TRƯỚC KHI VÀO TRUYỆN
Những ai đã trọ ở quán Đề Lao Gia Định vào những năm 1975, 1976 và 1977 đều biết mặt hay biết tên những người tuổi trẻ Sàigòn đánh cộng sản, bị khép tội phản động, những người tuổi trẻ Sàigòn mà tôi gọi là những con sư tử non lãng mạn và cô đơn. Từ cuối 75 tới giữa 76, bâỳ sư tử lãng mạn lần lượt dính cạm bẩy và hiên ngang vào tù. Con trai. Con gái. Tất cả đều ngẩng mặt thách thức cachot, xiềng xích. Tất cả đều thắp lửa tim rực rở làm kẻ thù nể nang và làm đàn anh cúi mặt. Tôi chưa thâý sự kiêu hùng của Bà Trưng, Bà Triệu, của cô Giang, Cô Bắc.
Nhưng tôi đã thấy, tận mắt, các cô sinh viên trường Luật, các cô nữ sinh trường Lê Văn Duyệt, Gia Long… chân mang xiềng mà miệng vẫn mĩm cười. Tôi chưa thấy cái anh dũng của Phạm Hồng Thái, của Nguyễn Thái Học, của Ký Con, của Trần Bình Trọng. Nhưng tôi đã thấy tận mắt, các cậu sinh viên Vạn Hạnh, các cậu học sinh Chu Văn An, Nguyễn Trãi… tay đeo còng mà mắt vẫn mộng mơ. Họ biến thành khách hàng thượng hạng, sáng giá nhất của công Ty Khách Sạn Nhà Tù cộng sản. Người trẻ măng, 16 tuổi. Người trưởg thành, 22 tuổi. Tôi nhìn các cô ra vào cachot và in dấu chân tuyệt đẹp trên hành lang khu C1. Tôi nhìn các cậu ra vào cachot và gửi niềm tin chiến đấu thánh thiện trong gió quê hương. Rồi, hân hạnh biết bao, tôi được nằm chung với các cậu qua các phòng giam của các khu C1, C2, A và B. Và khu FG, AH, BC của đỉnh cao tù ngục Chí Hòa. Tôi quen thân Đặng Hữu Trí 16 tuổi, hiền lành và rất dễ thương. Đặng Hữu Trí can tội dám lập một tòa án xử Hồ Chí Minh. Tòa án vỏn vẹn ba người. Trí đóng vai chánh án. Hai bạn của Trí, một công tố viện, một luật sư. Bị cáo Hồ Chí Minh chỉ là một bức chân dung Người, in offset, do nhật báo Sàigòn giải phóng ấn hành. Luật sư cố gắng biện hộ tội ác cho Hồ Chí Minh, công tố viện buộc tội khắt khe. Chánh án Trí tuyên án xử tử Hồ Chí Minh. Chân dung Bác bị châm lửa đốt ngay tại tòa, một lớp học vắng vẻ. Tòa bế mạc. Câu chuyện được truyền tụng trong bạn bè.
Rồi lọt tai công an. Chánh án, công tố viên, luật sư bị còng tay bịt mắt dẫn đi. Luật sư, nhờ bênh vực Hồ Chí Minh, được thả về, sau một tuần lễ chấp pháp. Công tố viên, chánh án nằm cachot dài dài. Mà vẫn tự hào mình đã dám xử tử Hồ Chí Minh. Tôi quen thân Hoàng Sơn Trường, 18 tuổi, cận thị, can tội chống phá «cách mạng». Saigon mất, Trường mất mát nhiiều thầy cô, bạn bè, kỷ niệm, cậu buồn bã đi tìm phục quốc. Chẳng gặp ai cậu ghé chùa An Lạc, rủ một chú tiểu tính chuyện nước non. Chú tiều – tôi quên tên, hắn đã đọc Tiêu Sơn tráng sĩ bèn dậy tình sông núi. Vậy là chùa An Lạc, nằm phía sau đường Phạm Ngũ Lão, Sàigòn, biến thành trụ sở của «tổ chức» ! «Tổ chức» nhiều nhiệt tình nhưng lắm vụng dại. và «tổ chức» bị bại lộ. Hoàng Sơn Trường và An Lạc tráng sĩ vào tù. Mẹ của Trường «nằm vùng» tới chức Phó chủ tịch Liên Hiệp Phụ Nữ tỉnh sông Bé. Trường nằm cachot, hai tay bị còng treo sau lưng liên tiếp 38 ngày đêm vì khước từ làm việc. Mẹ Trường tới đề lao, dụ dỗ cậu khai báo «đồng bọn» để được tha ngay hoặc mẹ cậu sẽ đoạn tuyệt cậu. Trường không khai báo. Cậu bị gia đình bỏ rơi. Và cậu không hề than thở.
Những cậu học sinh như Đặng Hữu Trí, Hoàng Sơn Trường tôi đã gặp. Thí dụ thêm Đặng Cơ Bản, Đinh Cường, Đinh Dũng, Đinh Vượng, Trí loa, Trí ghẻ, Ngô Ty, Nguyễn Khánh Long… Các cậu ấy anh hùng trong hành động và biết giữ gìn phẩm cách khi sa cơ thất thế. Tuyệt đối tôn trọng nội quy nhà tù. Không lèm bèm trong bóng tối. Không chống đối rẻ tiền. Biết kính mến người tuổi tác và sẵn sàng giúp đỡ người bệnh hoạn. Điều mà tôi suy nghĩ và cộng sản suy nghĩ hơn là động lực nào đã quyến rũ các cô các cậu Sàigòn xuống thuyền một cách lãng mạn thế! Trước khi mời cộng sản chiếm Sàigòn, người Mỹ đã tận dụng các hệ thống tuyên truyền vĩ đại của mình để hù dân tộc Việt Nam, rằng, cộng sản sẽ giết hết dân Sài gòn, sẽ có «biển máu» ở miền Nam. Vân vân. Do đó, bọn thống trị hèn mọn, bọn tướng lãnh đào ngũ, bọn dân biểu, nghị sĩ bù nhìn, bọn làm giàu bằng chiến tranh, bọn lãnh tụ xôi thịt… đã cuốn gói chạy thật nhanh, dù bị linh Mỹ đạp đá như súc vật, ở phi trường Tân sơn Nhất và ở Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ! Bọn hưởng thụ trên xác chết của lính chiến, bọn nhảy đầm trên tiếng khóc của quả phụ, bọn uống sâm banh nước mắt của cô nhi, bọn cười đùa nỗi đau khổ của đồng bào, bọn kên kên rút ruột mổ mắt tổ quốc, đã cuốn gói chạy thật nhanh, để lại toàn bộ «chiến hữu» cho cộng sản quản lý, trong tù và trại tập trung khổ sai lao động. Tất cả đều đã tan rã. Bức dư đồ rách bươm. Đàn trẻ của Tản Đà, đau đớn thay, lại toàn lũ lãnh đạo chỉ biết chạy, chạy và chạy! Những kẻ không thích chạy trốn, không thèm chạy trốn mà còn đòi bồi vá bức dư đồ rách, đẹp đẽ thay lại là tuổi trẻ Sàigòn sau 30 – 4-1975, một tuổi trẻ hừng hực, ngạo nghễ, lãng mạn và cô đỏn. Người cộng sản đặt nghi vấn: Tuổi trẻ Sàigòn chống chúng tôi với mục đích gì ? Họ có bị tước đoạt quyền bính đâu mà đòi phục hồi quyền bính cũ. Mà họ đã làm gỉ có quyền bính. Giữa chúng tôi và họ chưa nợ nần gì nhau. Tại sao họ chống chúng tôi ? Nghi vấn ấy đã làm điên đầu cộng sản. Tuy rất cay cú tuổi trẻ nhưng họ phải kính phục. Những câu trả lời của tuổi trẻ Sàigòn hôm nay nằm trong Sỏi đá ngậm ngùi. Nên nhớ thêm rằng, trong nhà tù cộng sản, tôi đã gặp khá nhiều tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng, sư đoàn trưởng ! Rặt bọn thèm quyền bính phong chức tước cho nhau và tự phong. Rồi đi tù ! Tuổi trẻ Sàigòn không xuống thuyền vì chức tước, vì quyền bính. Họ mới đích thực là lãhh tụ của tôi . Phần còn lại của đời tôi, tôi sẽ dành để ca ngợi họ. Nhiều người đã chết. Nhiều người đã về nhà với bệnh hoạn. Riêng và duy nhất Bâỳ sư tử lãng mạn, gồm 28 người, có Hoàng Sơn Trường, Ngô Tỵ, Nguyễn Khánh Long, Đăng Cơ Bản. Đinh Vượng… dưới sự lãnh đạo của Lương Việt Cương hiện đang nằm dưới hầm đá của trại Nam Hà B, Hà Nam Ninh (trại Đầm Đùn cũ). Chẳng một ai, ở nước ngoài biết đến họ, dầu người ta hô hào chống cộng sản, kháng chiến và tôn vinh vô sô liệt sĩ. Hình như, những người tuổi trẻ dấn thân vào cuộc chiến đấu mới cũng chẳng thấy cần thiết, phải có sự biết đến của những ai đang «âm mưu» chống cộng sản, ở ngoại quốc, dĩ nhiên! Trước hết, tuổi trẻ Việt nam đã thực sự trưởng thành. Để tự làm cái mũ đội lên chính đầu mình. Thế hệ tuổi trẻ làm guốc cho lãnh tụ giả hình mãi mòn vẹt trên đường công danh đã châm dứt. Ở Sàigòn. Đừng tưởng dân chúng còn ham nghe những tiếng nói chết vọng về từ bên kia Thái Bình dương. Đừng tưởng nữa và nên im lặng. Giữa tiếng nói sống và tiếng nói chết đã là môt phần ranh đánh dấu một thời đại. Thời đại của chống cộng rầm rộ và ồn ào đã vô hiệu quá. Những hô hoán chống cộng là tiếng nói chết. Nó đứng buồn hắt hiu bên kia ranh giới của ba mươi năm cũ. Bên đây ranh giới, tiếng nói sống quyến rũ và tích cực – đánh cộng sản. Đánh bằng nhiệt tình và lòng tự phụ. Đánh cộng sản để thắng cộng sản. Đánh cộng sản không mưu cầu đia vị, công danh; không mộng mơ cái chức lãnh tụ hư ảo.
Đánh cộng sản vì hạnh phúc của dân tộc, vì quyền sống của con người và thản nhiên bước vào tù ngục để bị đày đọa đến chết dần chết mòn. Nhưng, từ đó, từ khởi sự của tuổi trẻ Sàigòn 30-4-75, là một thời đại mới, thời đại đánh cộng sản, thời đại mới gọi thương yêu gắn gũi, thời đại ngăn cấm tàn sát, tù ngục, tập trung sau chiến thắng . Và tôi, người nghệ sĩ tôi xin phép được đứng trong thời đại mớt dù tôi ở Paris hay ở Sàigòn. Tôi đặt hết niềm tin vào tuổi trẻ Việt Nam, bất kể lưu vong hay không lưu vong, thế hệ tuổi trẻ biết sáng tạo trong chiến đấu, nhân danh hạnh phúc dân tộc tự lên ngôi để vừa đánh cộng sản vừa học cách đánh. Nhị thập bát tú, 28 con sư tử non trong Bầy sư tử lãng mạn đang nằm dưới hầm đá trại Đầm Đùn sẽ được giới thiệu với bạn đọc, ngày gần đây, như những lãnh tụ của tôi, những con người đích thực giải thoát quê hương, không cần ai nghĩ tới cái chết của mình, không cần ai quyên tiền đóng góp, không cần cả một nén hương tưởng niệm. Những người âý kể cho tôi nghe về các cô, chiến hữu của họ, còn phi thường hơn cả họ. Tôi đã được sưởi ấm lòng chuỗi tháng năm luân lạc.
Trở về với các cô đã khiến sỏi đá ngậm ngùi. Tháng 12-1977, tôi bị chuyển từ đề lao Gia Định qua khám lớn Chí Hòa, do đó, tôi không còn biết thêm gì về số phận của nữ hoàng cachot Hoàng Thị Nga, Lưu Tuyết Nga, của chị em Quỳnh Như …. Cuối năm 1978, tôi bi đầy vào rừng già Sa Ác, mật khu cũ của cộng sản, thuộc huyện Xuyên Mộc, Bà Rịa. Đầu năm 1980, tôi và Hồ Hữu Tường bị còng chung chân, tay chuyển tới Rừng Lá, Hàm Tân. Cũng đầu năm 1980, Hànội xuất bản một cuốn sách quan trọng : Những tên biệt kích văn nghệ trong mặt trận tư tưởng văn hóa miền Nam (nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1980). Biệt kích văn nghệ gồm 10 tên. Đó là Võ Phiến, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sĩ, Hồ Hữu Tườn, Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo, Thích Nhất Hạnh, Duyên Anh, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca . Võ Phiến, Vũ Khắc Khoan di tản sang Mỹ trước 30-4-75. Thích Nhất Hạnh thì bị chê độ Sàigòn «đuổi đi» từ lâu và lưu vong đây đó. Mai Thảo trốn thoát cuộc truy nã 2-4-76 và đã may mắn gửi cuộc đời văn chương ở Hiệp chủng quốc. Còn ở nhà 6 tên biệt kích đi tù. Dương Nghiễm Mậu và Nhã Ca được tha đầu năm 1977. Nguyễn Mạnh Côn chết bệnh tại Xuyên Mộc tháng 6-1979. Hồ Hữu Tường chết bệnh tại Hàm Tân tháng 10-1980. Doãn Quốc Sĩ được tha cuối năm 1979. Tôi là tên biệt kích văn nghệ trở về nhà cuối cùng về sau chiến dịch tận diệt ảnh hưởng văn hóa «Mỹ Ngụy» phát động liên tiêp một qúy từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1981. Quý hãi hùng đó (đối với vợ con tôi), tên tuổi tôi được lôi ra chửi rủa đến khiếp đảm trên báo chí, sách, tài liệu học tập, radio và télévision. Và tôi còn bị treo cổ trên mục Xã luận của nhật báo Nhân Dân ! Nhưng tháng 9-1981, người ta phải thả tôi. Vì International PEN can thiệp tận tình. Vì Amnesty International can thiệp không biết mệt mỏi. Tôi về hôm trước, hôm sau «được mời» lên sở Công An. Để mạn đàm ! Phòng Bảo vệ Chinh Trị «thăm dò» : Anh đã tiếp xúc với ai ? Ai đã đến thăm anh ? Các anh nói gì với nhau ? Anh nên mở rộng cửa đón tiếp bạn bè cũ. Anh cần tìm hiểu bạn bè anh. Vân … vân. Một tuân lễ tôi có ba buổi «mạn đàm» Với các chức sắc của Sở Công An. Tôi mệt mỏi và chán nản. Bây giờ tôi mới hiểu người cộng sản chơi chữ giỏi quá. Họ thả tôi về, không cho tôi cái Lệnh tha mà chỉ cấp cái Giâý ra trại ! Ra trại thôi rồi, có hôm nào đó, lại vào trại, mấy hồi. Tôi bị quản chế một cách khéo léo. Trò mạn đàm thay thế trò tự khai, tự kiểm… Tôi bèn đóng kín cổng không tiếp bạn bè văn nghệ. Cũng không đi thăm ai. Tôi tình nguyện làm kẻ bạc tình. Như thế, tôi hy vọng khỏi phải kể tên bạn bè trong những buổi mạn đàm… điều tra. Vậy mà vẫn bị hiểu lầm. Rồi, từ ngộ nhận để ra thị phi. Tôi có một lần làm anh hùng, được truy điệu. Đó là lần người ta bảo tôi đã chết. Tôi đã tuẩn tiết ! Tôi ghê quá ! Tôi có một lần làm anh hèn, bị chửi rủa. Đó là lần người ta bảo tôi bị «anh em» đâm thủng một mắt. Tôi đã phản bội! Tôi khiếp quá! Thản nhiên, tôi về đời sống, còn nguyên hai mắt và còn nguyên cả linh hồn. Lại học thêm một lời dạy trong «Luận Bảo Vương Tam Muội»: Oan ức không cần biện bạch vì biện bạch thì hèn nhát mà trả thù thì oán đổi tăng thêm. Những buổi mạn đàm dần dần thưa thớt. Vì cả hai bên đều cảm thấy buồn tẻ, vô tích sự, Tôi bắt đầu nhìn kỹ Sàigòn sau hơn 6 năm xa cách. Tôi hay ra chợ trời xem người Sàigòn lừa lọc chụp giật lẫn nhau. Và, một hôm, tôi gặp lại một cô ở đề lao Gia Định năm xưa. Có mời tôi uống cà phê vỉa hè, kể cho tôi nghe về số phận lênh đênh của Những con chim khuyên mang mắt diều hâu. Và, Sỏi đá ngậm ngùi một phác thảo, hay nói đúng hơn, một phân đoạn trong bản trường ca của tuổi trẻ Sàigòn chiến đâú hôm nay, đang nằm gọn trên tay người đọc.
Những người bạn tuổi nhỏ của tôi.
Những người bạn tuổi nhỏ của tôi ở khắp nơi trên thế giới.
Sỏi đá ngậm ngùi chưa phải là cuốn sách vinh tôn tuổi trẻ Sàigòn. Vì chưa đủ chữ nghiã vinh tôn họ. Tôi có một mong ước thật khiêm tốn: Bạn hãy nghe họ nói, nhìn họ làm, chiêm ngưỡng sự chịu đựng của họ. Và chịu khó truy nã bản thân mình, đứng vững trên thế đứng của mình. Để khỏi phụ lòng họ bằng dấn thân vào những cuộc chiến đấu cho hư ảo.
DUYÊN ANH
Paris. Hạ 84.
Chương 1
Căn phòng mái tôn thấp lè tè, dài tám thước rộng bốn thước. Hồ nước, cầu tiêu ở trong đó luôn. Người ta xây bục xi măng cao khỏi nền đất hai gang tay làm sàn phòng. Và sàn phòng được bổ dọc ngăn đôi bằng một đường rãnh sát nền – Đường rãnh này mang tên phi đạo. Trần phòng là những thanh sắt mười tròn, chồng lên nhau thành hình vuông đầu người chui không lọt, cắm sâu vô tường, hàn xỉ và trát xi măng kỹ lưỡng. Ban ngày, nắng tụ mái tôn, hơi nóng tỏa xuống làm sắt nóng bỏng. Ban đêm sương đọng ngập, làm sắt rét run. Khung cửa sắt màu xám tro một ô vuông vừa vặn cuốn sách bỏ túi. Đứng ngoài nhìn vào, bên trong chỉ thấy mặt, mũi và miệng. Năm mươi nữ tù nhân sống nhờ ô cửa gió hèn mọn của khung cửa lớn nặng nề ấy, nơi gặp gỡ của dưỡng khí và thán khí của hình phạt và sự chịu đựng. Ô cửa gió thường xuyên mở .Thỉnh thoảng, vì một nhu cầu nào đó, người ta đóng lại, gài chốt. Bên trong không rõ những diễn biến bên ngoài và bên ngoài không cần hiểu những khoảnh khắc ngột ngạt, thoi thóp của môt đời tù ngục bên trong.
Tất cả phòng giam của chế độ mới đều kiến trúc một kiểu. Người Pháp về nước, để lại đề lao Gia định một khu giam nhốt duy nhất, cao ráo, thoáng mát và một thư viện đủ sách báo, tiểu thuyết giải trí! Người Mỹ sang, đề lao không có gì thay đổi ngoài những cái còng nổi rõ ba chữ USA. Người Nga tới, xây thêm bốn khu tập thể, năm mươi phòng biệt giam và tiếp tục xử dụng còng và khóa của người Mỹ chưa kịp di tản.
Khu C1 đối diện biệt giam, cách nhau một hành lang ba thước. Bây giờ đúng ngọ. Năm mươi nữ tù của phòng 1C1 đang mê man ngủ. Họ cởi trần đồng loạt, kéo ống quần dài tận vế hay mặc quần cụt. Vài người chỉ vỏn vẹn cài xì lip. Cũng có kẻ dám thoát y hoàn toàn, thách đố kỷ luật và nếp sống văn hóa mới. Họ nằm sát khít, đầu nguời này dưới chân người nọ. Như thế mới đủ chỗ. Và, dù nằm sấp, nằm ngửa hay nằm nghiêng, tất cả phải nằm thẳng cẳng, cấm nhúc nhích, dẫy dụa. Các thứ mùi hôi hám, tanh tưởi toát ra không lối thoát dưới sức nóng ghê gớm của mái tôn buổi trưa nắng gắt. Những chiếc khăn tắm nhúng nước đấp ngực chống nóng đã khô rom. Bục xi măng nhầy nhụa. Chất mặn của mồ hôi râm ran khắp thân thể phơi trần của họ ngâm vào những mụn ghẻ lở. Trong giấc ngủ rã rượi, những bàn tay thò, móc gãi sột soạt và vỗ đôm đốp đuổi những con ruồi tinh quái bò lên mặt chui vào mũi. Trưa tù hiu hắt vô cùng. Năm mươi con heo cái xếp lớp trên phản thịt. Năm mươi tù nữ đang phô bầy trọn vẹn thân phận đàn bà, con gái Việt nam, dường như, còn rất xa lạ với loài người. Ai đó ú ớ ? Chiêm bao gì thế con cá mòi trong hộp thiếc, ổ bánh trong lò nướng, mỹ nhân ngư trong mắt lưới chủ nghĩa ?
Họ vẫn ngủ. Không, họ nhắm mắt và mê man. Họ chẳng hề biết cửa sắt vừa mở và tôi bị đẩy vào. Có thể đã có người biết nhưng lười mở mắt và ngại ngóc đầu dậy. Tôi ngồi bó gối gần khung cửa sắt, quan sát cái xã hội mà tôi mới gia nhập. Sát chung quanh tương phòng, trừ khu vực câu tiêu, bị cói, giỏ mây, giỏ plastic treo lủng lẳng, máng lên những thanh sắt trần phòng bằng những sợi giây rút từ túi đựng phân bón, đựng cát. .. xe lại. Những cái bị, những cái giỏ nhồi nhét quần áo, xà phòng, kem đánh răng, thuốc cảm cúm, muối mè, đậu phọng, chén muỗng và linh tinh. Đó là hành lý tù, trông luộm thuộm, xô bồ mà vui mắt, đối với tôi. Hơn tháng nay tôi mới được gặp đám đông, dầu là đám đông bị tước đoạt hết phẩm cách, bấy nhầy xếp lớp trên bục nhà lao.
Như những người tuổi trẻ còn đầy đủ lương tri của Sàigòn, tôi đã đứng lên chống đối chủ nghiã cộng sản bởi một lẽ thật đơn giản : Tôi không muốn bị tách rời khỏi dĩ vãng của tôi. Một người đoan tuyệt với dĩ vãng thì không còn là con ngươi nữa. Y là cái gì đó vất vương, trôi dạt, lềnh bềnh. Dĩ vãng của tôi có mái nhà êm ấm ăm ắp kỷ niệm ấu thời ; có cha mẹ, anh em thương yêu nhau ; có bạn bè chia sẻ vui buồn ; có trường hợp, thầy cô dạy dỗ làm người ; có thành phố ru tôi ngủ, dẫn tôi đi chơi và xui tôi mơ mộng. Dĩ vãng của tôi còn có những giọt nước mắt xót xaquê hương khốn khổ triền miên ; còn có những nụ cười trông đợi tương lai ao ước, còn có hòai bão làm đẹp giống nòi. Tôi rất tiếc không thể kể hết dĩ vãng của tôi, con tàu đã đưa tôi đi xa và trả tôi về gần. Đừng bao giờ nghĩ, trong dĩ vãng của tôi, có chế độ này, triều đại nọ. Chẳng có chế độ nào tồn tại, ngoài quê hương. Tôi chiến đấu như tất cả bạn bè tôi chiến đấu không thể để phục hồi dĩ vãng của một chế độ tàn tật đáng nguyền rủa. Nếu để phục hồi dĩ vãng thì cái dĩ vãng ấy chỉ là môt Việt Nam rất xa, rất đẹp, rất tốt, rất thật, rất ca dao, rất lãng mạn, rất thuần khiết đã bị ô uế hằng trăm năm bởi những trò chơi của tư tưởng Tây phương.
Dĩ nhiên, chúng tôi đã lãng majn. Chỉ những người Việt Nam lãng mạn mới dám đương đầu với cộng sản bằng trái tim và nỗi cô đơn. Tất cả, đã sụp đổ! Tất cả đã chạy trốn. Và họ đang ồn ào đòi làm một xa lộ xuyên qua Thái Bình dương trở về nắm quyền bính cũ. Chúng tôi thoát khỏi cái tham vọng phù du và thấp kém đó. Chúng tôi chỉ thiết tha mong mỏi một quê hương thanh bình, sum họp và mọi người đều có hạnh phúc. Được sống trên quê hương như thể là được thắp sáng dĩ vãng của riêng mình. Dĩ vãng và mong ước của chúng tôi bị vấy nhơ, bị xóa bỏ, bị cải tạo. Chúng tôi thương dĩ vãng và đã xuống thuyền ra khơi.
Tôi bị bắt tại nhà bạn tôi khi đang quay ronéo bản Tuyên ngôn của tổ chức. Chúng tôi là sinh viên, học sinh rất tích cực phản kháng các chế độ cũ. Chúng tôi đòi hỏi tự do, dân chủ và tiến bộ. Và vẫn nguyên vọng đó, chúng tôi thành những kẻ phản động của chế độ mới. Tuổi trẻ là thế. Luôn luôn thừa thãi nhiệt tình và lòng tự phụ. Và chấp nhận mọi nghịch cảnh, mọi hình phạt. Tôi bị dẫn đến Sở An Ninh Nội Chính 1. Các bạn tôi bị đưa đi đâu, tôi không rõ. Đến Sở An Ninh Nội Chính, người ta tống tôi vào cachot ngay lập tức, chẳng thèm hỏi han nửa lời.
Sở An Ninh Nội Chính, tên cũ của nó là Nha cảnh sát Đô Thành. Người Pháp có một sai lầm Iớn. Họ đặt trụ sở Mật Thám Trung Ương ở cuối đường Catinat, gần Nhà Thờ Đức Bà, nơi Đức Mẹ ôm trái đất, hàng ngày nhìn sang thấy tù nhân thất thêủ ra vô, hàng đêm nghe rõ tiếng tù nhân rên rỉ thấm đòn tra tấn mà chẳng ban được phép lạ nào. Ông Ngô Đình Diệm, người sẵn đức tin, vội vàng dời nơi chốn cho Sở Mât Thám Trung Ương. Hình thức đổi thay chút chút song nội dung vẫn y nguyên. Sở Mật Thám Trung ương là Nha Cảnh Sát Đô Thành, cơ quan bắt bớ tra tấn giam cầm những người đối lập chế độ trong và ngoài vòng pháp luật miền Nam. Người Mỹ viện trợ vật liệu, còng khóa và cố vấn kỹ thuật chu đáo nên Nha cảnh sát Đô Thành có khu biệt giam rất tối tân.
Người Nga sang, Nha Cảnh sát Đô Thành cải danh là sở An Ninh Nội Chính. Mọi kỹ thuật của Mỹ để lại đều được nghiên cứu, bổ sung và xử dụng tối đa. Người Việt Nam chống cộng sản không cần Mỹ, bị cộng sản siết chặt chân tay bằng còng Mỹ và tống vào cachot kiểu Mỹ.
Khu biệt giam của Sở An Ninh Nội Chính gồm ba mươi cachots đánh số chẵn, lẻ. Mười lăm cachots bên số chẵn và mười lăm bên số lẻ. Chẵn và lẻ đối diện nhau và cách nhau một lối đi khoảng thước rưởi. Cửa sắt kín mít, không một sợi gió nào có thể lùa vào nếu người ta không trổ sát phía dưới cửa bốn năm vệt và uốn thoai thoải như cửa chớp. Hành lang lợp mái kín mít luôn. Mặt trời chiếu cho muôn loài và đã bất lực chiếu rọi nửa tia nắng xuống một chỗ cần mặt trời nhất. Bức tường hẹp cuối khu gần một cái quạt hút thán khí ra ngoài. Ô gió giữa cửa sắt chỉ mở khi cho tội nhân ăn uống và kiểm soát xem tội nhân còn sống hay đã chết. Người bên số chẵn không có cơ hội nhìn, cơ hội nghe, cơ hội biết người bên số lẻ. Tuyệt đối cô quạnh và hãi hùng.
Nơi đây, nhiều người đã tự tử, đã chết bất thình linh qua các triều đại. Người cuối cùng chết ở cachot số lẻ là linh mục Hoàng Quỳnh. Ngài không được hưởng các phép tích của tin đồ Thiên Chúa giáo trước và sau khi chết. Chẳng ai biết mồ ngài nơi nào. Nếu Chúa biết chắc chắn, ngài sẽ lên thiên đường. Nhưng tôi không mấy tin rằng Chúa biết. Người cuối cùng tê liệt cả hai chân được lôi ra khỏi cachot là linh mục Trần Hưũ Thanh. Cuối cùng, đối với tôi, dĩ nhiên. Vì tôi không còn dịp trở lại khu biệt giam phối hợp kỹ thuật và nghệ thuật của hai nền văn minh thời thượng.
Người ta đẩy tôi vào cachot số lẻ. Tôi đi qua một hành lang chữ U. Tận cùng hành lang, bên trái là khu biệt giam, bên phải là phòng nhốt tập thể. Những tội nhân tranh nhau bám song sắt nhìn tôi, ra dấu hỏi han. Khi sắp rẽ trái, tôi gặp một phòng tối lúc nhúc tù nữ. Rồi tôi nằm trong bóng tối lờ mờ của cái hộp đựng người, chân mang còng số 8. Tôi có năm đêm còng chân xa hẳn xã hội loài người. Trừ hai bữa cơm mỗi ngày, ô gió mở khi thò tay ra lãnh phần cơm nước, còn thì bưng bít và im lặng. Hôm tôi làm quen được với chú thạch thùng nhỏ bé hay mon men tới nhâm nhá những hạt cơm vãi và biết sợ hãi sự thinh không thì có tiếng báo tử «Ngài về nước Chúa rồi, linh mục Hoàng Quỳnh, gửi cáo phó». Tự nhiên, tôi nói lớn : «Ngài về nước Chúa rồi, linh mục Hoàng Quỳnh, gửi cáo phó». Mãi bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu tại sao tôi nhậy cảm đến độ hiểu cả những điều mình chưa hiểu. Người khác loan tin linh mục Hoàng Quỳnh chết và người khác. . . Hồi chuông cáo phó rung lên từ những trái tim sau những ồn ào, hốt hoảng của bọn cai ngục, vài giờ kế tiếp, tôi nhận và truyền tin «Linh mục Trần Hưũ Thanh rời trại, liệt hai chân.» Vẫn có người tù là nhà báo săn tin tuyệt diệu. Đêm hôm ấy, cửa cachot của tôi mở, người ta dẫn tôi đi làm việc. Người ta đã giải phẫu tiềm thức và truy nã tư tưởng của tôi. Rồi thay vì trả tôi về cachot, người ta đưa tôi đến một nơi nào đó, tôi không được biết. Mắt tôi bị bịt chặt. Tôi chỉ phỏng đoán tôi đã xa thành phố vì ngồi rất lâu trên xe du lịch và tôi tới một ngôi biệt thự nhờ nghe tiếng bánh xe chạy chậm trên đá sỏi. Người ta xách nách tôi, dìu tôi lên cầu thang. Tôi được gở miếng giẻ bịt mặt và bị đẩy vô căn phòng tối um.
Bầy muỗi đói chào mừng tôi nhiệt liệt. Chúng tấn công tới tấp. Tôi mò mẫm kiếm cuốn sách hay tờ báo cũ xua đuổi muỗi. Mà không có. Đành đi đi, lại lại, dùng tay bảo vệ khuôn mặt. Người ta đã giao nhiệm vụ khủng bố tinh thần con người cho lũ muỗi. Khi anh sáng theo những kẽ hở của khung cửa sổ lọt vào phòng thì sự tra tấn của muỗi chấm dứt. Tôi nằm trên sàn gạch hoa, ngủ một giấc thoải mái. Thức dậy, tôi ngơ ngác, cứ tưởng mình chiêm bao. Không, sự thật đấy. Sự thật ở căn phòng của ngôi biệt thự mà dấu tích của dĩ vãng còn nguyên. Tranh ảnh treo trên tường đã bị gỡ. Tủ giường đã bị khuân đi. Cái máy lạnh đã bị tháo. Thậm chí rèm cửa sổ và khung kính giữ hơi lạnh cũng biến mất. Căn phòng, bây giờ, ngập bụi, mạng nhện và muỗi. Tôi mở cửa phòng toilette. Tấm gương soi chịu chung số phận với đồ đạc lặt vặt của ngôi biệt thự. Tôi mở robinet. Nước chẩy mạnh. Vẫn còn nước. Hạnh phúc cho tôi. Vẫn còn nước. Người ta quên tháo gỡ nước, người ta quên nghĩ nước của chung tất cả. Tất cả sống vì nứớc, nhờ nước. Tất cả có quyền giữ nước. Tôi giật cầu tiêu, vặn douche. Nước ào ào chẩy. Nước reo vui. Tôi lăn vào nước, tắm gội một cơn đã đời. Rôi tôi giặt bộ quần áo duy nhất, vắt khô, mặc luôn. Tôi cảm giác khỏe khoắn và tỉnh táo.
Người ta bắt tôi, không cho tôi mang theo bất cứ một thứ gì. Tôi tay trắng đi vào tù ngục. Năm ngày đêm ở cachot Sở An Ninh Nội Chính, tôi bị đọa đày hơn con chó. Vòi nước nhỏ từng giọt, cầu tiêu hôi hám. Không có khăn lau mặt. Không có bàn chải đánh răng. Không có quần áo lót thay đổi. Ngủ với chân còng, không màn không chiếu dưới ánh sáng vàng chết của ngọn đèn nhỏ hiu hắt. Ở đây rộng rãi hơn, thừa thãi nước nhưng bị đoạn tuyệt tiếng nói. Người ta hủy hết cầu chì, đèn điện, máy lạnh, máy nước nóng trở thành vô tích sự. Nỗi sợ hãi khởi đầu từ im lặng. Thú thật, tôi sợ hãi. Một ngày, hai lần, cửa phòng hé mở, một bàn tay đẩy điã cơm và ca nước trà vào rồi lại khép kín. Tôi không tài nào nuốt nổi quá năm muỗng cơm cá khô mặn chát. Thần kinh tôi luôn luôn căng thẳng. Tôi thèm tiếng nói và sợ tiếng động. Và, để chiến đấu với muỗi, tôi phải ngủ ban ngày, thức ban đêm. Có đôi lần, sợ hãi quá tôi đã hét lớn. Không ai thèm mắng mỏ tôi. Tôi càng sợ hãi. Tôi muốn, bất thình lình, lăn ra chết. Chết như thế hẳn là sung sướng. Chứ, chết dần chết mòn trong sợ hãi thì khủng khiếp vô vàn. Những người đập đầu vô tường, tống cả cái quần đùi vào họng mình, cắn lưỡi tự tử trong tù ngục đều là những người phi thường. Sống đã khổ, chết còn khổ hơn. Do đó, người ta cam đành sống tủi nhục, đau đớn để đợi ngày được chết dẫu cái chết chẳng êm ái hơn cái sống.
Hai ngày biệt giam đúng nghĩa nhất, tôi chỉ biết sợ hãi và nghĩ cách chết. Đến ngày thứ ba, sự sợ hãi giảm dần. Hoặc người ta chế ngự nổi sự sợ hãi hoặc người ta bị nó giết dần hèn mọn. Những ngày tiếp nối, sự sợ hãi không còn khả năng gì với tôi nữa. Tôi đã ăn hết phần cơm mỗỉ bữa, ngày ngủ li bì và đêm hát tình ca theo nhạc đệm của muỗi. Sang ngày thứ mười, nửa khuya, người ta lại bịt mắt tôi, đẩy tôi lên xe và đưa tôi đi nơi khác. Lần này, tôi rất bình thản. Nỗi sợ bị thủ tiêu, bị bỏ vào bao bố ném xuống sông không còn nữa. Lần trước, tôi đã rụng rời. Khi miếng giẻ thắt chặt mắt tôi, mồ hôi tôi toát ra ướt đẫm và nước tiểu cũng xốn ra. Lúc ấy nếu người ta bảo tôi làm bất cứ một việc gì đê tiện nhất sẽ được sống, tôi cũng làm. Nêú anh biết trước anh sẽ bị nhét vô cái cần xé cùng với tảng đá nặng, anh ngồì bó gối trong cần xé mặt rằng giây kẽm gai kỹ lưỡng, người ta liệng anh lên xe bịt bùng, cho anh ra câu xa lộ, ném anh xuống nước, anh sẽ không bao giờ thích làm anh hùng, anh sẽ bằng lòng làm anh hèn để khỏi phải chết sặc sụa, khỏi phải tính từng giây chết chóc. Anh sẽ sợ hãi như tôi đã sợ. Những vị anh hùng, liệt sĩ trên đời này không sợ chết nhưng đều đã không biết trước, mình sẽ bị chết bằng cách nào. Nếu họ biết trước họ sẽ bị chết trong rọ ngâm dưới nước, cuộc đời sẽ kham hiếm anh hùng lắm. Nhưng buồn bao nhiêu, cuộc đời lại lạm phát hạng người không qua cầu, thu hình đáy giếng, chê bai và phán xét kẻ qua cầu bằng phỏng đoán, a dua dư luận, đố kỵ, ghen ghét và tôn vinh bừa bãi.
Người ta tống tôi vào căn phòng của ngôi biệt thự khác. Ngôi biệt thự khác nữa. Cuối cùng, người ta dẩn tôi về Sở An Ninh Nội Chính, vào một buổi sáng. Người ta tiếp tục truy nã tư tưởng của tôi để biết rõ kẻ đã lãnh đạo chúng tôi. Tôi thành thật khai báo rằng chúng tôi không hề có lãnh tụ. Chúng tôi chán làm guốc cho lãnh tụ đi rồi, chúng tôi làm mũ đội lên đầu của chính chúng tôi. Người ta không tin. Người ta quả quyết chúng tôi là tay sai của Mỹ gài lại ! Trọn buổi sáng, người ta quần thảo tôi, áp đảo tôi, tra vấn tôi. Người ta sợ sự thật, người ta còn sợ luôn cả nghe sự thật. Người ta không dám nghĩ chúng tôi chống người ta bằng trái tim và nỗi cô đơn. Người ta cứ nghĩ, đằng sau chúng tôi, là một hậu thuẫn đáng nể! Và, người ta hành hạ tôi, khủng bố tinh thần tôi ròng rã hơn tháng trời. Buổi trưa, người ta còng tay tôi, dẫn tôi tới đề lao Gia Định. Tôi được tống vô phòng tù nữ tập thể.
Ngồi bó gối quan sát mãi, tôi hoa mắt, ngộp thở. Đứng dậy, tôi ghé sát mũi vào ổ gió thở hít. Nắng đang nhảy múa trên mặt xi măng hành lang. Dẫy biệt giam đối diện im vắng. Sợ che lấp ổ gió, tôi ngồi trên bờ tường thấp ngăn cách chỗ chia cơm với sân tắm. Những người tù nữ vẫn mê man. Tóc họ xõa tung, ướt nhẫy. Tôi đã ngắm kỹ từng khuôn mặt nhưng không gặp khuôn mặt bạn bè nào. Một hồi kẻng tù báo thức gay gắt điểm. Lần đầu tiên tôi bị nghe tiếng khua chát chúa của kẻng tù. Tôi nghĩ, trên đời không còn thứ tiếng gì ghê gớm, quặn đau, dày vò hơn kẻng tù. Đó là thứ tiếng của dọa nạt, cưỡng bức, đàn áp. Vài người tù đã thức và đang ngồi ngáp. Họ chưa kip chú ý tới tôi thì có tiếng nói Iớn bên ngoài «Phòng 1 lâý nước» và cái vòi lớn đẩy qua ô cửa gió. Cả phòng vụt thức nhào vô sân tắm. Họ xếp hàng. Không khí ồn ào khởi sự. Đợi hồ nước đầy, một người cầm vòi xịt vào những người khác. Mười phút cho năm mươi người tắm. Mỗi người đủ mười hai giây 2. Không có thì giò sát xà phòng, dù ghẻ lở. Tù nhân mặc quần aó tắm để vừa tắm vừa giặt quần áo bằng mười hai giây nước xịt. Họ đã chửi bới, cãi cọ nhau vì tắm ít, tắm nhiều. Năm mươi con lợn cái giành giật nước bi thảm hơn năm mươi con lợn cái bầy nhầy trên bục xi măng
Vòi nước rút mạnh ra đúng thời khóa biểu. Sự hổn độn tăng lên. Tù nhân, sau khi giành giật nước tắm thì giành giật thuốc ghẻ. Họ chổng mông, người này bôi thuốc cho người kia. Thứ thuốc ghẻ chế biến theo công thức cổ lỗ xĩ làm họ xót xa. Họ vừa dậm chân vưà quạt phành phạch vưà tuôn những Iời bẩn thỉu.
– Chị mới vô hả ?
Một tù nữ hỏi tôi. Cô ta trẻ nhất trong phòng
– Phải !
Tôi đáp, nhìn cô ta tìm sự thông cảm.
– Chị bị bắt về tội gì ?
– Phản động.
– Phản động ! cô gái tròn xoe mắt. – Tại sao nó đưa chị vô đây ? Phần đông nhốt ở khu B chi ạ !
– Đây. . . Tôi ngập ngừng.
– Đây là phòng giam tú bà, gái điếm, xì ke, hình sự. Cô gái nói.
– Hành lý của chị đâu, để em kiếm chỗ treo và chọn chỗ nằm cho chị !
Hơn tháng nay tôi mới được nói chuyện và được nói chuyện với một cô gái dịu dàng. Dẫu cô gái tội tình gì cô ấy vẫn làm tôi ấm lòng. Và tôi có cảm tình ngay với cô ta. Bỗng cô gái vỗ tay, la Iớn :
– Chị này bị bắt về tội phản động !
Cả phòng im lặng nhìn tôi. Tôi không hiểu tại sao họ đã nhìn tôi với những cặp mắt chan chứa yêu thương. Một người đứng tuổi bước lại gần tôi.
– Cô mới bị hả ?
– Hơn một tháng rồi.
– Nhốt ở đâu ?
– Các biệt giam.
Tôi kể vắn tắt những cachots tôi đã ở. Tất cả chăm chú nghe tôi. Dường như những người này kính phục tù chính trị. Một người đưa tôi cục xà phòng thơm.
– Vô tắm đi cô. Nước trong hồ của cô hết đấy. Tắm gội sạch sẽ, lát nó cho nước sôi, tôi pha mì cô ăn.
Không ai phản đối. Tôi bị đẩy vào sân tắm, bị bắt cởi hết quần áo. Và tôi được tắm gội bằng sà phòng thơm sau một tháng hôi hám. Người khác cho tôi bộ quần áo ngủ. Bộ quần áo tầm thường mà tôi có cảm tưởng như bộ quần áo mơ ước của con nhà nghèo. Tôi vừa mới thấy thế nào là sung sướng khi mặc quần áo mới.
– Khốn nạn, bắt người ta cả tháng mà không cho thư về gia đinh. Con gái một bộ che thân, kham sao nỗi ! Một người nói.
– Người ta con nhà lành, nó tống vô phòng điếm. Người khác nói.
– Cám ơn các chị, tôi bằng lòng vô đây, tôi không ân hận gì cả.
Tôi nói, giọng đầy cảm súc. Vừa khi đó, bên ngoài cửa sắt, tiếng cai ngục gắt gỏng :
– Ngưởi vừa vô trưa nay đâu ?
Cô gái đầu tiên thăm hỏi tôi đáp giùm:
– Đây.
– Chuẩn bị đồ cá nhân. Khẩn trương.
Cả phòng lại ồn ào. Mọi người lăng xăng gỡ túi, giỏ của minh xuống. Và, khi cánh cửa sắt mở, tôi bước ra, tay xách cái bị cói nhỏ đầy nhóc đồ đạc mà tôi chưa biết là những món gì. Cai ngục đóng cửa sắt cái rầm. Y khóa và gài chốt và đóng luôn ổ cửa gió vì người trong phòng nhìn tôi, chúc tụng sức khỏe khiến y nổi giận. Y dẫn tôi sang khu B rồì giao tôi cho mụ đàn bà mắt lé bụng ôm cái bâù sắp đẻ. Mụ cai ngục chỉ cái ghế bảo tôi ngồi. Mụ lật cuốn sổ tù dầy cộm, mở nắp bút máy.
——————————–
1-Khi chấm dứt chế độ quân quản, Sở An Ninh Nội Chính cải danh Sở Công An Thành phố.
2-Mãi đến cuối tháng 6-1976, đề lao Gia Định mới hoàn tất hệ thống dẫn nước vào riêng từng phòng,xử dụng suốt ngày đêm. Và, đồng thời, cửa sắt được trổ một nửa có chấn song. ngày đêm. Và, đồng thời, cửa sắt được trổ một nửa có chấn song.
Chương II
– Tên gì?
– Lan.
– Gì Lan ?
– Ngô Kim Lan.
– Ngày sinh, năm sinh ?
– 16-8 1950.
– Nơi sinh ?
– Sàigòn.
– Địa chỉ?
– 225 bis Công Lý, quận 3.
– Can tội ?
– Đấu tranh cho tự do dân chủ.
– Phản động !
– Cũng được.
– Nghề gì trước khi bị bắt ?
– Sinh viên cao học luật.
Mụ cai ngục gấp cuốn sổ đóng nắp bút máy sau thời gian vật lộn với chữ nghĩa. Rồì mụ xách xâu chìa khóa, dẫn tôi tới khu biệt giam. Mụ mở khóa rất nghề, kéo cánh cửa sắt, bảo tôi vào. Mụ đóng cửa, cài chốt, bấm khóa, và cảnh cáo : « Cấm liên hệ bên ngoài, bắt được sẽ đóng luôn cửa gió.» Nhờ liếc cuốn sổ ghi danh tù mới nhập trại, tôi biết hôm nay là ngày 14 tháng 3 năm 1976. số tù đề lao Gia-Định đã có tên tôi, người học trò của nhà trường xã hội chủ nghĩa.
Biệt giam khu B nằm giữa hai dẫy phòng giam tập thể, kiến trúc kiểu jumelé, đâu lưng vào nhau. Số lẻ đối diện dẫy phòng giam tập thể đàn ông. Số chẵn đối diện dẫy phòng giam tập thể đàn bà và những tù nhân mắc bệnh ho lao. Hành lang ngăn cách giữa biệt giam và tập thể là cái sân cỏ. Cánh cửa sắt hở phiá dưới đủ để con chuột cống chui vô. Chiều ngang khoảng một thước, chiều dài hai thước, trần thấp đổ bê tông, bục xi măng trải vừa chiếc chiếu cá nhân, cầu tiêu và chỗ tắm giặt chung một chỗ, vòi nước chảy mạnh. Đó là cachot của khu B đề lao Gia Định. Nó không đến nổi tồi tệ như cachot ba chế độ của Sở An Ninh Nội Chính. Người ta phát ngay cho tôi một chiếc chiếu cói, một cái ca, một cái tô, một cái chén và một cái muỗng. Tất cả đều bằng nhựa. Không có mùng, mền dù muỗi rất nhiều và đêm khá lạnh. Tôi trải chiếu trên bục xi măng, gối đầu lên cái bị ân tình, nằm duổi chân, dang tay, ngủ một giấc ngon lành, nhờ vừa được tắm xà phòng thơm và thay quần áo mới.
Tiếng đập cửa thình lình làm tôi mở mắt.
– Số 12 lâý cơm !
Tôi đưa ca và tô qua ô cửa gió.
– Chị cần gì không ?
– Ca đựng nước sôi.
– Mai sẽ có. Chị đừng nhìn tôi.
Người thanh niên chuyển cơm và thức ăn cho tôi xong thì sang cachot khác. Tôi đã hiểu kỷ luật nhà tù, im lặng, không hỏi thêm điều gì. Ăn dứt bữa, tôi rửa tô chén, súc miệng, uống nước robinet và lại nằm lăn ra ngủ. Tôi cần ngủ sau một tháng ngủ chập chờn. Nửa đêm, tôi thức giấc nhìn ngọn đèn nhỏ hiu hắt trong cachot, thâý rõ cái trăm năm hiu quạnh của kiếp người. Tôi đứng dậy, ra tận cửa, nhìn bên ngoài qua ô cửa gió. Đêm buồn bã. Sân cỏ ướt đẫm sương khuya. Dẫy tập thể đèn néon sáng trưng. Các phòng tù nữ, mọi người đang ngủ trong những cái mùng giăng thấp lè tè. Họ đã được viết thư về gia đình và được tiếp tế đủ thử. Ở’ phòng bệnh lao, một vài ông già ngồì ôm ngực ho. Từng chuỗi tiếng ho quằn quại cơ hồ những băng đạn quạt vào cuộc đời khốn khổ. Con đường hệ lụy, không ai ngờ lại còn có những nhà tù và những người tù chẳng hiểu mình can tội gì. Người ta sinh ra, cố sống thật lương thiện để tránh vòng tù tội. Ở thời đại của tôi, vì quá lương thiện với lòng mình mà cam đành nằm ngục. Nếu người ta biết gian dối, người ta chấp nhận cuộc sống của loài cỏ đuôi chồn, có lẽ, yên thân hơn. Khổ nổi những người quá lương thiện thường bất bình những kẻ gian lận trong các trò chơi tư tưởng. Và do đó, mới sản sinh ra, loại tù nhân tư tưởng. Anh không chấp nhận một quan điểm nào đó của một người nào đó, nếu người ấy chưa nắm quyền bính, anh sẽ bị bôi bẩn, sẽ bị truyền khẩu hạ nhục, sẽ bị rỉ tai vấy nhơ; nếu người ấy nắm quyền bính, anh sẽ bị bỏ tù, sẽ bị giết. Người ta đã chống đối tư tưởng của nhau và người ta đã giết nhau theo cung cách âý. Nhưng ít ai nghe tiếng họ quằn quại trong ngục thất đêm khuya, những tiếng ho không gợi niềm trắc ẩn và không đánh thức nổi lương tri của con người.
Trước đây, tôi sống rất hời hợt, tôi đã sống với hình thức của đời sống chứ chưa hề sống với nội dung của nó. Mọi kinh qua của lịch sử là mỗí kinh nghiệm tuyệt vời. Nhiều thứ phải chết cho nhiều thứ sống lai. Những thứ chết là lòng ích kỷ, sự ỷ lại, tâm hồn vọng ngoại, thói tị hiềm và mưu cầu hạnh phúc riêng tư. Những thứ sống lại là nhiệt tình, lòng tự phụ, sự can đảm, niềm tự tin và ước mơ xây dựng hạnh phúc cho mọi người. Tôi thức tỉnh do lịch sử sang trang bất ngờ nhưng tôi khôn lớn, tôi biết nhìn vào nội dung cuộc sống nhờ những đêm im lặng hãi hùng trong các thứ cachot. Cuộc sống vô tận, tôi mới chỉ ngốn hêt ba mươi trang. Tôi chưa hiểu mình sẽ đọc đến trang thứ bao nhiêu. Thiệt lòng, tôi muốn đọc tới trang cuối cùng.
Nhiều bạn bè tôi đã di tản trước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Họ đang có mặt ở Mỹ, ở Pháp, ở Gia Nã Đại. . . Tôi không biết tâm trạng họ ra sao nhưng biết chắc họ đã thỏa mãn vật chất.
Đời sống được định nghĩa thế nào ? Nếu nó đã được định nghĩa là sự thụ hưởng thì mọi kinh qua của lịch sử đều vô ích, thì những người đã di tản qua Mỹ, qua Pháp phải cám ơn cộng sản. Nhờ cộng sản thôn tính miền Nam họ mới có cơ hội xa quê hương, có nhà cao cửa rộng, có xe hơi chạy vung vít, có những đêm nhẩy đầm tíu tít và có những giọt nước mắt cay thuốc lá gửi về «xót xa cho những người ở lại». Ngay thẳng, nhiều người di tản và vượt biển phải cám ơn cộng sản vô vàn. Đời sống tăm tối của họ, sự ngu dốt muôn thuở của họ tại quê nhà đã rực rỡ và sáng giá tại quê người. Và họ đã dám âm mưu cả chuyện về giải thoát chúng tôi ! Buồn cho họ, đời sống đã không bao giờ được định nghĩa là sự thụ hưởng vật chất. Những miếng ngon nhất và những miếng tồi tệ nhất đều tiêu hóa giống nhau và đều có mùi vị giống nhau. Miếng ngon có thể làm con người béo mập, phì nộn, đồng thời, nó cũng làm con người ngu si, ích kỷ, hẹp hòi, ti tiện. Miếng tồi tệ — miếng cơm tù đầy chẳng hạn — làm gầy mòn con người nhưng lại giúp con người khôn ra, lớn lên, đầy đủ chiều cao, chiều rộng, chiều sâu ; giúp con người trang trải, độ lượng và cao thượng. Vậy thì đời sống chỉ có định nghiã chính xác với ai dám sống, sống đến tận cùng và can đảm chịu đựng mọi thử thách cam go của đời sống. Bởi vì, sau những thử thách khốn cùng, con người sẽ để lại một ý nghiã cao cả cho những đời sống kế tiếp.
Tôi không có tham vọng ghê gớm âý. Đời sống đẩy tôi vào sự thử thách quá ngỡ ngàng đối với tôi. Lịch sử dẫn tôi ra khơi, bỏ tôi loay hoay giữa cuồng sóng. Tôi phải tự lo lấy. Không ai giúp tôi cả. Không ai an ủi tôi cả. Tôi nhập cuộc cũng không cần đòi hỏi những đền bù này nọ. Tôi chiến đâú cần thiết như tôi thở, tôi yêu. Thế thôi. Lãng mạn và cô đơn. Âm thầm và khiêm tốn. Còn ai thích hiểu sao, tùy ý họ. Tôi không bao giờ là chiến hữu của những người trong trận tuyến hư ảo. những người đang cổ võ phục hồi cái dĩ vãng tanh ươn, mục rã. Nếu chiến đấu để sống lại tháng năm buồn tênh cũ, thà chấp nhận cái hiện tại rạc rài này còn hơn. Tôi cũng chẳng bao giờ là chiến hữu của những người hiếu sát hung hăng đòi giết hết quân thù. Thời đại của tàn sát đẩ cáo chung. Không có thứ hạnh phúc nào tưới bằng máu cả. Những kẻ toan tính chọc huyết kẻ thù như chọc huyết heo là những kẻ ngu xuẩn, hắc ám và dốt nát ; là những kẻ toan tính thiết lập ở quê hương Việt Nam những lò sát sinh ghê tởm hơn cả những trại tập trung cải tạo. Tôi chống đối sự man rợ từ mọi phiá và tôi thành thật nói rằng, khi lịch sử đã sang trang có nghiã là gánh hát đã rã đám, đào ca kép hát và hề đã bị sa thải. Không ai để cho bọn đào kép cũ chơi tuồng mới nữa. Dân tộc đã chán nản họ.
Thời đại của khuyến nho, khuyến tây, khuyến Nhật, khuyến Tàu, khuyến Mỹ đã đăng cáo phó. Và sắp đăng cáo phó thời đại khuuến Nga.
Đã vắng mặt chính quyền trên đất nước này, lâu rồi. Chỉ có phỉ quyền và ngụy quyền đúng nghĩa. Một bên ăn cướp, một bên ăn cắp. Cả hai đều là tay sai của ngoại bang, cả hai đều tồi tệ, đốn mạt. Số phận của dân tộc chúng ta, bao nhiêu thế hệ, nằm trong tay bọn ăn cướp và bọn ăn cắp. Lịch sử dâng hiến chúng ta vận hội mới, lịch sử lột mặt nạ phỉ quyền, lịch sử đào thải ngụy quyền, chúng ta có thể làm chính quyền rồi đấy. Cả dân tộc đang làm lại chính quyền trong ngục tù bao la và trong ngục tù giới hạn. Hạnh phúc của người Việt Nam không thể có từ nước miếng ly hương, từ sự mô phỏng áo quần, khăn rằn lố lăng khờ khạo, từ champagne tuyên ngôn, tuyên cáo. Mà phải khởi sự từ bát cơm độn ngô, khoai, sắn ; từ những giọt mồ hôi cưỡng bức rơi xuống luống cầy, từ nỗi khát sữa của em thơ, từ nỗi thèm gặp con trong tù của mẹ già, từ những cái gi khắt khe quái đản đang từng phút diễn ra trên khắp quê hương, đang từng phút đè nặng lên thân phận dân tộc Việt Nam.
Đã bao giờ anh gặp một sản phụ ở bảo sanh viện Từ Dũ hay Hùng Vương chưa ? Anh có biết một hài nhi ra đời chỉ được cấp tiêu chuẩn sữa hai bữa không? Nếu người mẹ chưa kip có sữa và không có tiền mua sữa, hài nhi khóc như thế nào ? Đã bao giờ anh gặp một sản phụ mất sữa nuôi con ngồi ở phòng Y tế phường xin mua sữa giá nhà nước chưa ? Người mẹ bị lột áo ra. Bàn tay thô bạo đại diện một nhà nước ‘‘quý trọng con người và bảo vệ phẩm cách con người triệt để’’ đã bóp vú người mẹ, nhay mạnh. Mạnh đến nỗi người mẹ nhăn nhó. Sữa không chảy. Người mẹ được cấp miếng giâý giới thiệu lên Y tế quận. Quận lột áo, bóp vú người mẹ lần nữa rồi giới thiệu lên Y tế thành phố. Y tế thành phố cho người mẹ ăn đĩa cơm nếp. Một tiếng sau, vú người mẹ bị bóp, nhay kỹ hơn. Bấy giờ, người mẹ mới được hưởng ân huệ mua sữa nhà nước nuôi con khôn lớn để đóng góp lính cho nhà nước năm nó mười tám tuổi. Đã bao giờ anh gặp những người đàn bà, những cô gái ngồi xếp hàng từ năm giờ sáng ở cạnh bệnh viện lao Hồng Bàng, gần trường Chu Văn An chưa ? Anh hiểu họ xếp hàng làm gì không? Họ bán máu. Bán máu để đong gạo chợ đen của chế độ. Đã bao giờ. . . Làm sao anh biết được. Anh không biết thì anh không thể rung đông thật. Anh không rung động thật thì anh chiến đấu giả. Hạnh phúc thật có xây dựng bằng chiến đấu giả không nhỉ? Tôi tự hỏi và tôi cảm thâý xót xa.
Sự kết thúc của cuộc chiến hai mươi năm đã làm nhiều người lớn lên, đằm thắm, thiết tha nhưng cũng làm nhiều người bé đi, giả tạo, hời hợt. Nghĩ mà thương những người lính của chúng ta đã chết anh dũng ở chiến trường. Những con người bé nhỏ chưa để họ yên nghỉ dưới mộ. Kẻ thù đã quật mồ mả họ, san bằng nhiều nghiã trang của họ, bêu nhục và khu trừ vợ con họ. Những con người bé nhỏ còn nỡ nhân danh xác chết tuyệt tích nấm mồ của họ tính chuyện mưu bá đồ vương, rất phi thường nhưng rất tầm thường. Những con người bé nhỏ không thích làm chính quyền. Với họ, có lẽ, làm chính quyền nhiều khê qua. Họ phải khởi sự từ số không. Mà khởi sự từ số không thì họ không ra gì cả. Do đó, họ khư khư cái dĩ vãng phù phiếm, xúm nhau lại, đánh bóng nó thêm, mô phỏng trò chơi của phỉ quyền, hăm hở trong cuộc chiến đấu phục hồi dĩ vãng, phục hồi ngụy quyền, phục hồi rác rưởi và cóc chết. Tôi dấn thân để đóng góp đôi chút vào công cuộc tạo đứng một chính quyền cho xứ sở, để được sống bình yên chung quanh những người Việt Nam hiền lành, lương thiện, được tuân lệnh những người cai trị hiền lành, lương thiện, sáng suốt. Ngoài ra, tôi không tự hào gì cả. Bởi vì, lịch sử vừa mới dạy tôi, tất cả đều phù ảo, trừ hạnh phúc vĩnh cửu của mọi người.
Mải mê suy nghĩ, tôi quên ngủ. Kẻng năm giờ báo thức đã khua vang. Bên khu tập thể, sự ồn ào bắt đầu. Tù nhân gỡ màn, giũ chiếu và cười nói xôn xao. Tiếng hô hoán một hai ba bốn của bọn cai ngục tập thể dục ầm ỹ khắp trại. Một ngày mới của đề lao Gia Định khởi sự. Bầy chim sẻ léo nhéo trên những cành me. Các động cơ xe xích lô máy, xe lam nổ lớn quanh khu vực chợ Bà Chiểu, Lăng Ông, Tòa Hành Chính Gia Định cũ. Sinh hoạt đang diễn ra ngoài nhà tù lớn chắc cũng chẳng vui hơn trong nhà tù bé. Khi mầu cờ quen thuộc biến mất, dù thích hay không thích mầu cờ ấy tâm hồn mỗi người đều ủ ê và đều trở thành những kẻ xa lạ với mầu cờ mới. Và, tự nhiên, người ta thấy có linh hồn tổ quốc thật sự, có một sự thiêng liêng trong hai tiếng tổ quốc mà bây giờ người ta mới nhận ra. Cũng như tôi vừa mới nhận ra rằng, tù ngục chưa phải là điều bất hạnh. Tù ngục là văn phạm của đời sống. Chỉ có ngữ vựng mà thiếu văn phạm thì không thể viết nổi những trang sách của đời mình.
Sáu giờ, mụ cai ngục điểm số các cachots. Mụ ghé mắt vào ô cửa gió quan sát. Thấy tôi còn sống, tôi chưa vượt ngục, chưa khoét tường âm mưu vượt ngục, mụ bỏ đi. Tôi vùng dậy, ra đứng sát cửa. Bên các phòng tù tập thể, mọi người ngồi xếp hàng ngay ngắn đợi chờ điểm số. Tiết mục điểm số đầu ngày xong xuôi, thế giới tù lại giống một miếng chợ. Cưả sắt khu B trổ một nửa hàn chấn song lớn, năm sáu người bám cửa nhìn sang cachot của tôi ra dấu hỏi thăm, hỏi tên, hỏi tội và cười thông cảm. Chúng tôi biến thành những người câm hết. Cả dân tộc đã biến thành những người câm. Bạn tù đánh một dấu hỏi. Tôi đưa ngón tay bóp cò súng tưởng tượng. Bạn tù biết tôi là phản động. Bạn tù đánh dấu hỏi tiếp. Tôi dơ một ngón tay. Bạn tù biết tôi bị bắt một tháng. Tôi đánh một dấu hỏi. Bạn tù đưa bàn tay hất hất. Tôi biết bạn tù vượt biên. Chúng tôi đã đàm thoại như các thiền sư. Chán trò chơi này, tôi đi đánh răng, rửa mặt.
Lôi cái bị cói ân tình ra xem từng món. Tôi sung sướng thấy hai bộ quần áo, mấy chiếc quân lót, một cái khăn mặt, một bàn chải và kem đánh răng, một cục xà phòng thơm, mười đồng bạc. Những cô gái giang hồ đã thương xót tôi, đã tặng tôi nhiều thứ.
Hôm qua, họ đã tỏ tình với tôi và tôi đã cảm động. Hôm nay, tôi cảm động muốn khóc. Tôi hết dám nghĩ xấu về gái giang hồ. Họ còn trái tim. Và còn trái tim là còn thiên lương. À, đó, văn phạm tù ngục đã giúp tôi đặt một câu dài về sự phán xét khi ta chưa rõ sự thật, về sự phán xét trong nghịch cảnh. Tâm hồn tôi lâng lâng. Tôi khỏi phải dùng ngón tay chà răng nữa. Hơn tháng nay mới được đánh răng bằng bàn chải và kem, tôi nhẹ nhỏm, khoan khoái vô cùng. Cảm hứng dạt dào, tôi cởi quần áo, vặn vòi nước, dùng ca hứng và xối. Rồi tôi giặt bộ quần áo ướt mèm còn vất xó trong phòng từ chiều qua.
Những tia nắng đầu tiên nhảy múa trên mái tôn dâỹ tập thể báo trước. Một buổi trưa nướng người trong những cái hộp khu C. Người thanh niên chiều qua đã xuất hiện.
– Số 12 lấy nước sôi. Có ca cho chị đây. Chị tên gì ?
– Ngô Kim Lan. Sinh viên luật, phản động, bị bắt hơn một tháng.
– Hoài, sinh viên Vạn Hạnh. Chị cần gì nữa?
– Báo tin mọi người, hy vọng sẽ gặp bạn cùng tổ chức.
– Tôi sẽ cố gắng. Chị nhớ, bây giờ là 7 giờ. Cơm sẽ phát 10 giờ 30. Chị ăn đủ phần cơm chứ?
– Cám ơn. Đủ.
– Chào chị.
Tôi nhận ca nước sôi. Hoài gánh nước sang cachot bên cạnh. Sinh viên Vạn Hạnh, kẻ thù của chế độ cũ, tù nhân của chế độ mới. Những kẻ ngu xuẩn đang đổ lỗi cho chúng tôi đã xuống đường làm lợi cho cộng sản. Chúng tôi chống mọi bất công, cay đắng. Chúng tôi chống bạo lực từ mọi phía. Và chúng tôi tiếp tục chống. Đừng thách thức chúng tôi tại sao bây giờ không dám xuống đường. Khi bạo lực là AK sẵn sàng khạc đàn thí xuống đường theo cung cách khác, ngoạn mục hơn, nhức nhối hơn. Hãy nhớ kỹ : Chúng tôi chiến đấu khi các anh đã đầu hàng. Chúng tôi bị bắt, bị còng, bị bịt mắt dẫn vào tù. Còn các anh, các anh đóng tiền nươm nướp ghi tên vào tù, tranh giành sớm muộn, rồi các anh ngớ ngẩn báo cộng sản lừa gạt các anh, nói học tập mười ngày mà học tập vô thời hạn. Các anh khôn ngoan hơn chúng tôi, kinh nghiệm cộng sản. của các anh đâu? Các anh không biết bản chất của cộng sản là gian dối hay sao ?
– Số 12 có quần áo phơi không ?
– Có.
– Chị cứ đưa từ từ. Em ở phòng tập thể, trực phơi quần áo hôm nay. Chị cần gì không?
– Không, cám ơn.
– Em tên Thu, nữ sinh Gia Long, còn chị?
– Ngô Kim Lan, sinh viên Luật.
– Số 12 lẹ lên!
Tôi đẩy bộ quần áo ướt ra, mĩm cười thấy mụ cai ngục đang ngó sang cachot của tôi. Tôi đang làm quen với sinh hoạt của đề lao Gia Định. 10 giờ, Hoài tới.
– Chưa liên lạc tin tức được. 1 giờ phát nước. 4 giờ phát cơm. Tụi nó đông quá. Chị lấy cơm đi.
Hoài ấn chặt khít ca cơm, vun có ngọn. Anh ta múc đầy thức ăn vào tô của tôi. Đói từ sáng sớm, tôi đã ăn hết: phần cơm. Chưa bao giờ tôi ăn nhiều thế. Chưa bao giờ tôi biết đói. Chưa bao giờ tôi hiểu vị ngọt bùi của cơm, dù là cơm tù gạo hẩm. Ăn xong, tôi rửa chén, tô và ngủ. Cachot đề lao Gia Định không hầm hơi như cachot An Ninh Nội Chính. So với phòng tập thể 1C, nó là thiên đường. Gió lùa vào ô cửa gió, lùa vào kẽ hở dưới thềm. Tôi ngủ rất ngon.
1 giờ, Hoài tới phát nước sôi. Anh dặn tôi uống dè vì nước sôi phát có hai lần.
– Chị đừng ngạc nhiên thấy tôi được làm công việc này. Tôi khoe và biết đóng kịch. Muốn sống, ta phải biết dấu móng vuốt. Và phải biết chờ đợi.
Tôi nhìn Hoài. Khuôn mặt anh khôi ngô, đôi mắt sáng rực. Chiến hữu của tôi, chiến hữu xứng đáng.
4 giờ, anh ta phát cơm cho tôi và dặn dò:
– Chị phải tập thể dục, phải chạy kẻo tê bại.
Tôi chợt nhớ mình, đã quên điều cần thiết âý từ một tháng nay.
5 giờ, cô Thu mang quần áo phơi khô trả tôi.
– Bột dinh dưỡng sáu thứ đậu, chị pha với nước sôi uống buổi sáng.
Cô đã lén gói vào bộ quần áo của tôi gói bột và gói đường tán. Tôi ngó sang dẫy tập thể mỉm cười, gật đầu cảm ơn. 6 giờ chiều, mụ cai ngục điểm số lần chót. Một ngày tù chấm dứt ở cachot. Nhưng ở khu tập thể, khi kẻng báo ngủ 9 giờ đêm, phiên chợ tù mới chịu im lặng. Từ lúc nãy, chỉ có hiu quạnh và buồn phiền.
Chương III
Đời sống ở cachot là đời sống riêng biệt. Trước kia, cachot chỉ dùng để nhốt những tù nhân bướng bỉnh, chóng phá, bạo loạn. Và nhốt có hạn kỳ. Bây giờ , người ta giam những phần tử phản động nguy hiểm vào cachot vô hạn định. Người ta bảo, ở cachot yên tĩnh, phạm nhân không bị chi phối, rất thuận tiện suy nghĩ về tội lỗi của mình để thành khẩn nhận tội lỗi đó. Người ta xử dụng cả đến sự cô liêu và bóng tối để tra vấn những thứ dấu kỹ trong đầu óc con người. Cachot, nỗi hãi hùng của ai chưa hề vào đó, sự bình thường của những người như tôi. Nó là phòng ‘’de luxe’’ của khách sạn lớn dành riêng tiếp khách đặc biệt. Ở cachot, tôi không suy nghĩ về tội lỗi của tôi, vì tôi chẳng có tội lỗi gì, tôi đủ thì giờ tra vấn thân phận tôi và số phận của thế hệ tôi lạc lõng. Bóng tối và cô liêu trong cachot, với tôi, là thứ ánh sáng nhiệm mầu và niềm bí ẩn tuyệt diệu. Tôi có thể nhìn thấy tôi ngày mai trên đầu nguồn hạnh phúc vườn Địa Đàng cùng những cảm giác thơm ngọt đào tiên sau chuyến phiêu du xuống vương quốc Hỏa Ngục, sẽ ra sao nhỉ, khi mình cắn trái táo mà lưỡi còn hương vị mật đắng đáy đời ? Đó chính là niềm mơ ước của kẻ hứng chịu đau khổ. Văn phạm ngục tù giúp tôi đặt một câu vè hy vọng bất tận của những người mà người khác tưởng rằng tuyệt vọng. Bất hạnh cho những kẻ không dám hy vọng, không còn gì mà hy vọng. Những bọn nhẩy đầm trên bãi tha ma và những bọn thụ hưởng vật chất đều ôm trái bất hạnh to bằng trái đất. Chẳng lẽ họ hy vọng được nếm mùi tân khổ ? Chẳng lẽ họ mơ ước được vào tù, được nhốt trong cachot, được nghe những tiếng ho quằn quại đêm khuya không gợi niềm trắc ẩn ? Tôi phải nói thật là tôi rất bằng lòng cái số phận tôi đang chịu đựng và đương đầu.
Mỗi ngày, mụ cai ngục mở cửa cachot hai lần, dẫn tôi tới phòng chấp pháp. Người ta vất cho tôi một xấp giấy, một cây Bic và bảo tôi tự khai. Tôi tự thắp một ngọn đèn cực sáng, chiếu rọi vào thân phận tôi từ thuở lên mười. Dĩ vãng tôi, hiện tại tôi, kỷ niệm tôi, ước mơ tôi, gia đình tôi, trường học tôi, thâỳ cô, bạn bè ngậm ngùi lếch thêch bước lên trên những trang tự khai quái đản. Viết hoài, viết mãi. Viết nữa. Tự khai sáng sớm. Tự khai buổi trưa. Tự khai buổi chiều. Tự khai ban đêm. Tự khai trong cơn sốt. Tự khai lúc kinh nguyệt dầm dề thiếu serviettes hygéniques. Tự khai, tự khai và tự khai. Dĩ vãng đi. Dĩ vãng về. Dĩ vãng tới. Dĩ vãng lui. Dĩ vãng nằm nghiêng. Dĩ vãng nằm ngửa. Tự khai, trò chơi ngậm bồ hòn của văn minh cộng sản. Nó làm tôi choáng váng, mỏi mệt. Một xấp giâý, một cây Bic, không cần dọa nạt, tra tấn, qúa khứ của một đời người phô bày nguyên vẹn. Chỉ viết thôi, cứ viết đi. Hôm nay có chút gì sai với hôm qua. Viết lại. Ngày mai thêm tình tiết mới. Viết lại từ đầu. Từng dấu phẩy, từng dấu chấm than đều bị soi kinh hiển vi. Tự khai ngày hai buổi rồi tự khai ngày nhiều lần. Tự khai nó biết canh giờ giấc vừa bưng bát cơm, chưa kịp ăn một miếng, nó gọi đi tự khai. Trở về mệt mỏi, cơm canh nguội ngắt hết muốn ăn. Nằm nghỉ, mới nhắm mắt, nó kêu đi tự khai. Nửa đêm nó bắt bỏ ngủ đi tự khai. Nó hành hạ tôi ròng rã một tháng. Nó làm tôi hao mòn, bơ phờ, mệt mỏi, chán nản. Nó khiến tinh thần tôi căng thẳng tột độ. Rồi nó bỏ rơi tôi.
Tôi lại có thì giờ ăn, ngủ bình thường, có những mẩu đối thoại ngắn với anh sinh viện Hoài, với các cô phơi quần áo, quét sân trực nhật của phòng tập thể ; có những khoảnh khắc trao đổi tư tưởng với «chiến hữu» cachot hàng xóm không hề thấy mặt nhau. Hàng tuần phòng tập thể dục nhận quà tiếp tế. Bạn tù lén lút cho tôi đủ thứ. Tô không thiếu gì ngoài serviettes hygéniques. Tôi đã phải xé áo may cái khố mà đeo chịu tội làm đàn bà những ngày cuối tháng. Khố dùng xong, giặt kỹ, phơi khô để còn dùng nữa. Tôi được cải tạo tư tưởng như thế ! Nhà nước xã hội chủ nghĩa rất giầu súng đạn, gông cùm nhưng rất nghèo serviettes hygéniques. Nếu Thượng Đế biết có ngày đàn bà, con gái bị cộng sản bỏ tù, chắc Ngài không nỡ bắt chúng tôi lãnh án kinh kỳ.
Ớ cachot Sở An Ninh Nội Chính, tôi đã làm quen với chú thạch thùng bé nhỏ. Trong cachot, thạch thùng thiếu thức ăn. Nó đành ăn cơm rơi vãi. Chú thạch thùng dám bò lên tay tôi nhấm nhá hột cỏm. Nó hiểu tôi không hại nó và muốn thử xem nó thân tôi tới mức nào, tôi bỏ cơm vào lòng bàn tay, nằm chờ nó. Hễ nó bị thạch thùng lớn đuổi, nó chạy đến tôi cầu cứu. Tôi yêu nó lắm nhưng phải xa nó.
Cachot khu B của để lao Gia Định không có thạch thùng vì ngọn đèn nhỏ vàng khẽ hiu hắt không quyến rũ. Chỉ có chuột. Tôi chú ý một chú chuột nhắt thường mò vô ăn cơm thừa trong ca. Nếu không rã rượi vì tự khai, tôi đã kết bạn với chú rồi. Bây giờ, người ta tạm quên tôi. Tôi phải tìm một niềm vui. Mười giờ, ăn cơm xong, tôi đổ hết cơm thừa vào túi ni lông. Kẻng báo ngủ, tôi nằm nhắm mắt chờ chú chuột. Tay tôi buông xuống nền xi măng, dúm cơm sát cạnh. Chú chuột đến. Ti hí mắt, tôi quan sát chú. Chú ngơ ngác, vẫy đuôi lia lịa. Chú bò ra ngoài sân. Lát sau, chú lại vào. Chú dò dẫm từng chút. Rồi chú mon men gần mồi. Chú chạp vội một miếng, chạy ra xa nhẩm nhá, nghe ngóng. Thấy êm, chú tiến lần thứ hai. Lần này, chú thản nhiên thưởng thức cơm tù. Tôi giả vờ ngọ nguậy bàn tay. Chú co đuôi chạy. Rồi lại tới, đôi mắt sợ sệt thật dễ thương. Đúng là chuột con nít, sợ mà thích đùa rỡn. Có thể quen biết với chú rồi, tôi ngủ. Khi tôi thức, chú chuột đã ăn hết phần cơm của chú. Buổi tối, chú chuột vào. Chú bạo dạn hơn buổi trưa. Mất ba hôm đùa rởn chú, ngày thứ tư tôi bỏ cơm lên bàn tay. Chú chuột leo lên tay dùng bữa. Tôi rờ rẫm chú, chú ngừng ăn. Nghĩ sao, chú liều lĩnh, tiếp tục ăn. Sang ngày thứ bâỷ, tôi đã tóm chú, vuốt ve. Chú hết sợ hãi. Và tôi có người bạn thú vị. Tôi tắm chú bằng xà phòng thơm, lau khô chú. Lạ lùng thay, chú chuột quên đường về hang ổ quên gia đình, suốt ngày đêm chú quanh quẩn bên tôi. Chú ăn với tôi, ngủ cạnh tôi như một con mèo. Chuột và người trong một cachot, âu yếm, quyến luyến.
Đúng một tháng tĩnh dưỡng, người ta lại gọi tôi đi tự khai. Tôi phải tự khai từ đầu, tự khai mới, hoàn toàn mới vì tự khai với người công an mới. Vẫn như tôi đã tự khai. Những dòng chữ ê chề lại uể oải bò trên những trang giấy ê chề? Trò chơi tự khai đích thực là trò chơi «chết đuối người trên cạn». Nó bắt con người phải nhai đi nhai lai cỏ rơm như trâu bò. Không còn gì thê thảm hơn là hàng ngày ta bị bắt buộc viết quá trình của đời ta một lần. Nếu Hemingway bị viết một chục lần thôi, một truyện ngắn mà ổng đã viết xong, ổng sẽ điên lên. Nhưng có loại nhà văn, nhà thơ suốt đời viết đi viết lại những trang suy tôn lãnh tụ mà vẫn tỉnh, vẫn tự hào mới can đảm. Tôi chỉ bị tự khai dĩ vãng và hiện tại ngày này sang ngày khác mà đã chóng mặt, buồn nôn vào chủ nghĩa cộng sản. Với cung cách tự khai ghê tởm này, tôi nghĩ, các ông Trường Chinh, Lê Duẩn, Tố Hưũ, Lê Đức Thọ. . . mà viết về ông Hồ Chí Minh, thế giới sẽ nhìn cái xác chết trong hòm kính bâỳ ở Lăng Bác bằng những con mắt khác, cả quá trình bẩn thỉu nhất của ông Hồ Chí Minh sẽ được sống dậy. Người ta sẽ ngạc nhiên thấy vĩ nhân Hồ Chí Minh cũng hai vợ, cũng gián điệp bán tin cho cả Mỹ, Anh, Pháp lẫn Nga. . . Và nếu các vị tướng lãnh, tổng trưởng rniền Nam đều thành khẩn tự khai cả, lịch sử Việt Nam sẽ có một pho buồn rượi. Vì ròng rã năm mươi năm, vận mệnh của dân tộc Việt Nam đã phó thác cho lũ vô lại phỉ quyền và ngụy quyền. Nhưng lịch sử thường được dấu nhẹm bởi bọn ngự sử khốn kiếp ghi chép sử ký bằng nước cống và tâm hồn chó săn. Chính sử đã hỏng, vẫn còn ngoại sử, dã sử và tiểu thuyết và ca dao và tiếu lâm. Và tuổi trẻ Việt Nam hôm nay đang quằn quại trong tù ngục phỉ quyền sẽ rửa sạch lịch sử năm mươi năm ô uế bằng máu.
Dĩ vãng của người con gái hai mươi nhăm tuổi, một dĩ vãng mặt trăng, có gì đâu mà khai đi khai lại. Hiện tại của nó là mặt trời, có gì đâu mà khai lại, khai đi. Tự khai nó muốn tôi mòn mỏi, nó muốn tôi gian dối. Tôi không chiều ý nó, nó đày đọa tôi. Nó bảo tôi cúi đầu nhận tội. Tôi có tội gì ? Tôi yêu tổ quốc, yêu quê hương, yêu nòi giống, nó bảo tôi không được quyền yêu. Chỉ nó mới độc quyền yêu, ai khác yêu là có tội. Nó thích nó là núi cao chót vót, bề thế chúng tôi chỉ là cỏ dại dưới chân nó. Nó cho nó là đại dương mênh mông, chúng tôi chỉ là rác rưới lênh đênh. Tôi không chịu thế, nó bắt tôi tự khai đến khi nào tôi phải đầu hàng, phải công nhận nó là ưu việt, là tinh hoa của nhân loại. Cứ đầy đọa tôi đi, tôi còn đủ sức chịu đựng.
Những ngày tôi tự khai, chú chuột buồn lắm. Tôi thường về cachot khi cơm đã phát để trong phòng. Chú chuột ngồi cạnh ca cơm, không dám ăn. Tôi về, chú mừng rỡ, leo lên chân tôi. Chúng tôi cùng ăn cơm với nhau, chú đã chia sẻ với tôi những nỗi đắng cay. Trên tay tôi, chú chuột nhỏ bé nghe tôi kể nỗi đau tự khai. Chả biết chú có hiểu gì không mà cứ chúc mõm cầy lòng bàn tay tôi. Thêm hai mươi ngày tự khai, người ta lại bỏ rơi tôi, không hứa hẹn gì cả. Thản nhiên, tôi sống và chờ đợi. Tôi chịu khó ăn, chịu khó ngủ, chịu khó tập thể dục. Tôi còn may mắn là không bi ghẻ lở. Đêm cachot hiu quạnh khôn cùng. Nghe tiếng báo bệnh, báo tử tự khu khác vọng vang, tưởng chừng những mũi kim nhọn đâm vào tim mình đau nhói. Tôi không thể nào quên nổi tiếng kêu lanh lảnh về khuya «Báo cáo cán bộ biệt giam C1 có người chết» hay «Báo cáo cán bộ biệt giam C2 có người tự tử». Mỗi lần nghe mỗi lần cảm giác gai góc ớn lạnh. Cuộc đời có những tiếng kêu hãi hùng. Quê hương tôi nhiều tiếng kêu hãi hùng nhất. Một triệu tiếng kêu của một triệu người chết đói. Một triệu năm trăm ngàn tiếng kêu của một triệu năm trăm ngàn kiểu chết cách chết cải cách ruộng đất. Năm trăm ngàn tiếng kêu của năm trăm ngàn lối chết sửa sai. Rồi tiếng ú ớ bị thủ tiêu ngâm rọ dưới nước ; tiếng thét bị dao găm thọc cổ, mã tấu vằm thây ; tiếng la trúng mìn trúng bom, trúng đạn, trúng chông, trúng bẫy. . . Và tiếng báo tử đêm tù khuya khoắt. Những thứ tiếng ấy đã chỉ làm nên một lịch sử bầy nhầy của năm mươi năm phản bội, ngu dốt chém giết lẫn nhau bằng súng đạn, của hai thứ chú nghiã.
Liệu dân tộc ta có lớn lên không ? Liệu tiếng kêu chiếm giải nhất tiếng kêu đau khổ của nhân loại có lay động nổi tâm hồn phỉ quyền và ngụy quyền không ? Hay họ vẫn nuôi ác mộng tiếp tục giết nhau nữa bằng vũ khí của người xa lạ để tạo thêm hằng triệu tiếng kêu sầu thảm trong tiếng kêu của nút champagne nổ tiếp tân tuyên ngôn của mặt trận, của lực lượng và tiếng cười hữu nghị thắm thiết tình nghĩa anh em sát nhân. Dân tộc tôi, hình như, chưa thể khá nổi. Những kẻ thích nắm quyền lãnh đạo không bao giờ chịu tra vấn họ, chịu lột xác và chịu nhận mình bất tài vô tướng. Nhân sinh quan của họ mãi mãi là thứ nhân sinh quan giá áo túi cơm và vọng ngoại. Họ kình địch chống đối nhau bằng máu của dân tộc không phải vì hạnh phúc của dân tộc mà vì quyền bính của họ và hạnh phúc của vợ con họ. Những cậu Xuân tóc đỏ 1 của miền Nam, bỗng một hôm nào đó, thấy mình trở thành những nhà ái quốc. Và các cậu ngồi lên ghế lãnh tụ, tưởng chính trường là sân quần vợt, tướng lãnh đạo đất nước là nhặt banh cho ông tây, bà đầm. Các cậu vội vàng quên cái quá khứ lái máy bay buôn thuốc phiện lậu cho chủ cũ, quá khứ giết người ở phòng trà, quá khứ mật thám tây, quá khứ lính pạc ti đăng. Xuân tóc đỏ có thể về sân quần vợt nhặt banh một cách bình thản. Nhưng, những kẻ số đỏ như nó đã không giống nó. Các cậu ấy vẫn tiếp tục múa may khi bị đào thải. Các cậu ấy chẳng chịu nhớ cái bản chất Xuân tóc đó ở kẽ hở của phòng tắm và sự nghiệp đi lên cũng từ kẽ hở của phòng tắm đàn bà. Cuộc đời có một bà Phó Đoan thôi, có một lần ông Big Sam chiếu cố thôi. Các cậu càng múa càng ngớ ngẩn, càng làm hỏng cuộc chiến đấu cô đơn và lãng mạn của chúng tôi.
Dân tộc tôí, hình như, chưa thể khá nổi. Phần nào đó, định mệnh của dân tộc tôi nằm trong cái huyền thoại Rồng Tiên, cái bọc trăm con trăm trứng. Tự thuở lập quốc, dân tộc tôi đã chia rẽ rồi. Năm mươi người theo mẹ lên núi. Năm mươi người theo cha xuống biển. Bà Âu Cơ chết. Ông Lạc Long Quân chết. Cháu chắt sinh sôi đầy đàn. Nó quên cùng chung một bọc. Nó quên ý nghĩa đồng bào. Nó phân ly. Khởi sự là mười hai sứ quân. Và giết nhau, chống nhau liên tục trải dài khắp các triều đại. Khai quật mồ mả. Đốt phá điện đài. Thủ tiêu tài năng. Thoán nghịch. Chưa đủ, năm mươi người Đàng Ngoài thù hận 50 người Đàng Trong, binh lửa hàng trăm năm khốn nạn. Đời sau mang nỗi hận sông Gianh chưa nguôi đã hận sông Bến Hải. Lại Đàng Trong với Đàng Ngòai, ghê tởm hơn, quyết liệt hơn hai mươi năm đâm chém nhau do ý thức hệ ngoại bang. Mấy thế hệ thanh niên Việt Nam hứng bom Mỹ, đạn Nga. Chẳng phải tư bản cũng bỏ mình vì chủ nghĩa tư bản. Chẳng phải vô sản cũng hy sinh cho chủ nghĩa vô sản. Và hận thù lẫn nhau còn hơn tư bản chính cống thù vô sản đích thực. Rồi lại chia ly, lại âm mưu đâm chém nhau nưã. Xuân tóc đỏ và Chí Phèo lãnh đạo hai phe. Những người Việt Nam chân chính đâu rồi? Họ còn sót một ai không nhỉ? Có lẽ, chỉ còn chúng tôi, tuổi trẻ Việt Nam trong tù ngục quê hương, những con sư tử lãng mạn mà dĩ vãng, hiện tại, tương lai mãi mãi dịu dàng như mặt trăng, rực rỡ như mặt trời. Chúng tôi không là Xuân tóc đỏ, là Chí Phèo, là khuyến Mỹ, là khuyến Nga. Chúng tôi là người Việt Nam chưa cầm súng tư bản, chưa vác đạn cộng sản. Chúng tôi vẫn biết chiến đấu. Chúng tôi không đòi hỏi máu trả máu, thù hận trả thù hận, tù ngục trả tù ngục. Chúng tôi đòi hỏi hạnh phúc cho dân tộc chúng tôi, hạnh phúc thật sự, tự do thật sự, dân chủ thật sự, bất kể hạnh phúc, tự do, dân chú ấy dưới bất cứ nhãn hiệu một chế độ nào. Chúng tôi không tưởng ? Nhưng có một lý tưởng nào chưa thoát thai từ một không tuởng ? Thoạt đầu, trái đất xoay chung quanh mặt đình vô thời hạn.
Phần cơm của tôi bị rút bớt còn một nửa. Tôi bị cô lập hoàn toàn trong bóng tối âm u của cachot, của thời đại tôi. Tôi không than vãn, không xin xỏ một ân huệ nào dù người ta đã gợi ý. Rốt cuộc, còng chân được tháo ra và cửa gió được mở ngày đêm, phần cơm đầy ắp, thức ăn nhiều hơn. Tôi trở thành người tình chung của tù nam. Họ gọi tôi nữ hoàng cachot bằng cả tấm lòng âu yếm và ngưỡng mộ. Họ ngạc nhiên thấy con gái can đảm hơn con trai, ngoan cường hơn con trai, quyết liệt hơn con trai. Tôi còn dịp trở về cachot B, cachot C1. Nữ hoàng cachot không hổ danh tước vị của nàng. Ngày 15 tháng 4 năm 1977, sau một năm lưu lạc khắp các cachots của đề lao Gia Định, người ta gọi tôi lên phòng chấp pháp. Ở đó, tôi gặp mẹ tôi. Mẹ tôi khóc nức nở và van xin tôi thành thật khai báo để sớm được tha. Mẹ tôi không hiểu gì cả. Tôi đã thành thật tự khai hết về dĩ vãng và hiện tại của tôi rồi. Tôi cố nén xúc cảm để khỏi ưá nước mắt trước mặt bọn không có tình cảm, bọn độc ác phải dùng đến cả tình mẫu tử để truy nã tâm hồn tôi.
Rốt cuộc, mẹ tôi vẫn đành về với nước mắt và tôi không thể thành thật tự khai thêm điều gì. Cũng ngày hôm đó, tôi bị chuyển sang khu A. Người ta đẩy tôi vào một cachot cũ kỹ thời Pháp thuộc. Mười lăm phút sau, người ta gọi tôi đi làm việc. Cái bị cói và chú chuột của tôi nằm lại trong phòng. Tôi không về nữa. Cùng với hai người con gái khác, chúng tôi bị nhốt chung một cachot, còng tay và chân vào nhau.
Một giai đoạn mới của cuộc đời tù ngục của tôi. Tôi bỗng thương con chuột nhắt quá. Làm sao nó sống được khi thiếu tôi. Nó lạc đường về liệu biết cách mưu sinh không?
1-Nhân vật trong Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng.
Chương IV
Người ở giữa bị còng cả hai tay lẫn hai chân là tôi. Tay bên phải của tôi và tay bên trái của người đứng bên phải tôi chung một cái còng số 8. Chân cũng vậy. Tay chân bên trái còng với tay chân bên phải của người đứng bên trái. Vì chỉ xử dụng hai cái còng nên tay trái, chân trái, tay phải, chân phải của hai người bên cạnh tôi không bị dính còng. Hai bàn tay «tự do» ấy sẽ vất vả vì tôi.
Chúng tôi thân nhau rất dễ dàng. Người bên phải tôi là Nga, giáo sư văn chương của trường Lê Văn Duyệt. Nga cầm đầu một tổ chức phản động gồm toàn nữ sinh của nàng, tổ chức của những cô gái lãng mạn của thời đại. Thay vì nằm nhà đọc tiểu thuyết ướt át và hẹn hò đôi lứa, họ đã hẹn hò nhau, đem truyền đơn chống cộng sản vào các rạp xi nê, đặt tận tay từng người. Nga viết truyền đơn. Học trò nàng chung tiền để mua giấy, mua stencil và quay ronéo. Rất nhiều tổ chức như tổ chức của Nga. Họ không quen nhau. Họ chống cộng sản như con nít chọc khỉ, chọc cọp đói trong sở thú. Và họ đã bị bắt. Người bên trái tôi là Nhi. Nàng mở quán cà phê trên lề đường Tự Do. Khách của nàng là những thanh niên, thiếu nữ của tổ chức. Họ thường tới uống cà phê để thông tin và nhận công tác mới. Nhi dậy triết ở Trường Sơn. Ông hiệu trưởng bị bắt trước nàng hai tháng. Cả ông giám thị cũng mắc lưới. Nhi cho tôi biết hai ông bị phát hiện vì là do Kẻ tà đạo. Nó đã bán ông bạn già của mình. Nhiều học sinh Trường Sơn theo thầy vào các trại giam. Tôi kể cho Nga và Nhi nghe về hoạt động của nhóm chúng tôi. Và chúng tôi đã cười vang cả cachot. Quả thật, chúng tôi lãng mạn. Cachot nhốt ba chúng tôi rộng bằng phòng tập thể C1. Không có bức xi măng, không có vòi nước, không có cầu tiêu. Cửa gió đóng kín ngày đêm. Chúng tôi nằm trên sàn phòng ẩm ướt, không chăn chiếu. Một cái xô thiếc đặt ở góc phòng, chúng tôi sẽ tiểu tiện, đại tiện vào đó. Luật lệ ở các nhà tù cộng sản cấm tù nhân không được giữ trong mình bất cứ một thứ giấy nào, trừ thư gia đình. Do đó, tù nhân đại tiện xong phải rửa bằng nước. Chúng tôi bị tống vào cachot không hành lý, tay chân còng kỹ, nhìn nhau, chưa hiểu sẽ phải đương đầu với hình phạt này ra sao. Ở cái hành tinh quyến rũ và tự hào văn minh số một của chúng ta, có nơi nào người ta xích đàn bà, con gái thành chùm trong nhà tù không nhỉ? Địa ngục ở đâu? Chắc chắn, địa ngục không bao giờ là địa ngục của Thiên Chuá giáo hay âm phủ của Phật giáo. Nó ở ngay lòng chủ nghĩa mà chủ nghĩa cộng sản là điển hình của một địa ngục ghê tởm. Quỷ sứ là những người cộng sản lớn nhỏ. Trò chơi của họ thì giống hệt trò chơi của quỷ sứ đã được mô tả dưới địa ngục, âm phủ của tôn giáo. Chúng tôi đang leo lên cái cầu vồng chênh vênh. Bầy chó ngao đợi chúng tôi té ngã, trơn ngã, chóng mặt ngã là xé xác chúng tôi. Hãy can đảm leo lên cái cầu vồng thử thách đó. Tôi tự nhủ. Bên kia cầu vồng là gì, có gì? Nếu không phải là mênh mông, mơ ước, không có chứa chan hạnh phúc thì, ít ra, cũng có một cuốn sổ, một cây bút để chúng ta ghi rõ câu định nghĩa làm người.
Buổi chiều, người ta mở cửa phòng, đem cho chúng tôi ba phần cơm, để ngay sát cửa. Cô giáo Hoàng Thị Nga mỉm cười:
– Chúng ta sẽ là Án Tử sang nước Sở.
Nga kể vanh vách cái điển cố này như thể nàng đang đứng trước bảng đen. Rồi Nga kết luận:
– Thế đó. Ở với bọn chó, ta đành sống theo kiểu chó. Nào, ra lấy cơm. Chúng ta cần sống.
Tôi nói:
– Để đủ sức leo qua cầu vồng.
Cô giáo Trần Thu Nhi tiếp:
– Cầu vồng còn dài lắm.
Cả ba chúng tôi cùng đứng dậy, cùng đi, cùng cúi xuống. Nhưng chỉ có tay trái của Nga và tay phải của Nhi làm việc. Chúng tôi lượm cơm canh hai lần. Tôi có thể bưng cơm canh. Và khi tôi bưng, tay phải của Nga và tay trái của Nhi cũng phải làm những động tác y hệt hai bàn tay tôi.
– Nếu ngồi ăn, Nga nói, Lan sẽ chờ lâu, chúng tôi ăn xong mới bón cơm cho Lan được.
– Em thích làm bébé, chị Nga ạ! Tôi nói.
– Mình ăn kiểu nằm đi. Nhi nói.
Chúng tôi nằm sấp. Như thế, muốn ngóc đầu cao, Nga và Nhi cần chống một khuỷu tay. Họ sẽ ăn bằng tay còng với hai tay của tôi. Tôi vẫn đợi thôi. Nếu họ ăn bằng tay không bị còng, họ phải dùng tay bị còng mà chống khuỷu. Người ở giữa thúc thủ. Cuối cùng, chúng tôi ngồi dậy. Nga và Nhi ăn trước. Tôi ăn sau theo kiểu vú già nuôi con nít.
– Cộng sản kết tội Mỹ đưa dân ta trở về thời kỳ đồ đá. Còn họ, họ đưa chúng ta trở về thời kỳ gì nhỉ? Nga hỏi.
– Thời kỳ heo! Tôi đáp.
– Heo cổ đại, Nhi thêm, heo hiện đại nuôi phuong pháp kỹ nghệ sướng hơn chúng ta. Chúng có vòi nước tắm tự động, có nhạc cổ điển nghe và không bị còng.
Chúng tôi có những bữa ăn uống đau khổ, tủi nhục. Rồi chúng tôi cũng tự giải quyết ổn thỏa. Nhưng vấn đề tiêu, tiểu mới phiền phức. Một người đi tiểu là ba người cùng lết còng đi, không mót đi cũng phải đi. Đang đêm, cả ba lồm cồm ngồi dậy, lê chân dưới ngọn đèn tù cachot vàng khè, mắt nhắm mắt mở đi tiểu hoặc đi tiêu. Nga và Nhi thay phiên nhau chùi đít giùm tôi. Không có nước, không có giấy, chúng tôi đành xé ống quần dài lấy giẻ thế giấy vệ sinh. Cái xô cứt và nước đái thiếu luôn nắp đậy. Người ta hẹp hòi đến thế là cùng. Ban ngày ruồi nhặng ghê tởm. Ban đêm muỗi hãi hùng. Chúng tôi đã sống như vậy. Con người đã bị sống như vậy và sống trong tiếng thét hào hùng của các chiến sĩ đấu tranh nhân quyền làm dáng bên kia đại dương.
– Nếu chúng ta có chính quyền, chúng ta sẽ đối xử với những kẻ đã ngược đãi với chúng ta như sao? Nga mở đầu buổi «còng đàm» trong cachot ẩm mốc, hôi hám của khu A đề lao Gia Định.
– Chúng ta sẽ dậy họ làm người. Nhi nói. Và nàng cao hứng hát lớn. «Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng. Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương. Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm. Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương…1
Cô giáo triết lý ngừng lại. Rồi góp ý:
– Thấy chưa, người cộng sản mơ ước làm chim, làm hoa, làm mây và cả làm người nữa. Tôi tự hỏi họ đang làm gì mà họ mơ ước làm người. Theo thuyết luân hồi của nhà Phật, kiếp này ta làm người, kiếp sau ta làm chim, làm thỏ, làm gà… Kiếp này ta làm chó, ta mong làm người. Chúng ta sẽ dậy cộng sản làm người, sẽ giúp họ chóng nên người. Họ thèm làm người quá rồi.
– Ý nghĩ tuyệt diệu. Nga nói. Khi cộng sản hóa kiếp làm người, họ sẽ hết là cộng sản. Giúp họ làm người thật, đó là sứ mạng của những kẻ đang bị họ còng tay còng chân trong cachot. Chúng ta hãnh diện chúng ta là những con người dám đem yêu thương đổi căm thù.
– Các chị sẽ bị những ông đòi thọc huyết cộng sản, đòi chôn sống hết cộng sản giết lây. Dẫu các chị không chết, các chị cũng bị bôi bẩn, lên án. Tôi nói. Nhưng em thích lãng mạn như các chị.
– Tổ tiên của chúng ta đã lãng mạn và cao thượng.
– Do đó tổ tiên chúng ta có ca dao bay bổng.
– Chúng ta có thơ lục bát.
– Có sáo diều lơ lửng.
– Chúng ta còn có triền miên đau khổ để chúng ta định nghĩa làm người Việt Nam.
– Tôi sẽ lập thuyết ở cachot tồi tệ này. Ai là tinh hoa của nhân loại? Giai cấp nào? Trả lời ngay: Tiểu tư sản. Tất cả vĩ nhân, tài năng của nhân loại đều xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản. Tại sao tiểu tư sản chỉ cam đành làm tôi mọi cho tư bản và vô sản? Và bị cả tư bản lẫn vô sản ghét bỏ, khinh khi? Tiểu tư sản là đầu óc, là tâm hồn của tư bản và vô sản. Tiểu tư sản đông nhất thế giới. Ai còn thích cái xe riêng, căn nhà riêng, mảnh vườn riêng, ao cá riêng… người ấy là tiểu tư sản. Tư bản và vô sản đã bất lực trong sự mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại và đã lộ rõ móng vuốt bất lương, bất nhân của chúng. Vậy thì tiểu tư sản phải giành quyền lãnh đạo loài người. Tiểu tư sản các nước trên trái đất, hãy vùng lên!
– Lại tân chủ nghĩa, lại chém giết nhau nữa.
Những buổi «còng đàm» giúp chúng tôi qua thời gian mau lẹ. Tôi bỗng thấy một điều mới đã cũ rích. Con người không thể sống thiếu con người. Thế mà có những con người cứ đòi giết hết người khác. Tôi đã ở các cachots ròng rã một năm. Sống một mình đơn độc, buồn nản và sợ hãi vô cùng. Sống với người khác, dù chỉ hai ba thôi, bỗng lòng mình ấm áp, tin tưởng. Ngày thứ bẩy, người ta mang cho chúng tôi mỗi đứa một bộ quần áo và những thứ lặt vặt như khăn, xà phòng, bàn chải đánh răng, khăn, lược… Người ta đã lấy chúng từ những cái bị hành lý tù của chúng tôi. Rồi người ta mở còng, cho phép chúng tôi đi tắm. Nhà lập thuyết tiểu tư sản, cô giáo triết học Trần Thu Nhi, xách cái xô lưng lưng phân tiểu ra khỏi phòng. Chúng tôi ăn ít nên tiêu hóa ít. Và nữa, sợ làm phiền nhau, chúng tôi hạ quyết tâm nín đại tiện, càng lâu càng tốt. Ở tù cộng sản, sự tiểu tiện, cái thú thứ tư của con người, cũng bị giới hạn. Nhi đi đổ phân tiểu, rửa xô. Nga và tôi quét phòng, Sau đó, người ta dẫn chúng tôi tới phòng tắm. Chúng tôi gội đầu, tẩy uế thể xác, đánh răng… Hạnh phúc, tôi đã nhìn rõ một sợi tơ hồng của nó trong cơn tắm say sưa. Bình thường, tắm gội chẳng có ý nghĩa gì ngoài sự vệ sinh hàng ngày. Nhưng một tuần lễ xích tay, còng chân trong cachot hôi hám, mình mẩy nhớp nhúa, được tắm một trận thỏa thuê thì mỗi gáo nước là một ý nghĩa trong vắt, nhiệm mầu. Nước trên suối tiên Đào Nguyên chưa chắc đã tuyệt diệu bằng.
– Tiên nữ tắm như thế nào, Lan biết không? Nga xối nước ào ào lên đầu tôi.
– Em thiếu trí tưởng tượng, chị ạ! Tôi vuốt mặt.
– Thì cũng trần truồng như mình. Khác một điều là họ được tự do phơi sự trần truồng của họ với thiên nhiên. Nhi nói.
– Có lần Lưu Thần và Nguyễn Triệu tắm chung với họ. Nga cười.
– Tôi muốn tắm chung với anh tù phản động nào đó. Nhi nói. Rất tiếc, kép của tôi không dám làm phản động.
– Y làm gì? Nga hỏi.
– Trí thức yêu nước! Nhi đáp.
– Ôi, cái bọn yêu nước có bảng hiệu, cái bọn vô liêm sỉ ấy nhan nhản khắp nơi. Trí thức yêu nước, Việt kiều yêu nước. Tu sĩ yêu nước… vịt yêu nước! Chúng nó là cái xô phân trong góc cachot của ta. Nga gay gắt phán xét.
– Nói tiếp chuyện tiên đi, các chị. Tôi dục.
– Ba chị em mình là ba nàng tiên đẹp nhất trong bầy tiên. Khúc nghê thường của chúng ta là vũ khúc diễn tả sự thống khổ làm lay động cái bóng tối âm u trùm kín mít lương tri của loài người. Chúng ta đang ở trong các cachot tù ngục? Không phải đâu, chúng ta đang múa trên những sân khấu vĩ đại. Chúng ta đang sáng tạo bản trường ca hạnh phúc cho loài người.
– Bản trường ca có người xách xô cứt.
– Có ba người con gái tay chân còng chung, đi ỉa xé quần làm giẻ chùi, kinh nguyệt không serviettes hygiéniques, một tuần không đánh răng, rửa mặt.
– Vẫn can đảm chịu đựng và ngẩng mặt.
Câu chuyện trong phòng tắm đang hấp dẫn thì cai ngục hối thúc. Chúng tôi lau khô mình mẩy, đầu tóc, mặc quần áo, chải đầu và bước ra. Cai ngục thu lại những món lặt vặt, thu luôn cả quần áo dơ bẩn vừa giặt giũ xong. Chúng tôi về cachot như buổi trưa chúng tôi mới đến. Hôm nay, tới lượt Nga ở giữa trong «tam ca cái còng». Sẽ tới lượt Nhi ở giữa. Chúng tôi tượng trưng ba miền đất nước: Bắc, Trung, Nam. Cả ba miền đất nước đã bị còng chung đằng đẵng năm mươi năm chém giết.
«Cái còng này còng tay ta
Do Mỹ do Nga tạo ra
Các con ráng còng cho kỹ
Muôn năm với nước non người»
Nga đã chế ra những lời mới cho bài ca Lá Cờ. Người Việt Nam, từ ba chục năm nay, đều chỉ biết còng nhau bằng còng Nga, còng Mỹ. Đất nước chúng ta thiếu nhiều thứ. Có một thứ chúng ta bằng lòng thiếu là kỹ nghệ chế tạo còng. Kỹ nghệ này phát triển mạnh ở Mỹ và Nga, nó là ưu tiên hàng đầu cho mục đích cao cả viện trợ các nước nhỏ.
– Tôi sẽ viết bài diễn văn trong tù! Nga nói.
– Đọc ở đâu? Nhi hỏi.
– Quốc hội Mỹ. Tôi đã nghĩ sẽ có ngày tôi vượt ngục, trốn sang Mỹ đọc bài diễn văn trước Quốc hội Mỹ rồi lại về Việt Nam.
– Đề tài diễn văn của chị?
– Những cái còng Mỹ. Phải, những cái còng made in USA đang trên tay ta, dưới chân ta, đang có mặt khắp các nhà tù Việt Nam. Một tối nào đó, tôi sẽ đọc cho Nhi và Lan nghe.
Bài diễn văn đọc trước Quốc hội Mỹ soạn trong bóng tối cachot, gần xô cứt và tay chân bị còng bằng còng Mỹ. Tuyệt diệu. Bài diễn văn lạ lùng nhất từ thuở khai thiên lập địa.
– Em sẽ đeo còng Mỹ vỗ tay.
Chúng tôi tiếp tục sống dính chùm sang tuần thứ hai. Mọi sinh hoạt không mảy may thay đổi. Qua tuần lễ thứ ba, bệnh tim của Nhi dở chứng. Nhi nói chị mắc bệnh tim từ năm còn ngồi trung học. Thỉnh thoảng, chị như bị nghẹt thở và phải chở đến nhà thương cấp cứu. Ngót một năm vào tù, bệnh tim cảm thông nỗi khổ của chị, quên hành hạ chị. Bây giờ, nó muốn tiếp tay với hình phạt nhà tù. Nửa đêm, Nhi thở yếu và xỉu. Chúng tôi kêu la ầm ỹ. Y tá trực tới, khám xét qua loa và bảo Nhi giả vờ. Khi y tá trực xuất hiện, tim của Nhi trở lại nhịp độ bình thường, do đó, y quả quyết Nhi đùa rỡn. Y không biết y đã đến quá chậm. Nhiều lần kế tiếp, báo bệnh hàng trăm lần, y tá trực lờ đi. Rất may, bệnh tim chưa nỡ hại nhà lập thuyết tiểu tư sản.
– Chị phải lập thuyết xong hãy chết, chị Nhi nhé! Tôi nói.
– Tôi thèm nghe bài diễn văn của Nga. Bài diễn văn đọc trước Quốc hội Mỹ sau khi đã là điếu văn đọc trước xác chết của tôi. Nhi nói.
– Ở đây không cho phép ai nói đến cái chết? Nga nói.
– Vậy chúng ta nói cái gì? Tôi hỏi.
– Sự sống. Sự sống của ta và của người khác. Nga đáp và tiếp, – Nếu bài diễn văn của tôi không được đọc trước Quốc hội Mỹ nó sẽ mang tên Bài diễn văn không đọc trước Quốc hội Mỹ.
– Không cần đọc ở Mỹ.
– Đọc ở đâu?
– Ở cachot, đọc bên cạnh xô cứt, đọc cho ruồi nhặng và muỗi nghe.
– Ý kiến hay nhưng mỉa mai cay đắng quá.
– Nó coi ta như rác, ta coi nó như ruồi muỗi.
– Chưa thoát. Nó coi ta như rác, ta hoan hỉ nhận ta là rác làm đồ bón dưới gốc cây Hạnh Phúc của loài người.
– Và nó là ruồi muỗi chuyên gây bệnh hoạn khắp trái đất.
Tôi thường ngồi nghe Nhi và Nga «còng đàm» một cách thích thú. Tiếc rằng, ít khi họ «còng đàm» đầy đủ một vấn đề. Chúng tôi nói đủ các thứ chuyện. Thuở đầu đời, những tháng năm học trò, tình yêu, hẹn hò, chia ly và chiến đấu. Chúng tôi gặp nhau ở điểm: chiến đấu vì cần thiết phải chiến đấu. Thế thôi. Chúng tôi không hề nghĩ chuyện thành công và thất bại.
– Nếu chúng ta thành công, chị sẽ làm gì, chị Nga?
– Tôi chỉ xin được tiếp tục dạy ở trường Lê Văn Duyệt.
– Còn chị, chị Nhi?
– Tôi muốn đi trồng hoa ở các phòng tù.
– Chị không làm Bộ trưởng à, chị Nga?
– Thứ cóc chết ấy, nó sẽ làm bẩn những ngày chúng ta dính chùm ở đây, Lan ạ!
– Chị nghĩ sao, chị Nhi?
– Tôi ghê tởm quyền bính. Quyền bính làm con người ngu si, hèn hạ và độc ác?
Chúng tôi ở với nhau rất hòa thuận. Định mệnh đưa chúng tôi đến cái cachot tồi tệ này, còng chúng tôi chung một thứ còng. Thể xác tôi rã rượi lắm rồi. Tôi sắp sửa tê liệt chân tay. Nếu không có Nga và Nhi hoặc nếu ở giữa, ở cạnh những người khác, chắc chắn, tôi đã gục ngã. Nga luôn luôn khích lệ tinh thần tôi. Chị bảo tôi còn phải chịu đựng nhiều nữa. Chị bảo tôi đừng tính từng ngày chịu đựng mà nên nghĩ mỗi ngày là mỗi bắt đầu chịu đựng. Chị bảo cuộc sống sẽ chỉ đãi ngộ ai dám chịu đựng mọi cơ cầu. Tôi tưởng tôi đã trưởng thành. Với Nga và Nhi, tôi vẫn là cô học trò của hai chị.
Buổi trưa ngày thứ năm mươi mốt, Nga báo tin chị đã soạn xong bài diễn văn ứng khẩu. Và chị sẽ đọc cho Nhi và tôi nghe đêm nay. Tôi không nhìn thấy tôi nhưng tôi nhìn rõ khuôn mặt của Nga và Nhi. Mắt họ trũng sâu, thâm quầng. Họ già nua, hốc hác. Đàn bà rất mau già nua trong nỗi khổ. Nụ cười của Nga còn trẻ, còn tươi. Nụ cười của Nhi thì héo hắt, tàn tạ. Tôi đã mơ hồ cảm giác một nỗi gì đó thật buồn bã, thật bất hạnh phảng phất trên khuôn mặt cô giáo triết học Trần Thu Nhi. Tự nhiên, nước mắt tôi ứa ra.
——————————–
1-Lời một bài hát khá thịnh hành của cộng sản Hà Nội. (Chú thích của nhà xuất bản.)
Chương V
Bài diễn văn đọc trước Quốc hội Hoa Kỳ.
– Thưa quý vị nghị sĩ và dân biểu Mỹ, đại diện cho lương tâm của hai trăm mười sáu triệu nhân dân Hiệp chủng quốc,
Thật là một sự hân hạnh lớn lao cho tôi, được vào tòa nhà thiêng liêng này và được thưa chuyện với những con người cao cả của nước Mỹ, những con người sắp trở thành, sẽ trở thành những vĩ nhân không những của riêng nước Mỹ mà còn của cả thế giới, những con người mà tay dơ cao biểu quyết hay buông thấp khước từ là một nửa trái đất no hay đói, chiến tranh hay hòa bình, thắng hay bại, hạnh phúc hay đau khổ, bỏ nước chạy trốn như bầy vịt hay ở lại sống đoàn viên. Chính quý vị, những người đầy phép tích, đầy quyền uy, lương tâm của hai trăm mười sáu triệu dân Mỹ, đã vung cánh tay thần tiên, biến quê hương Việt Nam của chúng tôi thành một đại dương nước mắt. Tôi phải thành thật bầy tỏ tấm lòng cảm phục của tôi với quý vị, những nhà ảo thuật đổi trắng thay đen trứ danh bậc nhất từ thuở có nền ảo thuật trên hoàn cầu. Tôi càng cảm phục hơn về tấm lòng trắc ẩn của quý vị, lương tâm của nước Mỹ, đã chẳng thèm lý tới hàng ngàn bộ xương của các chiến sĩ anh dũng Hoa Kỳ không bao giờ biết thua trận còn nằm ngổn ngang đó đây ở bờ bụi Việt Nam. Sau hết, tôi vinh tôn sự khiêm tốn của quý vị, sự hiếu hòa tối đa của quý vị, những con bồ câu hiền lành hơn cả bồ câu, những chú nai ngoan hơn cả nai, đã tình nguyện thua trận tại Việt Nam mà chẳng cần đau xót, nhục nhã, xấu hổ. Theo tinh thần Đơng phương, quý vị đã đạt rồi, đã là chính nhân quân tử rồi vậy. Và theo tinh thần nhà Phật, quý vị đã ngộ. Thua cái đáng thua ấy là thắng. Thắng cái không đáng thắng ấy là thua. Quý vị thông hiểu nghĩa sinh sát của nhà Phật một cách sâu sắc. Những anh lính Mỹ khù khờ, đần độn chết khốn nạn ở Việt Nam là đáng đời. Vì trót dại đòi thắng, thắng nữa, thắng mãi. Những ông Đại sứ cuốn cờ chạy bán sống bán chết cũng là những anh mê muội, xuẩn ngốc, cao ngạo, sống ở phương Đông mà không thèm nghiên cứu triết lý sống của cố nhân Đông phương. Một lần nữa, nhân danh người Việt Nam chống cộng sản không cần bàn tay quý vị dơ lên tụt xuống quyết định số phận của dân tộc tôi, tôi xin biểu dương quý vị, lương tâm của nước Mỹ, người khổng lồ đã hoan hỉ thua chú tí hon.
Thưa quý vị,
Tôi trốn khỏi ngục tù của cộng sản sang đây không phải để xin quý vị thương xót ban cho chút hạnh phúc định cư tại Mỹ, xin được nhập quốc tịch Mỹ. Cũng không sang đây để bắt chước ông Thân Bao Tư, người nước Sở, quỳ gối giữa sân Tòa Bạch Ốc, xin quý vị đem quân sang lần nữa giải phóng chúng tôi. Tôi sang đây chỉ trình bày một vấn đề liên quan tới lương tri của hai trăm mười sáu triệu nhân dân Mỹ. Sau đó, tôi sẽ trở về quê hương tôi, sẽ vào tù nữa. Ngục tù đối với chúng tôi nó còn đơn giản hơn tự do, dân chủ đối với quý vị. Cách đây mấy năm, ông Gerald Ford, vị tổng thống bất hủ của lịch sử hiện đại Hoa Kỳ, nhìn cái quyền uy cuối cùng của nước Mỹ ở Việt Nam rơi vào tay cộng sản đã thản nhiên tuyên bố với nhân dân Mỹ, quân đội Mỹ, và thế giới rằng, lịch sử đã sang trang. Lịch sử thua trận ở Việt Nam của người Mỹ không hề biết thua trận đã sang trang, sang rất vội vàng. Mọi bí ẩn của nó, đời sau sẽ rõ. Chúng tôi không phàn nàn gì cả. Một cô gái quê lên tỉnh gặp Tú Bà, Sở Khanh chỉ biết trách mình ngu ngơ, khờ khạo. Thế thôi. Lẽ phải luôn luôn nằm trong tay những kẻ táng tận lương tâm. Tôi chẳng có gì để hậm hực. Người Mỹ rút khỏi Việt Nam để lại rất nhiều cặn bã. Cộng sản nó bảo quý vị đưa chúng tôi trở về thời kỳ đồ đá. Nó bài trừ ảnh hưởng văn hóa đồi trụy và tư tưởng của quý vị rất kỹ. Chiến dịch và chiến dịch. Việc của nó không ăn nhằm gì tới tôi. Cả những đứa trẻ con lai Mỹ đen, Mỹ trắng còn vất vưởng ở Sài Gòn, ngày đi ăn xin, lượm giấy vụn, đêm hộp nhi đồng nhận Hồ Chí Minh là Bác cũng không ăn nhằm gì tới tôi. Cái đáng nói, đối với chúng tôi, những người trực diện chống đối cộng sản không cần nhận quý vị là đồng minh, là những cái còng Made in USA mà khi cuốn gói khỏi Việt Nam, quý vị đã không quên đi tản.
Thưa quý vị,
Tôi xin phép quý vị để được nói đôi chút về sự liên hệ của chúng tôi với người Mỹ và những cái còng. Vâng, người Mỹ, chúng tôi, kẻ thù, còng khóa chỉ là những con dominos tội nghiệp. Lục ngũ phải dính với ngũ tứ, ngũ tứ phải dính với tứ tam vân vân. Cái chủ thuyết domino thật trứ danh. Nó là trò chơi của tư tưởng. Nó có luật giết bò, gài triệt, triệt buộc… Dĩ nhiên, nó có cả gian lận, chạy làng nữa. Chúng tôi vốn đôn hậu, hồn nhiên, ngây thơ và nồng nhiệt. Theo tiếng gọi tân biên cương và quyền sống con người trên trái đất của cố tổng thống Kennedy, chúng tôi lớn lên, phóng tầm mắt nhìn sang nước Mỹ như nhìn rõ hạnh phúc của dân tộc mình sau một trăm năm buồn tủi. Cái lý tưởng tự do, dân chủ của Hiệp chủng quốc đã hấp dẫn thế hệ chúng tôi, đã thúc dục chúng tôi móc trái tim dâng hiến sự nghiệp xây dựng tự do, dân chủ. Như những chiến sĩ Mỹ đã anh dũng đã hy sinh tại đây, chúng tôi không cần tiết kiệm xương máu. Cho tới phút này, hình ảnh người lính thủy Mỹ cuối năm 1954 vẫn là hình ảnh ngoại nhân đẹp nhất đối với chúng tôi. Chúng tôi đã nhìn chính sách của nước Mỹ ở Việt Nam như đã nhìn lính thủy Mỹ thật thà, dễ thương xuất hiện trên vỉa hè Sài Gòn năm xưa. Bất hạnh cho chúng tôi là chính sách của quý vị đã không giống hình ảnh người lính thủy cuối năm 1954, càng khác xa chính sách của quý vị ở ngay nước Mỹ. Chúng tôi già nua trong nỗi thất vọng và những dâu biển của thời thế do quý vị tạo ra trên quê hương chúng tôi. Tôi vẫn để dành những giọt nước mắt khóc những người lính Mỹ bỏ xác tại Việt Nam. Hôm nay, tôi xin được khóc thương họ trước mặt quý vị, vì tôi biết quý vị đã quên họ. Nước mắt cho những con người chết cho lý tưởng giả dối và cho sự lừa gạt của con người trên trái đất. Nhưng quý vị, quý vị luôn luôn cao cả, luôn luôn là ngọn đuốc sáng biểu tượng luong tri của dân tộc Hoa Kỳ, luôn luôn là thứ quyền uy vô địch kể từ nhân loại có quyền uy.
Thưa quý vị,
Bây giờ, tôi xin trở lại chuyện những cái còng viện trợ Mỹ. Xin thưa với quý vị rằng, tháng năm nằm trong cachot của cộng sản, tôi chợt nhớ hai bàn tay thân hữu nắm chặt lấy nhau gắn bó tình nghĩa viện trợ Mỹ các nước trên thế giới. Cái «emblème» quý vị chọn lựa thật là thấm thía. Bàn tay của quý vị lớn, khỏe, quý vị bắt chặt, siết chặt thân hữu các nước nhỏ thì các nước nhỏ chỉ có trợn mắt, lè lưỡi mà thôi. Ý nghĩa thấm thía nữa là hai bàn tay trao và nhận viện trợ hôm nay sẽ là hai bàn tay còng và sẽ bị còng ngày mai. Ở Việt Nam, cộng sản chơi rất bẩn. Nó cứ còng chúng tôi bằng còng Mỹ. Nó hô hào tận diệt mọi tàn tích của đế quốc Mỹ nhưng nó đã «nuôi dưỡng» còng Mỹ. Tôi không hiểu tại sao kỹ nghệ và văn minh chế còng của cộng sản tối tân hơn của Mỹ mà nó lại suy tôn còng Mỹ quá đáng thế. Đó là vấn đề tôi phải bơi thuyền gỗ, lênh đênh trên mặt đại dương, đương đầu với bao nhiêu hiểm nguy để sang nước Mỹ phỏng vấn quý vị, sau nhiều năm luân lạc khắp các đề lao, các trại tập trung. Tôi phải bán cái nhẫn kỷ niệm cuối cùng mới đủ tiền mua vé xuống thuyền trốn khỏi Việt Nam. Như những thuyền nhân bất hạnh khác, tôi bị hải tặc hãm hiếp bẩy lần, bị đói khát mười ngày ròng rã và, sau hết, trầy bả vai, nhỏ máu mắt mới vô được nước Mỹ thiên đường. Để lên Thiên Đường, nước Mỹ chỉ cần làm sáng danh Chúa. Để vào nước Mỹ, quý vị linh mục cần có thân nhân ruột thịt ở Mỹ, cần làm ở RMK, Pacific… hay đi lính! Tôi vô thiên đường Mỹ nhờ dậy học dưới chế độ quý vị bảo trợ. Nhưng tôi sẽ trở về quê hương đau khổ của tôi như Lưu Thần, Nguyễn Triệu đã trở về quê hương trần thế lầm than sau một lần dại dột cất bước lên Thiên Thai. Người trên Thiên Thai trái tim bằng gỗ, không biết rung động, không biết yêu, không biết xấu hổ. Tôi hy vọng quý vị sẽ chẳng làm tôi tiếc rẻ cái trinh tiết còn lại đã bị ô uế trên mặt biển khi trở lại Việt Nam.
Thưa quý vị,
Chúng tôi, khi bị còng dính chùm với nhau, đã bàn cãi sôi nổi về những biểu quyết của quý vị về ngân sách, tài khoản viện trợ cho Việt Nam. Bạn tôi bảo, quý vị toàn là những người xuất thân ở Harvard, ở Yale, ở Cornell, ở Dartmouth…, những nơi quy tụ tinh hoa của trí thức, những nơi mà trí tuệ nước Mỹ sẽ tỏa khắp năm châu mở đường, khai lối tự do, dân chủ cho loài người. Những người cao cả như quý vị không thể không bao giờ biểu quyết chấp thuận viện trợ dùi cui và còng cho bọn thống trị độc tài, phát xít bản xứ. Bạn tôi bảo, quý vị chỉ thuận cho chính phủ Mỹ viện trợ thuốc DDT giết muỗi, thuốc khai quang giết cây, hại rừng, tàn sát môi sinh, bom đạn giết người, lựu đạn mửa, khói cay đàn áp tuổi trẻ xuống đường học tập dân chủ và chính sách tham nhũng riêng cho lũ tướng tá thống trị bù nhìn vơ vét mồ hôi của dân, xương máu của lính. Không bao giờ quý vị chấp thuận viện trợ dùi cui và còng. Trí tuệ của nước Mỹ không bao giờ là dùi cui và còng. Bạn tôi bảo thế. Và chúng tôi hoàn toàn đồng ý. Thế nhưng, tại sao dùi cui và còng Mỹ lại ngổn ngang khắp đất nước Việt Nam? Chẳng lẽ chính phủ Mỹ dám qua mặt Quốc Hội? Những cái dùi cui Mỹ viện trợ đã giáng xuống nhiệt tình và lòng tự phụ của tuổi trẻ Việt Nam ra sao, quý vị đã đọc trên bảo chí Mỹ, xem trên vô tuyến truyền hình Mỹ. Còn những cái còng Mỹ viện trợ thì để còng tay cộng sản và còng luôn cả tay những người chống cộng sản, đồng thời, cũng chống luôn tập đoàn thống trị quân phiệt ngu dốt và ăn cắp. Nếu từ trước tới nay, quý vị chưa hiểu bí mật của còng Mỹ thì, bây giờ, quý vị đã hiểu tại sao những người trí thức chân chính bản xứ không ưa người Mỹ.
Thưa quý vị,
Có hàng ngàn vấn đề cần đặt ra để thắp sáng thêm lương trị của dân tộc Mỹ nhưng, rất tiếc, không thuộc phạm vi bài diễn văn của tôi hôm nay. Tôi sang đây không làm công việc than vãn, trách móc hay cầu cạnh. Lịch sử, như ông Ford đã nói, đã sang trang. Người Mỹ không thích lần dở quá khứ, không thích phục hồi dĩ vãng. Những kẻ còn ôm cái ảo tưởng bám chân người Mỹ về giải phóng quê hương, thâu tóm lại quyền bính cũ là những kẻ xuẩn ngốc đang chiến đấu với hư mộng. Chúng tôi khẳng định với quý vị rằng chúng tôi không cần người Mỹ trở lại Việt Nam. Một lần đã đủ chua xót. Hãy để chúng tôi yên lặng ngồi liếm vết thương và làm lại quê hương chúng tôi. Lịch sử đã sang trang, thật sự đã sang trang rồi. Hiện tại là khởi sự những trang lịch sử mới của dân tộc chúng tôi chiến đấu cô đơn với cộng sản, chiến đấu bằng trái tim không bằng súng đạn Hoa Kỳ. Có một thứ quyền trên cả nhân quyền. Đó là quyền hy vọng. Chúng tôi hy vọng sẽ loại bỏ cộng sản như tổ tiên chúng tôi đã loại bỏ quân thù truyền kiếp. Nhưng, trước khi dấn thân vào sự quyết liệt, tôi tưởng nên gỡ nốt cái móc làm sự sang trang của lịch sử hiện đại Hoa Kỳ thiếu xuông xẻ. Vâng, tôi xin tiếp tục đề cập cái còng Mỹ. Còng Mỹ, nói rõ rệt, còng chế tạo tại Mỹ, do Mỹ viện trợ cùng với bột DDT, sữa hết chất béo, phó mát thừa, quần áo cũ, thuốc khai quang, bom đạn và cố vấn lãnh đạo đàn áp, đã còng tay còng chân những người Việt Nam đối lập các chế độ ở nước tôi do quý vị nặn ra rồi đạp đổ. Những người Việt Nam bị còng Mỹ siết chặt đều là những người nghe răm rắp tiếng thúc dục tranh đấu cho lý tưởng tự do, dân chủ vĩ đại của người Mỹ Kennedy. Còng Mỹ được trao cho đầy tớ Mỹ để nó phản bội lý tưởng của vĩ nhân Mỹ. Rốt cuộc, tình nghĩa Mỹ trao gửi Việt Nam đã bị còng luôn! Nghĩ cũng buồn.
Thưa quý vị,
Càng buồn hơn, còng Mỹ đang được cộng sản trao cho cái sứ mạng còng tay còng chân những người Việt Nam chống cộng sản một mình, những người Việt Nam còn say mê lý tưởng tự do, dân chủ, còn nhìn ông Kennedy như ngọn đuốc soi đường. Có lẽ, quý vị sẽ phải mở cuộc điều tra tường tận để có con số còng Mỹ chính xác viện trợ cho Việt Nam hai mươi năm. Nhiều người quá khích cho rằng, người Mỹ rút khỏi Việt Nam, để lại toàn bộ còng, khóa, dùi cui là có mục đích xấu xa. Tôi không tin thế. Thật lòng, tôi không tin thế. Luôn luôn, tôi nhìn dân tộc Mỹ qua các văn hào Mỹ, các vĩ nhân Mỹ. Tâm hồn đích thực của dân tộc Mỹ là tâm hồn Lincoln. Ngoài tâm hồn ấy là chính sách của Mỹ đối xử với các nước nhỏ. Tôi yêu dân tộc Mỹ, người Mỹ và thù ghét chính sách Mỹ ở nước tôi như tôi thù ghét còng Mỹ đã siết chặt chân tay tôi, bạn bè tôi, đồng bào tôi. Còng Mỹ đang siết chặt chân tay đồng bào tôi và chẳng biết đến ngày nào nó mới chịu nghỉ mệt. Dân tộc Mỹ, và quý vị, chắc chắn, không bao giờ muốn dân tộc Việt Nam bị cộng sản còng chân tay, tống vào tù ngục bằng còng Mỹ. Bởi thế, thân gái dặm trường, tôi phải chịu nhục nhã trên đường bôn tẩu, sang tận đây để tường trình quý vị những cái còng viện trợ Mỹ còn ngổn ngang khắp các nhà tù, đề lao, trại tập trung của cộng sản. Tôi không dám làm công việc tra vấn lương tâm quý vị vì tôi hiểu lịch sử sang trang vội quá nên quý vị cũng quên nhanh quá nhiều chuyện quý vị chưa kịp nhớ. Vậy tôi sang đây nhắc quý vị rằng, quý vị cần phải thu hồi toàn bộ còng của quý vị về Mỹ. Thu hồi bằng cách nào, đó là nhiệm vụ, là bổn phận, là lương tâm của quý vị, nằm trong chiến thuật, chiến lược mà tôi không nên biết, không nên hỏi. Người Mỹ đã lên cung trắng đem đá xuống trần gian, người Mỹ sẽ sang Việt Nam mang hết còng Mỹ về nước. Chúng tôi tin tưởng quý vị thừa khả năng.
Thưa quý vị,
Khi những cái còng Mỹ viện trợ Việt Nam còn do cộng sản dùng để siết chân tay những người Việt Nam chống cộng sản cô đơn, những người Việt Nam chân chính quả cảm quyết thắp sáng ngọn đuốc lý tưởng tự do, dân chủ thì lịch sử hiện đại của Hoa Kỳ hai mươi năm can thiệp ở Việt Nam chưa sang trang. Khi ấy, Quốc Hội Mỹ nên đeo một chiếc còng vào cổ, tay cầm bó đuốc của Nữ Thần Tự Do và hoán chuyển thế đứng cho nữ thần yêu dấu. Và, chính phủ Mỹ cũng nên treo một chiếc còng lớn lên Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Hoa Kỳ bỏ mình vì lý tưởng tự do, dân chủ tại Việt Nam. Bởi vì, còng Mỹ viện trợ còn hoạt động tại các ngục tù Việt Nam là người Mỹ còn có mặt tại Việt Nam và vết ô nhục phản bội còn hằn trên lương tâm quý vị, hằn trên lương tri dân tộc Hoa Kỳ; còn là lưỡi lê dơ bẩn cắm xuống nấm mồ các vĩ nhân Mỹ, đâm vào trái tim những người lính anh hùng Mỹ đã chiến đấu, đã đổ mồ hôi và máu, đã hiến dâng tuổi trẻ của mình cho ngọn cờ dân chủ và cho hạnh phục loại người…»
Có tiếng vỗ tay và tiếng chìa khóa tra vào ổ. Cánh cửa sắt mở rộng. Nga ngừng đọc diễn văn. Bài diễn văn chưa có đoạn kết. Bài diễn văn dang dở. Quốc Hội Mỹ, bây giờ, chỉ là cái cachot ẩm mốc, hôi hám dưới ánh sáng hắt hiu của ngọn đèn tù vàng khè có ba nữ tù nhân bị còng dính chùm ngồi dựa lưng vào tường và xô cứt. Và nghị sĩ Mỹ là mấy tên cái ngục cộng sản đang đứng trước mặt chúng tôi. Trí tưởng tượng của Nga đã vượt Thái Bình Dương. Rồi nó trở lại như Nga đã nói, chị sang Mỹ đọc xong bài diễn văn là trở về quê hương ngay. Thiên Thai của Nga, của dân tộc Việt Nam ở tổ quốc Việt Nam ngàn năm khốn khổ, không phải ở Hoa Kỳ.
– Ai vừa đọc diễn văn trước Quốc Hội Mỹ? Hay lắm, hay lắm. Nằm trong tù mà dám vọng tưởng viễn xứ.
Người công an vỗ tay một mình. Ông ta không phải là thứ cai ngục mở cửa mà chính là người chấp pháp đã ký lệnh tống chúng tôi vào cachot.
– Ai can đảm thế? Ông ta hỏi.
– Tôi. Nga đáp. Chẳng can đảm gì cả, tôi nói chuyện tiếu lâm cho đỡ buồn.
– Tôi đứng nghe từ lâu, biết hết. Chị vẫn mơ mộng Mỹ giúp các chị, không thành khẩn nhận ra sự thật. Tất cả những kẻ theo Mỹ đều bị còng bằng còng Mỹ. Chúng tôi không chế tạo còng.
– Tôi không theo Mỹ.
– Nhưng ảnh hưởng tư tưởng Mỹ.
– Tôi không ảnh hưởng ngoại bang.
– Tất cả đứng dậy.
Tuần lễ này, Nhi ở giữa hai đứa tôi. Nga và tôi đứng dậy theo lệnh của người công an chấp pháp. Nhưng chúng tôi đã không thể đứng nổi vì Nhi vẫn ngồi, lưng dựa vào tường. Tôi đập vai Nhi. Chị không nhúc nhích. Tôi chợt nhớ mới hôm nào, vừa đây, Nhi nói đến cái chết và bầy tỏ sự thèm muốn nghe bài diễn văn đọc trước Quốc Hội Mỹ của Nga. Tự nhiên, tôi hoảng sợ. Và tôi khóc rống.
– Cái gì? Người công an hỏi.
– Bạn tôi chết rồi!
Tôi đáp trong tiếng nức nở. Nga và tôi cùng ngồi xuống và cùng đưa tay không bị còng của mình ôm chặt lấy Nhi. Người ta rọi đèn pin. Người ta bước gần chỗ chúng tôi. Nhờ ánh sáng của đèn pin, tôi nhìn rõ khuôn mặt héo hắt, tàn tạ của Nhi. Nàng đã chết. Nàng đã chết ở đoạn nào đó của bài diễn văn ứng khẩu của Nga. Hẳn là Nhi phải xúc động đến nghẹt thở rồi tắt thở. Người ta mở còng cho chúng tôi, khiêng Nhi ra khỏi cachot. Cánh cửa tù đóng lại. Cô giáo triết học Trần Thu Nhi đã chết trong khi tay chân bị cộng sản siết còng của Mỹ. Vào giờ này, Quốc Hội Mỹ đang lo đối phó với tình hình Nicaragua. Có lẽ, lịch sử Mỹ sắp sang trang lần nữa.
– Chị Nga ạ, chị đã đọc điếu văn trước xác chết của chị Nhi. Tôi nói.
– Điếu văn trước xác chết hàng triệu người Việt Nam. Nga nói. Chị sẽ soạn lại bài diễn văn này, sẽ thêm đoạn Nhi chết mà tay chân còn đeo còng Mỹ trong ngục tù cộng sản.
– Bài diễn văn sẽ dài lắm.
– Dài bằng một đời tù tội của chúng ta. Lau nước mắt đi, em nhỏ. Chúng ta sắp chia tay. Hãy can đảm sống, cố sống, bằng cách nào cũng phải sống, bằng giá nào cũng phải sống để viết diễn văn. Đừng hủy hoại cuộc sống, đừng sống hèn mọn như lũ giá áo túi cơm tình nguyện vào tù rồi về phán xét lảm nhảm.
Đúng như Nga tiên đoán, khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, tôi được dẫn về cachot C1. Còn Nga đi đâu, tôi không biết. Chúng tôi bị còng dính chùm vừa chẵn năm mươi hai ngày. Nhi bỏ cuộc chơi vì bệnh hoạn. Mai này, tôi sẽ tìm nấm mồ của Nhi nơi nào nhỉ? Để đeo trên bia mộ của nàng một cái còng Mỹ
Chương VI
Tôi ăn một cái Tết trong cachot đề lao Gia Định. Nữ hoàng cachot trở về với thần dân vương quốc C1 rực rỡ hơn bao giờ hết. Tù nhận được thông tin mau lẹ. Họ biết hết tên ba chúng tôi, biết cực hình chúng tôi phải chịu đựng và biết Nhi chết. Nhưng họ mù tịt bài điếu văn mà Nga đọc cạnh xác Nhi. Tôi không mấy quan tâm đến sự hiểu biết của họ về chúng tôi. Sau vài hôm duỗi chân, vươn tay thoải mái, tôi chợt nhớ người bạn chuột nhắt thân mến của tôi. Tôi lục tung bị hành lý. Không thấy chú nhỏ. Chắc chú ấy đã chết đói hoặc đã tìm đường về bầy rồi. Tôi bỗng thấy trống trải và buồn bã vô cùng. Bây giờ là tháng 6 năm 1977, ông Đinh Xuân Cầu và các tử tù vụ Vinh Sơn bị nhốt hết ở khu cachot C1. Đêm đêm, nghe Ali Hùng thổi sáo, lòng tôi nhàu nát như tàu lá uá. Tiếng sáo của kẻ sắp chết, của kẻ chờ đợi từng giây phút người ta bắt há mồm ra, tống trái chanh vào, dán bằng keo kín miệng, buộc chặt mắt và dẫn đi bắn giữa đêm khuya, sao mà não nuột! Nó gợi tưởng sự tuyệt vọng. Nó hiện ra một biên giới tối tăm của tha ma, mộ chí. Tôi không thích nghe tiếng sáo của tử tù Ali Hùng mà vẫn phải nghe ròng rã mấy tháng.
Ròng rã mấy tháng, người ta bắt tôi tự khai năm mươi hai ngày còng dính chùm, bài diễn văn của Nga và cái chết của Nhi. Bị còng dính chùm sướng hơn tự khai nhiều. Tôi tự hỏi, với sự đọa đầy mà chúng tôi phải chịu đựng, thì sự tình nguyện vào các trại tập trung, tự khai tập thể một lần, sống phơi phới dưới nắng trời, đắm mình giữa suối, lao động vớ vẩn, cười nói tíu tít, quà cáp ê hề, thấm tháp gì đâu mà người ta cứ lên mặt tự hào! Người ta cứ tưởng người ta gánh hết thương đau cho dân tộc, người ta được độc quyền yêu nước, thao túng lịch sử, làm chứng nhân thời đại bằng ngọn gió buốt dao cau miền Bắc! Và, ngu xuẩn hơn cả, người ta đòi kết án thiên hạ, phán xét thiên hạ. Những con mối chỉ có thể bay trước cơn mưa. Sau đó, chúng nó làm mồi cho thạch thùng và nát bấy dưới cống rãnh, cạnh thùng rác. Nỗi thống khổ không bao giờ là thành tích để khoe khoang. Nỗi thống khổ vàng mười mới là nỗi thống khổ làm con người khôn lớn, cao thượng và khoan dung. Tôi học điều đó ở Nga, ở Nhi, những người tù chẳng khi nào thèm khát chuyện thăm nuôi, chẳng khi nào mong ước được kẻ thù tha tội.
Cuối năm 1977, người ta đưa tôi sang khám Chí Hòa và nhốt luôn ở cachot khu FG. Địa ngục được mô tả trong kinh giới rắn là có chín tầng. Nếu nhà tù đem ví với địa ngục thì các trại tập trung của cộng sản mới chỉ là tầng đầu. Nhà văn Soljenitsyne đã thừa nhận thế. Sở Công An thành phố Hồ Chí Minh là tầng thứ hai. Đề lao Gia Định, tầng thứ ba. Đề lao Đại Lợi, tầng thứ tư. Khu ED, khám Chí Hòa, tầng thứ năm; khu AH, tầng thứ sáu; khu BC, tầng thứ bẩy; khu FG, tầng thứ tám và cachots khu FG, tầng thứ chín, cái đáy địa ngục thăm thẳm mịt mùng, đủ khả năng soi mòn thịt xương trong khoảnh khắc.
Tôi ở cachot khu FG, ở dưới đáy địa ngục. Những cái chuồng cọp ngoài Côn Đảo nghĩa lý gì. Thế mà có dạo, dưới những con mắt thiên vị, những con mắt lé, mắt chột, mắt đóng màng thành kiến, báo chí Mỹ đã bi thảm hóa những cái chuồng cọp Côn Sơn như là đáy khổ địa ngục, toa rập với bọn mù lòa Ủy ban Cải thiện chế độ lao tù! Những con mắt ấy chưa hề biết cachot FG hôm nay và chẳng bao giờ dám bén mảng tới để nhìn cachot FG dầu chỉ nhìn bằng mắt lé, mắt chột mà lên tiếng giùm.
Cachots FG nằm trên tầng chót của cái lô bát quái. Đó là những cái hộp nhỏ trong cái phòng giam y hệt những cái tủ bầy biện trong căn nhà. Khác chút thôi, là những cái hộp giam người kê sát nhau, đối diện nhau bằng một hành lang hẹp. Nên gọi cachots FG là cachettes mới đúng. Ban ngày tối mù như ban đêm. Thời gian ở đây là bóng tối âm u. Không gian là cõi tanh nồng, hôi hám. Buổi trưa nắng rực ngoài trời, dơ tay sát mặt, chẳng thể nào nhìn rõ tay mình. Tù nhân bị đẩy vào cachots FG phải tập cách sinh hoạt giống người mù. Không có cầu tiêu và vòi nước. Một cái xô thiếc đặt ở góc phòng chiều ngang tám mươi phân, chiều dài hai thước. Tù nhân tiêu, tiểu vào đó, cuối tuần xách nước xuống sân khám, đổ phân, rửa xô và tắm gội. Cũng như An Ninh Nội Chính, ở đề lao Gia Định, mọi thứ giấy bị cấm mang vào. Tù nhân đành xé quần áo làm giẻ chùi đít sau khi đại tiện. Người ta không phát chiếu, tù nhân phải nằm trên cái nền mà phân để đống lớp dầy cả gang tay, khô cứng qua các chế độ. Chưa hề một lần quét dọn, rửa lau nào cho những cachots thượng thặng này kể từ khi người ta khánh thành khám Chí Hòa. Nhiều cuộc cách mạng đã xảy ra ở Sài Gòn, Chí Hòa không biết dâu biển thời thế. Mỗi cách mạng là mỗi đông tù, là mỗi nhiều thành phần chống phá cách mạng nên Chí Hòa chỉ được bổ xung những hình phạt khe khắt nghiệt ngã. Tù nhân thèm từng sợi gió, từng tia nắng. Thèm cả đến ánh điện vàng hiu hắt.
Người ta nhốt tử tù mọi thành phần ở cachots FG và người ta giao nhiệm vụ phát cơm ăn, nước uống cho bọn trật tự đầu trâu mặt ngựa. Bọn này vốn là công an can đủ các tội hình sự, có án tích rõ rệt. Công an cộng thêm vô lại, chúng đã hành hạ, bóc lột chúng tôi không nương tay. Một đồng bạc một cây nến nhỏ và dài bằng chiếc bút chì thêm que diêm mồi cháy. Linh mục Nghị, tử tù vụ Vinh Sơn sang Chí Hòa trước tôi hai tháng, đã đốt mấy chục cây nến và đã mù thật sự. Ali Hùng hết hơi, không còn huýt sáo buồn bã nữa. Người ta cho chúng tôi ăn uống theo quy chế kỹ luật, nghĩa là một tháng chín kí lô gạo với thức ăn rau muống nấu canh muối. Chúng tôi thường nói chuyện nửa đêm. Lúc ấy, tám cửa ngục nặng hàng tấn đã đóng chặt, khóa kỹ, không một điệp viên tài ba nào trốn nổi dù là Hubert hay James Bond. Và, lúc ấy, dầu tù nhân biết tù nhân khác chết rũ, có khan cổ họng báo cáo cán bộ thì tiếng hô hoán cũng chỉ chìm vào sự hiu quạnh hãi hùng của địa ngục Chí Hòa bao la, năm vòng đai công an võ trang bảo vệ. Khi đã quen với bóng tối và thán khí, tôi tham dự vào các cuộc «tù đàm» trong đêm đen. Và tôi biết tôi cùng chung số phận giam nhốt với linh mục Nguyễn văn Nghị, Ali Hùng người nhái, Nguyễn Việt Hưng, thủ lãnh Phục Quốc vân vân… Đối diện cachot của tôi là Chung, tên cướp phi thường, kẻ dám vào Ngân Hàng thành phố hốt bạc, đã chống trả công an, đã phóng xe hơi như bay trên đường Hàm Nghi, đã bị bắt trong chiếc xe đang chạy và lật ngửa.
Tôi đã gặp mặt Chung tại cachot C2 đề lao Gia Định. Nó bị siết chặt đùi bằng giây điện nhỏ. Sau ba tháng giam giữ để thẩm vấn, người ta đưa nó ra tòa. Giây điện lằn vào thịt đùi nó, sâu cả đốt ngón tay cùng nút thắt. Người ta phải cắt phần giây bên ngoài. Cuộc đời nó bị đánh dấu bởi hai vòng giây điện lún trong da thịt. Nó đã bị kết án tử hình. Mạng sống của nó còn chờ đợi sự ân xá của Chủ Tịch Nhà Nước. Nó sắp ra tòa lần chót. Hai tuần lễ, khi tôi nhận nó ở cạnh cachot tôi bên đề lao Gia Định, Chung đi hầu tòa phiên chung thẩm. Buổi chiều, về phòng, nó hân hoan báo tin vui.
– Được tha chết hả, Chung? Tôi hỏi.
– Em xin được ve dầu cù là lớn, chị ạ! Nó đáp. Chúng vẫn muốn giết em. Lần này dứt khoát em bị chết rồi. Em cầu nguyện chúng nó bắn em đêm nay.
– Dầu cù là giúp gì, Chung?
– Em hít hà cho đỡ hôi hám. Chị chịu đựng giỏi thật. Chị đúng là nữ hoàng cachot. Nếu em không bị tử hình, em sẽ cố gắng chịu đựng. Sự sống là ước mơ, chị nhỉ? Còn được ước mơ, ta còn ham sống và ta chịu đựng hết. Em đã tàn tạ ước mơ nên mỗi phút em sống là mỗi bản án tử hình. Em bị xử tử hàng triệu lần. Chúng lên án tử hình mà không thèm bắn bỏ luôn. Chúng nó thích thấy em dẫy dụa trước cái chết, thích xử tử em cả triệu lần. Em không sợ chết mà sợ sống trong cachot FG. Em lại sợ cả tự tử, chị ạ! Chị nhớ giùm em nhé, kẻ không sợ chết nhưng rất sợ sống ở cachot FG khám Chí Hòa.
Đâu chỉ riêng Chung sợ sống. Tất cả tử tù của cộng sản đều sợ sống. Linh mục Nguyễn Văn Nghị bị kết án tử hình, bị đày đọa ở cachot FG đến mù lòa mà vẫn chưa được chết. Một lần đi tắm, tôi gặp Ali Hùng người nhái chỉ còn là bộ xương cách tri phơi nắng, tay còng xích vào chân song sắt dưới hành lang khu tập thể. Những kẻ không sợ chết, những kẻ chọc trời khuấy nước, những kẻ đã có án tử hình, đều sợ sống trong cachot FG. Tại sao người ta cứ bắt người muốn chết phải sống? Ai hiểu nổi từng phút chết của con người sợ sống. Thế giới còn u mê trong cái đêm đen như những đêm đen cachots FG khám Chí Hòa. Hình như, đối với nhân loại nhởn nhơ, chuyện người chết sợ sống ở cachots FG chỉ là tiểu thuyết giả tưởng. Nhưng, đối với người viết tiểu thuyết thì có phần khác, là y đã thiếu khả năng, thiếu ngôn ngữ để diễn tả cachots FG, người bị nhốt trong đó, cảm giác đầy đọa, ý nghĩa của từng con người, sự chịu đựng, niềm hy vọng, nỗi mơ ước, dù y đã có lần trọ ở đây như một thứ khách thượng hạng.
Một cái gì đó cơ hồ điềm báo trước sự chết, sự giải thoát vĩnh cửu của Chung. Nửa đêm cuối năm, nó gọi tôi dậy đứng nghe nó nói chuyện:
– Chị Lan ơi, chị nghĩ gì về thằng tướng cướp?
– Tôi không nghĩ gì cả.
– Thật chứ, chị?
– Tôi không thích phán xét những người cùng cảnh ngộ.
– Cám ơn chị. Em mong ngày nào đó, chị trở về đời sống, sẽ nhắc tới em, thằng tướng cướp chuyên đánh cướp ngân hàng mà mẹ nó vẫn bán thuốc lá ở vỉa hè. Thế thôi, chị nhé!
– Tại sao vậy?
– Vì nó cướp tiền của kẻ cướp tiền của dân, nó cướp lại và phát cho dân.
– Tôi sẽ nhớ. Tôi phải nhớ.
– Có kẻ thích rắc truyền đơn, có kẻ lại thích cướp tiền. Em sợ sống quá rồi. Chắc chắn, em nên can đảm một tí.
Tôi không biết an ủi Chung ra sao. Làm sao an ủi được một người sắp chết? Nó gọi tôi dậy chỉ để nghe có thế. Rồi nó đánh thức linh mục Nghị.
– Cha ơi, con vừa nằm mơ thấy được đem ra bãi bắn. Xin cha rửa tội giúp con. Con chưa rửa tội để lên Thiên Đàng, nay con rửa tội để xuống Địa Ngục. Con một đời lương thiện, thưa cha.
– Mai hãy tính.
– Ngay bây giờ đi cha. Cha phiên phiến giùm. Cha sẽ không còn được rửa tội cho ai, ngoài con.
Linh mục Nghị chiều ý Chung. Ngài đọc tiếng La Tinh, nhân danh Chúa, ban cho Chung những bí tích trước giờ lâm chung. Bây giờ, chỉ cần một que diêm ai bật lên, mọi người sẽ tưởng đó là ánh sáng của thiên thần. Rất tiếc, đêm cachot FG tối mò như ngày cachot FG. Và Chúa khó lòng vô đây vì những năm vòng đai công an võ trang bảo vệ và tám cửa ngục vĩ đại kín mít, khóa chặt. Nhưng tử tù Chung tin Chúa đã đến, Chúa đang ban bí tích cho nó từ một cachot cuối dẫy. Mười giờ sáng hôm sau, bọn trật tự rọi đèn pin vào cachot nhốt Chung, dục nó dậy lấy cơm. Không nghe tiếng Chung trả lời. Ngọn đèn rọi dưới chân cửa sắt. Tôi nhìn qua ô gió thấy hai dòng máu đen đặc. Bọn trật tự bỏ chạy. Lát sau, cai ngục kéo nhau lên. Cửa cachot mở tung. Người ta lôi xác Chung ra.
– Nó đập ve dầu cù là, dùng miểng ve cắt hai mạch máu! Ai cho nó ve dầu?
Cai ngục la lối một lát rồi sai trật tự khiêng xác Chung xuống dưới. Tôi hiểu, Chung đã «can đảm một tí». Nó can đảm một tí hay nó hết can đảm chờ chết thì cũng vậy. Chung đã nói dối cha Nghị. Tôi ứa nước mắt thương xót nó. Giọt nước mắt cho Chung, cho con người không sợ chết, chỉ sợ sống lây lất ở cachot FG.
Cachot FG nhốt Chung không hề quét rửa, tẩy uế. Vài hôm sau, người ta tống một phần tử nguy hiểm mới vô. Sinh hoạt bình thường, sinh hoạt trong bóng tối. Nghĩ đến cái chết của Chung, cái cachot thấm máu nó xuống nền phân khô đã thấm máu nhiều người. Trước khi chết, Chung cho tôi một bài học: Sự sống là ước mơ, còn được ước mơ ta còn ham sống và ta chịu đựng hết nỗi thống khổ đòi đoạn. Hôm nào, chị Nga dặn tôi: bằng cách nào cũng phải sống, bằng giá nào cũng phải sống để viết diễn văn. Chúng tôi còn nợ cô giáo triết học Trần Thu Nhi «Bài diễn văn đọc trước Quốc Hội Mỹ», bài diễn văn sẽ dài bằng một đời tù ngục của chúng tôi. Bài diễn văn khỏi sự bên xô cứt, dang dở giữa cái chết tay chân vẫn đeo còng là một trong ước mơ của tôi. Nó sẽ được tiếp nối ở cachot khu FG khám Chí Hòa và, có thể, sẽ kết thúc ở đề lao hay tập trung thứ 10.756! Đừng ngạc nhiên về con số này, Riêng thành phố mang tên Người giải phóng nô lệ Hồ Chí Minh đã trên 100T. Đề lao Gia Định bí số T20, Chí Hòa T30, Tế Bần T50. Mẫu tự Việt Nam có 23 chữ, đều bị đem đặt tên các trại tập trung. T chưa đủ, thêm TH. Riêng Z là chữ lạ đã có 30. Rồi Z30A đến Z30Y! Tôi sợ con số 10.754 hãy còn quá khiêm tốn. Bởi vì, ở thành phố Hồ Chí Minh, người ta còn nhốt tù trong các bin đinh Đại Nam, Đại Lợi…
Và nếu ngang qua ngôi biệt thự vắng vẻ nào, thấy cái biển nền đỏ chữ vàng «Không có gì quý hơn độc lập, tự do», hãy nghĩ ngay đó là một cái nhà tù. Chẳng hạn biệt thự số 4 đường Phan Đang Lưu, quận Bình Thạnh.
Nghĩ tới bài diễn văn, tôi lại nhớ chị Nga. Lúc này chị ở đâu? Trong một cái cachot tương tự cachot của tôi hay còn ghê gớm hơn, thảm não hơn? Giá mà được còng chung với chị hết một đời tù ngục, tôi sẽ thấy cái cachot tồi tệ này sẽ chỉ giống cái miếng sân đời làm phong phú sự hồi tưởng mai sau. Cachot FG, tôi không thể quên nó. Với tay lên, tôi đụng cái trần đục xi măng cốt sắt. Quơ tay bên phải đụng tường, bên trái đụng tường. Nó là cái quan tài nhốt người còn sống. Nó là vết ô nhục của loài người. Nó là dấu ấn ghê tởm hằn lên lá cờ dân chủ đang phần phật bay ở nửa trái đất bên kia. Nó là mụn nhọt đặt mủ trong trái tim những kẻ buôn bán nhân quyền. Nó tối tăm, cô quạnh hơn cả địa ngục của Diêm Vương, của Satan. Nó nhốt sắt thép, sắt thép hoen rỉ, hao mòn. Nhưng nó đã nhốt con người. Con người trở về thời đại ở hang đá. Con người mò mẫm, ăn, uống, ngủ, ỉa, đái trong cái quan tài kín mít. Bọn trật tự mang cơm cho chúng tôi ăn phải soi đèn nhận lối. Chúng tôi nuốt cơm, nuốt bóng tối. Người ta đã kiểm soát được khí trời, ở đây.
Tự hào biết bao nhiêu, chúng tôi vẫn sống. Tôi vẫn sống. Tướng cướp tử tù Chung đã để lại một di chúc ngắn cho tôi: Sự sống là ước mơ. Tôi vẫn sống vì tôi vẫn ước mơ. Ước mơ trong thống khổ. Ước mơ bên cạnh xô cứt. Ước mơ với còng Mỹ toòng teng.
Mỗi tuần một lần, tôi được xuống sân tù tắm gội và đổ phân, rửa xô. Tôi có dịp nhìn cái lò bát quái Chí Hòa, cái lò giết dần giết mòn mười ngàn người khốn nạn. Hãy kể con người, không kể tội trạng. Thời đại của chúng ta ai cũng có tội và chẳng một ai được phép tự cho mình phân biệt tội trạng. Mỗi lần từ bóng tối ra ánh sáng, mắt tôi hoa lên muốn ngất xỉu. Lên và xuống hàng trăm bậc thang, chân tôi rã rời. Tôi đã cố gắng phấn đấu bằng sức khỏe mỏng manh của mình để khỏi ngã gục. Nói cho đúng, tôi đã phấn đấu bằng ước mơ định nghĩa làm người, trước hết, tìm hiểu tại sao con người và ước mơ của nó có thể tồn tại trong cachot FG và, những cachots tương tự.
Tháng 5 năm 1978, sau 240 ngày sống mòn mỏi trong chiếc quan tài bê tông cốt sắt, ăn một cái Tết lổn nhổn vài miếng thịt mỡ, người ta lại đưa tôi về đề lao Gia Định, cachot C1. Tám tháng xa cách, C1 thay đổi nhiều. Khách hàng cũ của các phòng tập thể đã bị đẩy hết tới các trại cải tạo. Khách hàng mới của cachots C1, bây giờ, là quý vị Đại đức, Thượng tọa chùa Ấn Quang. Láng giềng của tôi, một bên là Thượng tọa Thích Quảng Độ, một bên là tiến sĩ Hoàng Mạnh Hùng. Tấc cả đều xa lạ đối với tôi. Họ không hề biết nữ hoàng cachot Ngô Kim Lan. Họ nhìn tôi xót xa giùm thân con gái phải vào cachot. Trở về Gia Định, được thấy ánh sáng mặt trời, thấy loài người dù loài người trong cũi – tôi hiểu tôi không thể chết dễ dàng. Nhưng mắt tôi đã lờ mờ và sức khỏe sa sút thậm tệ. Cởi quần áo lúc tắm gội, tôi bỗng tội nghiệp cái hình hài tôi. Thêm ba tháng nữa thôi, nếu còn ở cachot FG, chắc chắn, tôi sẽ chết thảm. Nhưng tôi lại thèm ở thêm ba tháng nữa, để xem sức chịu đựng của tôi tới mức nào.
Người ta chưa tha tôi. Nhiều tháng ngày bị lãng quên, người ta gọi tôi đi tự khai từ đầu. Người ta muốn truy cái nguồn mà các tổ chức tuôn ra mỗi ngày một đông. Đến nỗi, nhà tù thành phố chặt cứng, hết chỗ giam giữ. Cái đau nhất của tôi là bị kết tội làm tay sai cho đế quốc Mỹ! Tự khai của tôi như tôi đã tự khai, chỉ dài thêm chứ không khác đi. Tôi có dịp viết 240 ngày trong quan tài. Người ta thản nhiên hỏi tôi cảm thấy ra sao! Tôi cảm thấy hình phạt của thù hận và sự chịu đựng hình phạt ấy… Rốt cuộc, tôi nói, sự chịu đựng sẽ chiến thắng hình phạt. Kết quả của sự phát biểu cảm tưởng rất chân thành của tôi là tôi không được viết thư về gia đình báo tin tôi còn sống và bị còng chân lưu lạc khắp các cachots C1, C2, B và A. Hãy hình tưởng một người con gái mảnh mai, chân xích tay còng, lang thang qua các cachots của các nhà tù danh tiếng của thành phố Hồ Chí Minh 1390 ngày đêm đói khát, rã rượi thể xác, mệt nhoài tâm hồn! Hãy hình tưởng 52 đêm của ba người con gái còng dính chùm trong một cachot hôi hám! Hãy hình tưởng 240 ngày đêm, người con gái mảnh mai nằm trong cái quan tài cachot FG khám Chí Hòa! Hãy hình tưởng tàm tạm thế thôi, đã đủ suy nghĩ cho những kẻ hò hét chiến đấu phục hồi dĩ vãng. Hàng triệu công dân Việt Nam đang là cô gái mảnh mai ấy. Và chẳng ai trông cậy xa lộ xuyên Thái Bình Dương hư ảo, trông cậy ở sự tự tử giả vờ của mệnh phụ lỗi thời, trông cậy ở sự mô phỏng quần áo bà ba đen, khăn rằn quấn cổ và cung cách chiến đấu của kẻ thù. Phải nhớ, hàng triệu công dân Việt Nam quả cảm, chống Cộng không cần Mỹ, đã bị cộng sản siết chặt chân tay bằng còng Mỹ.
Tháng 12 năm 1979, tính ra là 46 tháng hay 1390 ngày tôi bị nhốt ở cachots. Nếu một phút ở đây địa ngục là một lần bị xử tử, tôi đã bị xử tử 345.000 lần, đã lãnh 345.000 nhân với 10 phát đạn không tiếng nổ của đội hành quyết gớm ghiếc nhất của thời đại mà 345.000 viên đạn ân huệ của họ cũng phi thường như chủ nghĩa của họ vậy. Lịch sử tù đày của tôi sang những trang mới. Tôi hy vọng sẽ sống lâu, sẽ viết dùm chị Nga «Bài diễn văn đọc trước Quốc Hội Mỹ» nếu chị Nga chết sớm, chết mà tay chân còn dính còng Mỹ như chị Nhi. Bài diễn văn mơ ước ấy, chị Nhi kính mến, chỉ thế hệ chúng ta mới có quyền soạn thảo, có quyền đọc, có quyền phán xét, có quyền chê trách. Bởi vì, dĩ vãng của chúng ta là mặt trăng, hiện tại của chúng ta là mặt trời. Chúng ta đứng thẳng, bình đẳng tuyệt đối với bè bạn, với kẻ thù. Bởi vì, chúng ta chưa hèn mọn, không thèm chạy trốn và dám trực diện chiến đấu trong nỗi cô đơn.
Chương VII
– Cô thấy thế nào? Người công an chấp pháp hỏi tôi.
– Tôi thấy bình thường. Tôi đáp.
– Cô không hiểu ý tôi. Ý của tôi muốn biết cô đã nghĩ gì khi bị nhốt biệt giam.
– Biệt giam nào? Các ông có đủ các thứ biệt giam mà.
– Biệt giam khu FG Chí Hòa.
– Tôi đã ghi rõ trong Tự Khai.
– Tôi đã đọc. Cô hãy hiểu rằng, tôi từ Hà Nội vào đây để làm việc với cô bằng tinh thần mới, hoàn toàn mới. Tôi đề nghị thế này: Cô tạm quên tôi là công an, tôi tạm quên cô là tù nhân chính trị, chúng ta nói chuyện như bè bạn.
– Tuỳ ý ông.
– Trước hết, tôi xin cảm phục các cô, dù các cô chống đối chúng tôi, các cô xứng đáng là kẻ thù của chúng tôi. Chúng tôi hết sức lo ngại tinh thần chiến đấu ngoan cường của các cô, các cậu, chúng tôi sẽ thua. Tôi đã gặp bọn lãnh đạo cũ ở các trại cải tạo. Chúng tôi đánh giá bọn nó rất thấp. Trung ương Đảng ngạc nhiên vô cùng khi thấy các cô, các cậu chống cộng sản chân tay không. Các cô, các cậu, trong tự khai, không hề xin khoan hồng, không hề nhận tội lỗi, không mong đợi ngày về. Còn thì cúi đầu chịu tội hết. Các cô, các cậu, có mất quyền lợi cũ đâu mà chống chúng tôi?
– Ông từ Bắc vô Nam có mang theo tàu bay không?
– Tôi đi tàu bay.
– Mang theo tàu bay cơ.
– Chúng tôi có Mig 19, Mig 23.
– Có cả tàu bay giấy nữa!
– Cô đừng nghĩ chúng tôi thỏa mãn tự ái của cô để khai thác. Tôi đi thu thập tài liệu viết lịch sử Đảng.
– Vậy tốt. Tôi sẵn sàng giúp ông.
– Cảm ơn cô.
– Muốn biết tôi đã nghĩ gì ròng rã 240 ngày đêm ở cachot FG Chí Hòa, ông nên vào đây ở một ngày thôi, ở như một tội nhân nguy hiểm, ông sẽ có cảm giác và cảm tưởng rất hiện thực xã hội chủ nghĩa.
– Tôi chỉ muốn cảm tưởng của riêng cô.
– Cảm tưởng của tôi là ghê tởm.
– Cô không sợ hãi.
– Sợ hãi gì.
– Sự ghê tởm.
– Tôi ghê tởm và tôi thương hại. Các ông chưa được làm người. Chỉ những kẻ chưa được làm người mới dám đối xử với con người như vậy.
– Cô được làm người rồi?
– Phải, làm người từ sự biết chịu đựng hình phạt của kẻ chưa được làm người.
– Ai dạy cô tư tưởng ấy?
– Nỗi khổ.
– Chúng tôi chỉ cần cô biết sợ hãi. Và cô sẽ phải biết sợ hãi, chừng đó, chúng tôi thả cô về.
– Các ông muốn dùng tôi làm vật thí nghiệm?
– Gần như thế.
– Tôi hiểu.
– Bọn ngụy nhân, ngụy quyền và phản động vớ vẩn, chúng tôi không thèm quan tâm. Chúng tôi sợ các cô, các cậu. Chúng tôi sợ tuổi trẻ Sài Gòn. Một thắc mắc thuộc phạm vi tâm lý đấy. Người ta chống cộng sản hoặc để nắm quyền bính hoặc để phục hồi quyền bính cũ, tài sản cũ, sự nghiệp cũ. Tuổi trẻ Sài Gòn chống cộng sản để được cái gì nhỉ? Ngày xưa, tuổi trẻ Sài Gòn chống ngụy quyền, chống Mỹ; bây giờ, họ chống cộng sản, tại sao?
– Bất kể một chế độ nào bất nhân, tàn ác, bóc lột và không làm cho dân tộc tôi hạnh phúc thật sự, tuổi trẻ đều chống. Chế độ của các ông cũng bất nhân, tàn ác, bóc lột và không thể làm cho dân tộc tôi hạnh phúc, tuổi trẻ tiếp tục chống đối. Tuổi trẻ hoàn toàn vô tư trong sự chống đối. Chúng tôi không chống cộng sản. Bất hạnh thay cái chế độ bất nhân, tàn ác, bóc lột của các ông lại là chế độ cộng sản nên các ông và thiên hạ cứ ngộ nhận chúng tôi chống cộng sản. Nếu chế độ của các ông có tự do, dân chủ thực sự và dân chúng hạnh phúc, ấm no, sẽ chẳng còn ai chống đối, dù chế đó ấy là cộng sản.
– Chúng tôi không có tự do, dân chủ à?
– Hãy nhìn tôi, hãy hình tưởng 1390 ngày đêm cùm xích trong các cachots, ông sẽ có câu trả lời.
– Cô cần phải biết sợ hãi. Tuổi trẻ cần phải biết sợ hãi.
– Tuỳ ý các ông.
– Đói khát và sợ hãi sẽ làm cô đầu hàng. Rồi cô sẽ trở thành một công dân ngoan ngoãn.
– Tôi biếu ông chi tiết này để ghi Đảng sử: Trong cực kỳ đau khổ và gần kề cái chết, có những người tuổi trẻ sợ sống hơn sợ chết. Lại có những người thèm ước mơ vì ước mơ là sự sống bền bỉ, vĩnh cửu. Và họ bảo vệ sự sống bằng ước mơ.
– Ước mơ sẽ chết luôn.
– Ông đừng kiêu ngạo, con người chết, ước mơ vẫn còn. Bởi vì ước mơ là ý nghĩa cao cả, vô tận của đời sống. Lưỡi lê có thể đâm thủng trái tim con người, lưỡi lê bất lực với ước mơ. Và hình phạt của chủ nghĩa của ông cũng bất lực luôn.
– Để xem.
Sau lần «mạn đàm» với sử gia của Đảng, người ta chở tôi tới bệnh viện Chợ Rẫy. Bác sĩ trưởng khoa thần kinh là ông bác sĩ của chế độ cũ. Sau một năm học tập cải tạo, người ta xử dụng khá đông bác sĩ Sài Gòn. Những vị trí thức này bỗng trở nên hèn mọn, khúm núm, sợ hãi và khó khăn hơn cả bác sĩ cộng sản. Tôi ngồi chờ khám bệnh, chứng kiến nhiều vụ khiến buồn nôn. Quả thật, bọn ngụy nó ngụy từ cái móng chân lên tới cái tóc. Những người gầy ốm, hốc hác, mất ngủ, xin chứng nhận mắc bệnh thần kinh để sang Pháp, sang Đức, sang Thụy Sĩ chữa bệnh, mục đích là thoát khỏi Việt Nam, bọn bác sĩ ngụy mắng mỏ bằng ngôn từ cộng sản làm như chúng yêu nước lắm, cách mạng lắm. Vị bác sĩ trưởng khoa khước từ chứng nhận, xua đuổi, hất hủi đồng bào cũ của ông ta. Đồng bào khiếu nại lên bác sĩ Giám Đốc. Bác sĩ cộng sản xuống tận nơi giải quyết. Bọn bác sĩ ngụy líu ríu tuân lệnh, dạ vâng khô cổ họng. Cộng sản chấp thuận đồng bào điên khùng để đồng bào đủ giấy tờ nộp hồ sơ xuất ngoại. Quốc gia kìm hãm đồng bào, muốn đồng bào tỉnh táo để sống ở nhà thương điên bao la. Tôi nhìn lũ trí thức cầy cáo của 2, 3 chế độ, bỗng lợm giọng. Và tôi chợt hiểu tại sao cộng sản nó khinh bỉ trí thức miền Nam, dù nó cho một cái nhà, dựng một cái biển, đẩy cả lũ vô Hội Trí Thức Yêu Nước.
Đến lượt tôi khám bệnh theo chỉ thị. Đích thân bác sĩ trưởng khoa khám bệnh cho tôi. Tôi biết trước còn một nhà tù ghê gớm hơn cachot FG Chí Hòa mà tôi sắp được ở. Hai người công an dẫn giải mặc quần áo dân ngồi ngoài. Phòng của trưởng khoa có mình tôi và bác sĩ. Ông ta hỏi tôi:
– Cô bị thần kinh lâu chưa?
– Thần kinh là bị gì? Tôi giả vờ.
– Là điên điên khùng khùng do mất ngủ lâu ngày, do suy nghĩ mỏi mệt, do lo lắng đủ thứ, do sự khủng hoảng nào đó. Ông giải thích.
– Thế tôi bị từ 30-4-1975. Tôi bị sau 1390 ngày đêm trong các cachots nhà tù. Như thế có phải là điên khùng không?
– Thời kỳ bắt đầu đấy.
– Xin lỗi ông, tôi chỉ bắt đầu điên khi gặp ông. Tên ông là gì nhỉ?
– Bác sĩ Vũ Duy Tiếp.
– Ngụy hả?
– Cải tạo rồi.
– Vẫn ngụy giờ thêm phỉ. Tên ông tôi sẽ nhớ để sau này đặt tên cho cái cầu tiêu công cộng. Mỗi thằng bác sĩ ngụy ở cái khóa thần kinh này là một thùng rác. Bây giờ, khỏi khám, khỏi hỏi, chứng nhận đi, tôi Ngô Kim Lan, phản động, điên nặng.
– Cô mạ lỵ cán bộ nhà nước.
– Ghi thêm, tôi chửi rủa ông. Người điên có chứng chỉ chửi cả Hồ Chủ Tịch!
– Cô điên thật rồi.
– Tôi không chối cải. Nhưng nếu ông quả quyết những người xin xuất ngoại bị điên thì ông bớt khốn nạn một tí.
– Tôi phải chứng nhận cô điên, thần kinh tâm liệt…
– Ông không muốn cũng không dám. Đồ hèn, chứng nhận lẹ đi. Nếu ông đủ can đảm vào tù mới bảo tôi hoàn toàn bình thường. Bác sĩ ngụy khốn kiếp, tôi điên nặng, có ngày tôi sẽ gặp ông.
– Cô thông cảm. Chỉ thị của công an thành phố.
– Đàn em tôi sẽ viếng nhà ông. Một trái lựu đạn chắc vừa đủ.
Tôi dọa ông bác sĩ. Ông ta tái mặt, phân trần. Tôi cười:
– Tôi không biết giết người đâu, bác sĩ ạ! Để lương tâm ông giết ông và những lời thề của ông trước linh hồn Hippocrate dày vò ông. Tôi xin ông một điều: Sau khi chứng nhận tôi điên, ông nên giải nghệ thầy thuốc.
Ông bác sĩ buồn bã:
– Tôi đông con cái quá.
Cuối cùng, tôi được mời ra khỏi phòng bác sĩ trưởng khoa. Tôi thừa đoán những việc sắp xảy tới. Công an dẫn tôi về đề lao Gia Định và tôi lại nằm trong cachot. Chẳng ai gọi tôi đi làm việc. Chẳng ai cho tôi biết kết quả sau lần khám bệnh thần kinh và giải thích tại sao tôi phải đến Chợ Rẫy. Người ta bắt tôi sợ hãi dần dần. Người ta muốn tôi suy luận và thầm sợ hãi từ từ. Cộng sản thật khó hiểu. Chỉ cần thủ tiêu tôi là xong, họ không thủ tiêu. Họ mất công đầy đọa và bắt tôi sợ hãi. Họ thích thí nghiệm sự chịu đựng của tuổi trẻ. Trò chơi thí nghiệm của họ rất hãi hùng. Cứ đem con người ra thí nghiệm. Con người vô tích sự. Con vật sản xuất tốt hơn. Hai mươi ngày sau, tôi gặp lại sử gia của Đảng, người bôn-xê-vích đeo kính trắng, tóc hoa râm, đôi môi tím tái.
– Chúng tôi luôn luôn nghĩ đến cô. Sợ cô ở biệt giam lâu đâm ra mất bình thường, chúng tôi đưa cô đi khám bệnh thần kinh.
– Cảm ơn các ông.
– Kết quả đáng ngại.
– Tôi biết rồi. Các ông chỉ thị cho ông bác sĩ ngụy chứng nhận tôi điên nặng. Các ông mất công quá. Muốn đẩy tôi vào nhà thương điên, các ông cứ việc đẩy. Bày đặt thủ tục rườm rà.
– Chúng tôi làm sáng tỏ chính nghĩa cộng sản.
– Các ông mượn tay ngụy hại tôi.
– Giúp cô đấy. Tôi đã nói gì về nhà thương điên đâu. Làm gì có chuyện nhà thương điên. Nếu có, chỉ có vấn đề chữa bệnh thần kinh căng thẳng của cô. Tôi đã nghiên cứu lý lịch gia đình cô. Một lý lịch hoàn toàn trong sạch. Thế mà riêng cô, cô thù nghịch chúng tôi.
– Tôi không thù các ông.
– Cô chống chúng tôi. Tại sao?
– Vì các ông tàn ác, các ông không đem lại hạnh phúc cho dân tộc.
– Ai sẽ đem lại hạnh phúc cho dân tộc? Bọn ngụy lưu vong hay các cô?
– Chúng tôi.
– Dễ quá, tại sao cô không cộng tác với chúng tôi?
– Thế hệ cha, anh tôi đã cộng tác với các ông rồi, đã bị thủ tiêu hết rồi. Mèo không thể sống chung với chuột.
– Lịch sử đã khác xưa.
– Nhưng lịch sử cộng sản không thay đổi.
– Cô định chống chúng tôi tới ngày nào?
– Ngày các ông tạo được hạnh phúc cho đồng bào chúng ta. Chừng nào dân Việt Nam không bị ăn rặt đầu tôm, vỏ tôm, tôi hết chống đối. Mình mẩy con tôm các ông đem đi đâu? Tại sao lãnh đạo ở nhà lớn, đi xe hơi, ăn uống đầy đủ chất bổ béo mà người bộ đội chỉ đi bộ, đeo rau muống quanh lưng, lương tháng vừa trả một đĩa cơm vỉa hè. Cá nhân ông có nhà riêng chưa? Có Honda chưa? Có radio chưa? Có vân vân chưa? Tại sao quý vị Uỷ viên Bộ chính trị chiếm ngự các biệt thự sang trọng, còn đào cả hầm, xây bê tông cốt sắt tránh bom và ông, ông phải nhảy xuống tăng sê tập thể? Tôi chống đối vì cả ông nữa, ông ráng hiểu. Còn hành hạ tôi, ông cứ hành hạ. Nhưng hãy nhớ rằng tôi không bao giờ muốn giết ông.
– Cô nói chuyện lảm nhảm rồi.
Sử gia bảo cai ngục dẫn tôi về cachot. Sáng hôm sau, trên xe du lịch 404, tôi ngồi giữa ghế sau, hai bên là hai công an nữ; ghế trước, tài xế và sử gia. Người ta đưa tôi đến nhà thương điên Chợ Quán. Tôi tưởng người ta sẽ gửi tôi ở đây như một bệnh nhân mất trí nhưng người ta đã chưa làm thế vội mà chỉ dắt tôi đi thăm cái thế giới người điên. Hoặc là tôi may mắn, hoặc là tôi không may mắn, những người điên ở khu vực dành riêng cho họ, thản nhiên nhìn chúng tôi. Họ chả điên tí nào. Ngay cả những người bị nhốt trong phòng cũng hiền hòa, dễ thương. Đến phòng cuối dãy, sử gia bảo tôi nhìn kỹ xem có gặp ai quen không. Tôi đứng sát cánh cửa chấn song sắt to, tròn nhìn vào. Bỗng tôi hoa mắt muốn khụyu ngã trên hành lang. Tôi phải bám hai tay vào song sắt. Chị Nga, cô giáo văn chương Hoàng Thị Nga, tác giả «Bài diễn văn đọc trước Quốc Hội Mỹ» dang dở đang ở trong phòng này. Chị giống hệt một «con điên» chính cống. Bộ quần áo nhà thương màu cháo lòng làm tăng thêm vẻ khờ dại trên khuôn mặt chị. Tóc chị rối bù và đã lốm đốm bạc. Đôi mắt chị trũng sâu, tay chị gầy gò, nhăn nheo.
– Chị Nga! Tôi gọi.
Chị nhìn tôi. Chị cười. Rồi chị chỉ tay:
– Cút đi!
Tôi ngỡ ngàng. Nước mắt tôi ứa ra.
– Chị không nhận ra em à?
– Mày là ai? Jane Fonda hay Bertrand Russell, Elizabeth Hopkins hay Henry Ford?
– Lan nè, chị Nga!
– Lan huệ sầu ai lan huệ khóc.
Những người trong phòng vỗ tay. Chị Nga gật gù, khoái chí.
– Em hãy can đảm sống, cố sống, bằng cách nào cũng phải sống, bằng giá nào cũng phải sống em nhé!
Chị ngừng lại, chạy vụt ra cửa, nắm lấy tay tôi, cắn một miếng. Tôi giật tay và lùi lại vài bước. Chị xỉa nói:
– Cút đi, cút đi…
Rồi chị vung tay, đọc diễn văn:
– Thưa quý vị…
Người ta bảo tôi rời phòng của chị Nga. Rồi tôi được trở về đề lao Gia Định, cachot C1. Lạ chưa, tù nhân đi tham quan người điên. Tôi không còn bị còng chân nữa. Người ta bỏ mặc tôi lây lất trong cachot. Tôi bằng lòng thế. Để suy nghĩ về chị Nga. Tôi nhớ 52 ngày còng chung với chị, chị đã kể cho tôi nghe những mẩu chuyện liên quan tới Jane Fonda, Elizabeth Hopkins. Tôi còn nhớ, như mới nghe hôm qua, giọng chị vừa phẩn nộ, vừa bùi ngùi: «Sau ngày 30-4-1975, đài BBC mở mục Diễn đàn cho những người đã từng ở Việt Nam, biết về Việt Nam phát biểu quan điểm của họ. Tôi có nghe, mỗi tuần một lần. Trừ giáo sư Honey và một ký giả nào đó, rất tiếc, tôi quên tên, viết về thiếu tá Minh biểu diễn đáp máy bay chở vợ con xuống sân hàng không mẫu hạm đã làm tôi xúc động. Còn thì rặt một lũ tiểu nhân chơi trò đánh người ngã ngựa. Mình thua trận, đau đớn chết đi được, chúng nó còn chửi rủa thêm, ca ngợi kẻ thù của mình. Con nhãi Elizabeth Hopkins, hai mươi bốn tuổi, hiểu cái gì! Vậy mà nó dám dở giọng hỗn láo, nó bảo Sài Gòn cho Hà Nội chút ít vật chất nhưng Hà Nội cho Sài Gòn phẩm cách con người. Đấy, Hà Nội cho Sài Gòn phẩm cách làm người bằng cách còng dính chùm Sài Gòn đi ỉa, đi đái, ăn uống dính chùm luôn. Cần bắt con nhãi Hopkins xấc xược, ngu dốt đó, còng nó lại, nhốt nó cạnh xô cứt để nó nhìn rõ phẩm cách Hà Nội cho Sài Gòn. Ngày nào, trong ước mơ của tôi, tôi sẽ gặp con nhãi Elizabeth Hopkins nói chuyện về phẩm cách của cộng sản. Chị Nga nhắc lại những lời đã dặn tôi trước giờ chúng tôi chia tay. Bài diễn văn. Cái còng. Sự can đảm. Cuộc sống. Tôi không tin chị Nga đã điên. Không, chị Nga chưa điên. Chị Nga còn tỉnh táo. Chị Nga giả vờ điên.
Người ta đẩy chị Nga vào Chợ Quán hồi nào? Chắc chắn, thời gian chị bị nhốt ở trại điên cũng lâu bằng thời gian tôi ở cachot FG Chí Hòa. Người ta muốn tôi nhìn chị Nga để tôi sợ hãi. Phản ứng đã ngược lại. Tôi muốn gần gũi chị Nga để san sẽ nỗi đau khổ chị đang phải chịu đựng một mình. Trại điên, tầng thứ mấy của địa ngục nhỉ? Địa ngục hết tầng rồi. Vậy thì trại điên là cái đáy thứ hai dưới tầng thứ chín. Trại tập trung có gì ghê gớm đâu, so với nhà thương điên nó chỉ là mụn ghẻ. Phải, trại tập trung chỉ là mụn ghẻ dù ở Sibérie, ở Sơn La, Lào Kay, Cao Bằng hay Hàm Tân, Xuyên Mộc… Một năm ở trại tập trung bằng một tuần ở khu FG, bằng một giờ ở cachot FG Chí Hòa, bằng một phút ở nhà thương điên. Xem chừng người ta hơi ồn ào về những trại tập trung. Mỗi người từ đó về đều tự phong mình là ngục sĩ, thứ tù nhân phi thường nhất thời đại, chứng nhân số một của tội ác. Với tôi, những ngày đêm cachot mịt mù, dằng dặc chỉ là cuốn văn phạm quá dầy để viết những trang đời sống quá khổ, nhưng nếu viết được thì rất hay, rất lạ. Thế thôi. Cái mốt của thời đại khốn khó của chúng ta là thích đánh bóng nỗi khổ như đánh bóng một món hàng. Nhiều người hưởng thụ kỹ nhờ biết cách quảng cáo nỗi khổ của người khác. Đến cả nỗi khổ cũng kiếm ra cơm áo, xe hơi, nhà cửa, sự nghiệp thì lạ thật. Bây giờ là kỷ nguyên nhân danh nỗi khổ, sau khi đã nhân danh lòng yêu nước, nhân danh tự do, nhân danh dân chủ, nhân danh nhân quyền…
Chúng ta nhân danh gì trong bóng tối cachot, bên cạnh xô cứt, chị Nga, chị Nhi? Có lẽ chúng ta không biết nhân danh cái gì, chúng ta chỉ biết chịu đựng, chịu đựng và chịu đựng. Và nếu có ai hỏi chúng ta chịu đựng để làm gì, em sẽ trả lời rằng: Chúng tôi chịu đựng để biết ngậm trái đắng nói chuyện ngọt bùi, để trồng hoa nhân ái trên mọi dấu tích thù hận, để biến những cái còng thành đồ trang sức và ngục tù thành phòng triển lãm hạnh phúc, ước mơ.
Chương VIII
Cửa sắt khép lại. Sử gia của Đảng Cộng sản bảo tôi:
– Chừng nào cô cảm thấy sợ hãi, hãy báo cáo ngay với người của chúng tôi.
Tôi hỏi, giọng bình thản:
– Người của các ông?
– Phải, người của chúng tôi.
– Công an có mặt cả ở nhà thương điên?
– Ở khắp nơi.
– Tôi hiểu rồi.
– Cô cần hiểu thêm điều này: Tự ái của cô sẽ biến cô thành người điên thật sự như cô Hoàng Thị Nga. Một ngày trong phòng điên bằng một năm trong cachot. Cô nên nhớ kỹ.
– Bằng mấy phút sống với các ông?
– Hãy sống đi, cô sẽ biết so sánh.
Sử gia lùi lại vài bước và khoanh tay đứng nhìn tôi. Tôi vừa xoay lưng về phía ông ta là bị ngay hai người điên nhào tới, túm tóc, kéo tôi vào góc phòng. Họ quật ngã tôi trước sự rửng rưng của những người điên khác. Tôi, hầu như kiệt lực, không đủ sức kháng cự, đành nhắm mắt chờ đợi một trò chơi mới, khiếp đảm và nhục nhã. Nằm yên, tôi chịu đựng những trái đấm, những cái tát không thương sót. Tôi không thể nhớ rõ thời gian rớt khỏi cầu vồng dưới âm phủ và chó ngao đã cắn xé tôi bao nhiêu miếng, nhưng tôi biết đòn điên đã làm tê liệt thể xác tôi. Đúng lúc đó, lúc mà tóc tôi bị xoắn chặt, giật mạnh không còn cảm giác đau đớn, những người điên trong phòng dẫm chân, vỗ tay, bu kín quanh cuộc chơi. Họ la hét và xông vào đấm đá hai người điên bắt nạt tôi. Tôi được giải cứu. Vẫn nằm co coắp ở góc phòng, tôi cố gắng mở mắt. Cửa sắt bị rung ầm ầm. Giám thị mở khóa, tay cầm chiếc roi mây. Sử gia của Đảng còn đứng ngoài hành lang. Giám thị mở tung cửa, chạy vô, vụt roi tới tấp vào đám người điên. Vòng đai dãn rộng lập tức. Hai người điên hành hung tôi được lôi ra khỏi phòng. Cửa sắt đống rầm, khóa chặt. Sử gia theo sau Giám thị, mất hút. Bây giờ tôi mới thấm đòn. Tôi dẫy dụa, quằn quại và thiếp đi trong cơn say của hình phạt.
Khi tôi vụt tỉnh, tôi thấy cả khuôn mặt tôi lạnh toát. Mở mắt, tôi thấy tăm tối. Và tôi hoảng sợ, hét lớn. Một bàn tay vỗ nhẹ lên vai tôi và một giọng nói tôi đã từng nghe ở đâu đó:
– Bình tĩnh, em nhỏ!
Vẫn bàn tay ấy, lột cái khăn thấm nước khỏi mặt tôi. Vẫn giọng nói ấy rót vào tai tôi:
– Em nhỏ, sợ hãi là đầu hàng đấy.
Tự nhiên, tôi quên hết đau đớn, đôi môi rướm máu của tôi mấp máy, tôi khẽ gọi:
– Chị Nga!
Chị Nga mỉm cười. Tôi vươn tay nếu lấy cổ chị. Một người điên khác giúp tôi ngồi dậy, dựa lưng vào tường. Chúng tôi nhìn nhau. Tôi không hiểu chị Nga đã nghĩ gì khi ngắm nghía khuôn mặt đầy móng vuốt cào cấu còn rướm máu, khuôn mặt của người con gái hơn 1390 ngày thiếu ánh sáng mặt trời. Mặt trời chiếu cho mọi người, mặt trời đã bị cấm chiếu cho chúng tôi. Mặt trời bất lực dưới quyền uy của chủ nghĩa. Mặt trời mù lòa, hèn mọn, khiếp nhược. Mặt trời phản bội thiên chức soi sáng những vùng tội ác và hâm nóng lương tri đã đống băng của loài người. Nhưng, mặt trời vẫn mọc, vẫn lặn và con người vẫn sống quằn quại, sống hãi hùng. Mặt trời cũng vẫn chiếu xuống trái đất và chẳng phản ảnh nổi một chút xao xuyến nào từ trái tim bọc gọn lớp mỡ dầy của những kẻ gọi là lãnh tụ, những kẻ luôn luôn khoe mình ban phát hạnh phúc cho con người. Cuối cùng, mặt trời đồng lõa với bọn lái buôn nỗi khổ, bọn thu thuế bác ái, bọn đấu thầu nhân quyền và bọn đầu cơ tình nghĩa. Hẳn chị Nga đã nghĩ nhiều lắm. Đôi mắt thâm quầng và trũng sâu của chị mới là mặt trời của tôi, một mặt trời tâm cảm làm rực rỡ những ước mơ trong quan tài cachot.
– Em xanh xao và già đi nhiều quá, Lan ạ! Chị Nga nói.
– Ở tù mấy ai trẻ mãi, chị Nga nhỉ? Tôi nói. Em hy vong ước mơ của chúng ta không già. Khi nào hết ước mơ, đó là lúc chúng ta nên chết.
– Học điều đó ở đâu vậy, em nhỏ?
– Ở một người tử tù.
Tôi kể cho chị nghe 240 ngày đêm nằm cachot FG khám Chí Hòa. Chị Nga ôm chặt lấy tôi, vỗ về:
– Em mong muốn một phần thưởng gì không?
– Không.
– Nhưng sẽ có một phần thưởng cho em, phần thưởng dành tặng con người chế ngự hình phạt của thù hận. Rốt cuộc, chủ nghĩa nào cũng thay phiên nhau vào quan tài và chết ngạt. Con người thì cứ hiên ngang sống, thách thức tất cả. Em là biểu tượng của sự sống tuyệt vời ấy.
– Còn chị?
– Chị à… Chị chẳng có gì đáng nói.
Chị Nga lảng qua chuyện khác.
– Chẳng có gì phải sợ hãi người điên cả, nếu ta ở lâu với họ. Người điên biết sợ Giám thị và cũng biết thương yêu. Họ hiền hòa vô cùng khi họ hết cơn điên.
Tôi đưa tay rờ những vết cào cấu trên mặt.
– Họ đã…
Chị Nga cười:
– Họ đã cứu em đấy. Hai đứa hành hung dằn mặt em là công an được đẩy vô phòng trước lúc em tới nữa giờ.
– Em hiểu rồi, hiểu rồi…
– Em phải biết giả vờ điên, giả vờ đấm đá, cấu xé và thoát y để bị còng. Chúng ta khó trở thành người điên lắm. Ước mơ còn giúp ta luôn luôn tỉnh, dù ta bị kéo dài thời gian nhốt chung với người điên. Hãy nhớ điên không phải là bệnh truyền nhiễm, em nhỏ thân mến.
– Chị đã bị tra tấn nhiều lần?
– Những ngày đầu. Bây giờ, họ tưởng chị điên thật. Sống với người điên suốt đời vẫn dễ chịu hơn sống với cộng sản. Họ có thể làm đau đớn thể xác ta khoảnh khắc, làm phiền ta nhưng họ không bắt ta làm tự khai.
– Chị đã bị còng?
– Bằng còng Mỹ. Có dịp nhìn còng Mỹ dính trên tay mình, chị lại nghĩ đến Nhi và bài diễn văn dang dở.
– Mãi mãi chị xoáy tâm hồn vào cái còng Mỹ.
– Còng Mỹ và cai ngục Nga. Hai thứ là một. Hai thứ cùng chung mục đích tạo tác bất hạnh và chết chóc. Yên tâm không có gì để sợ hãi, không còn gì để sợ hãi.
Có chị Nga bên cạnh, tôi khởi sự những ngày sống ở nhà thương điên, thứ nhà tù khốn kiếp nhất. Người ta muốn biến đổi tâm hồn con người mà không cần dùng hệ thống tẩy não của Palov. Với ai đó, người ta sẽ thành công. Với chúng tôi, họ chỉ thất bại. Bởi vì, nếu bị điên, chúng tôi đã điên ở những cachots câm lặng đằng đẵng tháng năm. Phấn đấu trong bóng tối với sự quạnh hiu xoi mòn xương thịt khổ hơn phấn đấu để khỏi bị điên trong thế giới người điên. Chị Nga biết cách sống với người điên, biết cách giả vờ điên. Kinh nghiệm nào đã dậy chị? Ôi, thứ kinh nghiệm gớm ghiếc chị rút tỉa được dưới đáy địa ngục. Bằng kinh nghiệm ấy, chị Nga qua mặt các sử gia của Đảng Cộng sản, cái đám lãnh «sứ mạng» điều nghiên tâm lý của tuổi trẻ chống đối họ không thấm mệt. Họ tưởng chị Nga điên rồi. Nhưng chị Nga chưa điên, không bao giờ điên.
Chị Nga chỉ già nua, tàn tạ nhan sắc và, chắc chắn, xuân đời của riêng chị đã phôi pha. Jane Fonda hay Elizabeth Hopkins đã là những kẻ thông manh tội nghiệp. Họ thiếu may mắn để chữa bệnh tật của họ. Làm sao họ biết những người con gái bị còng dính chùm trong cachot tối tăm, hôi hám. Nếu họ mở nổi mắt nhìn rõ hình hài chị Nga lúc này và cái chết thê thảm của chị Nhi năm ngoái thì ngay cả Bertrand Russell cũng sẽ đòi hỏi chính tòa án của ông ta kết tội ông ta như ông ta đã kết tội chiến tranh Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam bỉ ổi hay hình phạt của hòa bình Việt Nam bỉ ổi? Và, những kẻ phản chiến hôm qua, những kẻ thân hữu với cộng sản hôm nay phải cúi mặt xấu hổ. Nói chi bọn vong bản che dù. Tất cả hãy chịu khó hình tưởng những người con gái Việt Nam yêu tổ quốc, yêu tự do, yêu dân chủ – chỉ có mỗi tội ấy thôi – mà phải úa héo, tàn tạ một kiếp người trong những chiếc quan tài xi măng cốt sắt, câm lặng và đói khát, xiềng xích triền miên. Bóng tối và tủi khổ chỉ làm mờ mắt và gầy mòn nhưng vẫn làm ước mơ rực sáng. Dẫu họ gục xuống trong cô đơn, trong sự ngoảnh mặt không mảy may trắc ẩn của những kẻ thích ồn ào phán xét, thích lên tiếng vô trách nhiệm, thích làm dáng nhân quyền thì ước mơ của họ vẫn tồn tại. Đó là chất ngọt của trái đắng, là ý nghĩa của đời sống của những ai dám đánh đu với hình phạt của thù hận để định nghĩa làm người, để dâng hiến cuộc đời.
– Chị Nga, chị còn giữ vững cái cung cách đối xử với cộng sản khi sông núi chuyển vẫn không?
– Còn chứ. Ta phải dạy họ làm người, cần dạy họ làm người.
– Dù họ dạy ta điên? Dù họ nhỏ át xít từng giọt lên đời ta?
– Dù gì chăng nữa, vẫn nên dạy họ làm người. Hễ được làm người, họ sẽ hết là cộng sản, sẽ hết đày đọa con người. Đó là Di chúc của cô giáo Trần Thu Nhi và chúng ta có bổn phận phải thực hiện.
Chị Nga luôn luôn tuyệt diệu. Tâm hồn chị đã đáp trên chuyến xe hồi tưởng trở về vùng đất trăm năm xưa cũ của người Việt Nam cao thượng, người Việt Nam chưa hề bị biến chất bởi những chủ nghĩa phi nhân Tây phương, bởi những tinh thần hẹp hòi của các thứ giáo hội. Sống bên chị, nhà thương điên bỗng trở thành miếng sân đời, và, chị Nga, tôi có cảm tưởng chị là cây thông sừng sững, cao vút, cô liêu.
Phải mất một tuần lễ, những vết cào cấu trên gương mặt tôi mới tróc vẩy. Những vết cào cấu không thể thành sẹo. Tôi thèm có một vết sẹo. Để, thỉnh thoảng, rờ rẫm mà nhớ một hình phạt hèn mọn của thù hận. Sinh hoạt nhà thương điên, dần dần, thích hợp với tôi. Chị Nga đã trang bị đầy đủ «vũ khí chống điên» cho tôi. Những người điên không còn là nỗi ám ảnh của tôi nữa. Ta sẽ mường tượng hàng ngàn điều quái đản ở một nơi chốn ghê gớm khi ta chưa bước tới. Đã bước tới, huyền thoại của nó sẽ tan biến. Nếu ta một lần đau khổ dám can đảm chấp nhận, ta sẽ nghìn lần đau khổ khinh thường và không thể dễ dàng bị khuất phục, bị gục ngã. Người ta nói thẳng với chúng tôi rằng người ta chỉ muốn chúng tôi sợ hãi. Nhiệt tình và lòng tự phụ của chúng tôi không cho phép chúng tôi sợ hãi. Sợ hãi là đầu hàng. Cuộc chiến đấu vừa lãng mạn vừa cô đơn của chúng tôi đã làm cho kẻ thù choáng váng. Và chúng tôi rất tự hào. Để có niềm tự hào, chúng tôi phải đánh đổi bằng nghẹn ngào, cay đắng, chết chóc và ngay cả xuân mộng đời mình. Tự nhiên, tôi mơ ước làm nhà văn để viết về chị Nhi, chị Nga, về những người bằng tuổi tôi đang âm thầm chiến đấu, đang bắt đầu cuộc chiến đấu với các thứ chủ nghĩa đã làm mòn mỏi, lây lất dân tộc tôi. Tôi mơ ước được vinh tôn họ, những người không biết ồn ào, không một tham vọng quyền bính, không ngớ ngẩn và lố bịch quần áo đen, khăn rằn học đòi đóng vai lãnh tụ và sẵn sàng tình nguyện vắng mặt ở cuộc vui lớn thành công. Nghĩ thật tội nghiệp lịch sử nước tôi, trải qua một kinh quá đau đớn nhục nhằn, vẫn còn sót lại nhiều bọt bèo, rác rến.
Sang tuần lễ thứ hai, tôi quen thân gần hết bạn điên trong phòng. Chị Nga bảo những người bị nhốt trong phòng là những người điên nặng, những người điên thích phá phách, cắn xé và la hét. Một điều khiến tôi lạ lùng là người điên nặng vẫn còn biết sợ hãi. Họ nem nép khi Giám thị xuất hiện và biết tìm chỗ lẫn trốn khi Giám thị cầm roi mây vào phòng. Mỗi ngày, nhiều trò điên diễn ra theo đúng thời khoá biểu của người điên. Nếu không được tôi luyện ở các cachots, tôi cũng sẽ điên vì những trò chơi này. Nhờ thèm khát tiếng nói, giọng cười của mọi người từ lâu, tôi cảm giác thú vị và ấm áp sống với cộng đồng nhỏ, dẫu chỉ là cộng đồng điên khùng, rồ dại. Sau mỗi lưu lạc thần trí đáng sợ, những đôi mắt ngầu đỏ trở lại hiền dịu và giọng nói đằm thắm vô cùng, người điên trầm tư và ngôn ngữ của họ chả điên tí nào. Họ khôn hơn các người tỉnh khi họ tâm sự với tôi. Nhưng khi họ nổi cơn, cấu xé lẫn nhau, đập đầu vào tường, bám chấn song cửa gào thét, cởi quần áo tênh hênh, cười, khóc, chưởi bới đủ điều, đủ hạng người thì họ giống hệt quỷ sứ dưới địa ngục. Lúc ấy, để bảo vệ mình, chị Nga dạy tôi, phải sững sờ, dữ dằn để chứng tỏ mình ghê gớm hơn họ. Vì người điên biết sợ hãi. Chinh phục người điên, mình sẽ không sợ người điên và sợ bị điên. Chị Nga bắt tôi làm một giác đấu sĩ trong đấu trường điên. Tôi đã lăn xả vào người điên thật, túm tóc họ, lột xé quần áo họ, ngoạm cắn họ. Và, quả nhiên, tôi biến thành người điên bất khả xâm phạm, đầy quyền uy. Tôi có thể ra lệnh cho họ cả lúc họ điên lẫn lúc họ tỉnh. Rồi tôi nghẹn ngào, cay đắng.
Cuộc đời đẩy tôi vào nhà thương điên. Hình phạt hay ân huệ? Nhà thương điên, động từ bất qui tắc của văn phạm đời sống của tôi. Tôi thao thức với những động từ bất qui tắc này. Đêm đêm, chợt thức giấc, tôi thấy những người điên hoặc dựa lưng vô tường đan lát tưởng tượng, đọc sách tưởng tượng, ôm con nũng nịu tưởng tượng… hoặc tay chắp sau đít đi đi lại lại trong phòng hẹp, nói năng lảm nhảm, nguyền rủa vu vơ. Họ ngủ rất ít, ăn rất ít. Ngày nào đó, họ sẽ chết. Người ta đâu thích cứu họ. Nhà thương, nơi họ đến, họ không được thương xót, chữa bệnh mà chỉ có hất hủi, đọa đầy và đánh đập. Nhà thương điên, đúng theo nghĩa thời đại, là trại tập trung cải tạo người điên. Điên, có lẽ, là bệnh của tư sản, thứ bệnh đáng căm thù như giai cấp tư sản. Từ mấy năm nay, tỷ lệ người điên ở Sài Gòn gia tăng một cách ngoạn mục. Người ta điên vì mất tất cả. Người ta cũng điên vì muốn đi tìm lại tất cả. Điên giả vờ nhiều hơn điên thật. Điên giả vờ để được cấp chứng chỉ điên để nộp hồ sơ xuất ngoại chữa bệnh – cách vượt biên ít mạo hiểm – và để tha hồ công kích chế độ mà không bị nằm tù. Người ta bảo, sống với cộng sản, thần kinh luôn luôn căng thẳng, riết rồi mất trí hết. Cõi đời thênh thang đã là trại điên vĩ đại thì Chợ Quán chỉ còn là túp lều trong cái trại ấy.
Tôi thường bám chấn song cửa sắt nhìn ra sân nhà thương, khu vực người điên không bị quản chế, những người điên tỉnh. Họ không thích ồn ào nên không gây ồn ào. Chị Nga nói với tôi rằng, có người nổi điên từ một buổi tối công an ập đến nhà, siết còng chặt tay chồng mình, đọc Quyết định bắt và dẫn đi. Có người nổi điên từ chiến dịch đánh tư sản đợt hai năm 1978. Của cải bị tịch thu, bị đuổi đi vùng kinh tế mới đèo heo hút gió với hai bàn tay trắng. Thế là điên. Nhưng thê thảm nhất là trường hợp điên của một người đàn ông. Anh ta cùng với vợ và đứa con nhỏ trốn khỏi Việt Nam bằng thuyền. Thuyền của anh ta gặp cướp biển Thái Lan. Bọn cướp sau khi vơ vét vàng bạc thì hãm hiếp đàn bà con gái. Vợ anh ta bị cướp hiếp bảy lần. Anh ta điên từ lúc nghe thấy tiếng vợ mình kêu cứu, rên xiết. Người chồng bất lực. Thế giới bất lực. Quyền uy của loài người bất lực. Đạo lý và tinh thần sùng bái Phật giáo của cả hai nước Thái Lan nằm trong sự man rợ của bầy thú cướp biển. Người chồng ôm đứa con nhỏ nhảy xuống biển. Khốn nạn cho anh ta là anh ta được cứu vớt lên cái thuyền bị bầy thú gỡ nốt cả máy. Đứa con đã chết sặc và chìm nghỉm. Thuyền lênh đênh, trôi giạt về bờ bải quê hương. Anh ta bị bắt bỏ tù. Nhờ điên, anh được đưa vào Chợ Quán. Bây giờ, suốt ngày, anh ôm cái gối, dựa gốc cây, ngồi trên ghế chuyện trò với cái gối, ru cái gối ngủ, vỗ về cái gối, tưởng chừng cái gối là con mình. Thuyền nhân bất hạnh này vẫn còn hạnh phúc là được điên ở quê nhà. Nếu anh tới bến tự do, anh sẽ điên trên đảo vì số phận của anh, chắc chắn, không khơi dậy mảy may trắc ẩn của những kẻ nắm cái quyền ban phát ân huệ định cư cho anh. Họ sẽ lạnh lùng hỏi anh: «Có thân nhân ở nước thứ ba nào không? Trước đây có làm cu ly cho Mỹ không, có ôm súng Mỹ bắn cộng sản hay không?» Vân vân… Nếu không, anh phải nằm đảo, đợi người ta coi anh như rác và hốt anh đi định cư. Thời gian anh hóa thành rác, ít nhất, là 1095 ngày! Những người điên vì yêu chuộng tự do, chưa kịp xuống thuyền đã bị đồng bào của mình lừa gạt hết vàng bạc, đầy rẫy ở nhà thương điên. Khi họ nổi cơn, cả loài người bị nguyền rủa thậm tệ.
Chỉ cần nghĩ tới thân phận của họ, đã đủ điên rồi. Nhưng bọn phản bội, bọn réo rắc bệnh điên thì vẫn tỉnh táo. Chị Nga khuyên tôi đừng nên suy tư về người điên. Tôi chợt hiểu tại sao tóc chị Nga mau bạc!
Một đêm, cùng thức giấc, chị Nga buồn bã tâm sự với tôi:
– Có lẽ chị em mình sắp xa nhau.
– Chị linh cảm à?
– Ừ, chị linh cảm. Chị đã thấm mệt, thấm mệt thật sự. Chị lo ngại sức khỏe của chị không chịu đựng nổi hình phạt. Ý chị không cần ăn, ước mơ không cần ăn những thể xác rất cần. Nó cho mình ăn uống tồi tệ quá.
– Em phải nói với chị điều gì?
– Khỏi. Trong hai đứa mình, một đứa phải sống. Ta nợ nần nhiều, phải có đứa sống để trả nợ.
– Và để dạy cộng sản làm người.
– Dĩ nhiên.
– Để viết tiếp vài diễn văn dang dở.
– Chứ sao.
– Chị Nga ạ, thế thì đứa phải sống là chị. Vị chỉ có chị mới đủ tư cách viết và độc diễn văn.
– Tại sao không là em?
– Em chưa thể trang trải và độ lượng như chị. Nhưng, chị ạ, đừng nói chuyện bỏ cuộc, đừng nói chuyện chết chóc. Có lần, chị nhớ chứ, chính chị đã nói: «Ở đây không cho phép ai nói đến cái chết» khi ba chúng ta bị còng dính chùm trong cachot đề lao Gia Định.
– Mấy năm rồi, Lan?
Mấy năm rồi? Tôi muốn làm một tù nhân lạc tháng, rồi ngày để khỏi phải nhớ từng phút phấn đấu với sự sợ hãi và cái chết. Hãy tính hai đời tổng thống Mỹ. Tôi vào tù từ Gerald Ford, nằm cachot sang Jimmy Carter. Ngọn cờ Human rights của Jimmy Carter phất vào tháng trước thì tháng sau chúng tôi ăn cơm độn khoai, ngô, sắn và ăn bột mì đầy mọt nhân đạo của Tây phương luộc chưa chín. Sau đó, chúng tôi ăn bobo, thứ thực phẩm của ngựa. Tám mươi phần trăm tù nhân Việt Nam bị hư răng và đau dạ dầy vì sắn và bobo. Ngọn cờ Human rights thiếu gió, nó rũ rượi, ủ ê. Và quyền làm người vẫn chỉ là thứ đồ trang sức của những kẻ thích đi trên con đường của vĩ nhân. Giờ này, Jimmy Carter đang lo vận động tái ứng cử. Giờ này, chị Nga vừa hỏi tôi ở tù được mấy năm rồi.
– Sắp hai nhiệm kỳ tổng thống Mỹ rồi, chị Nga ạ!
Chị Nga mỉm cười. Nụ cười trong phòng điên, dưới ánh đèn néon, thấy nó mỉa mai làm sao!
– Cả Hiến chương Nhân quyền lẫn khẩu hiệu Nhân quyền của ông Carter đều không đề cập tới những chiếc còng.
– Chị sẽ giúp ông Carter tranh cử bằng còng Mỹ ở Việt Nam.
– Nếu ra ngoài kịp.
– Nhân quyền càng hung hăng ở bên kia trái đất bao nhiêu thì còng Mỹ càng siết chặt tay chân những người chống cộng sản ở bên đây trái đất bấy nhiêu. Nếu họ im miệng họ lại, mình sẽ được đối xử khá hơn, hoặc mình yên thân hơn.
– Đôi khi, sự độc ác thường được diễn tả bằng lòng từ bi. Thời đại của chúng ta thì thường xuyên vĩ nhân thuyết pháp Độc Ác và bảo đó là Từ Bi. Những kẻ gian manh nhất loài người lại thích mình Phật hơn Phật, Chúa hơn Chúa. Thôi, ngủ thêm một tí, em nhỏ.
Chị Nga nhắm mắt. Tôi không quen ngủ dưới ánh sáng đèn néon. Ở cachot thêm chút ánh sáng, ở phòng điên tôi lại thấy nó thừa. Người điên đâu biết khoét tường trốn trại mà phải thắp đèn thâu đêm. Có lẽ, người ta muốn những người chưa điên, luôn luôn nhìn rõ người đã điên để chống điên. Và người ta bảo chủ nghĩa của người ta ưu việt, chế độ của người ta quý trọng con người! Tôi ngắm khuôn mặt chị Nga và tôi cảm giác một sợi khói nào cay nhất vướng trong mắt tôi. Đã một lần, chị Nhi nói đến cái chết. Rồi chị chết. Chết tay vẫn đeo còng Mỹ. Bây giờ, chị Nga cũng nói đến cái chết. Nước mắt tôi ứa ra. Tôi đã nhủ, sẽ có một hôm, đi tìm nấm mồ của chị Nhi, dựng bia mộ cho chị và máng lên đó cái còng Mỹ. Nếu chị Nga chết, tôi sẽ làm gì trước nấm mồ của chị? Bài diễn văn đọc trước Quốc Hội Mỹ hay sẽ chỉ một chiếc còng Mỹ, chiếc còng rực sáng nhờ đã còng tay nhiều người Việt Nam yêu tự do, dân chủ, người Việt Nam làm sáng danh các vĩ nhân Lincoln, Kennedy…
Tôi không dám nghĩ gì thêm. Ngủ ngoan, chị Nga, em không cho phép chị nói đến cái chết.
Chương IX
Sử gia của Đảng hỏi tôi:
– Cô cảm thấy sợ hãi chưa?
Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt của sử gia. Dẫu mang kính cận, sử gia vẫn không dấu nổi những tia bàng hoàng. Bạn đã bao giờ thấy mắt diều hâu chưa? Dữ tợn lắm nhưng chưa bằng đôi mắt gà mái bảo vệ đàn con chống lại diều hâu.
– Cô… Cô điên rồi à?
Sử gia ngồi thủ thế. Tôi cười nửa miệng:
– Ông hỏi hai câu đều ngớ ngẩn.
– Ngớ ngẩn?
– Phải, ngớ ngẩn tuyệt đối. Có thể, ông giả vờ ngớ ngẩn như người giả vờ điên. Ông dặn tôi, khi nào cảm thấy sợ hãi mới báo cáo, tôi chưa cảm thấy, ông đã gọi tôi đi làm việc. Rồi ông lại hỏi tôi điên rồi à! Người điên không biết mình điên như kẻ độc ác không biết nó độc ác.
– Cô ám chỉ ai?
– Tôi nói thẳng vì tôi thẳng thắn.
– Cô liều mạng vô ích, cô Lan ạ!
– Ông lầm. Tôi biết lúc nào cần phải chết. Thế thôi.
– Vậy cô muốn gì?
– Tôi đã đọc «Ngục trung nhật ký» của ông Hồ Chí Minh và những bài thơ tù của ông Tố Hữu. Tôi rút ra hai điều nhận xét. Một, thực dân và phát xít nhốt các ông ấy lỏng lẻo quá. Ở tù kiểu đó, ai cũng ở được và ở suốt đời. Hai, cả hai ông đều thích rên siết trong tù. Nhà tù của các ông gớm ghiếc gấp ngàn lần nhà tù thực dân, phát xít. Tôi không rên siết, chúng tôi không thèm rên siết. Chúng tôi sống phơi phới và có quyền nói chúng tôi can đảm hơn ông Hồ Chí Minh.
– Tôi hỏi cô muốn gì?
– Muốn dạy cộng sản làm người! Thực lòng, chúng tôi muốn dạy cộng sản làm người, dù cộng sản dạy chúng tôi điên, nhỏ từng giọt át xít lên đời chúng tôi.
– Tôi không hiểu cô.
– Tôi hiểu ông, hiểu các ông. Các ông độc ác và vô liêm sỉ. Đó là bản chất cộng sản. Muốn hành hạ thể xác tôi, nói toạc móng heo, muốn tra tấn tôi, các ông cứ việc tra tấn một cách thẳng thắn, mặt đối mặt cho nó quân tử. Hà tất phải bầy kịch công an sắm vai người điên tra tấn tôi. Người điên các ông cũng chưa tha, còn chà đạp lên phẩm cách của họ. Các ông, quả thật, chưa làm người nổi, cần được dạy dỗ nhiều.
– Cô điên rồi. Cô nói y hệt người điên.
– Các ông hèn mọn. Các ông là bọn ném đá dấu tay, bọn chuyên môn gây tội ác rồi vấy tội lên đầu kẻ khác.
Sử gia lắc đầu. Ông ta đốt điếu thuốc, hít một hơi đẫy đà, nhả khói rồi gật gù:
– Nếu cô tỉnh táo, cô sẽ khôn ngoan hơn.
Tôi phá ra cười:
– Tôi chưa điên đâu, sử gia ạ! Người điên dễ chịu hơn cộng sản và nhà thương điên thoải mái hơn chế độ xã hội chủ nghĩa. Tội nghiệp ông quá, ông vì cái sự nghiệp gì mà hành hạ chúng tôi? Ông sẽ được cái gì? Đừng hòng xác ông được bỏ vào hòm kính hay chôn trong Lăng Bác của ông. Đừng hòng, đừng hòng… Người cộng sản đáng tội nghiệp lắm, họ chẳng có chút ước mơ nào. Ông đang ước mơ gì? Ông mong tôi chết sớm hả? Ông mong tôi nếm đủ hình phạt của chủ nghĩa của ông hả? Rồi ông có leo lên xác tôi để sánh vai với Trường Chinh, Lê Duẩn không?
– Cô Lan, tôi sắp nói với cô những lời tâm cảm. Nói cho đúng, tôi sắp nói với cô những lời tâm cảm của Đảng. Tôi muốn cô nghe bằng thái độ thành khẩn.
– Tôi rất thích thành khẩn.
– Hẳn cô phải hiểu Đảng rất ưu ái tuổi trẻ.
– Để làm vật thí nghiệm.
– Hơn cả thế, để trao lịch sử vào tay các cô, các cậu. Những người bạn trong tổ chức của cô đã được thả về hết. Rồi cô sẽ gặp họ bằng xương bằng thịt. Sẽ gặp. Cô cũng sẽ gặp thân nhân của cô. Dù có thù ghét cộng sản, tôi vẫn nói với cô điều này: Cộng sản thèm muốn những người ngoan cường như cô. Tại sao cô không là cộng sản nhỉ? Chúng tôi sẵn sàng kết nạp cô. Lịch sử Đảng không thiếu những đảng viên lãnh đạo đã từng chống Đảng dữ dằn như cô. Nghĩ lại đi, cô Lan, giữa cô và Đảng, giữa gia đình cô và Đảng chưa hề có chút nợ nần gì. Tại sao cô chống Đảng mãi?
– Hình như tôi đã trả lời ông. Hình như người điên không nên nghe người cộng sản. Ông đứng nói nữa. Tất cả đều muộn bởi vì không bao giờ nó sớm.
– Cô điên rồi. Tự ái của cô đã làm cô điên. Chúng tôi sẽ chữa bệnh cho cô, sẽ đưa cô từ cái tĩnh ra cái động.
– Từ cái chết mòn ra cái chết lẹ! Ông đạo đức và nhân ái quá, ông sử gia ạ! Sẽ có ngày tôi dạy ông làm người.
Giám thị dẫn tôi về phòng. Chị Nga đã bị còng ở giữa cửa sắt. Chị đứng bên trong, thò tay qua chấn song. Hai cổ tay chị toòng teng chiếc còng số 8. Dĩ nhiên, còng chế tạo tại Mỹ! Giám thị mở khóa, kéo mạnh cửa ra phía ngoài. Chị Nga bị kéo theo, chị nghiến răng chịu đựng. Tôi bước vào. Cánh cửa đóng mạnh. Chị Nga lại văng vào tư thế cũ. Tôi thừa hiểu tại sao người ta phạt chị Nga. Chị không thể qua mặt được sử gia của Đảng như chị và tôi đã tưởng. Cộng sản họ thâm độc ở chỗ đó. Họ biết tất cả hành động của mình nhưng họ cứ lờ đi. Chỉ cái gì dấu trong đầu óc là họ mới không dám phá nổi. Chẳng hạn, họ chẳng thể nào hiểu được tâm hồn cao cả của chị Nga. Người đàn bà đã tàn tạ thời con gái trong các nhà tù, người đàn bà đang bị còng tay vào chấn song sắt của nhà thương điên, người đàn bà bao nhiêu ngày đêm phấn đấu với hình phạt của thù hận mà vẫn không thèm nghĩ đến chuyện hận thù, vẫn mơ ước dạy cộng sản làm người, vẫn âm thầm soạn những bài yêu thương giáo khoa thư cho thú vật để chúng sớm hóa kiếp thành người. Người đàn bà tuyệt diệu ấy, chị Nga kính mến của tôi, tôi đứng cạnh chị, trừng trừng nhin Giám thị đang loay hoay ổ khóa.
– Ông Giám thị! Tôi gọi.
– Gì? Giám thị đứng thẳng người, hất hàm.
– Tôi muốn làm việc lại.
– Với ai?
– Với người vừa làm việc.
Chị Nga lắc đầu:
– Vô ích, em nhỏ. Đừng dại dột xin cộng sản thương hại. Cũng đừng ngu si phản kháng. Tốt nhất là ngẩng mặt trong cô đơn.
Tôi chưa kịp nói thêm. Giám thị đã mất hút. Lát sau, sử gia tới. Ông ta hỏi tôi:
– Cô Lan muốn làm việc?
Tôi đưa tay lên vai chị Nga. Rồi tôi luồn cánh tay tôi qua cánh tay dính còng của chị.
– Không phải làm việc. Tôi muốn nhắc lại câu nói của tôi để ông khỏi nuôi ảo tưởng: Tất cả đều muộn bởi vì không bao giờ nó sớm. Không bao giờ.
– Nó vẫn sớm, lúc nào nó cũng sớm. Ngay bây giờ, chẳng hạn, cô muốn gì?
– Tôi muốn được còng chung với bạn tôi.
– Yêu cầu của cô, không được thỏa mãn đâu. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ mở còng cho bạn cô.
– Tôi không xin điều đó.
REPORT THIS AD
– Cô Lan, tôi đáng tuổi cha anh của cô. Với cộng sản, các cô vẫn còn khờ dại lắm. Ngoan cường thừa nhưng thiếu gian ngoan.
Sử gia bỏ đi. Buổi chiều, người ta mở còng cho chị Nga thì buổi tối người ta gọi tôi lên văn phòng giám thị làm việc. Sử gia ngồi hút thuốc lá, tỏ vẻ đắc ý. Ông ta mở đầu câu chuyện có nước trà ướp sen thơm ngát và bánh ngọt:
– Cô đã làm say mê công cuộc nghiên cứu của tôi. Vì tôi say mê nên tôi muốn tâm sự với cô, nhân danh người lớn tuổi hơn cô. Cô dùng nước đi.
– Cám ơn ông, tôi đã quen uống nước tù.
– Vậy cô dùng bánh.
– Tôi cũng quen nuốt sắn rồi. Phải cám ơn các ông vì các ông đã dạy chúng tôi biết coi thường vật chất.
– Tôi tin cô nói thật.
– Tôi thiếu gian ngoan nên thích nói thật. Và tôi bằng lòng sự thiếu thốn ấy.
– Bởi vậy, chúng tôi mới mất công vì các cô, các cậu Sài Gòn.
– Các ông sẽ tốn công đấy.
– Cộng sản kiên trì tối đa. Các cô là đá, chúng tôi là nước chảy.
– Thí dụ chúng tôi là hư vô.
Sử gia cười. Ông ta không trả lời tôi mà nói:
– Quả thật, chúng tôi dễ dàng hy sinh thế hệ của các cô. Chúng tôi không cần các cô, các cậu đâu. Vài năm nữa, chúng tôi có thế hệ không biết chống đối, không dám chống đối chúng tôi, đã đành, mà còn trừ khử kẻ nào chống đối chúng tôi. Nhưng chúng tôi ngổn ngang vấn đề phải đối phó, chúng tôi không muốn phí thì giờ với các cô, các cậu. Tóm tắt, một là cô cộng tác với chúng tôi. Hai là cô ở tù suốt đời. Cô sẽ không được chết theo ý muốn của cô đâu.
Tôi nhớ lại chị Nga nói buổi trưa: «Đừng dại dột xin cộng sản thương hại. Cũng đừng ngu si phản kháng.» Và tôi chớp mắt ra chiều cảm động.
– Tôi sẽ suy nghĩ.
– Phải, cô nên suy nghĩ.
– Còn các bạn trong tổ chức của tôi? Tôi muốn gặp họ.
– Họ được tha hết rồi. Tất cả đều từ chối gặp cô. Họ có quyền công dân nên có đủ quyền tự do. Họ nói không thích dính dáng đến phản động và người còn đang bị tù. Rất tiếc.
Sử gia giải thích trôi chẩy quá. Mỗi sáng «sẽ gặp họ bằng xương bằng thịt» đã tới «họ không thích dính dáng đến phản động».
– Ông còn gì để nói với tôi nữa không?
– Cô sẽ từ cái tĩnh ra cái động rồi từ cái động về cái ấm êm. À, cô muốn gặp mẹ cô không?
– Không.
– Tại sao?
– Tôi muốn mẹ tôi để dành cho tôi những giọt nước mắt, mai này.
– Thế nghĩa là…
– Là mẹ tôi sẽ khóc trên nấm mồ của tôi, một mai, đất nước ta có cái hội đi tìm những nấm mồ không có mộ bia.
Tôi tự ý đứng dậy:
– Ông sử gia, xin ông cho tôi biết tên thật của ông?
Sử gia gỡ mắt kính, dụi mắt:
– Để làm gì, cô Lan?
– Dù chết cách nào thì tôi cũng sẽ chết sau ông. Và dù sống cách nào thì cũng sẽ đem một vòng hoa đặt trên nấm mồ buồn tẻ của ông.
– Cô lạ quá.
– Có chi lạ, tôi được vinh dự làm người, tôi phải cư xử như con người dầu cộng sản đã ngược đãi tôi ngang hàng con vật.
– Chắc chắn, tôi sẽ đặt vòng hoa lên mộ của cô.
– Ông chắc chắn?
– Phải.
– Vậy ông sẽ là người và tôi hãnh diện đã dạy ông làm người.
Sử gia bực bội. Ông ta xoắn tay, nét mặt danh lại:
– Tôi không thể kiên nhẫn hơn.
Tôi lại ngồi xuống ghế:
– Vậy là ông là đá, hết là nước chẩy rồi. Tôi rất phục ông. Những nhà nghiên cứu cộng sản nói rằng, chỉ cần có một chút lương tâm thôi, người cộng sản hết là cộng sản. Ông còn một chút lương tâm nào không? Ông cảm giác gì thấy con cháu ông bị đòn thù của các ông giáng nện? Ông nghĩ gì khi thấy xuân đời chúng tôi tàn tạ trong cachot, trong nhà điên? Ông có lợm giọng bởi những hình phạt tồi tệ dành cho chúng tôi, cho những kẻ mà ông đã soi kính hiển vi không tìm ra dấu vết thù hận về ý thức? Sau hết ông cảm tưởng gì khi đã vuốt ve tôi bằng những lời nói dối?
Sử gia nín thinh. Căn phòng hoàn toàn yên lặng. Một lúc khá lâu, ông ta nói, giọng vương vướng chút gì đó xúc động làm cảnh:
– Cô sẽ được đi lao động cải tạo. Tôi tin rằng mọi ẩn ức của cô sẽ sớm được giải tỏa. Lao động sẽ giúp cô tìm lại sự sống. Tôi sẽ vẫn thường xuyên theo dõi cô.
Tôi hỏi:
– Đó là tĩnh ra động?
Sử gia gật đầu. Bóng tối ra ánh sáng. Cô sẽ gặp những thử thách mới. Và tôi hoàn toàn vô trách nhiệm khi cô bước ra ánh sáng.
Tôi cười:
– Trách nhiệm của ông trong bóng tối?
Sử gia đứng dậy:
– Bây giờ cô về nghĩ ngơi. Người ta sẽ lo thủ tục cho cô thật sớm. Ở trại cải tạo, cô sẽ có rất nhiều cơ hội gặp thân nhân. Cô cần nhớ điểm đặc biệt này: Chợ Quán chưa phải là nhà thương điên đúng nghĩa. Nhà thương Biên Hòa mới đúng nghĩa!
Đưa tôi ra khỏi cửa phòng, sử gia nói lời từ biệt:
– Nhiệt tình và lòng tự phụ của tuổi trẻ Sài Gòn xứng đáng để tôi cảm phục. Trong lịch sử chiến đấu của Đảng Cộng sản, chưa có thời đại nào chúng tôi gặp địch thủ ngoan cường như các cô, các cậu hôm nay. Chúng tôi vẫn hy vọng có ngày các cô phản tỉnh. Chúng tôi thèm nhiệt tình của các cô, thèm kiến thức của các cô cho tương lai và cho sự tồn tại vĩnh cửu của Đảng. Nhiệm vụ của tôi đến đây là chấm dứt. Ngày mai tôi về Hà Nội. Nhưng tôi vẫn theo dõi diễn tiến tư tưởng của các cô. Chúc cô mạnh khỏe.
Tôi nhìn sử gia không chớp mắt và nói:
– Cám ơn ông. Dẫu ông là cộng sản. Tôi sẽ nhớ suốt đời tôi rằng có một người cộng sản đã không đập bàn, la hét, dọa nạt tôi. Ông ngọt ngào hơn những người cộng sản khác nhưng cũng chua xót hơn. Tuy nhiên, nếu ông chết trước, tôi không quên đặt trên nấm mồ ông một vòng hoa.
– Tên thật của tôi là Nguyễn Bình Nam.
– Tôi ghi nhớ.
Giám thị dẫn tôi về phòng. Chị Nga vẫn còn thức chờ đợi tôi. Tôi kể cho chị nghe buổi «mạn đàm» của sử gia và tôi. Chị Nga thản nhiên nói:
– Em sắp làm chuyện phiêu lưu dưới ánh mặt trời.
Từ cái tỉnh ra cái động, từ bóng tối ra ánh sáng, chuyến phiêu lưu sắp tới của tôi sẽ ra sao? Chẳng ai có thể đoán nổi thâm ý của cộng sản. Với họ, con đường an toàn nhất cũng đầy rẫy mìn, chông, cạm bẫy. Sự thành thật và lương tâm là hai danh từ không có định nghĩa trong tự điển cộng sản.
– Chị Nga, chị khuyên em điều gì trước khi em ra đi chứ.
– Với em, với tháng năm tù đày của em, không cần khuyên điều gì nữa.
– Một lời thừa thãi cũng đủ sưởi ấm lòng em.
– Trong bóng tối, ta chỉ nhìn thấy ta. Ngoài ánh sáng, ta sẽ nhìn thấy mọi người. Cái tiểu ngã sẽ nhập vào đại ngã. Bóng tối và ánh sáng đều rất cần thiết.
– Cám ơn chị.
Hai hôm sau, người ta đưa tôi về đề lao Gia Định. Dĩ nhiên, tôi bị nhốt trong cachot. Và, lạ lùng biết mấy, cachot oan nghiệt đó lại là cachot số 12 khu B, cachot tôi «tạm trú» một thời gian khá dài. Tôi nhớ ngày tôi bước vào quán trọ địa ngục này là ngày 14 tháng 3 năm 1976. Bốn năm rồi, bên ngoài, hẳn đã nhiều thay đổi, nhưng, bên trong, đề lao Gia Định vẫn y nguyên. Người tù đến. Người tù đi. Cai ngục thì ở lại. Những khuôn mặt cai ngục cứ dầy dặn thêm vì độc ác như những lớp sơn xám mỗi năm một lần sơn phết trên cửa sắt. Cai ngục không biết mệt mỏi, không biết buồn bã. Họ cứng đơ trong giòng đời xã hội chủ nghĩa, ánh mắt cú vọ và giọng cười đười ươi. Mụ cai ngục của tôi mập mạp hơn năm xưa, con heo ủn ỉn, dũng sĩ nhà lao của chủ nghĩa, lại xách xâu chìa khóa, lại nói những câu cũ rích. Nghĩ tội nghiệp mụ và nghề coi tù của mụ. Thượng đế sinh ra con người, cho nó làm người và ước mơ. Chủ nghĩa tước đoạt hết, chủ nghĩa hủy hoại toàn diện ân huệ Thượng đế ban cho nó. Nó biến thành chó, thành trâu, thành ngựa… Rồi nó rên rỉ, đòi hóa kiếp: Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương. «Chết cho quê hương» là lý tưởng ngụy trang của yêu cầu «nếu là người». Bạn thấy chưa, cộng sản rất thèm làm người. Đừng tàn sát họ, hãy dạy họ làm người. Họ nên người, họ sẽ hết là cộng sản, sẽ liệng chủ nghĩa ngu đần của họ xuống hố phân thăm thẳm. Và, nhân loại sẽ vui mừng thấy cái chủ nghĩa thỏa hiệp với cộng sản, chủ nghĩa đấu thầu nỗi khổ, chủ nghĩa nhẩy đầm trên niềm bất hạnh, chủ nghĩa trục lợi từ sự gian ác của cộng sản chết đuối giữa đại dương. Từ đó, bước sang vận hội mới của loài người.
Tôi quan sát cái cachot «kỷ niệm». Nền xi măng đã đen thui và bức xi măng lỗ chỗ nhiều vết. Ba bức tường hoen ố, đầy vết máu quệt lên. Máu đập mũi, giết rệp đốt mình. Máu ghẻ lở, mụn nhọt. Cả máu cắn đầu ngón tay viết lời thề son sắt. Những vết gạch đánh dấu từng ngày nằm cachot, những tên người khắc sâu, những bức vẽ cảnh nằm còng, ngồi còng, đứng còng đầy khắp tường tù. Bao nhiêu người đã trọ ở quán địa ngục? Mùi hôi hám lợm giọng. Cachot khu B của đề lao Gia Định sắp sang ngang hàng với cachot FG Chí Hòa và đã vượt xa cachot Sở Công An thành phố. Qua ô cửa gió, tôi nhìn dẫy phòng tập thể buồn hiu. Những người từ năm xưa đã ra đi. Họ ở đâu bây giờ? Bao nhiêu người đã chết? Bao nhiêu người còn sống? Những người hiện đang lúc nhúc như bầy gà trong chuồng chẳng thiết nhòm ngó tới. Sự nồng nhiệt tiếp đón bạn tù mới đến của người năm xưa đã úa héo. Tù nhân không còn hấp dẫn tù nhân, không còn hấp dẫn ai nữa. Tất cả đã khô cằn, chai đá trong một xã hội mà chính cái xã hội ấy đã là nhà tù.
Tôi ngỡ sẽ phải trải qua nhiều đêm hiu quạnh ở cachot 12. Không ngờ, ngay buổi tối «tái ngộ đề lao», người ta dẫn tôi sang phòng tập thể C1. Ở đây, tập trung khoảng ba mươi tù nữ từ Chí Hòa, Đại Lợi và các trại giam của các quận trong thành phố gửi tới. Và, ngạc nhiên đến nghẹn ngào, tôi gặp chị Nga. Định mệnh nào êm ái thế? Nó cho phép chúng tới gần gũi nhau giữa biển khơi, trong bão táp. Tôi nghĩ tới chiếc còng và những đêm cachot dính chùm thân phận. Có lẽ, con người chỉ có thể gần gũi, cảm thông và gắn bó sau một kinh quá khốn khổ cùng nhau. Định mệnh tôi được sát kề định mệnh chị Nga bằng chiếc còng.
– Chị Nga, em rất sung sướng.
– Chị cũng vậy.
– Có chị, em không sợ hãi gì cả.
– Em sợ hãi gì?
– Từ bóng tối ra ánh sáng, người ta dễ bị chói mắt, choáng váng.
– Khỏi sợ. Ánh sáng trại tập trung vẫn chỉ là bóng tối, bóng tối nhầy nhụa. Ánh sáng ở trái tim em mới là thứ ánh sáng chị đã nói với em.
– Tại sao họ cho chị đi cải tạo?
– Vì họ chưa làm người.
– Họ có «mạn đàm» với chị không?
– Không. Họ tự hào «biến sỏi đá thành cơm». Ta tự hào biến sâu bọ thành người.
Chị Nga cười. Nụ cười của chị rất tươi và rất lạc quan dù đôi môi chị khô héo. Chúng tôi kiếm góc phòng ngồi tâm sự. Trong khi, các tù nữ ồn ào bàn tán về các trại cải tạo. Họ thuộc đủ thành phần: Phản động, tình nghi mãi dâm, gái điếm, buôn lậu, dân chợ trời, vượt biên… Một điểm nổi bật trong xã hội chủ nghĩa là không ai sợ tù đày, không ai có mặc cảm tù đày. Họ quan niệm thật giản dị: Tù trong thì khỏi tù ngoài. Quan niệm giản dị đó là vết nhơ trải dài lên cái ưu việt của chế độ. Thế mà người ta cứ vỗ ngực khoe khoang rằng cộng sản là tinh hoa của nhân loại. Khi súc vật phô trương, sỏi đá cũng phải ngậm ngùi.
– Họ sẽ đưa mình đi đâu, chị Nga?
– Đi đâu thì đi, ngày mai ta sẽ rõ.
– Chị thích ra Bắc không?
– Nếu được sang Sibérie càng thú vị.
– Em thì em muốn biết «Khách sạn Hilton» của lính Mỹ.
– Ồ, cái mụn ghẻ của tù ngục ấy, nghĩa lý gì. Chị nghĩ, cachot FG Chí Hòa, nơi em đã đến, mới là ung thư.
– Chị Nga à, chị thật phi thường.
– Phi thường?
– Vâng. Bị nhốt chung bao nhiêu ngày với người điên mà chị không điên. Em sẽ bị điên nếu không gặp chị.
– Tử vi của chị thiếu sao điên!
Chị Nga cười lớn. Từ khi gặp chị ở cachot ba người, tới nay, tôi mới thấy chị cười thoải mái và bông đùa. Tôi bỗng nhớ chị Nhi da diết. Giá mà chị Nhi còn sống, chị đã lập xong cái thuyết tiểu tư sản của chị rồi. Tôi tin rằng học thuyết của chị sẽ rất nhân bản. Ai đó, hình như văn hào Georghiu trong Giờ thứ hai mươi lăm, đã tuyệt vọng vì những nền văn minh hiện đại, vì những chủ nghĩa phi nhân đày đọa con người, nô lệ hóa con người. Georghiu khẳng định rằng chỉ có thứ ánh sáng từ phương Đông lóe lên và dàn trải khắp trái đất mới cứu nổi loài người trong cơn hồng thủy chủ nghĩa hôm nay. Ánh sáng từ phương Đông, Giorghiu chưa nghĩ, và chưa biết nó sẽ xuất xứ từ đâu. Tôi, tôi đoán quyết, nếu chị Nhi không chết sớm, nó sẽ lóe lên từ cái cachot ẩm mốc, hôi hám có ba người con gái bị còng dính chùm bên xô cứt. Ánh sáng ấy tỏa lên cao ngút như pháo bông rạng ngời tư tưởng cao cả của những con người biết ngậm trái căm thù để định nghĩa yêu thương. Nghĩ cho cùng, trên thế giới, có một dân tộc nào triền miên nô lệ, chiến tranh, ngục tù, bất hạnh như dân tộc tôi. Vậy thì thứ ánh sáng cứu rỗi nhân loại có xuất phát từ vùng trời nghìn năm hiu quạnh, vùng trời quê hương yêu dấu của tôi, cũng chẳng có gì lạ lùng. Đó là nguyên lý và cũng là chân lý.
Chương X
Năm giờ sáng, sau một đêm ồn ào không ngủ, người ta mở cửa phòng và gọi tên từng tù nhân. Mỗi tù nhân được gọi tên, xách bị hành lý ra khỏi phòng và đứng xếp hàng đợi ngoài hành lang. Các phòng tập thể và biệt giam khu C1 thức giấc đồng loạt. Tù nhân bám song cửa, nhìn qua ô gió tiễn tù nhân lên đường cải tạo bằng những cái vẫy tay lén lút. Chị Nga và tôi ra cuối cùng để xếp hàng chót. Hai người một chiếc còng Mỹ, người ta siết tay chúng tôi. Thủ tục điểm danh và còng chấm dứt, bầy tù nữ một tay đeo còng, một tay xách hành lý, theo lệnh của cai ngục, thất thểu bước ra sân trước cửa đề lao Gia Định. Ở đây, hành lý liệng lên trước, mỗi cặp tù dùng tay bám, dùng bụng trườn leo lên xe sau trong tiếng quát tháo «khẩn trương, khẩn trương», của cai ngục. Người lên trước giúp người lên sau.
Tấm vải bố trùm kín mít. Xe nổ máy một lúc rồi chuyển bánh. Tôi không nhìn thấy gì từ cái xe bít bùng này. Khoảng bẩy giờ, xe ngừng lại, tắt máy. Người ta nâng miếng vải bố phía sau và hạ cửa. Tù nhân liệng hành lý và, từng cặp nhảy xuống như ếch! Chúng tôi được mở còng. Cai ngục đề lao Gia Định giao tù cho cai ngục trại cải tạo. Chúng tôi xếp hàng đợi, ngồi giữa sân trại. Cai ngục đếm đi đếm lại. Mấy ả công an sắc phục quanh quẩn chờ lệnh của giám thị. Một cái bàn nhỏ được khiêng tới, kê trước chỗ chúng tôi ngồi. Giám thị trịnh trọng tuyên bố:
– Đây là Trại Cải Tạo Long Thành. Các chị đến đây để lao động và cải tạo tư tưởng. Chúng tôi sẽ giáo dục các chị, sẽ giúp các chị sớm tiến bộ để trở về sum họp với gia đình. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta vô cùng nhân đạo. Các chị sẽ học tập Nội quy. Nếp sống văn hóa mới, sẽ được lao động. Tôi yêu cầu các chị tôn trọng mọi kỷ luật của trại. Cán bộ trại sẽ săn sóc tinh thần và vật chất cho các chị. Các chị nên yên tâm tư tưởng…
Giám thị nói thật dài, thật dài mà cứ ngỡ chưa đủ. Ông ta «một lần nữa» hơi nhiều. Cuối cùng, ông ta buông tha chúng tôi, cùng cai ngục đề lao đi vào văn phòng trại, giao nhiệm vụ ghi tên nhập trại cho đám nữ công an. Chủ cũ đã hoàn tất thủ tục «bán nô lệ» cho chủ mới. Chẳng sai tí nào, chúng tôi bị biến thành nô lệ xiềng xích bầy bán giữa chợ. Để sẽ lao động như trâu như ngựa. Trước hết, tên tuổi, nghề nghiệp, địa chỉ, ngày bị bắt, tội trạng của chúng tôi được ghi vào cuốn sổ dầy cộm. Rồi những cái bị hành lý được lục tung khám xét. Rồi thân thể chúng tôi bị lần mò, vuốt nắn. Sau hết, người ta dẫn chúng tôi vào một căn nhà và đóng cửa, khóa kín. Tôi vừa thấy ánh sáng của sử gia, vừa biết cái động khi ra cái tĩnh. Chị Nga nằm lăn ra ngủ. Những người khác cũng đã ngủ. Tôi ngồi nhìn ra sân trại, mường tượng những tình tiết của cuộc phiêu lưu mới. Trại Long Thành, tôi đã nghe về nó hồi tôi chưa bị bắt. Nơi này, các viên chức thư lại cao cấp của chế độ cũ, các ông dân biểu, nghị sĩ, nghị viên chạy trốn không kịp đã bị giam giữ. Những người bị xếp vào loại «ác ôn» lần lượt bị đẩy ra các trại tù Sơn La, Lào Kai, Vĩnh Phú, Nam Hà ngoài Bắc. Một số nhỏ, chừng hơn trăm người, thoát lưới lưu đầy. Dân biểu có, nghị viên có, dự thẩm có, phó quận, phó tỉnh có. Khi tôi tới, đám thư lại ngái ngủ đã bị phát vãng vào Sa Ác, thuộc huyện Xuyên Mộc. Nhưng các tù nữ thư lại, các cấp chỉ huy nữ quân nhân, cảnh sát Thiên Nga vẫn còn học tập cải tạo tại Long Thành.
Trại Long Thành có một huyền thoại trước năm 1975, khi nó là Làng Cô Nhi dưới «triều đại» Tư Sự. Theo người ta kể, năm 1954, Tư Sự về Cà Mau, xuống tầu thủy ra Bắc tập kết. Người Mỹ biết. Ngày Tư Sự xâm nhập miền Nam, người Mỹ cũng biết. Bằng sự vận động, tài trợ và bảo trợ của người Mỹ, Làng Cô Nhi Long Thành được tạo dựng khang trang, đầy đủ tiện nghi nước, điện. Tư Sự và mấy chục đệ tử võ nghệ cùng mình của y đã đi quyến rũ, thu hút cô nhi, nạn nhân khốn khổ của chiến tranh không cần chiến thắng của Mỹ, đem về nuôi nấng, dạy dỗ. Cô nhi Long Thành bị cạo trọc đầu, được huấn luyện theo đúng phương pháp «trồng người» của Hà Nội và sẽ là đạo quân xung kích tiền phong đánh chiếm Sài Gòn. Tư Sự ngạo nghễ trong cái giang sơn Long Thành của y. Bộ Xã Hội chế độ cũ không có tư cách giám sát, giám thị Làng Cô Nhi và An Ninh không có quyền động chạm tới Tư Sự. Nhưng bỗng một đêm, người Mỹ bảo An Ninh Sài Gòn bắt Tư Sự và đồng bọn. Và họ đem xe vào Làng Cô Nhi chở hết cô nhi của Tư Sự ra phi trường Tân Sơn Nhất. Chẳng ai biết đám cô nhi này đi về đâu và sẽ bị sử dụng cho mục đích gì. Làng Cô Nhi, từ đó, sát nhập vào các Viện Mồ Côi thuộc Bộ Xã Hội. Nó ở hơi xa Sài Gòn nên nó kém hấp dẫn các nhà từ thiện. Nó trở thành cái làng hiu quạnh gần hoang phế. Và đến tháng 6 năm 1975, nó bị cải danh: Trại Cải Tạo Long Thành.
Mười một giờ, bầy tù nữ kéo nhau về làm ồn ào sân trại. Dưới nắng trời tháng ba hừng hực, đạo quân quần ngắn phơ bầy trọn vẹn cái ý nghĩa nhân đạo và khoan hồng của Đảng và Nhà nước cộng sản. Nếu hình ảnh này, chỉ cần thế thôi, được thu vào ống kính quay phim, được đem chiếu cùng khắp thế giới không cần thuyết minh, không cần phụ đề, người coi, chắc chắn, sẽ tưởng họ đang thưởng thức cuốn phim tài liệu dưới âm phủ. Những khuôn mặt cháy nắng đen đúa, hốc hác. Những cặp đùi than tro khẳng khiu. Những thân hình gầy đét chẳng còn thấy ngực. Từng người, tóc sũng ướt, tay xách lon guigoz, thất thểu bước chân không trên cát bỏng. Đàn bà, con gái đấy ư? Con người đấy ư? Hội Bảo Vệ Súc Vật các nước trên thế giới và Các Nhà Nuôi Chó, Sưu Tầm Chó sẽ bảo đó là những nhân vật hư cấu của tiểu thuyết giả tưởng. Còn Hội Bảo Vệ Nhân Quyền thì miễn đề cập, bởi vì họ đã mù. Riêng các Hội Thân Hữu với Cộng Sản chắc đã được giải thích rằng đó là bốn tù hình sự nham nhở, sản phẩm của văn hóa đồi trụy Hoa Kỳ, đang phục hồi phẩm cách.
Tôi vừa nhận ra bà Vệ, Hội thẩm Tòa thượng thẩm Sài Gòn; bà Trịnh thị Dung; bà Phù Tuyết Hồng, Thẩm phán; bà Đại tá Hương, chỉ huy lực lượng nữ quân nhân; bà Đại tá Vẽ, chỉ huy trưởng Trường Nữ Quân Nhân; bà Trung tá Thủy, con chim Thiên Nga đầu đàn; bà Long, giám đốc Nha xã hội, bà dân biểu Nguyễn Thị Lý, bà Bí thư của vợ ông Tổng Thống, vân vân… Những con người danh vang hôm qua và những con người phản động hôm nay cùng với những con người vượt biên, buôn lậu, mãi dâm, trộm cắp, bụi đời, xì ke, ma túy… đứng chung hàng ngũ tù đầy, án phạt tập trung cải tạo. Cuộc đổi đời ngoạn mục đã tạo ra nghịch cảnh thẩm phán và gái điếm cùng chung một còng! Bầy tù nữ lần lượt diễn binh trước mặt tôi, qua khung cửa sổ. Hàng ngàn, hàng ngàn. Đàn bò lao động nửa ngày bị vắt sữa lại về gặm cỏ cháy. Cụ thể, buổi sáng, buổi chiều, tháng tháng, năm năm. Sữa lao động bị vắt đều đều dưới nắng lửa, trong mưa lạnh. Tôi nghĩ mình có thể giúp chị Nga một đoạn dài cho «Bài diễn văn đọc trước Quốc Hội Mỹ», nếu tôi đi hết con đường hệ lụy.
Bây giờ, người ta mở cửa phòng phát chiếu, chén, muỗng và hướng dẫn tù mới nhập trái đi lấy cơm nước. Tôi hơi ngỡ ngàng. Bữa ăn của bò sữa tồi tệ hơn bữa ăn của người điên. Một chén sắn lát và một chén cơm. Thức ăn là củ cải nấu muối! Bạn biết sắn lát chưa? Sắn tươi thái ra từng lát, phơi khô, đóng vào bao bố, nộp thuế cho Nhà nước. Nhà nước liệng trong kho, cung cấp thực phẩm cho tù và Nhà nước bảo nhân dân đã nuôi dưỡng những người học tập cải tạo! Thực phẩm của con người quần quật lao động đốn mạt gấp ngàn lần cỏ nuôi bò sữa. Niềm bí ẩn nằm trong đó nếu, ở bên kia trái đất, người ta có ngạc nhiên thấy những tù nhân đàn bà, con gái còn sống, vẫn tha thiết với đời sống, vẫn ước mơ, không rên xiết, không cầu cứu, không thù hận và luôn luôn chứng tỏ muốn hiến dâng đời sống cái ý nghĩa cao cả của sự chịu đựng hình phạt rã rượi, tê buốt, đòi đoạn khi phải qua cầu.
Ngay buổi chiều, người ta biên chế chúng tôi vào các đội khác nhau của trại đàn bà. Tôi ở đội Rau Xanh, chị Nga ở đội Rau xanh khác. Cửa phòng tạm nhốt mở tung, tôi bắt đầu là trại viên cải tạo và được phép đi lại quanh trại, từ nhà này sang nhà kia. Tôi sung sướng gặp lại một vài người tôi đã quen biết khoảnh khắc ở phòng 1C1 đề lao Gia Định năm xưa. Một cô gái chạy tới ôm chặt lấy tôi:
– Trời ơi chị, em nhận mãi mới ra chị. Chị gầy ốm quá, già nua quá. Chị còn nhớ em không?
Tôi nhìn cô gái chằm chằm:
– Xin lỗi nhe, mắt tôi yếu kém lắm rồi.
Cô gái nắm chặt tay tôi:
– Em hỏi chị trước tiên, buổi trưa, hôm chị vô 1C1. Em vẫn nhớ chị, không hiểu tại sao em nhớ chị hoài.
Tôi chớp mắt:
– Nhớ rồi. Em… em… tàn tạ… Xin lỗi. Tôi không bao giờ quên em, quên tình nghĩa 1C1.
Cô gái kéo tôi về chỗ nằm của cô. Rồi cô mời dăm bẩy người khác tới, giới thiệu tôi với họ. Tôi biết thêm những khuôn mặt «danh trần giang hồ» của «làng bụi» như nữ chúa Jacqueline, Hai Ba Dạng; như vũ nữ Lệ Thủy; như vũ nữ thoát y Hà Tố Mai và, thú vị nhất, người con gái bất cần tất cả là Đặng Vũ Thanh Thủy, hỗn danh Con Lan xì ke. Buổi tối, khi cửa nhà tù đã khóa, chúng tôi tự do chuyện trò.
– Em thường hay nhắc chị với các chị đây. Không ngờ có ngày gặp chị. Em tên Hoa. Còn chị tên gì?
– Lan, Ngô Kim Lan.
Hoa cho tôi biết đội trưởng của tôi là Jacqueline, nữ chúa phốp pháp như đô vật, trái lại, nữ chúa Hai Ba Dạng thì mảnh mai như gái đài các. Chúng tôi tán gẫu chung một tiếng đồng hồ. Cuối cùng, chỗ tôi nằm cạnh Hoa, còn Con Lan xì ke, Hoa và tôi.
– Chị Lan, ở căn nhà này, chúng nó rỗng tuếch. Con Lan xì ke nói.
– Cám ơn chị Thủy. Tôi nói.
– Gọi tôi là Con Lan xì ke. Tôi thích vậy.
– Vâng, tôi nhớ.
– Chị chả cần cho chúng nó biết những gì về chị.
– Còn chị?
– Tùy ý chị thôi. Tôi không tò mò. Thoáng nhìn chị, tôi hiểu chị không thể gần gũi bọn rỗng tuếch. Sự ngu dốt của chúng nó sẽ hại chị chứ không phải chúng nó.
Con Lan xì ke vấn điếu thuốc rê. Chị bật diêm, mồi thuốc. Mùi khói thước Gò Vấp khét lẹt. Cái vẻ phong trần hôm nay chưa thể tàn phá hết nhan sắc của chị. Đôi mắt chị vẫn đẹp, vẫn còn là đôi mắt ngục tù sẵn sàng nhốt bất cứ gã đàn ông si tình nào.
– Chỉ Con Lan xì ke!
– Con Lan xì ke thôi.
– Vâng. Chị có nhiều u ẩn lắm thì phải.
– Sao chị biết?
– Nỗi u ẩn nằm trong mắt chị.
Con Lan xì ke thở dài:
– Chị đã từng nghe về giòng họ Đặng Vũ chưa?
Chị tự trả lời:
– Giòng họ khoa bảng đấy, thứ khoa bản đần độn, ích kỷ. Tôi đã khước từ nó từ lâu. Bây giờ tôi là con bà phước. Có người đi tìm hiểu mặt tốt của đời sống, tôi đi tìm mặt xấu. Rồi tôi vào tù vì tôi xấu. Ở tù, tôi bỗng thấy tôi tốt. Và cái tốt mà người ta rêu rao chỉ là cái đốn mạt, hèn hạ. Nếu chị đến sớm vài tháng, chị đã gặp đủ mặt viên chức thư lại của chế độ cũ.
Con Lan xì ke buồn bã hỏi tôi:
– Ở thời đại của chúng ta, có gã thư lại nào dám làm cách mạng không, chị?
Tôi đáp:
– Bản chất của thư lại là cầu an, ù lỳ, làm cách mạng sao nổi.
Con Lan xì ke phá ra cười:
– Vậy mà vào tù, bọn thư lại cứ dọa sẽ giải phóng đất nước. Tôi chửi chúng nó. Chúng nó ghét tôi, vu tôi đủ tội. Tôi nghĩ, bây giờ, tôi có quyền xử những đứa đã xử tôi.
Tôi nói:
– Có lẽ, chị nên dành sức phấn đấu với nghịch cảnh hiện tại.
Con Lan xì ke vỗ vai tôi:
– Mấy năm nay chị ở đâu?
Tôi kể những nhà tù tôi đã qua, những cachots tôi đã ở và sau hết là nhà thương điên. Con Lan xì ke say mê nghe. Chị gật gù:
– Tôi khỏi lo ngại cho chị nữa. Với những nơi chị đã ở, đây chỉ là nơi chị dưỡng sức.
Con Lan xì ke chào tôi, về chỗ nằm của mình, hẹn tôi mai tán gẫu tiếp. Kẻng báo ngủ đã điểm. Căn nhà náo động vài phút rồi im phăng phắc. Và vì lao động mệt mỏi, tất cả ngủ rất dễ dàng. Riêng Hoa còn thức. Cô thầm thì kể cho tôi nghe «quần đảo Phước Long», nơi cô đã cải tạo ba năm. Hoa nói nhiều người đã chết vì kiệt sức, vì đói khổ, vì bệnh hoạn. Xác những người đàn bà, con gái bất hạnh ấy vùi dập trên một ngọn đồi không tên. Mưa rừng đã san bằng nấm mồ. Dấu tích của tội ác cũng chẳng còn. Trại của Hoa mang hàng chữ đầy nhân ái: Trại Phục Hồi Nhân Phẩm Phụ Nữ. Thực ra, trại đã đầy ải, ngược đãi phụ nữ và bóc lột sức lao động của họ. Ông chủ cộng sản đánh đập nô lệ đàn bà bằng roi dây điện hằn lên án tích tập trung cải tạo, thứ án không hề được tuyên án trước tòa. Hoa nói, mấy tháng trước, người ta chọn một số gái điếm và tình nghi điếm có nhan sắc rồi chuyển từ Phước Long về Long Thành. Hoa đã thoát địa ngục Phước Long, nhờ có chút nhan sắc!
– Chị à! Hoa sụt sùi. Em đau khổ lắm…
– Can đảm lên, em. Mọi việc sẽ tốt đẹp.
– Không tốt đẹp nữa đâu. Chúng nó đã vùi em xuống bùn nhơ. Em không phải là điếm, bây giờ chúng nó đã cải tạo em thành điếm.
Trong những tiếng nấc, Hoa kể… Bọn công an phường tán tỉnh cô, bị cô cự tuyệt. Chúng vu vạ cô tội làm điếm. Chúng bắt cô và gửi cô đi phục hồi nhân phẩm. Ở Phước Long, mỗi khi bọn cán bộ thích giải trí, chúng chọn những cô gái xinh đẹp mà chúng bảo là tình nghi mãi dâm, gọi lên phòng Y tế khám nghiệm. Chúng bắt «người cải tạo» cởi trần truồng để chúng sờ mó, nắn bóp và cười rũ rượi như lũ quỷ điên. Rồi chúng đề nghị sống sượng. Chúng ban phát ân huệ miễn lao động, hưởng phần cơm nhiều hơn để hành lạc những gái điếm nhà nghề. Nếu cô nào bị mang thai, chúng cho phép về đẻ. Đẻ xong lại lên trại trình diện. Nhiều người trốn luôn. Nhiều người trở lại.
– Em đã bị chúng nó hãm hiếp. Chúng nó toa rập với nhau, cấm em tiết lộ. Chúng dọa, hễ tiết lộ, chúng sẽ thủ tiêu. Em thù hận chúng.
Hoa khóc thành tiếng. Tôi chẳng hiểu phải an ủi Hoa thế nào. Để mặc Hoa khóc, tôi nằm vắt tay lên trán, nghe tiếng khóc mới lạ nhất thời đại. Tôi đã nghĩ không sai về sử gia của Đảng cộng sản. Ông ta ngọt ngào và cũng chua xót lắm. Hình như ông ta đang có mặt đâu đây. Hình như ông ta đang mỉm cười khi ngắm tôi đang nằm nghe tiếng khóc của cô gái ngây thơ, vô tội. Ánh sáng và cái động, thứ đòn vọt thâm hiểm của chủ nghĩa phi nhân đã dành cho tôi. Họ thí nghiệm tôi trong bóng tối và cái tĩnh. Họ thí nghiệm tôi ngoài ánh sáng và cái động. Tiếng khóc của Hoa, những giọt nước mắt của nàng đã đủ làm sỏi đá ngậm ngùi chưa? Hay phải nói về những vết chém, những giọt máu ô nhục hằn lên lương tri của loài người?
– Rồi em sẽ ra sao, chị Lan? Hoa nghẹn ngào hỏi.
– Em sẽ nên người. Tôi đáp.
– Còn vết nhơ bẩn?
– Vết nhơ ấy của chủ nghĩa cộng sản, của những kẻ hô hoán nhân quyền, của sự phản bội đê tiện, của tình hữu nghị chó má…
Tự nhiên, tôi phẫn nộ ghê gớm. Ngồi vụt dậy, tôi ôm lấy ngực. Vết chém không hẳn chị Hoa hay những người con gái ở khắp các trại cải tạo phụ nữ Việt Nam phải chịu đựng mà tôi, mà chúng ta đang phải chịu đựng. Cái tiểu ngã đã nhập vào cái đại ngã. Chị Nga rất đúng. Ngoài ánh sáng, tôi đã nhìn thấy mọi người.
– Em sẽ rửa vết nhơ bẩn ấy, chị ạ!
– Bằng cách nào?
– Bằng máu của em.
– Cách ấy không giải quyết được gì cả.
– Với em, chỉ có cách ấy thôi.
– Ngủ đi, em Hoa thân mến. Ngày mai em sẽ nghĩ khác.
– Em đã nghĩ thế từ hôm em bị chúng nó hãm hiếp.
– Ngày mai ta bàn tiếp.
Hoa nín thinh. Tôi không dám nhìn thẳng vào khuôn mặt cô gái nữa. Tôi không muốn hai cái ngọn đèn néon khốn nạn tỏa thứ ánh sáng nhầy nhụa trong nhà tù. Tôi đã thù bóng tối cachot. Tôi lại thù ánh sáng cải tạo. Rất tiếc, chị Nga ở nhà khác, nếu không, tôi đã hỏi chị xem chị còn giữ vững cung cách đối xử với cộng sản khi sông núi chuyển vần. Tôi nằm xuống, nhắm mắt. Nhưng tôi đã không ngủ. Sáng hôm sau, cả ba mươi người mới đến đều được lệnh nghỉ ở nhà. Chúng tôi phải làm sơ yếu lý lịch, tóm tắc quá trình đời mình từ năm mười tuổi đến ngày bị bắt. Người ta dạy chúng tôi học Nếp sống văn hóa mới, Tiêu chuẩn cải tạo và Nội quy. Và, sau hết, người ta chỉ dẫn cách viết thư, cách nhận quà của thân nhân. Hai người được làm việc với Giám thị trại là chị Nga và tôi. Giám thị trại, Con Lan xì ke đã cho tôi rõ, tên là Ba Tơ, tên cai ngục chuyên nghiệp. Y được huấn luyện nghề nghiệp ở các nhà tù lừng danh miền Bắc: Lý Bá Sơ, Đầm Đùn… Ba Tơ đọc hồ sơ của tôi. Y cười nham nhở:
– Các trại tạm giữ đã nhận xét về chị khá chính xác. Ở đây, chúng tôi không chấp nhận sự ngoan cố. Bằng mọi cách, chúng tôi sẽ quản lý chị chặt chẽ. Ngày về của chị xa hay gần là do chị.
Y bắt đầu chầu chực suốt buổi chiều để đe dọa có một câu ngắn ngủi. Tôi không lộ vẻ gì chống đối y. Tôi còn nhớ lời chị Nga dạy. Tôi bắt đầu dùng sự im lặng của tôi để khinh bỉ cộng sản. Chị Nga cũng bị dọa phủ đầu giống tôi. Chúng tôi thả dài sân trại, quan sát hàng rào giây kẽm gai chung quanh «làng tù» và dẫy cachots hiu hắt góc trại.
– Có ngày nào mình nằm cachot nữa không? Tôi hỏi.
– Chưa biết. Chị Nga đáp. Tốt nhất là không nên vào đó làm gì. Bọn cộng sản tép riu ở các trại không có quyền bắt chúng ta, không có quyền tha chúng ta, nhưng có quyền hành hạ chúng ta chết thảm, chết nhục. Họ đâu phải đối tượng đấu tranh tư tưởng của ta. Cái lũ chăn trâu, cắt cỏ, ngọng nghịu này, ta đừng chọc tức nó. Ta cần sống, sống, sống. Bị chết vì phản kháng nó là chết bất trị, ngu xuẩn chứ không phải là anh hùng đâu. Em nhớ kỹ.
– Em nhớ.
– Họ đang theo dõi mình, vậy ta không nên thường xuyên gặp nhau.
– Vâng.
– Đề phòng tất cả mọi người. Đừng để bọn chăn trâu cắt cỏ chửi mắng mình, phạt mình! Phải lao động vừa sức mình để bày tỏ thái độ của người trí thức.
Chúng tôi chia tay nhau ai về nhà người ấy. Tôi thu mình tôi một chỗ, không giao thiệp với những người phản động. Đội tôi có chị Hiền, chị Lý liên quan tới vụ Vinh Sơn. Chúng tôi chỉ nhìn nhau, mỉm cười thông cảm. Con Lan xì ke, nữ tù nhân thâm niên của trại Long Thành, truyền hết «kinh nghiệm cải tạo cho tôi». Chị không giống những cô gái bụi khác. Ở chị, có dáng dấp một người quý tộc phản kháng giai cấp của mình. Chị đọc rất nhiều, nhớ rất kỹ. Chị luôn luôn bày tỏ sự miệt thị bọn trí thức. «Tôi đã sống gần họ ba năm ở vùng lầy này. Họ phơi trọn vẹn bản chất khiếp nhược của họ. Triết lý sống của họ nằm trong cái bị quà thăm nuôi. Họ đã bị phá sản tinh thần và vật chất rồi, nhưng vẫn chưa chịu tỉnh ngộ, vẫn bo bo, ích kỷ, ăn thừa vất đi, không thèm cưu mang ai. Nếu chị đến sớm, chị sẽ gặp hai thằng bác sĩ toa rập với bọn cai ngục, lôi chúng ta lên bệnh xá, lột quần áo, khám trinh tiết vì tình nghi mãi dâm, khám bệnh hoa liễu để giải trí và thỏa mãn thú tính. Có thằng già rồi còn đòi phấn đấu vào Đảng Cộng sản!» Con Lan xì ke ra, vô cachot đều đều. «Bọn nó mới khiêng về cái connex. Có lần tôi sẽ vô xem nó ra sao.» Chị thản nhiên nói: «Tôi nếm đủ mùi hình phạt rồi. Nếu thua chỉ là thua nhà thương điên thôi.» Chỉ kể các thứ hình phạt của trại Long Thành, những hình phạt làm đau đớn thể xác.
Tôi bỗng yêu Con Lan xì ke, người con gái đoạn tuyệt cái tên Đặng Vũ Thị Thanh Thủy kiều diễm, người con gái nóng bỏng và thành khẩn.
– Chị Thủy, tôi xin lỗi nhe, chị có chơi xì ke nữa không?
– Không có xì ke ở đây.
– Tôi muốn nói ngày mai.
– Không. Tôi sẽ đi tìm bưng biền. Hoặc tôi sẽ «chiêu mộ» đàn em, lên rừng đóng phim O’ Cangaceiro. Chúng tôi chơi trò Lương Sơn Bạc tân thời, chuyên giải thoát các trại cải tạo. Tôi nói là làm. Chị cứ sống đi, tôi sẽ chứng tỏ. Đàn ông hèn thì đàn bà thay thế. Chị nghĩ sao?
– Lãnh tụ cách mạng, trước hết, là thảo khấu.
– Hay lắm. Chị là tri kỷ của tôi. Ở tù mòn mỏi bốn năm, nay mới gặp người xứng đáng giãi bày tâm sự.
Khẩu khí của Đặng Vũ thị Thanh Thủy đúng là khẩu khí Lương Sơn Bạc. Chị bắt tôi ăn cơm chung mâm với chị. Và chị đã «vận động» với đội trưởng Jacqueline đổi chỗ nằm để gần gũi tôi. Một người nóng bỏng như chị, tôi chưa thể nói với chị ý nghĩa cuộc chiến đấu của chúng tôi. Nhưng tôi nghĩ, đất nước chúng ta rất cần những người như chị, những người khước từ dĩ vãng, dứt khoát khước từ để còn lo cho ngày mai. Sử gia đã lầm lẫn khi quên mất sự ngoan cường của những Đặng Vũ thị Thanh Thủy. Tôi chợt thấy tôi không cô đơn.
– Chị Thủy!
– Sao?
– Tôi không muốn gọi chị là Con Lan xì ke.
– Sao?
– Vì đó cũng là một dĩ vãng chị cần khước từ.
– Cám ơn nhiều. Gọi tôi là Thanh nhé!
– Vâng.
Chúng tôi thân nhau. Thanh gây cảm hứng sống cho tôi, cho bài Diễn văn đọc trước Quốc Hội Mỹ. Cả nhà, cả trại chỉ hiểu Thanh là cô gái bụi xì ke, nửa điên nửa khùng. Riêng tôi, tôi nhìn rõ cả đại dương sóng gió trong lòng chị. Tôi đã mất chị Nhi, tôi vừa được chị Thanh. Phải, tại sao ta không làm O’ Cangaceiro? Tại sao ta không trả cái động của kẻ thù cho nó. Ta vẫn có thể ngồi trên lưng ngựa, múa gươm và nói chuyện yêu thương chứ. Tôi lại mơ ước thêm một chân trời…
Chương XI
Nắng trời làm săn thịt và thay đổi mầu da của những người tù trong bóng tối rất mau. Bốn năm ở cachot, sống như gà công nghiệp thiếu dinh dưỡng, nước da của tôi xanh mướt và thịt muốn nhão, xương muốn mục. Những vết mụn ghẻ đầy khắp cánh tay, chân, đùi tưởng thành sẹo, cũng đã bay đi. Vì phải làm việc vất vả, không còn thì giờ suy nghĩ, tôi ngủ được, ăn được, dẫu chỉ ăn cơm độn khoai, sắn. Các bạn tù có thăm nuôi thường cho tôi đường. Nhờ những tán đường, tôi thấy khỏe khoắn. Cán bộ quản giáo của tôi là một nữ công an. Người này theo dõi tư tưởng của tôi qua lao động. Tư tưởng thể hiện bằng hành động. Hành động tốt, tư tưởng tốt. Hành động xấu, tư tưởng xấu. Đó là châm ngôn cải tạo và cũng là châm ngôn giữ mình. Quản giáo chỉ định tôi vào tổ gánh nước tưới rau. Thoạt đầu, tôi gánh lưng thùng, xương sống muốn oằn, nghỉ nhiều chặng. Đêm về, vai nhức, bụng mỏi, chân rời rã. Thanh và Hoa phải xoa dầu đấm bóp giúp tôi. Sang ngày thứ hai, đặt đòn gánh lên vai, tôi ngỡ mình sắp xuống địa ngục leo dốc cầu vồng. Dần dần, vai hết nhức, bụng thon lại, chân cứng, tôi gánh một mạch từ chỗ lấy nước về vườn rau. Và rồi, tôi gánh đầy thùng nước, biết cách đổi vai, nhịp nhàng cơ hồ một thôn nữ. Bài học thứ nhất của lao động dạy tôi cảm thông với người lao động, kính trọng họ và hiểu thấu giá trị của lao động. Dĩ nhiên, cộng sản đã không hề dạy tôi bất cứ điều nào trong nhà tù, ngoài trại tập trung. Họ chỉ dọa nạt, trừng phạt, dụ dỗ và bắt làm việc giống hệt bọn chủ nhân nô lệ hành xử quyền uy của mình. Bài học thứ hai của lao động, tôi tự dạy tôi từ những giọt mồ hôi trí thức, còn dạy tôi niềm tự tin tuyệt vời: Tôi có thể làm được những công việc mà trước đây tôi tưởng không bao giờ tôi có thể làm được. Lao động đã thắp sáng kiến thức của tôi. Nó là giòng nước luân lưu đưa đẩy tư tưởng con người xuôi ngược. Nó làm long lanh trí tuệ, làm trong suốt tâm hồn, rạng ngời ý thức. Trí thức của chúng ta cứ nằm trong tháp ngà, cứ trùm mền hưởng thụ, đâm ra lười biếng, sợ khó, sợ khổ. Nên, khi đụng vào nghịch cảnh của đời sống thì không dám đương đầu, thì ngớ ngẩn và hèn mọn. Với cộng sản, lao động là hình phạt trả thù chúng tôi. Nhưng, với tôi, lao động là một chương dài trong văn phạm của đời tôi.
Chị Đặng Vũ thị Thanh Thủy rất thân tôi mà còn chưa hiểu tôi. Chị phàn nàn thấy tôi gánh nước đầy thùng.
– Tội gì chị phải vất vả khổ thân. Cứ ỳ ra, bảo sức mình nửa thùng thôi. Hai mươi lít nước trên vai chị, đủ khốn nạn rồi. Bốn mươi lít, chị sẽ sớm gục.
– Tôi muốn thử sức tôi.
– Chúng nó sẽ khai thác tối đa sự thử sức của chị.
– Chị Thanh, không phải sức của tôi, sức của phụ nữ. Hơn tất cả, sức của con người chịu đựng hình phạt nổi.
– Khó hiểu chị quá.
– Dễ hiểu thôi, nếu chị bằng lòng cho tôi chơi phim O’ Cangaceiro bên cạnh chị. Trò chơi này vất vả hơn gánh bốn mươi lít nước ngàn lần.
Chị Thanh không phàn nàn nữa. Ở trại Long Thành, chẳng còn việc gì để làm ngoài trồng rau, trồng ngô, trồng khoai, trồng sắn và nuôi heo. Công việc phát hoang khai thác diện tích canh tác, mấy năm qua, năm ngàn tù nhân nam nữ đã hoàn tất kế hoạch. Bây giờ, ngót hai ngàn tù nữ vừa lao động vừa chơi. Nguyên nhân chính của «vừa lao động vừa chơi» là lao động nhiều quá, lâu quá chán ngán lao động và nhờn với kỷ luật. Thầy Lénine dạy môn đệ rằng: «Không nên kéo dài thời gian lao động cải tạo. Kéo dài quá sẽ biến nỗi sợ hãi của lũ cải tạo thành niềm căm hận». Môn đệ mất dạy, cưỡng lời thầy. Nó cứ kéo dài triền miên thời gian cải tạo. Trại nào cũng giống trại nào, rập theo một khuôn mẫu tổ chức, biên chế tù nhân thành các đội lao động khác nhau. Cô Hoa nói, ở Phước Long, cô đã từng vô rừng sâu chặt lồ ô, chặt nứa, nguy hiểm vô cùng. Nhiều người đã bị thân nứa lao xuống, đâm xuyên ngực cơ hồ trúng một cây thương, nằm dẫy dụa trên vũng máu và vết chém vạt thân nứa còn găm lún đất. Chặt lồ ô thì phải leo trèo như vượn. Trước tiên, phải chặt tay tre đan lấy nhau. Chặt từ ngọn xuống gốc. Không chặt tay tre không thể kéo nổi cây lồ ô ra khỏi bụi. Khối người rơi chết vì tuột chân. Mùa mưa, vắt cơ man, nó bám dính vào da, hút máu, cơm gạo nào sinh máu kịp. Sốt rét một cơn, kiết lỵ một trận là tàn đời. Hoa kể hàng trăm nỗi thê thảm ở «quần đảo» Phước Long, nơi cô tưởng đã chết mà vẫn sống. Tôi thèm cái trại đàn bà ấy. Nỗi đau khổ càng lớn thì cuộc sống càng phong phú. Nếu tôi được sống hai trăm tuổi, tôi tình nguyện đi hết các nhà tù của nước tôi. Chị Thanh nói, năm kia, tù đàn bà và con nít ở Bù Gia Mập chở về Long Thành cả ngàn. Bù Gia Mập, hòn đảo trong quần đảo Phước Long. Người từ đó về như người từ âm phủ chui lên. Chỉ còn da bọc xương. Phải lết từ sân vào nhà. Hàng chục con nít chết trên xe do đói khát, vì ngộp thở. Họ mang chấy trên đầu, rận trong áo, ghẻ lở trên thân thể và các thứ bệnh ho lao, kiết lỵ, trĩ… Niềm hân hoan của chế độ xã hội chủ nghĩa đấy! Họ được nuôi như heo và khi khỏe thì lao động như trâu bò. Con nít lại ném lên hòn đảo Phú Văn. Đàn bà, con gái phân phối vào Xuyên Mộc.
Vậy thì trại Long Thành chả thấm tháp gì. Nó chỉ là nơi dưỡng sức của tôi, theo chị Thanh. Hãy tạm nghĩ thế, bởi vì không ai đoán nổi thủ đoạn và trò chơi của cộng sản. Mỗi ngày, chúng tôi rời trại ra bãi lao động đóng góp công sức cho sự phồn vinh của đất nước. Một đội có hai vệ binh đeo súng AK đề phòng tù nhân nổi loạn và trốn trại và một quản giáo. Vệ binh con trai, quản giáo con gái. Đội của tôi chuyên canh… rau cải củ. Công việc đều đặn xới luống, tưới nước, bón phân, làm cỏ, xịt thuốc rầy, thu hoạch và lại xới luống, gieo hạt. Tất cả đều mặc quần xà lỏn, áo thung hoặc áo cánh cắt hết ống tay áo. Những cô gái giang hồ, gái bụi và phản động thuộc thành phần «con bà phước» thì tả tơi hết chỗ diễn tả. Mọi người phải tự chế một kiểu nón chống mưa nắng. Họ chân đất dẫm lên chông gai nghịch cảnh. Họ không cả xì líp, xú chiêng. Cụ thể, ngày hai buổi, sáng 11 giờ, chiều 4 giờ 30, hai ngàn đàn bà trần truồng nhào xuống suối nước cạn mùa hè ngụp lặn, tắm táp, chẳng thèm lưu ý bọn vệ binh nhìn lén. Chúng tôi giống đàn trâu bị lùa xuống vũng nước. Tất cả bình đẳng cỡi truồng và không đòi hỏi nhân quyền. Bởi vì, hình như, người ta đã quên tranh đấu nhân quyền cho những người bị cỡi truồng!
Tôi quen thật nhanh với sinh hoạt trại cải tạo. Người ta chưa bới ra một lầm lỗi nào để mắng chửi tôi hay kỷ luật tôi. Tôi đã nghe Quản giáo mắng nhiều người về tội lười biếng, làm việc cẩu thả. Cái lối «lên lớp» tù của bọn cán bộ ở đâu cũng như ở đâu. Nó xấc xược, hỗn láo, trịch thượng và ra mặt… ông bà chủ. Và ngọng níu lưỡi. Và đơn điệu. Vẹt con được vẹt mẹ dạy sao nói vậy. Để bọn chăn trâu cắt cỏ này nhục mạ mình là điều không thể chấp nhận. Hãy mặc kệ thứ đầy đọa, chẳng cần nó ban phát ân huệ nhưng cũng chẳng để tự mình làm mất phẩm cách của mình. Tôi cứ quần quật lao động đúng giờ, đủ giờ, không than vãn. Quản giáo bắt tôi làm việc gì, tôi làm việc ấy. Hôm qua, đang gánh nước, Quản giáo gọi tôi tới làm việc. Ả ngồi trên ghế, dựa lưng vào thân cây. Tôi đứng nghiêm, cách ả năm thước theo đúng Nội quy.
– Chị có oán hận chúng tôi không?
– Thưa cán bộ, không.
– Tôi theo dõi chị từ ngày đầu. Chị lao động tích cực nhưng thái độ của chị có vẻ thiếu chân thật với chúng tôi. Chị im lặng khó hiểu.
– Thưa cán bộ, tù không thể thân mật với người coi tù. Nội quy không dạy tôi phải thân mật với cán bộ.
– Tôi sẽ không phát «phiếu thăm gặp» cho chị tháng tới.
– Tùy cán bộ.
– Chị không cần thăm gặp à?
– Bốn năm nay, tôi sống nhờ cơm của Đảng.
– Chị là trí thức. Trí thức làm được những việc gì?
– Làm được tất cả mọi việc.
– Tôi sẽ cho chị xuống hầm phân.
Quản giáo gọi đội trưởng Jacqueline tới, ra lệnh điều tôi sang tổ phân bón. Cả đội ngưng lao động nhìn tôi. Đội trưởng Jacqueline cố tình loan báo công tác mới của tôi. Vũ nữ Lệ Thủy phẫn nộ. Nàng hét lớn:
– Đồ… dép râu!
Quản giáo đứng vụt dậy, chạy lại. Chị Jacqueline vỗ vai tôi, mỉm cười:
– Đứng xem con điên Lệ Thủy «đấu tranh» với con nhà quê.
Chị Thanh đã nói cho tôi nghe về chị Lệ Thủy, kẻ bất cần đời, thích cải nhau tay đôi với cán bộ. Chị Thủy có một dĩ vãng lẫy lừng trong giới ăn chơi của Sài Gòn trước năm 1975. Chị đẹp. Nhưng rồi chị đi tìm cảm giác xì ke. Và chị sa đọa, tàn tạ. Tù nữ Lệ Thủy, bàn tay thon mềm đã chai rắn sau bốn năm cầm thùng nước tưới rau, đã xa lánh mùi nước hoa, son phấn để ngửi mùi nước đái khai nồng và cứt thối om, đã đói khổ triền miên, mắt trợn trừng thách thức. Kẻ đã ban phát hạnh phúc cho bao nhiêu đàn ông tướng, tá, tư sản, công tử…, lúc này, đội cái nón may cắt từ cái bị cói, mặt áo thung rách lỗ chỗ, quần xà lỏn, chờ đợi ăn thua đủ với người đại diện của chủ nghĩa cộng sản. Giữa vườn rau xanh, chị giống hệt hình nộm bù nhìn, hình nộm tuyệt đẹp.
– Chị Thủy, chị vừa chửi ai đấy? Ả quản giáo hỏi.
– Tôi không chửi ai. Tôi nói bâng quơ «Đồ dép râu!». Đứa nào điếc mới bảo tôi chửi.
– Chị miệt thị tôi điếc à?
– Tôi không bảo cán bộ điếc. Đứa nào điếc mới bảo cán bộ điếc.
– Chị lưu manh.
– Ai lưu manh thì nó biết nó. Nội quy cấm cán bộ chửi bới tù.
– Ai cho phép chị nói động đến dép râu?
– Tôi. Tôi đi dép râu bị nó làm bẩn chân, tôi chửi nó, được không?
– Dép râu là dép chiến thắng. Dép râu và nón cối là văn minh mới, chị dám bôi bác, hả?
– Kệ mẹ nó, nó làm bẩn mắt tôi, tôi chửi nó.
Ả quản giáo bước tới chỗ chị Lệ Thủy. Ả vung tay tát chị một cái. Lệ Thủy, vũ nữ cao bồi, đầy máu cao bồi, chị phóng tay tát lại ả quản giáo trả miếng. Ả la lối. Hai vệ binh chạy lại. Một đứa lên đạn, chĩa nòng súng thẳng vào chị Lệ Thủy. Chị cười rũ rượi. Rồi chị lột áo thung ra. Cặp vú phì nhiêu, đẫy đà của chị nay đã xẹp lép. Chị nghiến răng:
– Mày có ngon, bắn trúng tim má mày đi. Má mày đang cần chết. Bắn đi cộng sản nhí, bắn đi!
Vệ binh hạ súng xuống, chửi thề lảm nhảm và bỏ đi. Quản giáo cũng bỏ đi luôn. Chị Jacqueline bảo tôi:
– Lâu lâu, con điên Lệ Thủy dở chứng một lần. Hôm nay, nó bênh chị đấy, nó thương chị bị đì xuống hầm phân.
Sinh hoạt của đội bình thường trở lại. Tôi mở căng mắt nhìn vũ nữ Lệ Thủy, cố thu hình ảnh của chị vào tâm trí tôi. Sóng gió, tôi nghĩ, bắt đầu nổi. Một tháng «trăng mật cải tạo» của tôi đã trôi qua. Bây giờ là lúc người ta hành hạ tôi theo chỉ thị trung ương. Chẳng sao, tôi khơi dậy từ trái tim niềm tin mộc mạc: Trời hại, ta mới chết; người khó hại ta. Tôi mạnh bước tiến về phía hầm phân. Đó là cái hầm hình vuông, mỗi cạnh khoảng ba thước, sâu mười mấy thước. Mỗi đội rau xanh có một hầm chứa phân và một hồ chứa nước tiểu. Sáng sáng, đội vệ sinh khiêng những máng phân ở các phòng tù và cầu tiêu của cai ngục đem ra ngoài trại. Tổ phân bón của trại chờ đợi, chuyển phân đến vườn rau, đổ xuống hầm. Vào thời vụ, các đội rau phải tranh nhau phân, phải «hối lộ» rau cho đội vệ sinh trại mới có phân bón rau. Các phòng tù đều có cầu tiêu riêng. Ban đêm tiêu, tiểu trong đó. Người ta chế các máng nước tiểu cho nó trôi ra cái hồ bên ngoài phòng. Nếu không, nước tiểu sẽ ngập lụt. Phân tươi và nước tiểu «xuất khẩu» ra các đội rau xanh. Các đội rau xanh «nhập kho dự trữ.» Tổ phân bón chia làm ba tốp. Tốp kiểm tra về ủ phân, tốp ngào phân và tốp xuống hầm múc phân. Tôi ở trong tốp xuống hầm phân.
Bây giờ, hầm đã cạn, không thể đứng trên bờ ròng cái xô xuống múc mà kéo lên. Do đó, đội trưởng Jacqueline đã cho làm cái đường thang thoai thoải xuống hầm. Nhưng lom khom trên bực thang đất dễ té nhào nên tù nhân đành phải lội hẳn xuống phân bầy nhầy, hôi thối, hàng tỉ con ròi, vục xô múc đầy để bên trên kéo lên. Tôi đứng sát miệng hầm, nhìn xuống. Sự ưu việt của chủ nghĩa cộng sản ở dưới ấy. Đầy đọa con người tới mức đó là hết. Chị Jacqueline hỏi tôi:
– Liệu chị kham nổi không?
– Tôi cố gắng. Tôi đáp.
– Nếu không kham nổi, cứ ỳ ra. Nó kỷ luật mình, tống vô cachot còn sướng, khỏi lao động.
– Tôi kham nổi.
Chị Thanh cũng chạy lại, khuyên tôi:
– Chị không xuống hầm phân nó cũng không dám giết chị đâu. Chúng tôi đều chê hầm phân. Để bọn ngu sợ hãi. Chúng tưởng lao động tích cực thì sớm được tha. Còn lâu.
Tôi nói:
– Nó hỏi tôi trí thức làm được những việc gì. Tôi trả lời, trí thức làm được tất cả. Tôi cần chứng tỏ với chúng nó rằng, việc của chúng nó, người trí thức làm được còn việc của trí thức, chúng nó không làm được. Tôi còn muốn chứng tỏ với chị và với chính bản thân tôi.
Chị Thanh lắc đầu:
– Chị khó hiểu nhưng tôi yêu chị.
Tôi cầm tay chị Thanh:
– Đừng ví tôi với bọn ngu chỉ biết sợ hãi và ham được tha, chị nhé! Tôi tích cực làm việc vì đó là công việc. Công việc đó đem lại kết quả gì, không cần đếm xỉa. Tôi tập làm việc nào đến nơi đến chốn việc đó.
– Tôi bỗng ham sống quá, chị Lan ạ!
– Nếu gần chị Nga, chị sẽ ham sống hơn.
Buổi sáng hôm đó, tôi chưa xuống hầm vội vì chị Jacqueline chưa chịu phân phối công tác. Chị bảo tôi ngồi nghỉ. Nhưng buổi trưa về trại, lĩnh com nước xong, chị Lệ Thủy bị gọi lên văn phòng giám thị. Cả nhà xôn xao rồi cả trại xôn xao. Tôi qua nhà của chị Nga kể cho chị nghe mọi diễn biến buổi sáng. Chị bảo tôi chuẩn bị đương đầu với những hình phạt ngoài ánh sáng. Chúng tôi bỏ ngủ trưa đợi chị Lệ Thủy. Chị không về. Phần cơm của chị nguội ngắt, ruồi nhặng bu kín. Một giờ trưa, chúng tôi tập họp ở sân đi lao động. Người ta lôi chị Lệ Thủy, trói chị dưới cột cờ. Giám thị Ba Tơ «lên lớp» toàn trại. Người ta đọc quyết định thi hành kỷ luật chị Thủy. Rồi người ta tụt quần chị, quất những lằn roi phủ phàng xuống mông chị. Chị không hề rên la. Quất no tay, người ta kéo quần chị lên, cởi trói cho chị. Tôi nhìn lá cờ đỏ sao vàng phất phới bay trên ngọn cột cờ. Dưới đó, người tù nữ bị chà đạp nhân phẩm một cách bỉ ổi. Văng vẳng đâu đây, câu thơ của Tố Hữu ca ngợi ông Hồ Chí Minh: «Tự do cho mỗi đời nô lệ» và lời hát: «Bác đã đến từng nhà thăm các cụ già, cầm tay chúng con bác bắt nhịp bài ca kết đoàn…». Chị Thủy đã đứng thẳng. Chị khạc một bãi nước miếng vào mặt kẻ vừa quất chị. Chị nhìn chúng tôi mỉm cười, vẫy tay và ngạo nghễ đi vào cachot. Buổi chiều tôi xuống hầm phân.
Trong bóng tối, tôi chỉ nhìn thấy ta. Ngoài ánh sáng, ta sẽ nhìn thấy mọi người. Chị Nga đã nói thế. Luôn luôn, chị tuyệt diệu. Tôi vừa mở mắt: Không có nỗi khổ nào hạng nhất, nỗi khổ nào hạng bét. Nỗi khổ là nỗi khổ. Nỗi khổ trong bóng tôi và nỗi khổ ngoài ánh sáng. Thế thôi. Tôi đã thấm nỗi khổ trong bóng tối. Tôi sẽ thấm nỗi khổ ngoài ánh sáng. Tôi bước xuống. Rờn rợn. Bốn năm ròng rã, gắn liền đời mình bên xô cứt, tôi đã quen. Nhưng cái hầm phân này thì thật là ghê rợn. Gọi nó là đầm phân mới đúng. Chân tôi chới với, lún sâu dần, sâu dần. Khi bàn chân đụng đáy hầm, phân đã ngập sát háng tôi. Trên miệng hầm, bạn tù ròng cái xô xuống. Tôi vục đầy xô. Bạn tù kéo lên. Nửa thân thể ngập phân, tay dính đầy phân. Tôi đứng trong phân, trong sự ưu việt của chủ nghĩa cộng sản hàng tiếng không thèm đếm xỉa tới hàng tỷ con rồi đang lúc nhúc. Dứt phiên tôi, bạn tù khác xuống hầm. Tôi ngoi lên, ngoi lên… Tù nhân làm công tác phân bón được phép tắm trước. Chị Thanh đã kiếm cho tôi cục xà phòng thơm và túi nhỏ xà phòng bột. Tôi tới con suối gần vườn rau. Cởi áo ra, tôi vuốt hàng trăm con ròi trên mình mẩy. Ròi chui rúc cả vào nách tôi. Tôi nhẩy xuống suối, ngụp lặn. Xà bông bột tắm gọi và giặt quần áo đợt đầu. Tôi phơi quần áo bên bờ suối rồi lại ngâm nước. Sau hết, tôi xát xà phòng thơm, vò tóc và kỳ cọ. Chị Jacqueline đã nhờ người mang quần áo mới cho tôi thay. Một mình giữa dòng suối, tôi tưởng tưởng địa ngục và đào nguyên, nỗi khổ và hạnh phúc. Thế là xong, hầm phân của cộng sản, cái cầu vồng nào đó của âm phủ, tôi đã leo qua. Còn gì nữa, cộng sản? Chắc chắn, hầm phân cải tạo là bến mơ ước cuối cùng của họ.
Buổi tối, chị Thanh hỏi tôi:
– Chị cảm thấy đau đớn không?
Tôi hỏi lại:
– Đau đớn nỗi gì?
– Nỗi ngâm mình dưới hầm phân
– Không. Tôi đau đớn thấy họ đánh đập chị Thủy như con chó.
– Như thế đó, từ mấy năm nay. Chúng nó hèn hạ, đê tiện. Đánh đàn bà, con gái mà vẫn sợ, vẫn phải trói. Chờ đợi lâu quá, tôi phải trốn trại.
– Chỉ định vượt ngục?
– Vâng. Tôi sẽ lập chiến khu đàn bà. Tôi chán làm nữ chúa vỉa hè rồi.
Ô ế Cangaceiro… Tôi khẽ hát. Chị Thủy cười. Đôi mắt chị chan chứa ước mơ. Tôi đã quên hầm phân và loài ròi. Chúng tôi ngồi nói chuyện đến khi kẻng báo ngủ. Chị Thanh nói:
– Lát nữa, con Thủy điên sẽ gửi thông điệp cho chúng ta.
– Tôi chưa kịp cám ơn chị ấy.
– Cám ơn gì?
– Chị Jacqueline bảo, vì bênh tôi, chị ấy đã gây sự với quản giáo.
– Nó gây sự dài dài, toàn chuyện bốc đồng vớ vẩn. Lần này thì nó thật tình phản kháng vì chị. Vài hôm nữa nó ra, chị đừng lo.
Trại im phăng phắc. Từ phía cachot, giọng hát của chị Lệ Thủy, qua ô cửa gió vọng ra.
– Nó sẽ hát một bài độc địa. Chị Thanh nói.
Dứt bài tình ca mở đầu, chị Thủy hát tiếp bài «Thành phố mang tên Bác», nhạc cộng sản, lời do chị chế biến.
Có tiếng chân người chạy rầm rập ngoài sân trại và tiếng chửi thề ỏm tỏi. Chúng tôi nằm im.
– Chúng nó chạy ra đóng cửa gió cachot đấy. Chị Thanh nói. Không bịt nổi họng con Thủy điên đâu.
Quả nhiên, chị Thủy gào thét, đập cửa sắt thình thình. Cuối cùng, chị Thủy hát nhưng không còn hát những bài «độc địa» nữa. Đó là chuyện hôm qua, chuyện một ngày của nhiều người tù đàn bà. Hôm nay có khác đôi chút, đời tôi thiếu chị Thủy và tôi bước xuống hầm phân thản nhiên như tôi bước xuống suối. Văn phạm của đời sống của tôi thêm những trang hầm phân. Tôi sẽ pha linh hồn vào mỗi con ròi. Với chúng ta, ròi bọ cần có tâm hồn. Để nó hơn cộng sản. Mặc dù, chúng tôi bị các ông chủ cộng sản bóc lột tàn tệ, bị nuôi dưỡng thua cả những con chó của phương Tây. Chúng tôi ăn cơm độn sắn, độn khoai dài dài. Bo bo đã trở thành thực phẩm xa xỉ đối với chúng tôi. Bạn đã từng ăn bo bo chưa? Thứ bo bo chưa chà sát vỏ? Bo bo có mày sắc hơn mày ngô. Nó đâm vào lợi là gặm luôn, phải dùng ngón tay lôi nó ra. Nó đâm vào kẻ chân răng, lôi được nó ra là lợi sưng, răng nhức. Bo bo dễ tiêu hóa. Nó vô dạ dày tiếng đồng hồ trước thì tiếng đồng hồ sau biến thành phân chín mươi phần trăm và bị tống khỏi ruột già. Mày của nó cọ sát ruột của bạn. Bạn hỏng răng, loét bao tử, xước máu ruột già. Chúng tôi có cái cầu tiêu «dã chiến» ở vườn rau. Một hôm đi cầu sớm, tôi thấy bọ hung thưởng thức hết phân, chỉ còn lại đống mày. Mày bo bo, bọ hung không kham nổi. Thế mà chúng tôi phải nuốt ròng rã hai năm. Khi sắn lát và khoai sùng đã ngán, bo bo là thực phẩm giá trị sau cơm gạo mục.
Ăn sắn và củ cải riết, tất cả tù nhân «con bà phước» mắc bệnh huyết trắng và tê bại. Điểm sơn của chế độ xã hội chủ nghĩa là trại tù đàn bà không phát serviettes hygiéniques và những cái mùng bị cụt ngủn. Huyết trắng và tê bại vẫn phải lết đi lao động, vẫn phải oằn vai gánh nước, không được nghĩ ngơi. Dinh dưỡng tồi tệ, thuốc men không có, cái nghĩa địa tù của trại Long Thành đã đầy mồ. Nhiều người đã phải chống gậy. Họ được miễn ra hiện trường nhưng phải quét sân, nhặt cỏ trong trại. Tù con gái chống gậy quét sân. Tù đàn bà chống gậy nhặt cỏ. Và hình phạt không ngừng giáng xuống họ. Một năm, ông chủ cộng sản phát cho nô lệ mỗi người hai bộ quần áo. Nô lệ phá quần dài khâu thành hai quần xà lỏn. Vải nhà nước mau rách vì mô hôi tù đổ ra quá nhiều. Do đó, tù nhân tả tơi, thê thảm. Nhà nước bình quân một tù nhân hưởng 10 đồng 5 cắc một tháng kể cả tiền thuốc men, trong khi, một tô phở đặc biệt giá 15 đồng! Nô lệ thời trung cổ còn sướng hơn nô lệ thời cộng sản. Vì họ chỉ quần quật lao động, phơi xác chịu roi vọt nhưng được ăn no. Họ không bị học tập chính sách của Đảng, đường lối của Nhà nước, họp hành, bình bầu và kiểm điểm, tự khai và bị còng bằng còng Mỹ.
Tôi bắt đầu lo ngại bệnh hoạn. Bốn năm trong các cachots tăm tối, tôi đã chịu đựng quá nhiều. Mắt tôi chưa hết mờ mà răng đã đe dọa. Nhai ngô đã là một cực hình đối với tôi. Tôi nghĩ, chỉ cần một trận tiêu chảy biến sang kiết lỵ là tôi gục. Chị Nga không nghĩ gì cả. Chị khuyên tôi để cho đầu óc nghỉ ngơi, nếu tôi còn ham sống. Nhưng làm sao không suy nghĩ đây? Mỗi ngày, những lằn roi da tới tấp vụt xuống thân hình những người tù đói ăn sinh ra lười biếng, bệnh hoạn, nổi khùng chống đối lung tung. Mỗi đêm tiếng hát của chị Lệ Thủy vang vọng, thôi thúc nỗi niềm gì đó. Và hình những người tù con gái tê bại, chống gậy khập khểnh quét sân trại. Và trò giải trí khám nghiệm tù nữ tình nghi mãi dâm. Và chủ nghĩa cộng sản. Và huyết trắng… Đó là ánh sáng của Nghị quyết, là sáng tạo nhiệm màu của Đảng. Tôi cần suy nghĩ dù sáng mai tôi không còn thức dậy.
Chương XII
Chị Thủy vẫn nằm trong cachot. Ngày tháng cải tạo trôi đều, tẻ nhạt, buồn tênh. Chị Nga chưa bị đẩy xuống hầm phân nhưng chị bị các viên chức thư lại của chế độ cũ ghét bỏ vì sự bày tỏ thái độ trí thức của chị trong lao động và lòng khoan dung của chị đối với những kẻ đang đầy ải chị. Người ta bảo chị khiếp nhược, đầu hàng. Người ta bảo chị điên. Chị vẫn quan niệm bọn cán bộ coi tù là bọn vô học, con nít. Phản kháng bọn vô học là tự hạ mình xuống. Để bọn vô học giết chết là ngu xuẩn. Những anh cộng sản gộc không bao giờ chịu làm anh hùng, liệt sĩ. Họ đã sống vì bầy liệt sĩ khờ khạo. Nếu họ thích chơi trò liệt sĩ, họ đã chết hết trong tù và lịch sử đã không giống hôm nay. Chị Nga là đại bàng. Lũ người đàm tiếu, họ chỉ là chim sẻ. Chim sẻ léo nhéo, khả năng bay của nó từ cây nọ sang cây kia, từ mái nhà này sang mái nhà khác. Làm sao chim sẻ hiểu nổi chí của đại bàng? Bệnh huyết trắng và tê bại trở nên trầm trọng. Thực phẩm không thay đổi. Vẫn sắn lát, cơm gạo mục ăn với củ cải nấu muối, kho muối. Chúng tôi chưa được viết thư về gia đình. Phải được phép viết thư mới có phiếu thăm nuôi. Nếu không, đành sống kiếp tù đày «con bà phước», thiếu thốn hoàn toàn. Hơn bốn năm, chị Nga và tôi đã sống như thế. Lao động rút dần rút mòn sức lực của chúng tôi. Bài học mà tôi có từ lao động quá đắt.
Đội của tôi hơn năm mươi người mà đã quá hai mươi người tê bại, huyết trắng. Các tù nhân thuộc thành phần thư lại của chế độ cũ thì vẫn nhởn nhơ. Họ được thăm nuôi đều đặn, đầy đủ thuốc men, thức ăn béo bổ. Đi tù mà vẫn bơ, sữa phó mát, đồ hộp! Họ có tiền, có tặng phẩm mua chuộc cai ngục nên họ nhàn hạ. Nhưng họ cứ than vãn, rên xiết. Nỗi khổ, sự thiếu ăn, mệt mỏi, bệnh hoạn giết chết cả dục tính của tù nhân. Tôi có cảm tưởng trại tù đàn bà, con gái Long Thành hay bất cứ trại tù đàn bà, con gái nào trên quê hương tôi, dưới sự thống trị của đế quốc cộng sản, là trại nuôi heo cái thiến. Heo cái thiến thêm những máng cám của heo thịt nuôi trong trại. Nếu mỗi tù nữ, mỗi bữa ăn được thêm một chén cám heo, bệnh tê bại sẽ giảm dần. Chị Jane Fonda và chị Elizabeth Hopkins thấy chưa? Chúng tôi sống cạnh chuồng heo và thèm cám heo để chữa bệnh. Con người thua con heo. Cái chế độ mà các chị ca ngợi là «lương tri của loài người» thế đấy. Bao giờ chị Fonda thăm Phước Long, Bầu Lâm, Ba Tơ, Sa Ác, Long Thành, những trại tù đàn bà ở miền Nam Việt Nam như chị đã thăm Hà Nội dưới mưa bom của Mỹ để phát biểu cảm tưởng? Hồng Thập Tự quốc tế đâu? Những nhà báo nổi tiếng vụ chuồng cọp Côn Sơn đâu? Tòa án Bertrand Russell đang làm gi? Các hội Thân Hữu với Cộng Sản đang làm gì? Lớn khôn rồi đấy, cô Elizabeth Hopkins còn xác định «Hà Nội cho Sài Gòn phẩm cách làm người» nữa không? Tôi nghĩ, trên thế giới, còn mỗi Hội Bảo Vệ Súc Vật chưa đến nỗi phải cúi mặt xấu hổ. Bạn muốn hiểu thế nào về Hội này, tùy ý bạn.
Sự thèm khát cám heo làm xúc động các chị ở đội chăn nuôi. Các chị đã lén lút, hóa trang mọi cách, tối tối, mang đến mỗi nhà một xô cám heo nấu chung với rau muống già, thân chuối. Chẳng bao lâu, có kẻ báo cáo với cai ngục. Thảm họa xảy ra. Buổi chiều, sau khi điểm số, vào nhà xong xuôi, chị Thanh chia cám heo cho những người tê bại. Bất ngờ, vệ binh ào tới, chĩa súng qua các song cửa sổ. Của tù mở tung. Giám thị Ba Tơ và bốn trực trại hùng hổ bước vào.
– Đứa nào ăn cắp cám nuôi lợn. Tự giác khai đi! Ba Tơ rít từng tiếng qua kẽ răng.
Im lặng. Ba Tơ quát hỏi:
– Đội trưởng đâu?
Chị Jacqueline đáp:
– Có tôi đây.
– Đứa nào dám ăn cắp cám lợn của trại?
– Tôi không biết.
– Đội trưởng mà không nắm vững được tình hình đội của mình à? Xuống, đừng làm đội trưởng nữa.
– Tôi đâu có xin xỏ làm đội trưởng.
– Bướng hả?
– Bướng gì!
Ba Tơ không nạt nộ nổi chị Jacqueline phốp pháp, y xỉa xối chị Thanh:
– Mày ăn cắp cám lợn hả?
Chị Thanh vẫn đứng cạnh xô cám heo. Chị bình tĩnh nói:
– Ông Giám thị, Nội quy cấm ông gọi tù bằng mày xưng tao. Tôi nghiêm khắc phê bình thái độ của ông. Tôi sẽ báo cáo với Thanh tra khi Thanh tra tới.
Ba Tơ xùi bọt mép, múa tay:
– Tao có quyền.
Chị Thanh nhìn thẳng mặt Ba Tơ:
– Mày có quyền, bà nội mày đây cũng có quyền. Mày muốn gì bây giờ?
Căn nhà của tôi quy tụ những nữ chúa và gái bụi. Khi dĩ vãng của Hai Ba Dạng, Jacqueline, Con Lan xì ke… được đánh thức, họ bất chấp tất cả. Trải qua bốn năm tù đầy, họ hết biết sợ hãi. Với họ, tù đầy là giấc ngủ, chế độ nào cũng thế, chế độ nào họ cũng nếm mùi tù. Ba Tơ giận run mà không dám làm gì. Y xuống nước:
– Ăn cắp cám lợn làm gì? Đói hả? Chế độ đâu có để ai chết đói đâu. Đồ súc vật.
– Đứa nào súc vật? Chị Thanh «đấu tranh tư tưởng» ngay. Súc vật là bọn đầy đọa con người. Bị bệnh tê bại, xin thuốc không phát thì lấy cám chữa bệnh.
Cả nhà vỗ tay hậu thuẫn chị Thanh. Giám thị Ba Tơ sợ đàn bà nổi loạn sẽ mất điểm, sẽ bị kiểm điểm, sẽ bị hạ tầng công tác. Chị Thanh thừa khôn ngoan để hiểu tâm lý cai ngục Ba Tơ. Y rất sợ mất chức giám thị. Y đã có xe Honda, máy vô tuyến truyền hình, radio, đồng hồ nhờ quyền uy của y và ân huệ thăm nuôi y ban phát cho bọn thư lại chế độ cũ. Y không dại để vuột chỗ ngồi, chỗ y được giải trí bằng trò khám nghiệm tù nữ tình nghi mãi dâm. Ba Tơ cáu quá rồi, y vung chân đá tung xô cám và bước ra khỏi nhà. Tù nhân la ó y. Cửa đóng lại, khóa kỹ. Ba Tơ sang các nhà khác. Chị Thanh đứng giữa nhà, ong óng:
– Tôi biết đứa nào tố cáo rồi. Tôi sẽ trừng phạt nó. Tôi nói là tôi làm. Mà tôi làm là phải xong.
Sáng hôm sau, tin tức loan truyền khắp trại. Ba Tơ đã đến các nhà, chửi bới, dọa nạt và đổ cám vào cầu tiêu. Sáu giờ, tập trung đi lao động, Ba Tơ «lên lớp» rồi đọc quyết định thi hành kỷ luật một số chị em thuộc đội chăn nuôi. Y không nói năng gì tới chị Thanh và chị Jacqueline. Không khí trại ngột ngạt. Ngoài hiện trường lao động, công việc uể oải. Tù nhân bàn tán kế hoạch cứu các chị ở đội chăn nuôi ra khỏi cachot. Quản giáo xoa dịu tù, không kiểm tra lao động. Tù nhân tha hồ ngồi tụm năm, tụm ba nguyền rủa cộng sản. Buổi trưa, không có gì xảy ra. Nhưng, vào giờ tập trung đi lao động, trước khi cán bộ trực trại kêu lên từng đội, bất ngờ, chị Thanh đúng dậy, rời hàng lối. Chị lững thững bước lên phía trước, rút con dao nhọn, đâm mạnh xuống lưng tù nữ Ba gà, chủ chứa điếm. Ba gà thét lớn, lăn ra dẫy dụa. Chị Thanh bồi thêm cái đá thật mạnh vào mông nạn nhân:
– Tao đã nói là tao làm. Mày hại mọi người, tao giết mày!
Chị thản nhiên đứng chờ hình phạt. Sân trại náo động tưởng chừng tù nhân nổi loạn. Trực trại hò hét: «Trật tự! Trật tự»? Vô ích. Vệ binh được lệnh nổ súng. Những băng đạn AK quạt lên trời trấn át tù nhân. Y tế trại đã khiêng con mụ Ba gà lên bệnh xá. Con dao của chị Thanh vẫn găm sau trên lưng nó. Vệ binh nhào lại toan giáng báng súng xuống người chị. Tù nhân đúng dậy tất cả, la lối đồng loạt. Vệ binh chùn tay. Tù nhân đánh đai từng lớp quanh chị Thanh, bảo vệ chị. Vệ binh lách vội vã đứng cách xa chúng tôi hàng chục thước, súng lăm le ở tư thế khạc đạn. Cổng trại đã đóng chặt. Hai khẩu trung liên bên ngoài chĩa vào. Đạo quân áo thung rách và quần xà lỏn vá víu đủ màu vải thách thức súng đạn. Những chiếc nón đủ kiểu tả tơi đã tung lên và ngổn ngang sân trại. Chân đất, đầu trần, tay không, dù đàn bà chống đối sự ngược đãi của chế độ. Ba Tơ xuất hiện. Y giả vờ hỏi:
– Chuyện gì đã xảy ra thế?
Chị Jacqueline đáp:
– Vệ binh đánh đập chị Thanh Thủy, chúng tôi phản đối. Nội quy cấm đánh tù. Chế độ không cho phép đánh tù.
Ba Tơ mềm dịu:
– Tôi bảo đảm với các chị không ai được phép đánh đập chị Thanh Thủy, nhưng tôi yêu cầu đội nào về đội nấy , hàng ngũ nghiêm chỉnh, trật tự, tôi sẽ giải quyết mọi vấn đề một cách ổn thỏa.
Ba Tơ xứng đáng là một cai ngục chuyên nghiệp. Y hiểu lúc nào nên mềm mỏng và lúc nào nên cứng rắn. Tù nhân tuân lệnh y, người nào về đội người ấy, ngồi xếp hàng nghiêm chỉnh. Trực trại trình bày sự việc vừa xảy ra. Chị Thanh được gọi đứng lên. Chị bước khỏi hàng ngũ.
– Chị đã học Nội quy chưa ? Ba Tơ hỏi.
– Học từ bốn năm nay chúng tôi không thuộc. Chị trả lời.
Tù nhân cười rộ. Ba Tơ cố gắng giữ thái độ điềm nhiên.
– Học bốn năm mà chưa thuộc. Chưa thuộc làm sao trở về sum họp gia đình?
Chị Thanh nhún vai:
– Tôi không có gia đình, không thích về!
– Tại sao chị dám đâm chị Ba?
– Tôi ghét nó.
– Tại sao chị ghét nó?
– Vì nó đáng ghét.
– Chị biết giết người can thêm tội gì nữa không?
– Tử hình.
– Đúng. Nếu chị Ba chết, chị sẽ bị đưa ra tòa án. Bây giờ, chúng tôi tạm thời đưa chị vào biệt giam.
Giám thị Ba Tơ nhìn mọi người:
– Có ai phản đối không?
Tất cả im lặng. Ba Tơ hỏi tiếp:
– Có ai đề nghị gì không?
Ba Tơ chờ đợi. Chị Jacqueline dơ tay:
– Tôi.
– Chị đề nghị gì?
– Tôi đề nghị thả các chị ở đội chăn nuôi ra khỏi biệt giam.
– Trại sẽ nghiên cứu. Bây giờ, tôi yêu cầu các chị về nhà. Chiều nay, các chị được nghỉ.
Vệ binh dẫn chị Thanh đi và tống chị vào connex. Chị ngoái lại nhìn mọi người với đôi mắt thất vọng. Biết làm sao, chị Thanh. Hành động của chị thật đẹp nhưng không phải là nguyên do đáng để chúng tôi nhập cuộc. Và nữa, với cộng sản, nổi loạn trong nhà tù chẳng ích lợi gì. Chúng ta đâu phải tù binh. Chúng tôi là thứ tù gì đó thật lạnh lùng, thứ tù không được phép nhận mình là tù nên chẳng có quy ước quốc tế nào đề cập tới. Chị Thanh nằm trong connex xong xuôi, tù nhân giải tán. Nón mũ lượm lên, mọi người về nhà bàn tán xôn xao, coi như mình đã thành công. Và Ba Tơ cũng tưởng y đã dẹp xong cuộc nổi dậy. Chúng tôi đợi bóng tối. Để biết chị Thanh có bị đánh đập không. Nhiều chị em đến với tôi, nhờ tôi đóng góp ý kiến cho ngày mai. Tôi bỗng sáng mắt: Không phải chỉ riêng tôi khôn lớn trong tù ngục, còn nhiều chị em khác nữa.
– Chị Lan, chị thử nhận xét về vụ chiều nay xem sao? Chị Jacqueline niềm nỡ nói. Chúng tôi dám làm nhưng thiếu đầu óc.
Tôi thận trọng ngó lên trần nhà. Chị Jacqueline hiểu ý. Chị cầm tay tôi:
– Đứa nào đụng tới chị, tôi sẽ bước qua xác nó.
Jacqueline và Hai Ba Dạng là hai nữ chúa lừng danh của Sài Gòn từ đầu thập niên 1970. Jacqueline tung hoành vùng Sài Gòn, Hai Ba Dạng vùng Chợ Lớn. Biên giới của họ tính ở ngã tư Nancy-Trần Hưng Đạo. Mỗi nữ chúa có hàng trăm đàn em. Hai người chưa từng ân oán giang hồ lần nào. 30-4-1975 họ còn nằm ở nhà lao Thủ Đức. 1-5 họ đã có mặt ở Sài Gòn. Giữa tháng 5-1975, chế độ mới truy lùng nam nữ tù nhân hình sự mà họ đã thả ra chiều 30-4. Hai nữ chúa lẫn trốn. Đàn em của họ dấu diếm họ, nuôi dưỡng họ. Ít lâu sau, nữ chúa tái xuất giang hồ, chuyển hướng làm ăn. Họ tuyển chọn đàn em nhan sắc, khéo ăn nói, dụ dỗ bộ đội, cán bộ và lột hết tiền, đồng hồ, radio, Honda, Vespa. Tiến xa hơn, họ đột nhập các kho chứa hàng hóa của phường, quận đánh cướp và buôn xăng dầu của bộ đội. Họ mua chuộc cộng sản, sản xuất giấy tờ giả mạo, tổ chức vượt biên. Jacqueline sắp viếng ngân hàng nhà nước thì bị bắt. Còn Hai Ba Dạng bị đàn em phản bội. Cả hai đều đã nằm ở Chí Hòa, lên Bù Gia Mập rồi về Long Thành.
– Tôi thấy các chị sáng suốt. Tôi nói.
– Chị nói trắng ra di. Jacqueline dục.
– Tranh đấu phải nhằm mục đích tốt. Tôi rất yêu chị Lệ Thủy, chị Đặng Vũ Thị Thanh Thủy. Nếu các chị cho nổ tối qua thì tốt mà chiều nay thì dở.
– Còn ngày mai ?
– Ngày mai… Tôi nheo mắt, mỉm cười.
Chúng tôi nói chuyện khác chẳng nhằm nhò gì tới chuyện tranh đấu. Sau kẻng báo ngủ, chị Thanh gửi thông điệp bình yên cho chúng tôi bằng bài hát O’ Cangaceiro. Chị ấy chưa bị đánh. Nếu đã bị đánh, chị ấy đang nằm ôm vết thương mà rên rỉ. Tôi cố hình tượng chị Thanh, dĩ vãng gấm hoa của chị và hiện tại tan nát. Có những con người ta không thể hiểu nổi. Có những con người mà gặp họ, hiểu họ, ta phải xét lại mình. Nửa đêm, chị Jacqueline mò lại chỗ tôi nằm, bàn tiếp chuyện cứu các chị ở đội chăn nuôi ra khỏi cachot. Tôi nói thật với chị ấy rằng, tôi đã đọc nhiều sách và tôi chưa hề thấy bất cứ một cuộc nổi dậy nào của tù nhân thành công cả. Sau mỗi vụ nổi dậy là mỗi kỷ luật siết chặt hơn. Cộng sản sợ tĩnh, không sợ động. Nó sẽ kiểm soát hết tư tưởng của mình bằng hành động chống đối để hành hạ mình cho đến khi mình chết. Người tù cộng sản cần dấu kỹ nanh vuốt. Chị Jacqueline không đồng ý thế. Tôi nói đó là ý nghĩ của riêng tôi nhưng tôi không thể tách riêng tôi khỏi mọi người. Cuối cùng, chúng tôi thỏa thuận một phương thức đấu tranh cho những ngày sắp tới.
Hôm sau, coi như mọi chuyện đã được Ba Tơ giải quyết hợp tình hợp lý, cả trại hân hoan đi lao động. Trong sân tập họp, chúng tôi giữ trật tự tối đa. Ngoài hiện trường lao động, chúng tôi làm việc tích cực. Về nhà, chúng tôi ăn ngủ đúng giờ giấc; họp đội, họp nhà, phê bình, kiểm điểm, rút tỉa kinh nghiệm, học tập nội quy, thảo luận Nếp sống văn hóa mới… Tuyệt nhiên, không còn ai nhắc tới chuyện cũ và cũng chẳng tụ tập từng nhóm tán gẫu. Một tuần lễ trôi qua, vệ binh và cán bộ trực trại hết theo dõi. Sang tuần thứ hai, buổi sáng, tù nhân không lĩnh cơm sáng nhưng vẫn tập họp đông đủ và vui vẻ đi lao động. Buổi trưa, tù nhân lại lĩnh cơm. Giám thị Ba Tơ đã được nhà bếp báo cáo. Y chưa tỏ thái độ. Buổi chiều, chúng tôi vẫn lao động bình thường. Đội của tôi nhập trại sớm nhất. Thay vì về nhà, chị Jacqueline cho đội ngồi giữa sân trại, hàng đôi ngay ngắn. Trực trại ngồi trong chòi không hiểu chuyện gì sắp xảy ra. Y phải kiểm soát quân số của đội kế tiếp. Đội kế tiếp rồi đội kế tiếp. Tất cả theo lệnh của đội trưởng mình, trong hàng ngũ, ngồi gần nhau. Ba hồi kẻng tù tan lao, chấm dứt buổi chiều làm việc mệt mỏi. Mặt trời thấp dần, thấp dần. Cả trại tù ngột ngạt. Vệ binh tíu tít xách súng chạy ra ngoài vòng giây kẽm gai, bỏ dở bữa cơm chiều. Quản giáo lăng xăng điều nghiên tình hình. Cổng trại khép kín. Tù nhân ngồi im lặng, tuyệt đối im lặng. Giám thị Ba Tơ xuất hiện cách chúng tôi hơn mười thước. Đằng sau y, một tiểu đội vệ binh, AK dựng lưỡi lê, đạn nạp sẵn sàng.
– Các chị nổi loạn hả? Ba Tơ hất hàm hỏi.
Jacqueline đứng dậy trong tư thế nghiêm.
– Báo cáo ông Giám thị, chúng tôi không nổi loạn.
– Vậy, muốn gì?
– Chúng tôi chưa thấy ông tha các bạn tôi ra khỏi cachot.
– Ban giám thị còn nghiên cứu.
– Chúng tôi ngồi đây đợi ông nghiên cứu.
– Thế là nổi loạn, là chống nội quy, chống pháp chế của nhà Nước.
– Chúng tôi không chống gì cả. Nếu ông không hứa thả các bạn tôi, chúng tôi đã không ngồi đây.
– Các chị hoàn toàn chịu trách nhiệm.
– Chúng tôi chấp nhận. Ông hãy nhốt cả ngàn người vào cachot ngay đi, nếu ông muốn.
Một đàn em của chị Jacqueline đứng lên, phanh ngực ra:
– Đừng có dọa, Ba Tơ! Có ngon thì bắn giữa tim tôi đây nè! Tụi này sợ sống hơn sợ chết, nghe chưa!
Tù nhân vỗ tay. Náo động khởi sự. Ba Tơ nghiến răng, vung tay:
– Được, rồi sẽ biết.
Y bỏ về doanh trại. Tù nhân cười rộ để nhạo y. Hôm nay, Ba Tơ không mềm mỏng vì y «ngửi» được vấn đề. Các chị bụi đời thay phiên nhau đứng tố cáo Ba Tơ gian ác. Bóng tối đã phủ mờ Trại Cải Tạo Long Thành. Cô bé Hoa của tôi nhập cuộc như một chiến sĩ ! Cô muốn tẩy sạch một vết sẹo cộng sản ô uế trong đời cô. Cô trấn an những người tham gia một cách bất đắc dĩ. Và cô dõng dạc tuyên bố:
– Tôi chưa hề là phản động, bây giờ tôi là phản động. Bất cứ ở không gian và thời gian nào, mỗi cuộc cách mạng bạo động hay nổi dậy vô duyên cớ, những tay giang hồ hảo hán, những kẻ bị liệt vào hàng du thủ du thực, đều đóng vai trò xung kích. Thiếu đàn anh chị, cách mạng thiếu lửa và khó nổi đình đám. Những kẻ không biết sợ hãi, dễ dàng tham dự bạo động và tham dự nhiệt tình, sôi nổi. Nhiệt tình của họ đã cuốn hút những người cầu an.
Chị Hai Ba Dạng sát cánh chị Jacqueline. Đó là hai linh hồn của đêm nay.
– Tối nay chúng ta bỏ ăn và thức suốt đêm!
Jacqueline nói. Tù nhân hoan hô. Tiếng nói của hai nghìn đàn bà, con gái văng vẳng một khoảng trời. Tôi nhìn lên. Những vì sao đã mọc. Những vì sao rung rinh vì lâu đài âm thanh phẫn nộ ở dưới. Ba Tơ chắc đang vẽ kế hoạch đàn áp. Y sẽ phải điện thoại báo cáo tình hình về Sài Gòn. Tù nhân bắt đầu hát. Bài «Việt Nam, Việt Nam» phóng ra. Tín hiệu của trái tim vừa gửi đi. Hai xe cam nhông đầy nhóc bộ đội từ quận Long Thành cũng vừa đổ xuống trước cổng trại. Súng đạn đã dàn ra. Tiếng hát đang bốc lửa. Những người tê bại đã chống gậy khập khiễng rời nhà đến với cuộc chơi lớn. Đêm lịch sử đàn bà khỏi sự. Bao giờ trời sáng ? Chẳng cần biết. Trời sáng sẽ thế nào? Chẳng thèm hiểu. Hãy nhớ đã có một đêm đàn bà lên tiếng trước bạo lực. Tôi theo một nhóm chị em tiến về phía khu cachot. Phá những ổ khóa này cũng dễ thôi. Sẵn dao nhà bếp và búa bổ củi đó. Cánh tay chị Jacqueline vung lên, xích xiềng nào chịu nổi. Nhưng đã thỏa thuận với nhau không bạo động, chúng tôi chỉ đứng bên ngoài chuyện trò.
Tôi đến sát cửa connex, cái hộp sắt nhốt chị Thanh.
– Chào chị Thanh, tôi lại thăm chị.
Chị Thanh thò cánh tay ra ngoài:
– Tự do hả? Tôi biết có một khoảng tự do.
Con dế bị nhốt vào cái hộp diêm như chị Thanh bị nhốt vào cái connex. Người Mỹ, ngoài còng, khóa, còn để lại Việt Nam Connex. Thùng chứa đồ của họ hôm qua, hộp đầy đọa tù nhân của cộng sản hôm nay. Cộng sản chế biến thêm một chút để cánh cửa luôn luôn hé mở vừa đủ thò cánh tay ra. Tù nhân thở hít nhờ kẻ gió bủn xỉn đó. Nắng nhiệt đới nung connex. Connex hấp tù nhân. Con người đã nằm trong hộp sắt phơi nắng lửa ấy, tháng này qua tháng khác, ở các trại tập trung cải tạo có connex. Ban đêm, sương xuống nhiều, lạnh thấu xương. Vào mùa mưa, nằm connex, con người là cục đá ngâm dưới lòng suối.
– Chị lạnh không, chị Thanh?
– Tôi ấm lắm. Các chị đã sưởi ấm lòng tôi.
– Mụ Ba Gà chỉ bị thương nặng. Chị đừng ngại.
– Tôi không chí tình giết nó.
– Quên mất, tôi có vấn cho chị it điếu thuốc rê.
Tôi đưa thuốc và hộp quẹt cho chị Thanh. Chị bật que diêm, mồi thuốc hút.
– Ban ngày, tôi phải nhẩy choi choi. Như thế, mới đỡ nóng. Mồ hôi ra nhiều, tôi khát nước vô tả. Chúng nó bố thí có chút xíu nước lã. Ban đêm, tôi ngồi co ro, lạnh muốn phát điên. Giá đông người vô đây, ban đêm ôm nhau sẽ đỡ lạnh. Nhưng ban ngày thì khốn nạn! May mà chúng nó cho ăn ít uống ít nên cái xô phân bớt hôi hám.
Chị Jacqueline đã mang ca nước chanh đường lại. Kẽ hở quá hẹp không thể đưa vào. Mỗi lần đưa cơm nước, cai tù phải mở khóa. Chị Thanh đã đứng bên trong connex, ngậm cái miệng ca mà uống.
– Ở tù cộng sản tôi mới tìm thấy hạnh phúc ở ca nước lã. Tôi tập truy nã thân phận tôi. Tôi đã hư hỏng, phí phạm đời mình.
Chị Jacqueline nói đùa:
– Mày sẽ vá lại đời mày, Con Lan xì ke ạ!
Rồi chị bỏ đi.
– Chị Lan, tôi cam đoan với chị, tôi không chết trong connex đâu.
Tôi nắm tay chị:
– Không, chị cần cưỡi ngựa đóng phim O’ Cangaceiro. Đất nước cần nhiều người như chị. Ai cũng có quyền làm lại vì cả nước phải làm lại. Tôi về với mọi người nhé!
Chúng tôi chia tay nhau. Về khuya, những bài ca chính huấn vang vọng như thác gầm. Những người vừa mới được thăm nuôi, về nhà lấy đường và chanh pha nước mời tất cả. Biết chiến đấu là biết chia sẻ. Tôi qua chỗ chị Nga. Chị đang ngồi trầm tư giữa đám đông náo loạn. Một trời sao trên đầu tôi.
– Chị nghĩ thế nào, chị Nga?
– Đây là trò chơi năm 1963 và những năm kế tiếp của chúng ta. Trò chơi đẹp và cần thiết.
– Em lại thấy chị ưu tư?
– Chị đang nghĩ một trò chơi ngoạn mục hơn. Không phải ở trong tù, ở ngoài cuộc đời. Sài Gòn chẳng hạn. Chị vừa hiểu cái giá trị động của các chị em giang hồ, bụi đời. Họ hơn hẳn trí thức chúng ta trong hành động.
– Em đã nghĩ vậy.
– Nếu từ 30-4-1975, chúng ta biết kết hợp họ, họ sẽ lý tưởng hơn bất cứ giai cấp nào.
– Ngày mai, chị Nga?
– Ngày mai, họ sẽ mở đường và chúng ta sẽ vào con ngõ cụt buồn nản. Em hãy nhớ, hoặc em, hoặc chị, chúng ta cần sống sót.
Tôi bỏ chị Nga về với đội. Vì chúng tôi không bạo động, nên cái vòng đai công an, bộ đội bên ngoài vòng đai kẽm gai không có cớ đàn áp. Họ bỏ mặc chúng tôi hát hò. Họ gài bẫy cho chúng tôi sa xuống. Nhưng chúng tôi đã khôn lớn. Quá khuya, chúng tôi ngồi im lặng, nón mũ trên đầu, hàng lối nghiêm chỉnh. Sự im lặng của tù nhân khiến cai ngục sợ hãi. Họ không hiểu chúng tôi sắp làm gì. Đêm không ngủ của chúng tôi cũng là đêm không dám ngủ của cộng sản.
Chương XIII
Bẩy giờ sáng hôm sau, đáng lẽ, đang lao động ngoài hiện trường, chúng tôi vẫn ngồi bất động giữa sân trại. Cái kẻng tù hôm nay quên gầm gừ. Vòng đai công an vũ trang và bộ đội còn nguyên đó. Mặt trời đã chiếu những tia nắng đầu ngày. Ba Tơ đứng ở hành lang văn phòng của y quan sát cùng khắp. Một chiếc xe du lịch chạy vào phía cổng trại, dừng lại, bóp còi. Ba Tơ đích thân chạy ra mở khóa, kéo rộng cửa. Chiếc xe vô sân, lái rẽ bên phải rồi đậu trước văn phòng giám thị. Ba Tơ đuổi theo chiếc xe. Bốn người trên xe bước xuống. Họ leo lên bậc tam cấp, vào văn phòng. Nửa tiếng trao đổi giữa họ và Ba Tơ, bốn người y phục đại cán, nón cối, dép râu và Ba Tơ đến trước mặt chúng tôi.
Một người hỏi:
– Ai đại diện các chị?
Im lặng. Người này hỏi tiếp:
– Ai đại diện? Giọng ông ta không vướng víu chút giận dữ nào?
– Thưa ông, không có ai đại diện ai cả? Chị Hai Ba Dạng lễ độ trả lời.
– Các chị rất đáng biểu dương. Tôi đã được nghe đồng chí giám thị báo cáo đầy đủ. Khuyết điểm là do đồng chí giám thị trại giải quyết vấn đề chậm trễ. Các chị đã vi phạm Nội quy trại nhưng được khoan hồng vì các chị biết bảo vệ tài sản của nhà Nước, không phá phách. Bây giờ, chúng tôi, đại diện trung ương, đến đây giải quyết khẩn trương mọi yêu cầu của các chị.
Người thứ hai tươi cười:
– Chúng ta làm việc ngay nhé. Nào, các chị muốn gì?
Chị Hai Ba Dạng đáp:
– Nhiều người bị bệnh tê bại, cần ăn cám mà không có. Họ muốn được ăn cám thêm vào khẩu phần hàng ngày.
– Đâu, những người tê bại đâu?
Chị Hai Ba Dạng đứng im. Tự động những người tê bại đứng lên, tay vẫn chống gậy. Có tới hai trăm tù nữ đói cám!
Chúng tôi sẽ tạo điều kiện thuận lợi để sớm có cám. Người thứ hai hỏi tiếp:
– Còn gì nữa?
– Nhiều người bị bệnh huyết trắng vì ăn độn nhiều sắn, củ cải và lao động cực nhọc.
Gần hết trại đứng dậy, không chờ lệnh.
– Sẽ bổ xung bác sĩ và thuốc men.
Chị Hai Ba Dạng nói:
– Vì thế, một số chị em bị kỷ luật trong cachot.
– Chúng tôi thả họ ra ngay bây giờ.
Người thứ hai hất đầu. Ba Tơ sai trực trại xách chìa khóa mở cửa các cachot. Chúng tôi ngước mắt về phía đó. Các chị ở đội chăn nuôi và chị Lệ Thủy thất thểu bước theo anh công an trực trại. Họ không đến với chúng tôi mà về thẳng nhà của mình.
– Chính sách của Đảng và Nhà nước trước sau như một. Đã nói khoan hồng là khoan hồng, chỉ cần các chị tỏ vẻ ăn năn sám hối và tiến bộ thôi. Nhân tiện, ngay đây, tôi báo cho các chị tin mừng: Một số người sẽ được trở về sum họp gia đình hôm nay.
Khác hẳn những lần đọc quyết định trả lại tự do mà chị em ở Long Thành đã chứng kiến, người thứ ba mở sà-cốt, lôi ra mấy tờ giấy đánh máy, đọc lệnh tha tại chỗ, vất bỏ những thủ tục rườm rà. Sau khi chiếu điều này, điều nọ, chúng tôi nghe tên các chị viên chức của chế độ cũ và các chị can tội buôn bán bất hợp pháp. Không khí phấn khởi vụt dậy, ít ra, từ những người nghĩ rằng mình phạm tội vớ vẩn, sẽ được tha. Và người ta vỗ tay hoan hô. Sự vỗ tay đi ra ngoài chương trình hành động và ngoài cả sự toan tính của chúng tôi.
– Các chị có tên được tha, hãy về nhà chuẩn bị đồ đạc cá nhân rồi lên văn phòng làm thủ tục, lấy giấy ra trại.
Năm mươi người được tha, đứng dậy, bỏ hàng ngũ. Người thứ hai nói:
– Còn tất cả, tất cả cũng sẽ được tha. Tha hết. Ai muốn tốn cơm nuôi các chị. Bây giờ, các chị về nhà nghỉ ngơi, trưa nay ăn uống bình thường, buổi chiều miễn lao động. Còn ai đề nghị gì không?
Không ai trả lời. Cuộc đấu tranh chấm dứt vì mọi yêu cầu đều được thỏa mãn. Tù nhân giải tán tự do. Cộng sản đáng sợ thật. Có nhiều Ba Tơ ngu xuẩn, nhiều vệ binh, quản giáo đần độn nhưng rất nhiều thứ «trung ương» gian ác, thủ đoạn tua tủa. Tôi tự nhận mình chưa phải là đối thủ của cộng sản. Như lời Sử gia của Đảng phán xét, tôi ngoan cường chứ không gian ngoan. Giải quyết êm thấm vụ tuyệt thực tranh đấu, bốn ông «trung ương» rời trại. Ngay buổi chiều, năm mươi chị em được tha cùng rời trại thơi thới, hân hoan. Giám thị Ba Tơ không hề nhắc nhở nửa lời về cái đêm không ngủ của tù nhân. Sinh hoạt trại trở lại bình thường, tẻ nhạt. Tất cả đều dè dặt và nghi kỵ nhau. «Chúng ta sẽ đi vào trong ngõ cụt, buồn nản.» Chị Nga đã nói thế và y như rằng. Tôi có thì giờ cám ơn chị Lệ Thủy đã dành cho tôi nhiều cảm tình quý báu. Chị lắc đầu từ chối. Chị bảo, còn người xứng đáng để chị bênh vực là chị còn ham sống, nói chi ân huệ.
Ba hôm sau, buổi sáng tập họp chờ đi lao động, mười chiếc xe vận tải vào trại. Và hàng chục cán bộ văn phòng trại đến đọc danh sách những người chuyển trại. Danh sách thứ nhất gồm 250 tù nhân gồm các chị viên chức chế độ cũ và các chị bụi đời sững sờ, phản động ngoan cường. Chị Nga, chị Hai Ba Dạng, chị Lệ Thủy nằm trong danh sách này. Họ về nhà chuẩn bị hành trang rồi ra ngay. «Khẩn trương», đó là dấu hiệu quen thuộc đến nhàm chán. Như lần tôi rời đề lao Gia Định tới đây, tù nữ, từng cặp đeo còng leo lên xe. Khác một chút là họ rình rang nồi niêu, xoong chảo và thực phẩm do gia đình tiếp tế. Năm chiếc xe chở 250 tù nhân đến một trại nào đó, tôi không biết. Nhưng tôi biết chắc sự ra đi của họ là hậu quả của đêm không ngủ và cái danh sách thả 50 người về sum hợp với gia đình đã có sẵn, hoặc tha sau hoặc tha đúng lúc. Cộng sản luôn luôn gian ngoan, họ đã lợi dụng đúng thời điểm để làm tan rã mọi âm mưu chống đội họ. Họ vuốt ve êm dịu rồi phóng một trái đấm bất ngờ.
Chưa đầy nửa tiếng, năm chiếc xe đã biến khỏi trại. Chúng tôi thì vẫn ngồi xếp hàng giữa sân. Nhiều con mắt ngơ ngác. Nhiều trái tim đập mạnh. Năm chiếc xe còn lại đã trở đầu ra phía cổng. Một nửa cánh cửa chấn song sắt đã hạ xuống. Tấm vải bố đã kéo lên. Danh sách thứ hai gồm 300 người. Có chị Jacqueline, có bé Hoa và tôi. Cảnh tượng lại diễn ra như vẫn diễn ra. Chúng tôi đeo còng, lên xe rời Long Thành. Lực lượng đấu tranh bị phân tán mỏng. Chuyến đi thiếu chị Nga, tôi cảm thấy lẻ loi. Bao giờ mới gặp lại chị? Trong lao tù, mọi chia ly tưởng chừng mọi vĩnh biệt muôn thuở. Và nếu còn thấy nhau, đó là hạnh ngộ.
Quá trưa, chúng tôi vào đất Xuyên Mộc. Xuyên Mộc, cái địa danh nghe đã não nề. Đi qua gỗ, chúng tôi phải đi qua gỗ, chúng tôi phải xuyên qua gỗ, chúng tôi phải xuyên qua gỗ bằng hình phạt của thù hận. Tôi chợt nhớ một truyện ngắn của nhà văn Marcel Aymé, nhan đề «Le passe-muraille». Người ta chỉ có thể đi qua bức tường gạch bằng mộng du và bằng sự mơ mộng của nhà văn. Chúng tôi đi qua tường, xuyên qua gỗ bằng hiện thực và bằng sự gian ác của cộng sản. Bằng cái mà họ gọi là «cải tạo tư tưởng» một cách kiêu hãnh. Thế giới luôn luôn bị huyễn hoặc, bị lừa gạt bởi danh từ cộng sản. Họ không thể hình dung nổi những trại tập trung cải tạo tư tưởng mọc giữa những đầm lầy, chênh vênh trên sườn núi, hun hút trong rừng già và những việc ghê tởm mà tù nhân bị cưỡng bức lao động và những làn roi giây điện, những cú đấm, cú đá mà tù nhân phải hứng chịu nhục nhã. Và, họ vô tư khiến phẫn nộ, bảo đầm lầy Nam Hà, đề lao Gia Định, khám lớn Chí Hòa, nhà tù Hỏa Lò, trại kỷ luật Phú Khánh là những «re-education camps»! Còn cái lò sát sinh Phú Văn, nơi có ngọn đồi Fanta chôn hàng ngàn trẻ con vô tội thì gọi là «camp» gì nhỉ? Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi mới thấy mình quá dốt địa lý Việt Nam. Tôi vừa biết hàng chục ngàn địa danh mới mẻ, nhờ mỗi địa danh mới mẻ ấy là một nhà tù. Xuyên Mộc, địa danh mới. Nó là hòn đảo chính của quần đảo hãi hùng. Những hòn đảo nhỏ quấn quýt gần nó: Bầu Lâm, Bà Tô, Sa Ác… Tôi rơi vào Sa Ác, vào chỗ chết!
Tổ chức của trại Sa Ác giống hệt tổ chức của trại Long Thành. Nó có vẻ rùng rợn hơn vì nó nằm giữa rừng già. Nhà cửa luộm thuộm những bốn lớp hàng rào kẽm gai. Sổ tù Sa Ác ghi tên tôi đúng ngày tổng thống Reagan nhậm chức. Thế là tôi đã ở tù trải qua ba đời tổng thống Mỹ. Ngày hôm sau, 300 người chúng tôi bị biên chế thành 6 đội, bị lùa vào khu vực riêng, bị cấm đoán không được liên hệ với tù cũ. Chúng tôi thuộc các đội trừng giới và phải làm những công việc của đàn ông lực lưỡng. Cai ngục Sa Ác hành hạ chúng tôi đúng mức. Họ tính từng phút giải lao. Chúng tôi phải hạ những cây khổng lồ bằng dao cùn, cuốc mẻ, phải khiêng cây oằn vai, phải lao vào những bụi mây tua tủa gai nhọn phát hoang. Sa Ác, trước thời chiến tranh, là khu vực oanh kích tự do. Những hố bom lớn, sâu ngổn ngang đây đó. Cai ngục bắt chúng tôi phá gò mối trăm năm, đất rắn như đá, khiêng đất lấp hố bom. Bom Mỹ tạo ra hố, cộng sản sai chúng tôi lấp hố. Tôi nghĩ đã có nhiều hố bom ở Nicaragua và người Nicaragua cũng đang lấp hố bom giữa rừng như chúng tôi lấp hố bom ở Sa Ác. Nhân danh cái gì người ta ném bom? Và nhân danh cái gì người ta bắt chúng tôi lấp hố bom?
Tay tôi đã chai dầy. Có vài người kiệt sức, chết khi vác cây. Cây đè lên cái xác gầy ốm, đè lên thân phận làm người. Hèn hạ hơn cả, nó đè lên phụ nữ. Đàn bà sinh ra để tạo hạnh phúc cho đàn ông hay để chịu cực hình cộng sản? Tôi thèm nghe câu trả lời của một người đàn ông nào đó ở Washington, ở Paris, ở Londres hay ở Tokyo… Hay ở một người nuôi chó cái nổi tiếng trên thế giới cũng được? Hai tháng bị trừng phạt tưởng chừng hai thế kỷ, chúng tôi mòn mỏi, rạc rãi. Bệnh tê bại và huyết trắng tăng trưởng. Dinh dưỡng tồi tệ, thuốc men không có. Chỉ có họng súng dọa nạt, roi vọt quất vút và lao động chết bỏ. Tôi cầm chắc cái chết dù tôi rất thèm sống! Tôi có nhiều việc phải làm, một mai. Phép lạ giúp tôi tồn tại vẫn là ước mơ. Gần kề sự chết, nỗi ước mơ càng đằm thắm. Nhưng, đôi khi, nỗi ước mơ ngơ ngác, vì tôi chẳng còn thì giờ mơ ước. Tám giờ lao động trầy bả vai, nhỏ máu mắt, chúng tôi thèm ngủ hơn thèm ăn. «Ngủ đi em, ngủ mà quên. Cái buồn hoang dại làm điên cuộc đời.» Một giờ ngủ trưa, không đã. Ngủ thêm vài phút lúc ngồi giữa sân nắng chờ đi lao động. Ngủ trên đường ra hiện trường. Ngủ khi cầm dao cùn chặt rễ cây. Ngủ mệt mỏi. Ngủ khổ sở. Hình phạt Sa Ác đến đó tạm đủ. Người ta chuyển chúng tôi ra Bà Tô. Đến Sa Ác 300 tù nhân, qua Bà Tô còn 250. Hai tháng, một lò sát sinh hạ bao nhiêu con bò? Hai tháng, địa ngục Sa Ác chôn vùi 50 tù nữ!
Ở Bà Tô, chúng tôi bị ngược đãi không kém ở Sa Ác! Người ta dùng đòn lao động và roi gạo cải tạo chúng tôi thành những con người hèn hạ, đê tiện. Chẳng còn ai thiết nói chuyện đấu tranh, tâm tình. Người ta đã thù ghét nhau vì bát cơm đầy, bát cơm vơi. Người ta giành giật, đánh lộn, nguyền rủa nhau. Và, người ta xa nhau. Chúng tôi đã đi vào con ngõ cụt. Tôi càng ghê sợ thủ đoạn của cộng sản. Với đàn bà, con gái, họ cũng không khước từ chơi độc. Chúng tôi ở Bà Tô thêm hai tháng. Khi tất cả chúng tôi mắt mờ, chân mỏi, hình hài ma ốm, người ta lại chuyển về Long Thành. Cái danh sách có chị Nga chưa thấy về. Và chị Thanh vẫn nằm trong connex. Hầu hết các chị dân biểu, nghị viên, thẩm phán, viên chức thư lại ở lại Long Thành sau một «biển dâu tan tác» đã được tha về. Không hề có thêm cám cho những người bị tê bại. Cũng chẳng bổ sung bác sĩ, thuốc men. Ba Tơ vẫn lừng lững, vẫn đích thân quất roi da xuống mông tù nhân vi phạm kỷ luật, vẫn chọn đàn bà, con gái kháu khỉnh lên phòng y tế khám nghiệm xem có phải là điếm không!
Trại Long Thành, trại tù đàn bà kiểu mẫu của chế độ, không một chút thay đổi. Hình như nó nham hiểm hơn. Giám thị Ba Tơ là biểu hiện của chế độ. Đôi khi, tôi thấy ông giống hệt ông Hồ Chí Minh. Đôi khi, tôi lại thấy y giống hệt tên đồ tể. Và, thường thường, tôi thấy y như con bọ hung. Tôi, bây giờ, thuộc quân số đội nông nghiệp trồng khoai, trồng ngô. Công việc có nhàn hạ nhưng chán nản vô cùng. Một số người đã phát điên. Phần còn lại thì rã rời, bạc nhược cả thể xác lẫn tâm hồn. Tôi nhớ chị Nga. Không dám nghĩ chị đã chết vùi dập ở xó rừng nào, nhưng nếu chị chết, chị đã để di chúc cho tôi. Tôi sẽ định nghĩa đời sống như thế nào? Trước đây, tôi không tin rằng chết sướng hơn sống và hôm nay tôi cũng không tin rằng chết sướng hơn sống. Tôi sẽ phải định nghĩa thêm về cái chết nữa. Một tháng Long Thành lại sức, người ta gọi những cô gái điếm và tình nghi điếm, tuyển chọn từ các trại tập trung khác nhau về, lên làm việc liên tiếp năm sau ngày.
Cả trại xôn xao, lo lắng. Tất cả đều nghĩ Ba Tơ xét lại «vụ án đêm không ngủ» năm tháng qua và khai thác gái điếm để tìm ra những kẻ chủ mưu. Một căn nhà riêng dành cho các cô ở, sau khi đã làm việc với Ba Tơ. Sự phỏng đoán có phần đúng. Ba Tơ sợ các cô gái điếm bị trả thù ngay tại phòng của mình. Quản giáo đích thân dẫn các cô chuyển phòng. Cô bé Hoa của tôi cũng được gọi lên làm việc vào ngày cuối cùng. Khi trở về, bỏ bữa cơm chiều, cô nằm khóc rưng rức.
– Chuyện gì đã xảy ra cho em? Tôi hỏi.
– Khủng khiếp lắm chị ạ. Cô tấm tức trả lời.
– Họ bắt em chỉ điểm những người chủ mưu đêm không ngủ, hả?
– Không.
– Thế sao?
– Họ dọa em, họ bảo họ sẽ nhốt em suốt đời vì em đã nhận tội phản động. Rồi Ba Tơ đưa em tờ giấy bắt em ký tên. Em đọc, em hoa mắt, không dám ký.
– Giấy nhận tội?
– Không, giấy tình nguyện làm điếm !
– Thật vậy ư?
– Vâng, tình nguyện phục vụ các đồng chí Liên Xô thì sẽ được tha ngay, sẽ được bồi dưỡng no đủ. Ba Tơ kêu gọi lòng yêu nước của em. Nó bảo làm điếm là yêu nước, là đóng góp công sức vào chế độ xã hội chủ nghĩa, vào tình hữu nghị Việt Xô đời đời bền vững.
– Và em từ chối?
– Dứt khoát em từ chối.
Cô Hoa lại khóc. Tội nghiệp cô bé. Số phận cô như số phận anh nông dân Moritz trong Giờ thứ 25. Một người vì có nhan sắc mặn mà, một người vì nhan sắc của chính mình mà lận đận tù ngục. Anh Moritz thì phải ký giấy xin được chống cộng sản với người Mỹ. Còn cô Hoa thì phải ký giấy tình nguyện làm điếm cho cộng sản. Thân phận con người, trong thời đại của tôi, sao mà hẩm hiu thế. Tôi tự hỏi, trong Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh thiếu gì thanh nữ đẹp đẽ, đẫy đà mà Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng không kêu gọi họ yêu nước tích cực, yêu nước hiện thực xã hội chủ nghĩa, khích lệ họ trở thành những dũng sĩ, anh hùng của chế độ trong nhà điếm quốc doanh. Lại phải tuyển lựa điếm nhà nghề ở các trại cải tạo phục hồi nhân phẩm! Làm điếm cho Mỹ là mất nhân phẩm làm người. Nhưng làm điếm cho cộng sản là… yêu nước. Tưởng những ai đang yêu nước dưới những cái bảng hiệu «Trí thức yêu nước», «Việt kiều yêu nước» nên có phút giây suy nghĩ. Bởi vì gái điếm đã được đề cao và đánh giá cao hơn mọi thành phần yêu nước. Vết son của chủ nghĩa cộng sản hôm nay, nỗi bùi ngùi của xác chết trong hòm kính!
– Em phải làm gì, chị Lan? Hoa nghẹn ngào hỏi.
– Làm gì? Chị không biết mình sẽ phải làm gì nếu họ bắt chị tình nguyện… yêu nước. Đừng trách chị nhé, Hoa ! Chẳng có lời khuyên nào cho em cả.
– Cám ơn chị. Em nói với họ để em suy nghĩ hết ngày mai.
Hoa thôi khóc. Hôm sau, ở hiện trường lao động, vào khoảng 9 giờ, cô xách cuốc lại chỗ vệ binh ngồi gác, báo cáo đi vệ sinh. Bất thình lình, cô phóng tới, dùng cuốc bổ tới tấp. Vệ binh không kịp phản ứng. Y lãnh mấy nhát thù hận, nằm ngay đơ. Hoa vớ khẩu AK, dộng báng súng lên đầu vệ binh. Cô điên rồ. Cơn điên tăng sức mạnh cho cô. Máu tên vệ binh phọt ra làm cô ngây ngất. Hoa cười ha hả. Tôi đứng thẫn thờ nhìn cô, không thể nói được lời nào. Quản giáo sợ xanh mặt. Vệ binh thứ hai lúng túng vài phút rồi lên đạn, chĩa mũi súng nhắm Hoa. Cô thét lớn:
– Tao thà chết, không làm điếm cho cộng sản!
Hoa buông khẩu AK xuống, dang hai tay, ngước nhìn trời. Một băng đạn găm suốt vô ngực Hoa. Cô gục ngã. Máu của Hoa đã đổ trên luống khoai cải tạo. Hoa chọn cái chết êm ái. Trại nổ súng báo động. Các đội thu dụng cụ nghỉ làm. Đội trưởng ở lại. Chúng tôi về. Tôi cố nhìn Hoa lần cuối. Xác cô phơi dưới nắng, máu vẫn ứa ra. Nhân danh ai để tôi vinh tôn một thiếu nữ biết bảo vệ phẩm cách con người? Thôi, nhân danh những giọt nước mắt của tôi vậy. Sẽ có ngày, tôi tìm đến nấm mồ của Hoa, đọc bài điếu văn muộn.
Cái chết của Hoa được coi rất bình thường. Người ta sẽ ghi vào biên bản vỏn vẹn dòng chữ: «Trốn trại, bị bắn chết». Không có ủy ban nào điều tra, mất thì giờ vô ích. Buổi chiều chúng tôi ra hiện trường lao động, xác của Hoa đã đem vùi lấp ở nghĩa địa Long Thành. Chỉ còn những vết máu khô quánh. Vệ binh truyền lệnh mới: Báo cáo cách xa hai mươi thước. Quản giáo không thích gần tù nhân. Vụ khoai sắp tới, tôi muốn được ăn một củ giữa luống thấm máu Hoa. Để suốt đời tưởng mộ nàng, suốt đời nhớ sự vô liêm sỉ của công sản. Những cô điếm yêu nước bị cách ly với chúng tôi. Thế càng tốt. Họ được ăn cơm trắng ba bữa, ăn thỏa thuê, ăn với thịt bò, thịt heo, tôm, cá, trứng, rau… Họ được nuôi nấng đúng tiêu chuẩn ngang hàng tiêu chuẩn cấp thứ trưởng. Họ được phát quần áo mới, vừa vặn, lộng lẫy. Họ được tặng son phấn, nước hoa, gương lược… Hơn tháng trời chăm sóc, Đảng ta trả tự do cho họ và phát thẻ điếm quốc doanh, sẽ phát thẻ đoàn viên, đảng viên nếu họ móc nhiều đồng «rúp» và hài lòng cố vấn Liên Xô.
Tháng 7 năm 1982, chị Nga trở lại Long Thành cùng một trăm người khác, thân tàn ma dại. Tóc chị bạc quá nửa. Da dẻ chị đen xạm, chân tay khẳng khiu. Chị nói chị đã bị lao. Rời Long Thành, chị đến Hàm Tân, bị đầy đọa ở trại Z30DK1, mấy tháng ròng rã đào gốc cây buông. Ở Hàm Tân, người ta thả hết các viên chức chế độ cũ. Chị Lệ Thủy trốn trại, bị bắt, bị đánh đập thê thảm. Sau đó, chị Nga đi Phú Khánh rồi Pleiku rồi Gia Lai rồi về Long Thành. Mỗi lần đi, mỗi lần để lại vài xác chết. Tính ra, chị Nga đã ở sáu nhà tù. Chị bảo trại tập trung nào cũng thế, nhà tù nào cũng vậy. Ánh sáng hay là bóng tối của chủ nghĩa đều nhầy nhụa, vàng bủng, tanh tưởi, lợm giọng. Tôi kể cho chị Nga nghe chuyện xảy ra ở Sa Ác, ở Bà Tô và cái chết của Hoa.
– Có thay đổi trong tâm hồn chị, Lan ạ!
– Đổi thay thế nào?
– Bài diễn văn đọc trước Quốc Hội Mỹ tầm thường quá. Nước Mỹ không phải là trái đất và dân tộc Mỹ không là loài người. Chúng ta sẽ soạn thảo Bài diễn văn đọc trước loài người.
– Còn còng Mỹ ?
– Vẫn là còng Mỹ thôi. Chúng ta không muốn còng Mỹ xuất hiện ở khắp nơi trên trái đất, kể luôn nước Mỹ.
– Còn cộng sản?
– Ta vẫn mong muốn họ làm người. Hãy giúp đỡ cộng sản làm người. Làm người, họ sẽ hết là cộng sản. Họ sẽ biết yêu thương và mơ ước.
– Còn sự phản bội của chính sách Mỹ?
– Bỏ đi. Nên cảm thông và tha thứ. Chúng ta làm lại quê hương chúng ta, làm lại trái đất bằng những trái tim không vấn vương quá khứ thù hận, không dính líu hiện tại ủ ê.
– Từ cảm hứng nào chị thay đổi?
– Từ những búng máu trong phổi chị trào ra. Từ còng Mỹ, từ roi vọt cộng sản… Và, có thể, từ cái chết của chúng ta.
– Chị cứ nói đến cái chết, buồn quá.
– Phải dọn sẵn cái chết, em ạ! Nếu chị chết trước em…
– Nếu chị chết?
– Nhớ rằng, có một thời để im lặng và một thời để lên tiếng. Thời để lên tiếng chưa tới, em lên tiếng sớm, tiếng nói của em sẽ chìm vào hư vô.
– Làm sao mình biết đúng thời lên tiếng?
– Sống đi, rồi sẽ biết. Hình như, bên ngoài người ta đang ồn ào lên tiếng. Em biết chứ, đó là tiếng nói chết.
Chị Nga ôm ngực ho.
– Có lẽ, chị không được tham dự một trò chơi ngoạn mục đâu.
Tôi thấy nhói tim.
– Thôi, nói chuyện khác, chị nhé !
Tôi hỏi thăm hai chị Lệ Thủy, Hai Ba Dạng, chị Nga nói họ còn ở Phú Khánh, trong xà lim vì dám khạc nhổ vào mặt giám thị. Chúng tôi bận bịu lao động, mệt nhoài khổ sai, ít có thì giờ gặp nhau. Dù vậy, lòng tôi đã được sưởi ấm vì chị Nga còn sống và đang chung trại với tôi. Một lần, trong nhà thương điên, tôi đã muốn trở thành nhà văn. Bây giờ, tôi khao khát trở thành nhà văn. Không cần phải nghi ngờ gì nữa. Chị Nhi chết hay chị Nga chết hay bao nhiêu người Việt Nam đã chết, đang chết và sắp chết đều để tạo thứ ánh sáng cứu rỗi nhân loại. Xưa, Thích Ca đã ngộ trong đau khổ. Và ánh sáng giải thoát đã áng lên trong nỗi mông lung khốn cùng. Ánh sáng ấy vẫn chỉ là thứ ánh sáng mới đến, kêu gọi thức tỉnh. Và sự giải thoát vẫn còn tiêu cực. Và loài người vẫn còn chìm đắm trong bể trầm luân. Nghĩ lại, thời đại của Thích Ca, tham vọng của con người bé nhỏ và nỗi khổ con người phải chịu đựng cũng đơn giản nên sông Hằng đã là to lắm. Nay, sau Ngài 2500 năm, tham vọng của con người vô hạn và nỗi khổ con người phải chịu đựng cũng vô hạn. Nỗi khổ con người phải chịu đựng từ những trò chơi tư tưởng của thế kỷ hai mươi phải tính bằng đại dương. Và nước mắt hòa với máu. Nỗi khổ ray rứt. Nỗi khổ đòi đoạn. Nỗi khổ thấm vào da thịt, vào lóng xương, vào ống máu. Và rụng rời nhất: Nỗi khổ trong ngục tù cộng sản. Chị Nga đã tới bằng nỗi khổ phá kỷ lục các nỗi khổ trên trái đất từ cổ chí kim, từ đông sang tây. Dẫu chị chết, và nói theo chị, nếu có thời để lên tiếng, thời ấy, chắc chắn, sẽ phải có những người Việt Nam cao quý phóng lên bầu trời mù mịt hận thù thứ ánh sáng huyền ảo cứu rỗi nhân loại, mở ra một nền văn minh, toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Ánh sáng huyền ảo ấy, bắt buộc, là ánh sáng làm xao xuyến tâm tư, quyến rũ trời đất, thôi thúc lòng người: thứ ánh sáng bắt tìm đến, vụt thức tình nguyện. Và sự giải thoát sẽ tích cực, sẽ tạo dựng sự bình yên cho tâm hồn con người vĩnh cửu.
Chương XIV
Vậy mà tôi còn gặp lại sử gia Nguyễn Bình Nam ở Long Thành. Ông ta bảo nhân tiện vô Sài Gòn công tác đột xuất, đến thăm tôi.
– Cô mạnh khỏe chứ, cô Ngô Kim Lan?
– Cám ơn ông Nam, bí danh Sử Gia, tôi chưa chết.
– Tôi rất mừng.
– Ông mừng gì?
– Mừng cô khỏe mạnh.
– Tôi thì lại thương hại ông. Ông có vẻ gầy đi. Ông nghĩ cách làm đau khổ chúng tôi nên ông hốc hác trông rõ. Ông không thích tâm hồn bình yên, thảnh thơi à?
– Thích chứ.
– Vậy ông nên sống thật một chút. Ông quen sống giả nên ông luôn luôn giả dối. Ông thừa hiểu cái động, cái ánh sáng ông ban cho tôi, nó đã đày đọa tôi tới mức nào. Thế mà, nhìn hình hài ông, ông nỡ hỏi tôi có mạnh khỏe không, ông rất mừng thì, quả nhiên, ông chưa là người, Sử Gia à!
– Cô vẫn ngoan cường. Gia đình cô thăm gặp cô đều đặn chứ?
– Tôi không cần thăm gặp.
– Đó là ý của cô. Cô chống chúng tôi đến bao giờ.
– Ông tự trả lời đi. Bây giờ, tôi thấy tôi vô cùng kiêu hãnh. Tôi đã chấp các ông hai tay và luôn hai chân. Khi đã còng tay, còng chân tôi lại rồi đấm đá, ông có cảm giác nhục nhã không? Có võ đài nào như thế không?
– Cô dùng nước trà đi.
Sử Gia, tạm coi đó là bí danh của Nguyễn Bình Nam – có lẽ cũng giả nốt – không chịu trả lời những câu hỏi của tôi. Ông ta ưa né tránh.
– Ông đừng mời tôi uống nước nữa.
– Tại sao?
– Vì ông chưa được làm người.
– Tôi sắp kết thúc cuộc trắc nghiệm tâm lý tuổi trẻ chống Đảng, chống chủ nghĩa cộng sản.
– Tôi hy vọng ông thành công.
– Phải thành công!
– Ông hơi chủ quan đấy, ông Sử Gia ạ!
– Cô chớ tưởng cô phi thường. Chúng tôi sẽ thả cô ra. Sẽ thả hết thành phần phản động ra. Cô thì làm nổi cái gì!
Sử Gia đấm mạnh vào tự ái của tôi.Tôi choáng váng mặt mày.
– Cô vẽ kế hoạch nổi loạn mấy tháng trước, ở Hà Nội, tôi biết hết. Đúng không?
Tôi dõng dạc đáp:
– Đúng.
– Trò chơi ấy không hợp thời và tự cô làm tàn tạ cô.
– Tôi thừa biết.
– Biết mà cô vẫn làm.
– Vì đám đông, vì thể diện, ông hiểu chưa?
– Tôi ngạc nhiên thấy cô tích cực lao động. Tư tưởng đang diễn tiến tốt thì cô dở chứng.
– Ông sẽ ngạc nhiên hơn nếu ông biết tôi tích cực lao động không phải vì sợ hãi, vì ham tiến bộ. Mà vì tôi muốn chứng tỏ thái độ của người trí thức: Trí thức có thể xuống hầm phân, đồng thời, có thể làm công việc mà cộng sản các ông không đủ trí tuệ nghĩ tới. Nói tóm lại, những gì cộng sản làm được, trí thức cũng làm được; những gì trí thức làm được, cộng sản không làm được.
Sử Gia mỉm cười kênh kiệu:
– Cô muốn nói đến hạng trí thức nào? Miền Nam nhiều trí thức lắm.Họ đang tụ tập ở Hội Trí Thức Yêu Nước. Có phải lũ trí thức bệ rạc đó không? Hay trí thức hải ngoại yêu nước để về nước phe phẩy, buôn bán tình ái, lừa gạt xuất nhập cảnh, chuyển lậu vàng, kim cương? Chúng tôi đã đánh giá bọn trí thức kể trên là đống phân trâu.Chúng tôi biết hết, khinh bỉ chúng nó mà vẫn lờ đi.Chúng tôi có mục đích của chúng tôi.
Tôi nhếch mép, khẽ lắc đầu:
– Ông xếp tôi vào hạng trí thức nào?
Sử Gia lại tránh né. Nhấp ngụm nước trà, ông ta châm điếu thuốc mới, nhả khói.
– Bạn cô thể nào?
– Thế nào là thế nào?
– Mạnh khỏe không, cô?
– Chị ấy chớm lao phổi. Vài tháng nữa, nếu có dịp ghé đây, ông chiếu cố chị ấy, tôi có thể trả lời ông: chị ấy chết rồi.
– Tội nghiệp.
– Ông nên tội nghiệp cho ông. Chính ông, các ông mới đáng tội nghiệp. Tội nghiệp cộng sản thật, chả phút giây nào họ được bình yên tâm hồn để sống thật với lòng họ. Kẻ nào giả dối sẽ chết bằng sự giả dối.
– Còn người chân thật?
– Người chân thật không chết, dẫu thể xác họ tan rã nhưng ý nghĩa sống của họ tồn tại. Và đó là linh hồn.
– Người chân thật sẽ chết thảm. Cô tin đi, trước khi dẫy chết, người chân thật sẽ phơi bày sự giả dối và cô sẽ được chứng kiến.
– Các vị anh hùng, liệt sĩ của chủ nghĩa cộng sản đã phơi bày sự giả dối trước khi chết thảm?
– Tôi chỉ đề cập mẫu người chân thật của cô, người đã nhồi nhét cho cô thứ chân lý không tưởng, đã mê hoặc cô. Tôi muốn cô tỉnh ngộ. Đừng tưởng tôi mù và điếc.
Sử Gia «kết thúc» buổi mạn đàm với tôi. Nửa tiếng sau, tôi thấy Trực trại dẫn chị Nga lên văn phòng. Sáng nay, đang ngồi tập họp chờ đi lao động, Trực trại kêu tên chị Nga và tôi và bảo «ở nhà làm việc». Và tôi tái ngộ Sử Gia. Ông ta vẫn rình mò chúng tôi. Chưa lần nào tôi tin Sử Gia cả, nhưng lần này, tôi rất tin lời dọa nạt «kết thúc cuộc trắc nghiệm» của ông ta. Tôi đứng dựa lưng vào tường mà nhìn ra sân trại. Những người tê bại, kiệt sức, tuổi tác đang chống gậy quét sân, khom lưng lượm rác, ngồi phệt nhổ cỏ, gợi tưởng hoàng hôn của đời sống. Ai rồi cũng phải chết. Thời chưa có trò chơi tư tưởng Tây phương, người bình thường của Đông phương chia đời sống thành bốn khúc: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Thi sĩ triết gia Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều mở đời sống «… khi mới chôn nhau, đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra» và khép đời sống «… có nghĩa gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khau xanh rì». Từ được «chôn rau» đến bị «chôn xác», đời sống dằng dặc những hệ lụy, những điều «trông thấy mà đau đớn lòng», những cảnh «chết đuối người trên cạn». Trên cái dòng đời hệ lụy rã rượi đó, con người đã đi, vẫn đi từ bước đầu đẫm lệ đến bước cuối sầu thảm. Chắc chắn, đời sống phải chứa đựng niềm bí ẩn tuyệt vời nên mới quyến rũ nổi con người trong cuộc hành trình chông gai chân non rướm máu. Con người đi tìm cái gì? Sự khôn lớn, niềm tin yêu, ý nghĩa cao cả, cái khốn cùng của trời đất, hạnh phúc của muôn loài, hay ảo ảnh…? Một số người đã chụp được bí ẩn tuyệt vời ấy. Thích Ca đó. Lão tử đó. Khổng Tử đó. Trang Tử đó. Jesus đó… Chỉ gọn tay mình. Tay người ngắn, niềm bí ẩn còn nữa, còn nhiều, tít trên cao. Sức người hữu hạn. Niềm bí ẩn vô hạn. Mỗi ngày mỗi tuyệt vời, mỗi thời đại mỗi thay đổi. Có lẽ, mỗi con người đều mơ hồ thấy niềm bí ẩn của đời sống, đều hy vọng có lần vuốt ve nó, nâng niu nó và con người đã vuốt nước mắt, mỉm cười đi trên sầu đạo trọn vẹn đời mình. Con người sợ hãi cái chết, vì thế. Vì khao khát nhìn một sợi bí ẩn của đời sống.
Thời đại của chúng ta, dòng đời hệ lụy không còn đơn giản như bốn khúc đời sống đơn giản. Với những trò chơi của tư tưởng, đời sống đã bị chia thành trăm khúc nghìn đoạn. Khúc nào của cách mạng, của tự do, của dân chủ. Đoạn nào của thù hận, của thủ tiêu, của thanh trừng. Khúc nào của chiến tranh, của ý thức hệ, của phô trường quyền lực. Đoạn nào của tàn sát, của ngục tù, của đói rách, của ngu dốt… Dòng đời hệ lụy chẩy xiết cuốn phăng. Sầu đạo của con người hôm nay chênh vênh dốc nhọn. Những niềm bí ẩn của đời sống quyến rũ mãnh liệt, gấp bội. Con người hôm nay không phải chỉ đi trong cô đơn mà còn đi trong ngộ nhận; không phải chỉ đạp lên chông gai mà còn đạp lên bom mìn. Chị Nga là hình ảnh con người ấy. Chị đã tìm ánh sáng cứu rỗi loài người. Chị đi mòn mỏi, cô đơn. Chị đi quằn quại, thống khổ. Trên đỉnh cao hệ lụy, những búng máu phọt ra từ buồng phổi đọa đày, ánh sáng cứu rỗi chưa thấy nhưng tôi đã thấy những hạt giống mang tên một loài hoa Nhân Ái rắc đầy xuống các trại tập trung cải tạo ở quê hương tôi. Con người cao thượng ấy, chị Nga của tôi, đang đối diện với kẻ chưa được làm người. Tôi cảm giác một nỗi xót xa, bùi ngùi. Và, đột nhiên, tôi bị ám ảnh bởi cái chết nào đó.
Gần giờ tan lao động, tôi bị gọi lên văn phòng giám thị lần nữa. Chị Nga còn ngồi đó. Sử Gia gật gù, tự mãn:
– Chính tôi ra lệnh thi hành kỷ luật hai cô.
Chị Nga nói:
– Không ai phán xét ông cả vì không ai phán xét những kẻ mất hết lương tri.
Giám thị Ba Tơ dẫn chúng tôi ra hàng rào giây kẽm gai. Đích thân y cầm còng. Ba Tơ bảo tôi đứng bên trong hàng rào. Y đưa chị Nga ra ngoài hàng rào. Hai chúng tôi đối diện nhau. Biên giới ngăn cách là hàng rào một lớp giây kẽm gai tua tủa. Trực trại đã mang tới ba chiếc ghế thấp.Ba Tơ bắt chúng tôi trèo lên ghế.Y cũng trèo lên ghế. Theo lệnh của y, chúng tôi đứng sát hàng rào nhưng không được đâu mặt vào nhau. Hai cánh tay phải của chúng tôi đeo chung một cái còng. Trực trại lôi ghế mạnh.Chúng tôi đu trên giây kẽm gai. Sợi trên võng xuống sợi dưới, võng xuống, võng xuống, đến khi chỉ đầu những ngón chân của chúng tôi chạm đất. Nắng bây giờ dữ dội.Ba Tơ và bọn Trực trại đã bỏ về. Và Sử Gia đứng nấp đâu đó chiêm ngưỡng tác phẩm vĩ đại của ông ta. Không có trò chơi nào man rợ hơn trò chơi của tư tưởng cộng sản. Nó biến con người bất đồng quan điểm với nó thành cá khô, thịt muối.
– Nói một chuyện gì cho vui chứ, Lan?
– Chuyện gì, chị Nga?
– Cổ tích chẳng hạn.
– Em thuộc một bài thơ cổ tích mới, chị muốn nghe không?
– Muốn qua. Em biết ngâm thơ chứ?
– Em đọc.
– Đọc đi. Ta thả hồn vào thơ, sẽ quên mọi sự.
Tôi đọc bài Trái thị, quên tên tác giả:
«Ngày xưa cô Tấm ngời nhan sắc
Thật thà như đếm chả thù ai
Cô thương điều xấu yêu điều tốt
Chung hết tâm tư với mọi người.
Có nhiều đứa ác hờn ghen Tấm
Đày đọa Tấm và giết Tấm oan
Tấm hóa thành chim thành trái thị
Cuối cùng thành công chúa nhân gian.
Em ạ, anh là cô Tấm xưa
Lòng anh chứa chất cả hư vô
Anh đi với tháng dài năm rộng
Mơ nỗi niềm chưa ai ước mơ.
Anh cũng bị chôn dưới vực sâu
Trước khi sặc nước mắt cơ cầu
Rồi cũng thành chim thành trái thị
Ngạo nghễ lên đời chói ngọc châu.
Em, cổ tích này anh tặng em
Hãy nghe hãy truyện kể nghìn năm
Nghìn năm trái thị còn xanh mộng
Chỉ úa điêu ngoa héo dối gian.»
– Ai đã làm bài thơ này, chị Nga hỏi?
– Em không rõ. Tôi đáp.
– Có vẻ giống tâm sự chúng ta.
– Vâng, từa tựa.
Các đội đã nhập trại. Qua cổng, hàng ngàn con mắt nhìn hai chúng tôi treo tòng teng trên giây kẽm gai, ngón chân chạm đất. Nhìn khoảnh khắc rồi họ cúi đầu, lầm lũi bước. Rồi họ lĩnh cơm, chia cơm ồn ào, cãi lộn. Rồi họ ăn và họ ngủ trưa. Những người tò mò, không ngủ, theo dõi cực hình qua cửa sổ.
– Em còn sức chịu đựng không, Lan?
– Còn, chị ạ !
– Bao lâu?
– Em không hiểu, nhưng em cố gắng.
– Chừng hết chịu nổi, em cho chị hay nhé!
– Để làm gì, chị Nga?
– Chị đầu hàng họ để em sống.
– Cám ơn chị.
Nắng toa rập với thù hận trừng phạt chúng tôi. Mồ hôi tôi toát ra. Đầu tôi như bị úp cái vun nóng ran. Tôi khát nước. Tay tôi mỏi đơ và chân cũng mỏi đơ.
– Lan này, em có nghĩ ngày nào đó em sẽ trốn khỏi Việt Nam không nhỉ?
– Em chưa hề nghĩ.
– Nghĩ đi.
– Em đã tự hỏi em nhiều lần, rời Việt Nam, em sẽ là cái gì ? Vâng, cái gì xa lạ, rỗng tuếch, buồn bã. Em không thích phiêu lưu trên dòng sông nước mắt mà bờ bãi chỉ là hiu quạnh, ưu phiền.
– Phải đi để đọc Bài diễn văn mơ ước, em ạ!
– Vinh dự ấy, xin dành riêng cho chị.
– Cho mọi người. Cái ta nhỏ bé quá. À, lúc này em mơ ước gì?
– Chị không chết.
Chị Nga cố khơi chuyện để tôi quên cực hình, dù chị đã thấm đòn thù. Tôi xoay cổ mấy lần, không thấy được mặt chị. Người ta hằng nói về thiên thần. Tôi nghĩ thiên thần chỉ là chị Nga, thiên thần đeo trên giây kẽm gai vẫn nói chuyện thân ái.
– Em chưa biết số nhà của chị, phải không?
– Vâng.
– Đường Lê Văn Hưu, số 158, quận 1. Căn nhà độc đáo nhất phố nhờ cái cổng như cổng chùa. Trong vườn có cây me lớn. Em sẽ gặp mẹ chị. Nói với mẹ chị là chị đã sống thật hạnh phúc từ khi xa nhà. Chị có người bạn trai đang ở trại cải tạo Nam Hà. Có thể anh ấy đã về rồi. Em nói với anh ấy rằng chị xin lỗi nhiều…
Chị Nga xúc động quá, ngừng lại. Tôi đã khô cổ họng, rã rời thể xác rồi. Mắt tôi hoa, nhìn cái này ngỡ cái nọ. Rồi mờ di. Tôi thật sự chìm vào ác mộng.
– Lan! Lan!
Tôi giật mình.
– Em hết chịu nổi chưa?
Câu hỏi của chị Nga như xô nước lã ai vừa tưới khắp mình mẩy tôi. Tôi hớp miếng nước tưởng tượng và tỉnh táo lạ thường.
– Em, em chịu đựng mãi mãi…
Và tôi la hoảng:
– Chị đừng đầu hàng!
– Lan!
– Dạ.
– Em nhớ nhé. Không bao giờ được phép quên nhé, điều chị sắp nhắc lại với em.
– Vâng, em nhớ.
– Làm lại quê hương chúng ta, làm lại trái đất bằng những trái tim không vấn vương quá khứ thù hận, không dính líu hiện tại ủ ê.
– Em nhớ, em nhớ…
Chị Nga không nói thêm. Nắng xoáy xuống thân thể tôi bỏng rực. Giá tôi được ngắm khuôn mặt chị Nga để chiêm ngưỡng chị và để hình tưởng khuôn mặt tôi thảm não, ghê rợn. Tôi cạn hết cả nước miếng, há hốc miệng cho gió lùa vào. Kẻng tù báo thức. Tôi mơ hồ nghe hồi chuông cáo phó. Nắng đốt da mặt tôi. Tôi nhắm mắt. Và tôi hết cảm giác. Tiếng nói tù nhân ồn ào trong sân trại cơ hồ những tiếng âm y từ địa ngục vọng lên. Một chút tôi tỉnh, nhiều chút tôi mê sảng. Tôi muốn mở mắt mà chẳng tài nào mở nổi. Cho đến lúc tôi thấy tôi bị kéo mạnh, ngón chân không còn chạm đất, mình mẩy cọ sát giây kẽm gai thì cảm giác của tôi hoàn toàn bị tê liệt.
Khi tôi mở mắt, cảm giác đầu tiên của tôi là tôi biết tôi chưa chết. Dần dần, tôi biết tôi đang nằm trên chiếc giường sắt của bệnh xá. Tôi đưa tay phải rờ rẫm cổ tay trái. Đau buốt. Có miếng băng keo vải dán lên chỗ đau. Người ta đã tiếp nước biển cho tôi. Tôi không thể mở mắt lâu hơn vì mắt tôi còn yếu lắm.
– Chị uống một miếng sữa nhé!
Cô ý tá của trại – bạn tù của chúng tôi được gọi lên làm việc tại bệnh xá – nhỏ nhẹ nói bên tai tôi.
– Chị nên uống một miếng sữa. Em đã pha sẵn. Để em đỡ chị dậy.
Cô nâng tôi ngồi dậy và cầm ly sữa cho tôi uống. Sau đó, cô mời tôi uống nửa ly nước lạnh rồi dìu tôi nằm xuống.
– Tôi đã nằm đây lâu chưa, em?
– Thưa chị, hai ngày.
– Những chuyện gì đã xảy ra?
– Chị nằm nghỉ đi. Những vết trầy ở mình mẩy, tay chân của chị, em đã rửa sạch và thoa thuốc sát trùng.
– Còn chị Nga?
– Chị nằm nghỉ đi. Thương em một chút chứ…
Tôi cũng chẳng nhớ bao nhiêu ngày thì tôi mở mắt hết mỏi và có thể ngồi dậy một mình, ăn cháo không cần sự giúp đỡ của cô y tá. Hình như phải mất tuần lễ. Tôi đã nhìn rõ những vết giây kẽm gai xước sát, bôi đầy thuốc đỏ trên tay tôi, chân tôi, thân thể tôi. Cái dấu còng ở cổ tay phải vẫn tím bầm. Tôi muốn đừng bao giờ nó tan. Bây giờ, tôi hồi tưởng những việc đã xảy ra… Chị Nga chết rồi. Chị đã chết trong những khoảnh khắc mê sảng của tôi. Lúc tôi thấy ngón chân mình hết chạm mặt đất là lúc chị Nga rũ đầu, và chị nặng hơn bình thường. Sức nặng của xác chết đã kéo tôi lên cao thêm. Chị Nga đã kéo tôi lên cao thêm. Chị mong ước tôi còn cao thêm nữa. Nước mắt tôi ứa ra…
Qua màn nước mắt, tôi thấy cái cachot ở khu A cửa đề lao Gia Định, nơi ấy, hai chiếc còng Mỹ đã siết chùm ba đứa chúng tôi 52 ngày đêm, nơi ấy, chị Nga đã ứng khẩu đọc «Bài diễn văn sẽ đọc trước quốc hội Mỹ», nơi ấy, chị Nhi đã chết trong đoạn nào của bài diễn văn mà tay vẫn đeo còng. Tôi thấy cái phòng trừng phạt của nhà thương điên Chợ Quán, nơi ấy, chị Nga đã giả vờ điên nhiều tháng vất vưởng. Chúng tôi thật nhiều kỷ niệm về nhau, cho nhau. Kỷ niệm cuối cùng với chị Nga tôi có ở hàng rào giây kẽm gai trại tập trung đàn bà Long Thành, nơi ấy, chúng tôi bị còng chung một chiếc còng Mỹ, bị treo lên và chị Nga đã chết trong cơn hôn mê nắng quái của tôi.
Và tôi còn nằm lại, còn nằm trên cái hoang liêu của nửa đường hệ lụy. Để thương xót hơn là giận hờn. Để thương yêu chứ không thù hận. Chị Nga chết đẹp lắm dù người ta đã chỉ định một cách chết quá tồi tệ cho chị. Sử Gia quả quyết «Người chân thật sẽ chết thảm». Điều này đúng, hoàn toàn đúng. Nhưng «trước khí dẫy chết, người chân thật sẽ phô bày sự giả dối» thì hoàn toàn sai. Sử Gia đã sai, chủ nghĩa cộng sản của ông ta đã sai. Cái thiện luôn luôn song hành cái ác. Nó đã đi bằng tiểu thuyết TâyDu. Nó chính phục cái ác. Cuối cùng, nó leo lên đỉnh mơ ước. Nó đến Tây Trúc thỉnh bằng được cái chìa khóa giải thoát sự u mê của con người. Nó cũng đi bằng hiện thực. Nó đang đi và nó phải tới đích. Một mai, tôi nghĩ không còn là chuyện trăm năm, cái thiện toàn vẹn sẽ bước qua khải hoàn môn của nhân loại và, đằng sau nó, cái ác hoàn lương, sám hối đã biết mỉm cười trong hạnh phúc.
Chị Nga chết đau đớn nhưng không bất hạnh. Tôi biết rõ nấm mồ cửa chị nơi nào. Còn mồ của chị Nhi, tôi sẽ phải tìm kiếm. Hai người bạn tù của tôi, một người chết trong bóng tối, một người chết ngoài ánh sáng. Bóng tối và ánh sáng của những cái ác toa rập. Trong cái ác toa rập như cái lưới kẽm gai nhọn hoắt chụp bủa thế giới, chụp bủa quê hương yêu dấu của tôi, một đóa hoa Nhân Ái Việt Nam đã nở. Ý nghĩa của đời sống cao thượng đã tỏa ra từ nơi thống khổ không còn gì để so sánh. Mấy năm qua, tôi đã nghĩ sẽ tìm đến mộ của chị Nhi, cắm lên bia mộ của chị một chiếc còng Mỹ. Bây giờ tôi quên còng Mỹ, quên ngục tù Cộng Sản. Tôi sẽ đặt lên mộ chị Nhi một vòng hoa hồng thắm. Tôi sẽ đặt lên mộ người thiện và kẻ ác những vòng hoa hồng thắm.
Tự nhiên, tâm hồn tôi bay bổng…
Chương XV
Một tháng sau người ta gọi tôi lên văn phòng giám thị. Từ hôm chị Nga bị xử tử không một phát súng ân huệ, tôi được nằm dưỡng sức ở bệnh xá. Cô y tá tù Đan Chi đã sẵn sóc tôi tận tình. Cô thường hát cho tôi nghe những bản Tù Ca mà cô học thuộc khi luân lạc ở các quần đảo Phước Long, Xuyên Mộc, Hàm Tân. Có bao nhạc sĩ tù nhân đã sáng tác. Họ hát trong cachot, trong connex… Họ bị phát vãng miền Bắc trở về Nam. Những bài Tù Ca lãng mạn, đẹp như trăng sao, không hận thù máu lửa, không lưỡi lê đòi trả nợ. Người Việt Nam nghìn năm mơ mộng, cao thượng. Chân đeo cùm vẫn yêu thích ca dao.
Đan Chi nhìn tôi, mỉm cười âu yếm:
– Lần này, chị sẽ may mắn đấy.
Tôi nắm chặt tay Đan Chi:
– May mắn hay không may mắn cũng thế thôi, em ạ! Chị quen rồi… Cám ơn em nhiều. Chị nhớ em mãi mãi.
Sử Gia đang ngồi chờ tôi. Ông ta có vẻ buồn bã. Giọng trầm hẳn xuống, ông ta nói:
– Tôi rất tiếc.
Tôi im lặng.
– Cô hiểu chứ, tôi rất tiếc.
Tôi vẫn im lặng.
– Hôm nay, tôi chứng minh lời hứa của tôi. Cô được trả tự do.
Như pho tượng, tôi ngồi bất động. Sử Gia muốn nói nhiều, tưởng sẽ nói nhiều và ngỡ rằng tôi sẽ thích thú tranh luận với ông như những lần trước. Nhưng ông ta thiếu may mắn. Tôi đã dửng dưng tất cả. Ông ta đưa cho tôi hai tờ Giấy Ra Trại, bảo tôi ký tên góc bên trái, cuối trang. Tôi cầm bút, uể oải ký. Sử Gia giữ một tờ, tôi một tờ.
– Cô cất kỹ, mất thì phiền phức lắm. Cô phải trình diện chính quyền địa phương. Sau vài thủ tục tạm trú, cô sẽ trở về đời sống bình thường. Bây giờ cô về thu xếp hành lý rời trại. Người ta sẽ phát tiền xe cộ cho cô.
Tôi nhìn Sử Gia không chớp mắt:
– Có thật tên ông là Nguyễn Bình Nam không?
Sử Gia gật đầu:
– Phải, tên cúng cơm của tôi đấy.
– Khi ông chết, ông di chúc cho vợ con chôn ông ở đâu?
– Xã Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
– Cám ơn ông, tôi sẽ ra Bắc đặt lên mộ ông một vòng hoa hồng thắm.
Và tôi đứng dậy, rời văn phòng giám thị. Người ta bắt tôi phải rời trại khẩn trương. Lúc này, các đội đang lao động ngoài bãi. Tôi đi chào các chị em bệnh hoạn làm việc trong trại. Đan Chi cho tôi bộ quần áo mới. Tôi từ chối. Tôi muốn mặt bộ quần áo cũ của tôi. Ngày vào tù quần áo nào, ngày ra tù quần áo ấy. Tôi yêu sự tơi tả của bộ quần áo kỷ niệm của tôi. Nó theo tôi từ buổi sáng ngày 6 tháng 2 năm 1976 và nó về với tôi cũng buổi sáng ngày 24 tháng 12 năm 1982. Suýt soát 7 năm tù đày! Kiểm soát lại xem còn thiếu sót gì không? Tôi nhờ Đan Chi nói với chị Thanh rằng tôi tha thiết chờ đợi xem phim O’cangaceiro của chị. Đan Chi ôm chặt lấy tôi. Bùi ngùi…
Bước qua cổng trại, tay xách cái bị cói, đi một quãng, tôi nhìn lại Long Thành, nhìn lại hàng rào giây kẽm gai, nơi chị Nga đã chết treo tay trên đó. Giã từ ngục tù nhỏ, tôi về ngục tù lớn. Gió sớm mát rượi. Tôi lúng túng bước đi. Văng vẳng đâu đây, những lời ca mượt mà theo nhạc đêm của muôn loài chim êm ái.
«Tôi ca ngợi tôi
Ngụp giữa biển đời
Sóng gầm bão nổi
Tôi vẫn là người…»
Tôi mỉm cười. Dưới những tầng địa ngục, tôi đã lên đời chói lọi. Tôi vẫn là tôi. Tôi vẫn là người.
DUYÊN ANH
Sungai Besi, Malaysia
13-9-1983