi chỉ nên coi như một giấc mơ đẹp, hay một cơn ác mộng, cái đó tùy em. Dương đứng ở đó lâu lắm. Nhiều người đi qua, đã nhìn chàng e ngại, nhưng chàng có biết gì đâu.
Chàng đứng đó, chờ cho cơn đau lắng xuống, như đám bụi trên mặt đường kia, được gió thổi tung lên, rồi khi cơn gió im lìm, lại trở về mặt đường, như nằm chờ một cơn gió khác.
Nhiều lúc, chàng có cảm tưởng như Phượng trở lại, và bóng người mặc áo dài đen ấy, như đứng sừng sững trước mặt chàng. Nhưng rồi chàng chớp mắt và chỉ thấy trước mặt một màu nắng mênh mông.
Chàng đi ngược lại con đường, để trở về nghĩa trang. Nhìn mặt Dương, thê thảm một cách đáng sợ, Thư Hương biết rằng mọi việc như thế là đã an bài. Nàng không dám hỏi Dương một câu về Phượng. Nàng dịu dàng nói với Dương :
– Con ngủ rồi !…
Nàng kéo vạt áo, che lên người con. Nhìn cảnh đó Dương thấy lòng mình thật ấm. Chàng nắm lấy tay Thư Hương :
– Chúng ta về nhà!
Saigon lập Xuân Nhâm Tý
DƯƠNG HÙNG CƯỜNG
Dương Hùng Cường, còn ký Dê Húc Càn, sinh ngày 1-10-1934 ở Hà nội, gia nhập Không quân, thụ huấn cơ khí viên tại Pháp năm 1953, trở thành hạ sĩ quan cơ khí phục vụ tại nhiều đơn vị từ 1955.
Từ giữa thập niên 1960 phục vụ tại Phòng Tâm Lý Chiến Bộ Tư Lệnh Không Quân với cấp bậc Chuẩn úy. Ông là một cây bút nổi tiếng trong giới văn nghệ, cộng tác với nhiều nhật báo, tuần báo ở Saigon.
Sau 1975, Dương Hùng Cường bị tù cải tạo tới năm 1979. Năm 1984, bị bắt giam với tội danh gián điệp do viết bài gửi ra nước ngoài và qua đời tại nhà tù Phan Đăng Lưu, Gia Định năm 1987.
TÁC PHẨM:
- Lính Thành Phố(Truyện dài, 1966)
- Buồn Vui Phi Trường (Tự truyện, 1969)
- Vĩnh Biệt Phượng(Truyện dài, 1972)
- Mười Năm Ngồi Trên Cao (Tập thơ truyện không quân thời chiến, 1974)