Nguồn: baovecovang/wordpress.com
Chương 1
QUÁN NHẬU BÊN DÒNG SÔNG VÀM CỎ TÂY.
Con sông Vàm Cỏ Tây phát nguồn từ phía đông nam lãnh thổ Campuchia. Đồng bào Miên gọi là Stưng Svay Riêng. Nó phân làm hai nhánh, chảy song song dọc theo biên giới Việt – Miên. Nhánh chảy vào lãnh thổ Việt Nam qua con rạch Long Khốt, hai nhánh sông nầy hợp lưu tại địa phận cách thị xã Mộc Hóa khoảng 12 cây số – vùng Đồng Tháp Mười – để cùng chảy vào sông Vàm Cỏ Tây.
Con sông Vàm Cỏ Đông – bắt nguồn từ Kâm Chây Méa – chảy ngang qua Tây Ninh, Gò Dầu Hạ. Hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây hợp lưu tại địa phận Cần Đước để cùng chảy vào sông mẹ Vàm Cỏ, đổ ra biển Đông qua cửa sông Soai Rạp.
Vào khoảng giữa thập niên năm 30. Lúc bấy giờ, chưa có đường bộ đi vào Đồng Tháp Mười mà phải dùng đường sông Vàm Cỏ Tây. Mỗi ngày, có hai chuyến tàu đò khứ hồi chở hành khách, hàng hóa thư tín…từ Tân An vào Mộc Hóa, một quận hành chánh của vùng Đồng Tháp (dưới thời Đệ nhất VNCH, Đồng Tháp Mười có tên là Kiến Tường và Mộc Hóa là quận Châu Thành của tỉnh nầy).
° ° °
Tàu chạy ngược dòng sông Vàm Cỏ Tây vô Mộc Hóa, một vùng đất rộng người thưa; thỉnh thoảng, người ta bắt gặp những khu rừng tràm ngút ngàn. Rừng tràm Đồng Tháp Mười là một tài nguyên bao la và phong phú của Miền Tây Nam Việt mà đất bỏ hoang không có người canh tác cũng rất nhiều nên cảnh vật hai bên bờ sông hoang dã, tiêu sơ, cây bần, mù u, dừa nước, lau sậy, cốc kèn…mọc chen lẫn nhau thành rừng. Một vài thôn xóm lẽ loi với với vài căn nhà lá xác xơ trên bờ. Cứ mỗi lần nghe tiếng máy tàu nổ xìn xịt trên sông là bọn trẻ con trong nhà chạy ùa ra bờ sông, chăm chú nhìn theo con tàu.
Khi tàu chạy được một phần ba sông là tới vàm Kinh Ngang và con kinh Trà Cú tiếp nối với Kinh Ngang làm thành một con kinh dài, nối liền hai con sông Vàm Cỏ Tây và Vàm Cỏ Đông. Trước đây lúc chưa có kinh đào nầy, dân thương hồ muốn chuyển hàng tuế nhuyển, cá khô, đường thốt lốt, kể cả hàng quốc cấm như thuốc phiện …từ miệt Kâm Pong Chàm vào vùng Đồng Tháp Mười để buôn bán, họ phải dùng đường sông Vàm Cỏ Đông, xuôi dòng xuống Tây Ninh, Gò Dầu Hạ rồi đến Tây Ninh. Và từ đây, họ vào con sông Vàm Cỏ Tây chèo ngược lên Mộc Hóa. Nay nhờ có Kinh Ngang – Trà Cú đã rút ngắn được thủy trình từ Vàm Cỏ Đông chèo tắt qua sông Vàm Cỏ Tây để vào vùng Đồng Tháp Mười dễ dàng hơn, rút ngắn được thời gian cũng vài ba ngày. Nhờ vậy, vùng vàm Kinh Ngang bỗng trở nên trù phú vì đồng bào địa phương ở các vùng lân cận, tụ tập về đây hợp thành một cái chợ nhỏ để buôn bán và trao đổi hàng hóa với dân thương hồ. Một vài quán nhậu và tiệm chạp phô được lên để dân thương hồ tiêu tiền, mua thực phẩm, rượu đế hoặc những vật dụng cần thiết để chuẩn bị cho cuộc hành trình kế tiếp.
Đời sống của dân thương hồ đều tùy thuộc vào con nước lớn, nước ròng. Khi con nước bắt đầu lớn, có người cắm sào chờ con nước sau, ngược lại có kẻ nhổ sào ra đi về bến khác. Có người cất hàng lên ghe hoặc hay xuống hàng ở bến. Ghe xuồng khá tấp nập, ngược xuôi tại vàm Kinh Ngang.
Buổi chiều, khi mặt trời lặn là sinh hoạt về đêm bắt đầu. Các quán nhậu thắp đèn “măng song” sáng trưng. Những món đặc biệt địa phương như rùa, rắn, lươn ếch, cua đinh, chim cò…được chế biến thành món nhậu được dân thương hồ ưa thích. Những người già và thanh niên quanh vùng cũng thường hay tụ tập về đây, say sưa nghe họ kể cho nhau nghe kiếp sống thương hồ lênh đênh đầy sóng gió và nói cho nhau nghe những kinh nghiệm mà họ đã từng trải qua để tránh né hiểm nguy.
° ° °
MÙA XUÂN NĂM CANH THÌN 1940.
Một nhóm bạn thương hồ trên mười người, đủ mọi lứa tuổi, ngồi những cái ghế đẩu thấp lè tè, chung quanh mấy cái bàn gỗ ọp ẹp kê sát vào nhau, vừa nhâm nhi mấy lít đế, nhậu với một dĩa ếch xào lăng và chuột ướp sả nướng lửa than. Mồi nhậu thật đơn giãn chỉ có thế, nhưng không khí trên bàn tiệc thật ồn ào, vui vẻ, rượu vào lời ra. Bỗng bác Năm Hứa, người lớn tuổi nhứt ngoài lục tuần, nhưng dóc dáng còn khỏe mạnh, tay chân gân guốc, mân mê ly rượu đế, hỏi bâng quơ:
– “Tụi bây là dân thương hồ tứ xứ, xuôi ngược sông Tiền, sông Hậu như đi chợ. Vậy, tao đố tụi bây, khúc sông nào nguy hiểm nhứt nè?”
Chú Ba Khị cười, nói:
– “Tía má tui sống bằng nghề buôn bán trên sông, thương hồ là cái nghề cha truyền con nối. Tui ra đời cũng ở trên chiếc ghe cà dom nầy tại một vùng giáp nước, nơi gặp gở của ba dòng sông: Gành Hào, Đầm Dơi và Bảy Háp. Lên 10 tuổi là tôi biết phụ chèo với tía má. Đời sống dân thương hồ lênh đênh trên sông nước, gạo chợ nước sông, buồn thấy mẹ! Hễ cập bến nào là nhậu “quắt cần câu” mới thôi, nhứt là khi tía má tui qua đời, tui còn nhậu bạo hơn nữa. Cách đây hai năm, tui neo ghe dưới chưn cầu tàu lục tỉnh bên hông nhà lồng chợ CầnThơ ngủ qua đêm. Quá nửa đêm, chiếc ghe bị sóng nhồi làm đứt dây neo; không may, gặp con nước ròng, chiếc ghe trôi dạt ra vàm sông Cần Thơ. Vùng nước xoáy tại ngã ba sông vô cùng nguy hiểm, nước xoáy cuộn vòng nghe ào ào như lấy một cái dầm quậy ở trong một cái chão đụn đầy nước, nó đã nhận không biết bao nhiêu ghe tàu xuống đáy sông sâu,” chú Ba Khị ực một hớp rượu đế, rồi khà một cái thật sảng khoái, kể tiếp. “Bà con bên xóm chài kể lại rằng, dân chài lưới dùng dao khắc dấu ngày, giờ và địa điểm trên hai trái dừa khô, quăng ra vùng nước xoáy, nó bị cuốn hút xuống đáy sông mất dạng. Vài tiếng đồng hồ sau đó, một trái trôi tấp vào ấp Đông Bình ở cù lao Cát. Còn trái kia được một người thợ câu vớt được ở miệt Bò Hút gần xã Tân Lược, thuộc tĩnh Vĩnh Long, cách vàm sông Cần Thơ khoảng 20 đến 30 cây số lận, chớ không gần đâu. Thời may, lúc chiếc ghe cà dom của tôi sắp trôi vào vùng nước xoáy thì anh Năm Dậu, cũng là dân thương hồ từ miệt Cái Côn chở hàng lên chợ tỉnh CầnThơ. Thấy nguy, ảnh liều mạng chèo ghe, phăng ra gần giữa dòng sông, chận chiếc ghe của tui lại, đồng thời đánh thức tui dậy, may mà còn kịp chèo ghe tấp vô bờ. Thiệt hú hồn, hú vía!”
– “Thằng Ba Khị nói đúng đó!” bác Năm Hứa góp lời. “Sau khi mấy chiếc ca nô của thành hải quân Tây bị nhận chìm, sở Trường Tiền Cần Thơ liền huy động khoảng mười chiếc xa lan từ núi Sam chở đá núi về, đổ xuống giữa dòng nước xoáy, nhờ vậy mới đở nguy hiểm cho ghe tàu khi qua lại trên khúc sông nầy.”
Chú Ba Khị nói:
– “Dòng họ mấy đời của anh Năm Dậu ở làng Phú Nhơn, gần rạch Cái Đôi, ngang đầu cù lao Mây, anh kể cho tôi nghe nhiều chuyện huyền bí, linh thiêng về khúc sông Hậu nầy. Tui muốn kể ra đây cho bà con nghe chơi. Ai không tin thì thôi!”
Một thanh niên dân địa phương, sốt ruột nói:
– “Thì chú cứ kể đại mẹ cho tụi nầy nghe đi! Nói úp mở hoài vậy cha nội!”
Chú Ba Khị kể tiếp:
– “Theo lời anh Năm Dậu nói, căn cứ Hải quân của Tây tại vàm sông Cần Thơ đã phái nhiều toán thợ lặn mang bình hơi, xuống thám hiểm dưới đáy sông, nhưng tất cả đều chết mất xác. Nhiều bậc trưởng thượng bên Xóm Chài cho rằng đó long mạch của sông Cửu Long. Nhưng, dân sống về nghề hạ bạc thì cho rằng đó là hang của cặp cá “hồng vện” khổng lồ ăn thịt người. Người ta đồn rằng, cha con một người thợ lặn ở rạch Cái Cui sống về nghề thả lưới, giăng câu ở đầu cù lao Mây, cách vàm sông Cần Thơ khoảng 8 cây số. Họ thả một dàn lưới chì vào lúc trời vừa rạng đông trên sông Hậu, vì đó là thời gian cá “nhập đất” lội từng đàn dưới dáy sông. Chờ khoảng hai tiếng đồng hồ sau, cha con kéo giàn lưới lên để bắt cá, nhưng lưới bị vướn một vật gì đó dưới đáy sông, không kéo lên được. Người con trai bèn lặn xuống nước, coi lưới vướn vật gì để gỡ lưới ra. Nhưng, vừa lặn xuống nước chưa đầy 30 giây, người con vội vã trồi đầu lên, hối hả trèo lên ghe, nói: “Cái lưới vướn phải cái kỳ của một con cá khổng lồ, cặp mắt nó đỏ ngầu, bự bằng trái dừa khô.” Người cha không tin, nói: “Mầy sợ lạnh, không muốn lặn gỡ lưới thì để tao lặn cho mầy coi.” Người con khóc, nói: “Thôi, tía không tin để con lặn trở xuống. Nếu tía có bề gì, lấy ai lo cho má và mấy em con.” Nói xong, người con nhảy ùm xuống sông, không đầy một phút sau, máu đỏ ùng ục trào lên mặt nước. Bấy giờ người cha mới tin thì đã muộn, người con đã chui vào bụng cá hồng vện rồi!”
Một cậu thanh niên tuổi ngoài 30, nói:
– “Tôi là Út Cưa. Gia đình tôi theo nghề đóng ghe, xuồng cho bà con sống dọc theo sông Hậu. Ai ở miệt Trà Ôn đều biết tiếng trại ghe của ông Mười Lườn là trại ghe của tía tôi, nổi tiếng ngang hàng với trại ghe chú Sáu Danh, Năm Bản ở Trà Ôn, trại ghe ấp Thanh Vân ở xã Thanh Bình, quận Vũng Liêm, và các trại ghe nổi tiếng khác của tỉnh Vĩnh Long. Tôi nghe ông nội tôi kể lại một vài câu chuyện rất huyền bí về cù lao Mây, ” Út Cưa vấn một điếu thuốc rê to bằng ngón tay cái, liếm ướt tờ giấy quyến rồi vo tròn lại đưa lên môi, bật diêm quẹt đốt, phì phèo một vài hơi, kể tiếp. “Cù lao Mây vào thời ông cố nội của tôi cũng nhỏ thôi, bề dài khoảng 4, 5 cây số. Đầu cù lao Mây ngang ấp Phú Nhơn, đuôi cù lao mấp mé ngang quận Trà Ôn, chớ không rộng lớn như bây giờ đâu. Vào thời đó, cù lao Mây được bao bọc bởi cây bần, mù u, dừa nước để giữ phù sa… vì ngập nước quanh năm nên lau sậy, năn, lác… đua nhau mọc tràn bờ. Cá, cua đinh, rùa, rắn… sinh sản từ đời nầy sang đời khác nhiều vô số kể. Dưới nước cá sặc rằn to bằng bàn tay, lội xanh cả nước. Trên trời đủ loại chim muôn như gà nước, cò, vạc, le le, trích, diều, quạ… tụ tập về đây xây tổ. Nhưng, dân địa phương không dám bén mảng đến cù lao Mây để giăng câu, đặt lờ, hoặc săn bắt chim trời vì cá sấu tập trung về cù lao nhiều lắm và trở thành mối ám ảnh kinh hoàng của dân thương hồ. Vào mùa nước nổi, từng bầy cá sấu theo con nước, trườn lên bờ bắt cả trâu bò, heo và cả người nữa. Vậy mà, chỉ sau một đêm mưa đầu mùa, sấm chớp nổi dậy đùng đùng, rồi một phần đất đuôi cù lao Mây, dài cả cây số bị sạt lở rồi chìm xuống đáy sông Hậu biến mất hẳn, thiệt là kinh dị! Đêm đó, bà con theo nghề đóng đáy ở cửa sông Trần Đề và Định An trông thấy một cuộn mây đen hình dáng con rồng uốn khúc từ trong đất liền bay ra biển Đông. Thiên hạ đồn ầm rằng “cù dậy” ở phần đuôi cù lao Mây, biến thành rồng bay ra biển. Khoảng 10 năm sau đó, phần đuôi cù lao Mây mới nổi lên lần nữa, được phù sa sông Cửu Long bồi đấp dần, cho đến đời tôi chiều dài tròm trèm gần 16. 17 cây số và bề ngang chỗ phình ra rộng nhứt gần 2 cây số. Tuy vậy, không có ai dám cất nhà, lập ấp trên cù lao Mây, chỉ có vài bà con ở ấp Phước Thuận, Khánh Hội bên miệt Cần Thơ, còn bên miệt Trà Ôn thì có ấp Trà Môn, Trà Kiết là dám mò đến cù lao Mây khẩn hoang làm ray. Sáng chèo ghe đến, tối chèo ghe về, không có dám ai ở qua đêm.”
Một người dân địa phương hỏi:
– “Con cù là con gì vậy? Hình dáng của nó ra làm sao hả, chú Út Cưa?”
– “Con cù cũng như con rồng chỉ là truyền thuyết mà thôi! Thật sự, có ai thấy nó tận mặt bao giờ đâu nà,” Út Cưa nói. “Sau khi một phần đất dưới đuôi cù lao Mây đột ngột biến mất dưới lòng sông Hậu. Cậu Trạng ở xóm “Chùa Móp” đạp đồng lên nói rằng: Ở dưới cù lao Mây, có một con “giao long” tu luyện ngàn năm. Nay tới giờ thiêng, nó hóa thành rồng bay ra biển đông nên mối xảy ra hiện đất sụp ở cù lao Mây. Qua chỉ biết có vậy mà thôi!”
– “Chuyện nầy thiệt là huyền bí hả, chú Út!” anh ta hỏi tiếp. “Trại ghe của gia đình chú chuyên đóng loại ghe gì vậy?”
– “Trại ghe của tía tôi chuyên đóng đủ các loại ghe xuồng từ xuồng ba lá, năm lá, ghe tam bản có thể chở đến 20 giạ lúa cho đến ghe chài loại lớn chuyên chở trên 15 tấn lúa, loại trung chở khoảng 5, 10 tấn hàng hóa rất thích hợp cho dân thương hồ buôn bán trên sông nước. Đồng bào sống gần miệt duyên hải rất thích loại nầy. Năm rồi, bà con trong xóm Rạch Già và Bà Keo trên cù lao Dung đặt đóng trên 10 chiếc ghe,” Út Cưa nhìn ra bờ sông chỉ chiếc ghe của mình, khoe. “Chiếc ghe chài đang cắm sào gần cây cầu ván là của tía tôi cho, đóng toàn bằng gỗ sao, chịu nước hết sẩy à nghen, mấy cha!”
Ông Năm Hứa hỏi:
– “Làm nghề đóng nghe khắm khá như vậy, sao chú mầy không ở nhà cho sướng cái thân? Cái nghề thương hồ sống lênh đênh trên sóng nước, rày đây mai đó, gạo chợ nước sông có cái gì hấp dẫn đâu chớ?”
Út Cưa cười, nói:
– “Sướng cái gì chú Năm ơi! Gia đình tôi có bốn anh em, tôi là con út độc thân chửa vợ, được ông già tía giao cho nhiệm vụ cưa cây. Ngày nào chí những ngày nấy, từ sáng đến chiều đứng trên giàn cưa vừa mệt, vừa chán. Đã vậy mà còn bị mấy em trong xóm, chọc quê nữa chớ!”
– “Tụi nó chọc quê chú làm sao? Nói nghe thử coi!”
– “Tụi nó chọc quê tui như vậy nè: “Ai ơi chớ lấy Út Cưa / Kéo lên, đẩy xuống dái đưa lòng thòng” Vì vậy, tôi chọn nghề thương hồ, có dịp đi đây, đi đó cho thỏa chí tang bồng. Ông già tôi chấp thuận với điều kiện là khi nào tôi mà kiếm được cô gái nào ưng ý, trở về trại đóng ghe, tiếp tục nghề cưa cây giúp gia đình.”
– “Tao chỉ sợ chú mầy cưới vợ rồi, dái thòng tới đầu gối, còn sức đâu mà kéo cưa cho ông già tía của chú chớ!” ông Năm Hứa nói.
Một thanh niên còn trẻ vóc dáng lực lưỡng, nước da ngâm đen, hình như là đồng bào Việt gốc Miên thì phải. Anh ta lên tiếng:
– “Nhà tôi ở xóm Vàm, ngay đầu con kinh Trà Vinh chảy ngang qua thị xã. Cù lao Bàn nằm vắt ngang qua đầu vàm. Xóm Sông Cái có một cái miếu “Thủy thần” ở đầu cù lao Bàn rất linh thiêng. Không biết dân ở vàm sông Láng Thé thuộc xã Long Đức, tỉnh Trà Vinh lập miếu thờ thủy thần lúc nào thì tôi không được rõ. Nhưng, tôi biết khúc sông Tiền khoảng giữa cù lao Quới Thiện và cù lao Bàn. Và từ vàm sông Láng Thé chèo ghe băng ngang qua sông Tiền tại khúc sông nay, có chỗ rộng gần 3 cây số lận. Khúc sông nầy có một cặp “ngỗng thần” lông trắng như tuyết, lâu lâu nó mới xuất hiện một lần. Có duyên lắm mới thấy nó bơi lội, vỗ cánh đùa giỡn trên mặt sông. Tôi thấy nó xuất hiện một lần hồi còn nhỏ, đến bây giờ vẫn còn sợ. Sau khi đùa giỡn, vỗ cánh trên sông khoảng vài ba phút, cặp “ngỗng thần” lặn mất. Nhưng, không đầy nửa tiếng sau đó, những đợt sóng thần cuồn cuộn nổi lên, cao bằng nhà lầu hai, ba từng nhận chìm tất cả ghe tàu đang di chuyển khúc sông nầy,” anh ta nhìn mọi người, cảnh báo. “Khi nào các chú, bác có dịp buôn bán trên khúc sông, nếu thấy cặp “ngỗng thần” bất chợt xuất hiện, phải chèo ghe tấp vô bờ hoặc cù lao Bàn liền nghe! Nếu không thì dễ đi chầu hà bá lắm đó!”
– “Bây giờ muốn thấy cặp ngỗng thần nầy cũng hơi khó đó nghen,” chú Ba Khị cười, nói. “Mấy năm về trước, có lần tui ghé lại ấp Long Trị bên vàm sông Láng Thé, gia đình cậu Hai Sướng – anh ruột của bà già – có kể câu chuyện như vầy: Số là gia đình ông Hội Đồng Hào ở cù lao Quới Thiện, có một cậu con trai duy nhứt tên Hưng bị tật bẩm sinh, vừa câm, vừa điếc. Ông Hội Đồng Hào là vua keo kiệt, ăn ở thất đức; ngược lại, bà Hội Đồng rất rộng rải, hiền hậu, rất mực nhân từ, ân cần giúp đở mọi người. Một hôm, bà chở con đến chùa Âng là một trong những ngôi chùa cổ nhứt của người Việt gốc Miên ở tỉnh Trà Vinh để cúng Phật. Trên đường trở về nhà, khi chiếc ghe hầu chèo qua khỏi vàm Láng Thé, bà Hội Đồng thấy một ngư phủ đang bủa lưới trên đoạn sông nầy, bắt được một con cá chép vàng “khổng lồ” nặng trên 100 kí lô, thân mình phủ đầy vảy màu vàng óng ánh như vảy rồng. Bà Hội Đồng nghĩ con cá chép nầy sắp “hóa long” , nên bỏ tiền ra mua lại với giá 100 đồng, rồi bảo người ngư phủ nầy thả nó xuống sông. Con cá chép lượn vòng quanh ghe hầu của bà Hội Đồng ba vòng, rồi lặn mất. Tối đêm đó, bà nằm mơ thấy con rồng vàng cuộn mình từ dưới sông Tiền bay vào nhà. Nó há miệng nhả một hột châu màu đỏ như huyết vào miệng cậu Hưng, rồi biến mất. Sáng hôm sau, cả nhà ông Hội Đồng Hào vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng thấy cậu con trai bỗng dưng nghe và nói được. Bà bèn kể lại cho ông nghe lại câu chuyện “cá chép hóa long” và giấc chiêm bao kỳ lạ tối qua cho chồng nghe. Và từ đó, ông Hội Đồng Hào thay đổi cả tánh tình. Ông bán hết một phần gia sản để giúp đở những người nghèo. Còn cặp ngỗng thần tác oai, tác quái trên khúc sông nầy, vĩnh viễn không còn xuất hiện nữa. Thế mới là ngộ chớ!”
Lắng tai nghe những bạn thương hồ kể cho nhau nghe những kinh nghiệm khi di chuyển trên sóng nước Cửu Long. Hai người đàn ông, một già một trẻ, đang ngồi bên
bàn kế cận cảm thấy hứng thú, cầm chai rượu đế qua tham gia. Ông bác già tự giới thiệu:
– “Qua là Tám Cao. Cha con chúng tôi theo nghề hạ bạc, gốc gác ở xã Tân Huê trên cù lao Tây. Nhưng, sau một tai nạn khủng khiếp trên dòng sông Vàm Nao cách đây 7, 8 năm trước, tôi phải bỏ nghề “đâm hà bá” , xoay qua làm nghề buôn bè.” Tám Cao vén tay áo bà ba đang mặc, chìa ra cánh tay trái bị tàn phế cho mọi người xem rồi nói. “Tôi đã bị con cháu của ông “Năm Chèo” táp, làm một phần của cánh tay trái bị phế tật đây nè!”
Một người dân địa phương hỏi:
– “Bác Tám nè, con sông Vàm Nao ở đâu vậy bác mà ghê gớm vậy cà?”
– “Con sông Vàm Nao dài khoảng 7 cây số, nối liền sông Tiền với sông Hậu. Từ quận Tân Châu xuôi dòng sông Tiền, chèo ghe qua khỏi làng Phú Bình, ngang đầu cù lao Tây khoảng 8 cây số là đến sông Vàm Nao, rồi theo con sông nầy để băng qua sông Hậu để xuống miệt Long Xuyên hoặc lên Châu Đốc. Dòng sông nầy tuy ngắn mà nước xoáy ngầm rất mạnh, làm sạt lở đất hai bên bờ sông nên mỗi năm rộng thêm ra. Hồi đó tía tôi có kể lại rằng, tại cửa sông Vàm Nao có một con sấu lửa to lớn dị thường, da màu đỏ như lửa, lốm đốm bông hoa, có đến năm chân. Vì nó ăn thịt quá nhiều người nên thành tinh. Đồng bào quanh vùng gọi kiêng là ông “Năm Chèo” ! Những bậc tiền bối ở miệt Chợ Mới truyền khẩu với nhau rằng, con quái vật nầy do ông Đình Văn nuôi lúc nó mới nở, bự bằng con kỳ đà. Mười mấy năm sau đó, khi ông Đình Văn qua đời. Nó bứt đứt xiềng xích, thoát ra sông Tiền trong một đêm mưa dông.”
Một thằng bé ngồi chồm hỗm dưới đất, đang lắng tai nghe kể chuyện, hỏi:
– “Ông “Năm Chèo” còn ở dưới sông Vàm Nao hay đã bỏ đi nơi khác rồi hả, ông Tám?”
– “Vì con thủy quái nầy ăn thịt quá nhiều người tại khúc sông nầy nên ông Bá hộ Giàu ở gần miệt Chợ Mới treo giải thưởng: Ai mà giết được ông “Năm Chèo” sẽ được trọng thưởng 20 lượng vàng ròng.”
– “Chỉ có 20 lượng vàng thôi sao?” thằng bé nhún vai, nói. “Dầu có thưởng 50 lượng vàng, con cũng không dám đụng tới ông “Năm Chèo” , sợ không còn cái mạng để xài số vàng nầy à nghen, ông Tám!”
– “Tại cháu không biết đó thôi! Thời giá bây giờ, một mẫu ruộng chưa đáng giá 3, 4 lượng vàng,” Tám Cao kể tiếp. ” Tin ông bá Hộ Giàu treo giải thưởng được đồn ra nhanh chóng khắp miền lục tỉnh. Độ nửa tháng sau, có một tay săn cá sấu chuyên nghiệp ở rạch Cà Bơ He (rạch sấu lội) miệt Tân Bằng hay Cán Gáo gì đó, chèo ghe lên tìm giết Năm Chèo. Bà con nói rằng: chính tay nầy đã giết một con cá sấu khổng lồ cụt đuôi, đồng bào miệt sợ quá nên gọi kiêng là “Ông Cụt” , nỗi tiếng hung ác ở rạch Ba Đình gần miệt Chắc Băng và Cạnh Đền.”
– “Ông ta là ai mà tài quá vậy, ông Tám?” thằng bé hỏi.
– “Không ai biết tên thật của ông là gì. Chỉ nghe người ta gọi là Chín Rái, có lẽ tài lặn hụp dưới sông không thua gì rái cá miệt U Minh.”
– “À, ông Chín Rái thì tôi biết!” cậu Hưng, một người dân thương hồ còn rất trẻ, nói. “Dân miệt sông Ông Đốc không còn ai lạ gì danh tiếng của ổng. Chín Rái là biệt danh mà thôi, còn tên thật là Mạc văn Ngư, có họ hàng với bên ngoại tôi. Nhà của ông ở làng Đất Cháy. Gia đình ông ngoại của tôi ở Xóm Giáp Nước, đều là dân ở gần miệt “Đầm Đồng Cùng” là một vùng nê địa, ngập nước quanh năm rất nguy hiểm, kinh rạch đan nhau chằng chịt như mạng lưới, rừng rậm mịt mù đủ mọi động vật hoang dã như rắn hổ mang, mái gầm và trăn rừng bự bằng cái cột nhà, nhiều nhứt là cá sấu lội lội lềnh như bánh canh thì phải biết. Người dân địa phương có câu: “Đầm Đồng Cùng hoang vắng lạ lùng / Dưới đầm sấu nghé, trên rừngcọp um ” . Người ta đã chứng kiến nhiều trận đụng độ kinh hồn giữa sấu và cọp, hoặc cọp và trăn rừng khổng lồ.”
Một người dân địa phương đứng tuổi, nói:
– “Cả đời của qua sống gắn bó với vùng đất trũng Đồng Tháp Mười, chưa hề chèo ghe ra khỏi khu rừng tràm bạt ngàn nầy. Vậy, chú em nói cho qua nghe cái “Đầm Đồng Cùng” ở miệt nào vậy?”
– “Có hai ngã vào “Đầm Đồng Cùng” : từ Ngã Ba Đình phải chèo ghe theo con kinh xáng Thọ Mai lên, sẽ gặp con sông Đầm Cùng. Còn ngã thứ hai là từ ngoài biển đi vô cũng theo con sông Đầm Cùng và vào sâu trong đất liền khoảng 9 cây sẽ gặp đầu con kinh Thọ Mai và vượt qua khỏi vàm con kinh nầy trên một cây số là tới Đầm Đồng Cùng: chiều dài trên 8 cây số và nơi phình ra rộng nhứt trên 3 cây số. Phía trên đầm là làng Đất Cháy, phía dưới là xóm Giáp Nước. Đầm rộng mênh mông như cái Biển Hồ ở bên Cao Miên được thu hẹp lại là quê hương của cá sấu. Tưởng chừng mực nước sâu lắm, nhưng mực nước không nơi nào sâu quá hai thước khi thủy triều lên. Chung quanh đầm là những rặng dừa nước xanh ngắt, cây mù u, tràm, bần và cỏ lát… mọc tràn bờ. Khi nước thủy triều rút xuống, cá sấu nằm phơi mình, sắp lớp trên bãi sình đông như bầy cá thòi lòi. Về đêm, nghe cá sấu quậy nước đùng đùng, gọi bầy như đàn nghé, nghe thật rùng rợn. Chú Chín Rái là thế hệ thứ hai của di dân đầu tiên đến Đầm Cùng hoang vu để bắt cá sấu chuyên nghiệp. Con kinh Lung Cấm ngoằn ngoèo chảy từ đầm nầy vào kinh Thọ Mai gần Ngã Ba Đình dài khoảng 10 cây số là do dân bắt cá sấu mở đường mà thành.”
– “Chú em nói nghe lạ chưa? Hồi nào đến giờ qua chỉ nghe người ta nói, chỉ có voi đàn đi kiếm ăn lâu ngày thành đường mòn, thành lung; chẳng hạn như ở Rạch Giá có lung “Tắc Ráng” do voi bầy đi lại trên cánh đồng ráng mà thành đường mòn, “Láng Tượng” là nơi voi ở thành bầy hoặc “Giục Tượng” nơi voi thường đến phá hoại mùa màng. Chớ làm gì có sấu lội thành lung bao giờ.”
– “Ậy, nói ra thì không ai tin, nhưng thiệt là như vậy đó, mấy bác già ơi! Cư dân ở miệt “Đầm Cùng” không còn ai xa lạ gì nghề săn bắt cá sấu. Sau khi bắt được cá sấu, họ trói quặt hai chân sau của qua lưng theo kiểu trói thúc ké, lấy dây luộc khớp mỏ của nó lại rồi dùng dây mây rừng xỏ ngang mũi. Họ dẫn từng đàn cá sấu lội theo bè gỗ hoặc tràm, sấu lội bì bõm bằng hai chân trước theo người dắt, con đường nước cứ thế mà rộng dần ra thành con kinh Lung Cấm.”
– “Thịt cá sấu ăn được không? Tôi nghe thịt cá sấu nhậu cũng bắt lắm đó!” một bơm nhậu nói.
– “Người ta bắt cá sấu để bán bộ da của nó để làm giầy, làm bóp xách tay cho mấy ông Tây, mụ đầm ở Sài Gòn. Cá sấu có hai món quý là “nhứt bì, nhì đuôi” . Cá sấu mạnh nhứt tập trung ở phần đuôi, nó dùng đuôi để quật bể ghe xuồng để bắt người ăn thịt nên mấy bợm nhậu miệt vườn cho rằng: ăn thịt đuôi cá sấu sẽ tăng cường sinh lực. Tôi đã từng nhậu thịt cá sấu rồi, ngon khỏi chỗ chê,” anh ta ực một miếng rượu đế, rồi khà một cái thật thoải mái, nói. “Thịt sấu ngon hơn thịt gà là cái chắc, xương sụn rất dòn, có thể làm đủ món nhậu như nấu cà ri, xào lăng, đặc biệt là “thịt sấu nướng lửa than” , ông nhậu mà bà khen đó nghen, mấy cha!”
Bỗng bác Năm Hứa cắt ngang câu chuyện, nói:
– “Thôi, tụi bây giữ yên lặng để anh Tám Cao kể tiếp câu chuyện Chín Rái bắt ông Năm Chèo như thế nào cho bà con nghe!”
Tám Cao nhìn mọi người, kể tiếp:
– “Vừa tới Vàm Nao là Chín Rái bắt tay vào việc săn đuổi Nam Chèo ráo riết. Đêm cắm sào bên bờ lao sậy rình con mồi. Ông buộc một cái móc sắt vào đầu một sợi dây câu lớn bằng ngón chưn cái, móc sắt nầy được bó vào mình con vịt xiêm, thả nó bơi lội trên mặt sông. Con vịt kêu suốt đêm vì lạnh suốt ba đêm liền, nhưng không thấy Năm Chèo xuất hiện; có lẽ, mấy oan hồn nạn nhơn bị nó ăn thịt, báo động cho nó tránh cũng không chừng. Cuối cùng, Chín Rái phải chèo ghe dọc bờ sông Vàm Nao từ xã Kiến An đến ấp Mỹ Hòa miệt bên sông Hậu. Ông Chín Rái phát hiện một cái đầm sen bạt ngàn, nhưng thật hoang vắng tại cửa sông Vàm Nao, nằm bên miệt sông Hậu, ăn sâu đến ấp Trung trong đất liền khoảng 4, 5 cây số. Chín Rái thấy trên một bãi đất hoang vắng gần ấp Trung, một rừng đế sậy, cỏ lát, phi lau, cây cà xăng…bị ngã rạp xuống như bị trâu bò giẵm nát. Chín Rái sinh nghi, tắp ghe vô bãi sông, xăn quần lội vô bờ quan sát, thấy trên bãi bùn, vết sấu trườn ngang dọc, xương người, xương thú vật rải rác khắp nơi, còn phảng phất mùi hôi thúi xông lên, vì vậy mà dân cư vùng nầy không dám léo hánh đến khu vực đầm sen. Chín Rái đoan chắc đây là nơi trú ẩn của Năm Chèo liền vội vã nhảy xuống ghe, chống ra khỏi vùng đầm sen, hối hả chèo ra đầu vàm, đi vô xã Kiến An nằm bên hữu ngạn sông Vàm Nao, tìm mua một con chó mực khá lớn. Mua được chó rồi, Chín Rái tìm đến lò rèn ven bờ sông Tiền, nhờ chú Ba Sửu rèn một cây sắt tròn dài 6, 7 tấc thành một cây chĩa, mài giũa cả hai đầu thiệt bén, có ngạnh như mũi tên. Tìm đủ đồ nghề rồi, chờ đến xế chiều hôm sau, Chín Rái vác con chó mực vứt lên ghe, chèo trở lại chỗ cũ thì trời cũng chạng vạng tối. Ông ta dùng cây chĩa thọc huyết con chó mực, kéo lê xác nó lên một khoảng khá xa lên bờ; sau đó dùng cuốc đào một cái hố vừa đủ để cho mình ngồi xuống núp, xác con chó được đặt nằm vắt ngang trên miệng hố. Chín Rái ngồi thụp xuống hố, chỉ ló cái đầu nhìn ra khu đầm lầy. Chuẩn bị xong đâu đó thì mặt trời cũng vừa lặn, con trăng hạ tuần treo vắt vẻo trên bầu trời đầy sao, đang tỏa ánh trăng mơ hồ trên vùng đầm sen. Chín Rái bỗng nghe sóng gió nỗi lên ầm ầm trên mặt đầm, gió vi vút thổi làm những ngọn mù u, dừa nước…ngả nghiêng; hình như, có tiếng trẻ con cười the thé xen lẫn tiếng khóc tỉ tê, ai oán của đàn bà như tiếng cô hồn réo gọi văng vẳng trong gió…thì Năm Chèo xuất hiện, nó trườn thật nhanh lên bờ theo vết máu của con chó mực. Chín Rái ước chừng nội cái mình, không kể phần đuôi của Năm Chèo bự hơn cái xuồng ba lá, bất ngờ gió ngừng thổi, bốn bề yên lặng một cách ma quái, chỉ còn nghe tiếng sóng vỗ lao xao dưới mé đầm…”
Kể đến đây, Tám Cao bỗng đột ngột đứng dậy ra ao cá vồ đằng sau quán nhậu, làm mấy cậu thanh niên đang ngồi chòm hổm dưới đất, há hốc mồm theo dõi câu chuyện, bất bình, nói:
– “Câu chuyện kể đến hồi gây cấn mà bỏ đi đâu vậy, cha nội?”
– “Tao đi cầu một chút thôi mà,” Tám Cao quay đầu lại, nói. “Tụi bây muốn tao kể tiếp thì kêu cho tao một xị đế nữa đi, để tao còn lai rai chờ con nước lớn à nghen, tụi bây!”
Một lát sau, Tám Cao trở lại chỗ ngồi, thấy một xị rượu đế và một con khô sặc rằn bự bàn bàn tay để sẵn trên bàn. Tám Cao ngồi xuống ghế, xé một miếng khô bỏ vào miệng nhai nhóp nhép, rồi cầm xị rượu đế đưa lên miệng, tu một hơi hết một phần năm xị, rồi khề khà, kể tiếp:
– “Có lẽ máu chó mực ô uế làm cho những cô hồn nạn nhân của Năm Chèo tránh xa nó cũng không chừng? Có thể lắm! Con sấu to lớn dị thường bỗng chần chừ, cất cái đầu lên khỏi bãi đất bùn, quay cái mõm sang bên trái, bên phải, quan sát cẩn thận trước khi tiến đến xác con chó mực đang nằm chình ình phía trước mặt. Bất ngờ, nó trườn thiệt lẹ tới con mồi. Chín Rái ngồi dưới hố, thủ sẵn cây chĩa nhọn hai đầu, bình tỉnh chờ đợi. Và giây phút quyết liệt sống chết với Năm Chèo đã tới. Vừa lúc há mõm toang hoát, đỏ lồm, mùi hôi thúi bốc ra nực nồng, táp con chó mực. Chín Rái nhanh như chim cắt, tay trái kéo con chó mực qua một bên, tay phải cầm cây chĩa nhọn hai đầu, thọc thẳng đứng vào miệng của nó. Năm Chèo táp hụt con mồi, bị cây chĩa nhọn hai đầu đâm thủng cái mõm ngọt xớt. Chín Rái rút cánh tay phải ra kịp thời, ôm cây cuốc lăn ra khỏi miệng hố, đứng nhìn Năm Chèo nằm lăn lộn trên bãi cát bùn, gầm thét vang động trong buổi hoàng hôn, rồi nhanh chóng vung cây cuốc lên khỏi đầu, giáng mạnh xuống giữa đỉnh đầu của Năm Chèo. Lưỡi cuốc ngập hơn phân nửa và kẹt cứng trong cái sọ đầu của nó. Chín Rái cố giựt cán cuốc ra khỏi cái sọ đầu của nó và bị Năm Chèo hất tung lên, té nằm sóng sượt trên mặt đất. Năm Chèo mang cây cuốc trên đầu định chuồn xuống dưới đầm sen chạy trốn thì bị Chín Rái đứng dậy, chạy tới nắm cái đuôi kéo ngược lên bờ…”
Tám Cao là một người có năng khiếu kể chuyện; hễ kể tới đoạn gây cấn là đột ngột ngưng lại làm mọi người nôn nóng chơi. Ông chậm rãi thò tay trong túi áo bà ba, lấy ra một gói thuốc rê, đưa cho Hai Công – cậu con trai – vấn lại thành điếu cho cha. Tám Công vừa đưa lên môi, một câu thanh niên chạy ngay vô nhà bếp, gấp một cục than hồng cho ông đốt điếu thuốc, phì phà vài hơi để “câu giờ” , rồi kể tiếp:
– “Chín Rái cỡi lên mình Năm Chèo, một tay nắm chặt cán cuốc, một tay lấy con dao găm, giắt ở lưng quần, đâm vào hai con mắt của Năm Chèo làm nó bị mù, trườn bò lung tung trên bãi cát bùn cho đến khi kiệt quệ, cát bùn nhuộm máu của Năm Chèo làm nhầy nhụa cả một vùng rộng lớn trên đầm sen. Chín Rái chờ cho nó chết hẵn rồi mới leo lên ghe, chèo ra cửa sông Vàm Nao. Ông nói cho chú Ba Sửu biết địa điểm của Năm Chèo chết, để chở xác về cho đồng bào coi mãn nhãn.”
– “Thế ông bá hộ Giàu có thưởng 20 lượng vàng cho chú Chín Rái không vậy, chú Tám?” một thanh niên hỏi.
– “Có chớ sao không! Nhưng, Chín Rái nhờ Ba Sửu dùng 20 lượng vàng tiền thưởng giúp cho các nạn nhân bị Năm Chèo ăn thịt. Và sau đó, Chín Rái âm thầm xuống ghe chèo về miệt Rạch Giá ngay trong đêm khuya, không một lời từ giã bà con!”
– “Chú Chín Rái ngon thiệt! Không biết loại cá sấu ác ôn nầy từ đâu kéo về miệt dưới nhiều quá vậy hả, chú Tám?”
– “Theo chỗ qua biết, loài sấu thường sống trong những vùng đầm lầy chung quanh Biển Hồ và những vùng đất trũng dọc theo hai bên bờ sông Mekong, phía bên Cao Miên. Chúng lội theo con nước nổi hàng năm tràn về vùng nầy, ẩn núp trong những bờ lau sậy, cỏ lát, bần, gừa, dừa nước…mọc un tùm chung quanh cù lao Tây, cù lao Giêng…hoặc các vùng đất trũng, đầm lầy ẩm thấp vùng Đồng Tháp Mười, rừng tràm hoang vu ở rừng U Minh miệt Rạch Giá, Cà Mau,” Tám Cao nhìn cái tay trái từ cùi chỏ trở xuống khỉu tay, bị giập xương làm cho cánh tay bị cong vẹo, tàn phế, mấy ngón tay không còn cử động được, rồi buồn bả, nói. “Mấy tía con qua sống bằng nghề “hạ bạc” , còn gọi là cái nghề “xuống bến” . Khi con sông Tiền xuôi về đồng bằng để chảy ra biển Đông, lúc chảy qua Tân Châu chia làm ba nhánh ôm lấy cùa lao Tân Khánh và cù lao Cái Vừng. Và khi chảy gần đến Chợ Vàm, nó lại tách cù lao Tây ra làm đôi: phần đất cồn nằm bên quận Chợ Mới, bự hơn phần đất nằm bên quận Thanh Bình chút đỉnh. Có một thời, qua vang danh là “Tám Kình Ngư” ở cù lao Tây. Ngay từ lúc lên 10 tuổi, qua quyết định theo tía má, gắn bó cuộc đời mình với sóng nước Cửu Long Giang đầy sức quyến rũ và huyền bí.”
– “Theo như sự hiểu biết của tụi cháu. Nghề hạ bạc là đánh bắt cá, gồm có bốn nghề chánh là câu bằng cần tre, đánh bắt cá bằng cách thả lưới, chài lưới, đánh bắt cá bằng đăng, đó, lọp, lờ…và cách thường dùng nhứt là “thả chà” . Theo kinh nghiệm của chú Tám đánh bắt cá bằng cách nào dễ kiếm sống nhứt?” một cậu nhỏ hỏi.
– “Theo kinh nghiệm của qua, có nhiều cách đánh bắt cá, đó là những cách đánh bắt cá căn bản. Đa số là tùy theo kinh nghiệm dân từng vùng rồi “tùy cơ ứng biến” . Chẳng hạn như dân ở cánh đồng Ba Dầu miệt chợ Vàm Cống, có cách đánh bắt cá bằng phương pháp “đắp tàu bắt cá” , gọi nôm na gọi là bắt cá nhảy tàu.”
– “Bắt cá nhảy tàu là đánh bắt cá như thế nào vậy? Lần đầu tiên cháu mới nghe chú Tám nói đó nghe!” một cậu nhỏ hỏi.
– “Ừ, phương pháp “đấp tàu bắt cá” mới nghe rất lạ tai,” chú Tám Cao hớp một ngụm nước trà, rồi mới giải thích. “Nhưng, đối với nông dân ở cánh đồng Ba Dầu, việc đắp tàu bắt cá thì rất thường tình đâu có lạ lùng gì! Họ chỉ cần kéo rơm đấp ngang qua một cái lạch nước giống như đấp một cái đập nước bằng rơm, nhưng phải khéo tấn rơm cho thật khéo, thành hình một chiếc tàu, có lòng khoan, có be bờ bốn phía hẳn hòi. Đang mùa “cá đồng rộ” hay còn gọi là mùa “cá chạy” thì cá lóc, cá trê, cá bông… lội lềnh theo mương lung, khi nó đụng phải cái đập bằng rơm là nó quẩy đuôi, phóng ngang qua đập, thế là cá lọt vô khoang tàu nằm chình ình ở đó chịu trận. Chừng đó, chỉ có việc rọi đèn bắt cá đem về nướng trui nhậu, đó là cách làm chơi ăn thiệt. Nhưng theo qua, những ngư dân có năng khiếu lặn hụp dưới sông chuyên ngiệp như qua nên theo nghề đánh bắt cá bằng cách “thả chà” là dễ kiếm tiền nhất. Lúc “run chà cá nhảy” thấy mà ham! Mỗi vụ dở một đám chà có thể bắt được khoảng cần xé đầy nhóc cá he, cá mè vinh, cá chài, tôm càng xanh… như chơi! Sau đó, thả thêm mấy nhánh cây vào cho chà rậm đám rồi chờ một tháng sau thì dở chà vụ thứ hai, rồi thứ ba…”
– “Nghề thả chà bắt cá ngon lành như vậy, tại sao chú Tám bỏ nghề?”
Chú Tám Cao nhìn cánh tay bị phế tật của mình, buồn rầu kể lại nguyên nhân xảy ra tai nạn:
– “Trước khi xảy ra tai nạn nghề nghiệp, qua có nghe dân thương hồ cảnh báo rằng: đàn trâu cày ở anh Năm Phuông ở Ấp Tây trên Cồn Gòn, phía dưới Cù lao Giêng, đối diện bên kia sông Tiền là thị xã Cao Lãnh. Trong lúc con trâu đầu đàn đang đứng nhởn nhơ uống nước trên bờ Cồn Gòn; bất ngờ, một con sấu khổng lồ từ dưới nước phóng lên một cái ào nhanh như gió cuốn, nó hả mõm ngoạm vào cổ con trâu dìm xuống nước biến mất dạng. Qua nghe tin nầy, nhưng bỏ ngoài tai vì từ địa điểm nầy cách chỗ qua thả chà giăng câu dọc theo cù lao Tây, xa gần 45 cây số; vả lại, qua tin vào tài lặn hụp dưới nước mới ra nông nổi nầy,” Tám Cao cầm xị rượu đế, đưa lên miệng, ực thêm hớp nữa, rồi khà ra một cách sảng khoái, kể tiếp. “Theo kinh nghiệm của dân hạ bạc, khi ghe xuồng di chuyển trên sông sâu, hoặc giữa dòng, nó dùng cái đuôi, quật cho cái ghe lật úp xuống để bắt người. Còn chèo ghe gần bờ, nó từ dưới nước phóng mình lên, dùng sức nặng của nó nhận chìm ghe. Thông thường, khi nó gấp được người hoặc thú là nó dìm xuống nước cho con mồi chết ngộp trước, rồi mới tha lên bờ, xé xác ra để ăn.”
Một cậu thiếu niên cầm cánh tay phế tật của Tám Cao, hỏi:
– “Cháu đoán không lầm thì cánh tay nầy bị sấu táp gãy xương thành tật, phải không bác Tám?”
– “Cháu đoán không sai!” Tám Cao gật đầu, nói. “Đêm đó trời không trăng khoảng cuối tháng 3 Âm lịch, qua đi giăng câu cá bông lau. Khúc sông đầu nguồn sông Cửu Long thuộc địa phận hai tỉnh Long Xuyên và Đồng Tháp Mười vào mùa “nước trong” từ trước Tết Nguyên Đán kéo dài đến tháng 3, tháng 4 Âm lịch là nơi cá bông lau hàng năm theo nước lũ từ Biển Hồ bên Miên kéo về dòng sông Tiền, sông Hậu tập trung về đây kiếm mồi nhiều hằng hà sa số. Nhiều xóm lưới ven dòng sông Vàm Nao, cù lao Tây, cù lao Giêng… hoạt động rất mạnh trong thời điểm nầy. Mỗi xuồng trang bị dàn lưới dài 300 đến 400 thước. Mỗi chiều, ghe thương hồ chạy dọc theo cù lao thu mua về bán lại cho các vựa cá ở Cầu Ông Lãnh trên Sài Gòn, vì cá bông lau trên khúc nầy mới thật sự ngon nhứt xứ Nam Bộ…”
– “Chưa chắc à nghen, chú Tám! Theo qua, cá bông lau tập trung tại khúc sông Hậu, từ cồn Mỹ Phước đến ngã ba Vàm Tấn ở Sóc Trăng mới là ngon nhứt, thịt cá trắng hồng, mở béo ngậy! Qua đã từng thưởng thức món canh chua cá bông lau Vàm Tấn rất độc đáo, ngon hết sẩy!” bác Năm Hứa nói tiếp. “Thôi, kể tiếp cho tụi nầy nghe coi, lý do tại làm sao cánh tay trái của chú bị giập xương vậy hả, chú Tám?”
– “Tui là thợ câu, chớ không phải thả lưới. Thợ câu phải kiên nhẫn và khổ cực hơn nhiều, nhứt là câu cá bông lau. Loại cá nầy chỉ ăn mồi vào ban đêm. Đêm nào trời mưa lâm râm, có sương mù, cá lại ăn mồi càng nhiều. Có khi suốt đêm, tôi ngồi bó gối, ngủ gục trên chiếc xuồng ba lá đang thả neo, nhảy sóng bập bềnh trên sông, chờ cá táp mồi. Tôi không bao giờ quên cái đêm hôm đó. Vào khoảng nửa đêm, tui đang ngủ gà, ngủ gật thì cá đớp mồi, làm sợi dây cước căng lên, khiến tôi giựt mình; có lẽ, con cá bông lau nầy bự lắm thì phải, nên tôi phải đứng dậy, gò lưng giựt cái cần câu một cái thiệt mạnh cho chắc ăn. Nhưng mà, tui bị nó ghì lại một cái thiệt mạnh làm tui muốn té chúi nhủi. Theo kinh nghiệm nghề câu cá bông lau, tui phải thả dây câu thiệt dài, để cho nó mệt lã mới dòng nó vô be xuồng được; bất ngờ, một một sấu khổng lồ từ dưới nước phóng lên một cái ào, táp trúng cánh tay trái, kéo tôi xuống nước làm chiếc xuồng lật úp. Nó định dìm cho tui chết ngộp trước khi lôi vô bờ ăn thịt. Nhưng, nhờ trời Phật độ, nên tui mới còn sống sót đến ngày hôm nay.”
– “Chú Tám chắc có rất nhiều kinh nghiệm đối phó với cá sấu mới sống còn,” bác Năm Hứa nói. “Vậy, chú Tám làm ơn chỉ vẽ cho tụi nầy! Biết đâu, có khi phải dùng tới nó để thoát hiểm cũng không chừng đó nghen, chú Tám!”
– “Tui nói đây, không phải khoe tài với các anh em đâu nghen! Bất cứ người nào sống từ trên cù lao Tây từ ấp Tân Bình, ấp Hạ cho đến Doi Lửa, mà không nghe danh “Tám Kình Ngư” nầy! Tui có biệt tài lặn và đi dưới đáy sông khoảng nửa tiếng đồng hồ như chơi và nhờ vậy mà tui thoát nạn, chớ có kinh nghiệm con khỉ gì đâu nà!” Tám Cao kể tiếp. “Tui bị con sấu dìm xuống nước độ nửa tiếng đống hồ, tưởng tui đã bị chết ngộp, nó bèn tha tui về một bãi cồn hoang vu để xẻ thịt con mồi. Tui giả chết, chờ nó vừa hả mõm ra gọi đồng loại đến chia thịt, tiếng ghé gọi bầy của nó làm vang động cả một khúc sông vắng nghe thiệt rùng rợn, tui bèn vội vàng ba chưn bốn cẳng chạy một cái ào ra bờ sông, leo tuốt lên ngọn cây mù u, nhờ vậy mà thoát nạn. Sáng hôm sau, tui hú ơi ới gọi ghe thương hồ, nhờ chở tui vô nhà thương ở quận Chợ Mới cứu cấp.”
– “Cái cồn đó ở miệt nào mà ghê gớm vậy hả, chú Tám?” bác Năm Hứa hỏi.
– “Đó là “cồn Ma” mới nổi lên, ở khoảng giữa cuối cù lao Cái Vừng và đầu cù lao Tây, nó làm cho khúc sông Tiền nầy đở mênh mông. Nhưng cũng rất nguy hiểm, vì đó là quê hương của đủ loại cá sấu từ bên Cao Miên trôi dạt về đó theo từng mùa nước nổi, rồi tiếp tục sinh sôi nẩy nở. Anh em phải cẩn thận khi chèo ghe ngang qua vùng nầy vào lúc chạng vạng tối nghe!”
– “Qua đại diện anh em thương hồ, cám ơn chú Tám mầy nghen,” bác Năm Hứa quay sang chị Hai bán cháo lòng heo, đang ngồi trên cái sạp ván thấp lè tè bên cạnh đó, nói. “Thím Hai cho qua xin thêm một dĩa lòng heo để tụi nầy đãi chú Tám coi nè!”
Dì Hai bèn lấy vá dạo một vòng trong cái nồi cháo lòng heo, đặt trên cái cà ràng đỏ rực than hồng đang bốc khói nghi ngút, vớt nào phèo, phổi, tim, gan…để trên cái thớt gỗ, chặt ra từng miếng nhỏ sắp ra dĩa, rồi bưng ra bàn mời mọi người. Dì Hai nhìn bác Năm Hứa, tự giới thiệu:
– “Tui không phải dân vùng nầy! Trước đây, vợ chồng tui cũng là dân thương hồ như mấy anh em ở đây. Sau khi ổng chết, tui mới bán ghe làm vốn lên bờ, rồi trôi dạt về vùng nầy lấy nghề bán cháo lòng làm kế sanh nhai.” Dì Hai đưa cánh tay áo bà ba, quẹt nước mắt, nói. “Nhìn mấy chiếc ghe thương hồ xuôi ngược trên khúc sông nầy làm tui nhớ ổng quá trời!”
– “Không phải tui tò mò nghe dì Hai,” bác Năm Hứa nói. “Ảnh chết vì bệnh hay tai nạn vậy?”
– “Dạ, chết vì tai nạn bất ngờ! Âu cũng là số trời nghe anh Năm,” dì Hai ngậm ngùi kể cho mọi người nghe để rút kinh nghiệm. “Cách đây ba năm, vào khoảng trung tuần tháng 4. Lúc đó vợ chồng chèo ghe xuống Giồng Cà Hom – Bến Bạ thuộc quận Trà Cú, tỉnh Trà Vinh để mua chiếu chở về sông Ngã Bảy Phụng Hiệp bán cho bà con. Nói thiệt nghe, cái nghề đan chiếu là cái nghề “một vốn mà bốn năm công” , còn mua đi bán lại thì “một vốn, một lời” vì những hoa văn dệt trên chiếu sản xuất ở Giồng Cà Hom rất đẹp dùng để trang điểm chốn loan phòng trong đêm tân hôn thêm phần trang trọng và tươi mát.”
Bác Năm Hứa nói:
– “Tui thấy đồng bào mình ở Cần Thơ rất chuộng chiếu của đồng bào Miên dệt, sản xuất tại làng chiếu Trà Bông thuộc quận Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Một chiếc chiếu dệt nhẹ tưng chưa đầy 2 kí mà nằm bền đến cả chục năm mà chưa rách. Có một dạo tôi bán chiếu lác do họ dệt cho đồng bào Cần Thơ.”
– “Chiếu lác sản xuất ở Giồng Cà Hom – Bến Bạ và làng Trà Bồng đều đẹp và độ bền như nhau, tùy theo ý thích mỗi người,” dì Hai cháo lòng kể. “Chiều hôm đó, sau khi lấy hàng xong, vợ chồng tui chèo ghe về ngã bảy Phụng Hiệp. Lúc chèo ghe đến đầu cù lao Cồn Cộc – chạy cặp song song theo cù lao Dung – nơi con sông Hậu đổ ra biển theo cửa Định An thì trời vừa chạng vạng tối. Vợ chồng tui bèn cắm sào ngủ qua đêm. Sau bữa cơm chiều, ổng thèm rượu đế bèn nhảy xuống chiếc xuồng ba lá dòng theo đằng sau lái ghe, bơi tuốt qua sông vô ấp Chợ mua rượu, còn tui nằm tòn ten trên võng, nhai trầu bỏm bẻm chờ ổng về. Vào khoảng nửa đêm, tui giựt mình thức giấc mà chưa thấy ổng về tới. Tui chỉ lo cho ổng say xỉn rồi té bờ, té bụi nhập thổ bỏ mạng, chớ ai có ngờ đâu rằng…” Dì Hai cháo lòng nói đến đây rồi hai hàng nước mắt chảy ràn rụa trên má. Dì đưa cánh tay áo bà ba quẹt nước mắt.
Tám Cao nóng ruột, hỏi:
– “Chuyện gì xảy ra vậy, chị Hai? Sao chị lại khóc?”
Dì Hai cháo lòng thổn thức, nói:
– “Tui mới nhổ sào, định chèo ghe qua bên kia sông, lên bờ đi tìm ổng; bất thình lình, tui thấy đèn đuốt cháy sáng rực, tiếng gõ mõ, thùng thiết, tiếng khua nồi niêu, xoong chảo vang lên ầm ỷ, chen lẫn tiếng chưn đồng bào chạy rầm rập trên bờ, gọi nhau chạy loạn dậy một gốc trời, nghe thiệt khiếp đảm: “Thổ dậy bà con ơi! Thổ dậy bà con ơi! Chạy lẹ lên kẻo chúng nó “cáp duồn” , chết cả làng bây giờ!…” Tôi hồn phi, phách tán, ngồi bẹp xuống khoang ghe, vái trời, vái phật cầu nguyện cho ổng tai qua, nạn khỏi. Chờ khi trời vừa hừng đông sáng là tui nhổ sào, chèo ghe một hơi qua sông, vừa mới leo lên bờ thì một cảnh tượng hải hùng, đập vào mắt tui; bây giờ mỗi lần nhớ tới, tui còn rùng mình…”
Bác Năm Hứa ngắt lời, hỏi:
– “Đồng bào mình bị Thổ cáp duồn nhiều lắm phải không?”
Dì Hai cháo lòng, nói:
– “Anh Năm còn phải hỏi,” dì Hai chậc lưỡi, nói. “Xác dân làng gồm toàn đàn bà chân yếu tay mền, người già, con nít…chạy loạn không kịp bị bọn Thổ cáp duồn, chết nằm rãi rác dọc theo bờ sông Hậu từ xóm Ấp Vàm chạy dài xuống đầu con rạch Trà Cú, kẻ mất đầu, người thì bị đâm lòi ruột, máu me còn đọng vũng trên mặt đất. Tui nghe đồng bào sống sót, kể lại rằng: Không biết nguyên nhân nào thúc đẩy mà đêm hôm đó, đồng bào người Việt gốc Miên đang sống hiền lành trong vùng sâu ở sóc Cây Đa, bất thần đồng loạt nổi dậy, mặt của họ đỏ như tôm luộc, tay cầm chai rượu đế “phất xạ” , tay kia cầm lưỡi hái, phảng dùng để gặt lúa, chĩa nhọn hoặc dao phay, chạy ùa vào trong ấp Chợ, rồi tràn vào ấp Vàm. Họ vừa chạy vừa hô to “Dơ cáp Duồn! Bòn ơi!” gặp ai giết nấy. Thật là kinh hoàng!”
– “Chị Hai có tìm gặp được ảnh không vậy?”
– “Dạ không! Có lẽ, xác của ổng bị người Miên liệng xuống sông cho cá ăn. Từ đó tới nay biệt vô âm tín!”
Bác Năm Hứa hỏi:
– “Tôi là dân thương hồ xuôi ngược trên dòng sông Cửu Long nầy gần đến quá nửa đời người rồi. Tôi qua lại, buôn bán nhiều lần qua các tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Vĩnh Bình…trong cuộc sống chung đụng, giao tiếp hàng ngày. Mọi người đều phải công nhận rằng, bản chất của đồng bào thiểu số người Việt gốc Miên rất thật thà, chất phát và hiền lành. Được một cái là họ không có tinh thần dị biệt chủng tộc. Ở Sóc Trăng, người Tiều sống tụ tập rất đông, đông đến độ người dân địa có câu ví: “Dưới sông cá chốt, trên bờ Tiều Châu” . Người Tiều Châu thích lấy vợ người Miên vì bản tính của họ làm ăn chăm chỉ, siêng năng không thua đàn bà Việt Nam mình. Đàn con của họ ra đời, được đồng bào gọi đùa là “đầu gà, đít vịt” . Đứa cháu dâu của tôi cũng là người Tiều lai Miên vừa đẹp, vừa ngoan, làm ăn chăm chỉ có kém ai đâu nà!”
Dì Hai cháo lòng hỏi:
– “Nói như anh Năm, đồng bào Việt gốc Miên đều hiền lành và thật thà mà sao họ ác độc quá vậy hả, anh Năm?”
– “Đúng vậy, người Miên có khuyết điểm là rất dễ bị kích động,” bác Năm Hứa lắc đầu, thở dài, nói. “Từ khi già Hồ khai sinh ra cái băng đảng kháng chiến cái con mẹ gì đó, lợi dụng cái danh nghĩa “chống thực dân Pháp” , tụ tập được một số tên du thủ, du thực mà thực chất của bọn nầy là những tên chuyên môn đi ăn trộm trâu của đồng bào người Việt gốc Miên làm cho họ nổi điên lên, trút tất cả tội lổi lên dân làng ở các vùng lân cận. Theo tôi, đó là một trong những nguyên nhân sâu dẫn đến hận thù sắc tộc. Cái bọn “bộ đội cụ Hồ” khốn kiếp chính là thủ phạm gây ra thảm họa làm người Miên nổi dậy “cáp Duồn” dân mình tại nhiều tỉnh miền Tây Nam Bộ.”
Út Cưa nghe nói, lên tiếng:
– “Cướp giật, bắt cóc, tống tiền…nói chung là chánh sách kinh tài của Bí Thư Tỉnh Ủy tỉnh Cần Thơ tên Quản Trọng Hoàng. Ông ta đảm nhiệm chức vụ nầy từ năm 1938 cho đến bây giờ.”
Bác Năm Hứa ngạc nhiên, hỏi:
– “Sao chú mầy biết rành cái lũ ác ôn nậy quá vậy, Út Cưa?”
– “Gia đình của tui cũng là nạn nhân của bọn thổ phỉ nầy mà,” Út Cưa hậm hực nói. “Tía tui bị bắt buộc phải ủng hộ cho “Kháng chiến” hết 8 cái ghe, nói là dùng để chở quân dân cách mạng. Ai biết chúng chở cái gì? Bọn láu cá nầy đểu thiệt!”
Tám Cao gật đầu, nói:
– “Nhận xét lời bác Năm Hứa quả không trật một chút nào hết! Quê ngoại của tôi ở miệt Cần Đen, thuộc xã Hưng Điền, nằm trên phần đất của ông Bá Hộ Bảnh. Nguyên một dãy đất dọc theo hai bên bờ kinh Cái Cơ, gần tới đầu con kinh Cái Bác – sát biên giới Việt Miên – có trên hàng ngàn mẫu ruộng đều thuộc gia đình của Bá Hộ Bảnh. Cách biên giới khoảng 10 cây số là sào huyệt của bọn thảo khấu do tên Thạch Sum lãnh đạo. Bọn cướp nầy nỗi tiếng khát máu và tàn bạo, thường xuyên vượt biên giới vào sâu trong đất của Hội đồng Bảnh cướp trâu bò của tá điền, còn bắt người, cướp của đồng bào mình, gọi là để trả thù bọn thổ phỉ nhơn danh “cách mạng” , nửa đêm băng đồng, vượt biên lên tận Svay Riêng, đốt nhà nông dân, rồi thừa cơ dân trong xóm lo chửa cháy, lùa từng đàn trâu bò của họ về phía biên giới. Có khi một đàn trâu bị lùa đi lùa về hai, ba lần vì những trận kịch chiến đẫm máu xảy ra trên những cánh đồng ruộng, giữa bọn thảo khấu Thạch Sum và bọn thổ phỉ nhơn danh “cách mạng” mà thực chất là bọn cướp sống ngoài vòng pháp luật.”
– “Còn chính quyền địa phương của Miên ở đâu mà không dẹp tan sào huyệt của bọn nầy?” bác Năm Hứa hỏi.
– “Tôi biết!” một người ngồi trên bàn bên cạnh trả lời.
Mọi người quay đầu lại, thấy một người, tuổi ngoài ngũ tuần tóc bạc hoa râm, búi thành tó, nhưng dáng còn quắc thước. Ông kéo ghế đứng dậy, cầm tách nước trà qua ngồi chung với bọn họ. Ông ta tự giới thiệu:
– “Tôi là Tư Long, quản gia của ông Bá hộ Bảnh,” ông Tư Long bắt đầu kể. “Hồi cuối năm ngoái, vùng kinh Cái Cơ và kinh Cái Bác, dọc theo biên giới Việt – Miên bỗng trở nên mất an ninh trầm trọng vì đảng cướp người Miên có trên 100 tên võ sĩ do tên Thạch Sum cầm đầu. Hắn tự xưng là Sana tức Nguyên soái, võ nghệ hắn cao cường, tinh thông cả võ Tàu, võ Thái; ngoài ra, hắn còn luyện được phép gồng “mình đồng da sắt” , dao búa, đao kiếm chém vào mình hắn đều dội trở lại không nhằm nhò gì cả. Cứ vài tháng là bọn nay vượt qua kinh Cái Cơ ở miệt Tân Thạnh để đánh cướp. Bọn cướp nầy rất dã man và khát máu. Sau khi lùa trâu bò qua biên giới, chúng đốt nhà, “Cáp Duồn” không gớm tay.”
Bác Năm Hứa hỏi:
– “Ông Bá hộ Bảnh không có biện pháp gì để tiêu diệt bọn cướp của Thạch Sum sao? Tụi tui nghe nói, ông Bá Hộ Bảnh là một tay thiện xạ súng săn mà!”
Tư Long rầu rĩ, nói:
– “Hai tháng trước, Bá hộ Bảnh và dân làng giao trọng trách cho tôi lên Chợ Lớn tìm một võ sư Tàu để trừ khử Thạch Sum. Cuối cùng, Lý võ sư đồng ý. Ông ta là người tỉnh Sơn Đông bên Tàu là cao thủ thượng thừa của hai trường phái võ thuật Thiếu Lâm và Võ Đang.”
Tám Cao hỏi:
– “Sao chú Tư biết Lý Võ Sư là một cao thủ thượng thừa?” Tám Cao nói. “Tôi thấy có nhiều võ sĩ hữu danh vô thực, có vài miếng nghề để lòe thiên hạ để kiếm cơm như bọn Sơn Đông mãi võ chẳng hạn.”
– “Không phải như vậy đâu, chú Tám!” Tư Long giọng quả quyết. “Chính mắt tôi và đồng bào đã nhìn thấy Lý Võ Sư biễu diễn quyền thuật mà!”
– “Vậy sao, chú Tư nói thử cho chúng tôi nghe, công phu của họ lý như thế nào?”
Tư Long nói:
– “Ngay khi tôi vừa dẫn Lý Võ Sư về đến làng là ông lập tức biễu diễn công phu cho ông Bá hộ Bảnh và các gia đình tá điền xem để lấy long tin của họ. Theo sự hiểu biết của tôi cũng biết ít nhiều võ thuật. Đó là những tuyệt kỹ công phu của pahái Thiếu Lâm. Chẳng hạn khi xuống tấn, mấy miếng gạch tàu trên sân, lún xuống đất. Ông ta chỉ dùng một ngón tay trỏ, đởû toàn bộ thân người lên mười phút mà gương mặt không hề đổi sắc. Một tay có thể bứng gốc moat cây so đũa và dùng gang bàn tay để đóng một cây đinh 3 phân vào thân cây xoài. Những bài quyền cước như hầu quyền, hổ quyền, xà quyền…biến hóa khôn lường. Nội lực cũng vô cùng thâm hậu, chỉ cần một quả đấm trông thật nhẹ nhàng vào cây chuối thiệt bự, cũng đủ làm cho nó ngã đổ xuống vì bên trong ruột bị dập nát. Sau khi thấy tận mặt ông ta biễu diễn võ công, ai nay đều phấn khởi và nghĩ rằng: Sana Thạch Sum không phải là đối thủ của ông ta.”
Mọi người trên bàn nhậu đều đồng ý với Tư Long là Lý Võ Sư đã đạt tới trình độ võ công thâm hậu và tuyệt kỹ của Thiếu Lâm. Bác Năm Hứa hỏi:
– “Chú Tư có xem trận đọ sức giữa Thạch Sum và Lý Võ Sư không?”
– “Dạ, có chớ,” Tư Long nói. “Sao khi nhận được được thơ thách đấu của Lý Võ Sư. Y hẹn, ba ngày sau, Thạch Sum dẫn vài thủ hạ có mặt tại bãi đất trống trên bờ kinh Cái Cơ, bên cạnh miếu Thổ Thần để thi đấu. Nhưng, thiệt không thể tin được: Trận Long tranh Hổ đấu chỉ kết thúc vài ba hiệp.”
Tám Cao nóng ruột, hỏi:
– “Ai thắng? Ai bại vậy, chú Tư?”
Tư Long thở dài, nói:
– “Qua đến hiệp thứ tư, Lý Võ sư bất ngờ bay người lên, tung ngọn “đảo phong cước” , sức mạnh ngàn cân của chân phải, tạt một cước vũ bão vào cổ Thạch Sum, định đá gẫy cổ địch thủ. Thạch Sum chẳng những không tránh đòn mà còn dùng đầu chận ngọn “đảo phong cước” của Lý Võ Sư. Tôi chỉ nghe một tiếng “bộp” khô khan như hai khối đá đập vào nhau. Có lẽ, xương ống quyển bị vỡ, nên khi chân vừa chạm đất, Lý Võ Sư thoái bộ ba bước, thân mình hơi chao đảo. Thạch Sum phóng tới như con bồ cắt, hai bàn tay túm lấy đầu, dùng đòn trán đập mạnh vào đầu của địch thủ. Lý Võ Sư bật ngữa ra phía sau. Và Thạch Sum chỉ chờ có thế, dùng “ngũ trảo” , năm ngón tay xòe ra, như năm cái móc sắt, bấu vào lồng ngực của họ Lý, chọc thủng trái tim của địch thủ. Lý Võ Sư chết không kịp trối!”
– “Thạch Sum quả nhiên lợi hại và xuất chiêu thiệt tàn độc,” bác Năm Hứa hỏi. “Sau khi Lý Võ Sư chết, Thạch Sum và đám thủ hạ có ra tay tàn sát đồng bào mình không?”
– “Không, hắn ra lệnh cho tất cả tá điền trên phần đất của Bá hộ Bảnh: Sau ngày 14 tháng 4 năm nay là ngày Lễ hội CHOL-CHNAM-THMEY, đón mừng năm mới theo phong tục truyền thống của dân tộc Khmer là phải dỡ nhà, lùi sâu vào trong nội địa qua khỏi con kinh Cái Cơ khoảng 2 cây số. Quá hạn nầy, nếu ai còn ngoan cố, nấn ná ở lại, Thạch Sum sẽ ra lệnh cho thuộc hạ đốt sạch, giết sạch không chừa một ai hết,” Tư Long giọng chán nản, buồn rầu, nói. “Hôm nay là gần cuối tháng 2 rồi. Chỉ còn hơn một tháng rưỡi nữa là Tết Miên mà tôi tìm chưa ra người đối địch với Thạch Sum! Ông bá hộ Bảnh và dân làng đang mong tôi trở về để quyết định đi hay ở lại!”
Tám Cao nói:
– “Theo chỗ tôi được biết, ông bá hộ Bảnh là người theo Tây học, có thế lực trong vùng. Tại sao ông không nhờ tên Tỉnh Trưởng Svay Riêng can thiệp?”
– “Tại chú không biết đó thôi! Tên Tỉnh Trưởng Svay Riêng có họ hàng gì với Thạch Sum, làm lơ cho hắn muốn làm gì làm. Cho nên, Thạch Sum tha hồ dọc ngang nào biết trên đầu có ai.”
Bác Năm Hứa ngẫm nghĩ hồi lâu, nói:
– “Tôi muốn giới thiệu chú Tư một người võ công thâm hậu; may ra, có thể giúp được việc cho ông bá hộ Bảnh và bà con nông dân ở kinh Cái Cơ.”
Tư Long nghe nói, mừng ra mặt, hỏi tới:
– “Người đó là ai? Hiện giờ ở đâu vậy, anh Năm?”
Bác Năm Hứa nói:
– “Chuyện mới vừa xảy ra hồi cuối năm ngoái. Đoàn ghe thương hồ của chúng tôi chạy hàng Tết, chở đầy ắp hàng hóa mua từ bên Cam Bốt về miền Tây. Sở dĩ, phải vầy đoàn mà đi để tự bảo vệ lẫn nhau vì khúc sông Vàm Cỏ Đông từ Kam Chay Méa đến Tây Ninh có rất nhiều bọn thảo khấu người Miên thường tấn công các ghe thương hồ đi lẻ tẻ. Bọn cướp đường sông nầ rất hung dữ giết người trước cướp của sau. Vào một đêm trăng sáng vằng vặt giữa tháng chạp, khi đoàn ghe thương hồ vừa lọt qua địa phận tỉnh Tây Ninh thì giữa đêm khuya thanh vắng, bỗng nghe có tiếng một người đàn bà la cầu cứu thất thanh ở khúc sông phía trước. Biết có biến, tất cả anh em chúng tôi nhứt tề leo lên mui ghe, tay thủ binh khí: dao, mác, tầm vong vạt nhọn…đứng thủ thế, sẵn sàng chiến đấu. Dưới ánh trăng sáng tỏ, chúng tôi thấy bốn tên cướp cầm mã tấu, chém túi bụi vào người đàn bà trên mui chiếc ghe cà dom, đang chạy ngược về phía chúng tôi. Một chiếc ghe khác xuất hiện đằng sau lái, đang ra sức đuổi theo để tiếp cứu nạn nhân. Khoảng cách rút ngắn dần và một người đàn ông xuất hiện trên mui ghe, tay cầm một cây tầm vông khá dài, chạy từ đằng sau lái ra phía trước để lấy trớn. Ông ta chống cây sào xuống mũi ghe, mượn sức bật của cây tầm vông, bắn người bay lên không trung thật đẹp mắt,” một người dân thương hồ, phải buộc miệng khen. “Tôi đã xem nhiều võ sĩ lừng danh thi đấu trên võ đài. Nhưng, chưa thấy một cao thủ võ lâm nào, có lối xuất thủ tuyệt kỹ như người nầy. Lúc còn lơ lững trên không, hai cánh tay dang rộng ra, hai vạt áo bà ba bay phần phật trong gió như chim phượng hoàng vỗ cánh. Hai chân vừa chạm mui ghe, ông đảo người phóng ra “liên hoàn cước” nhanh như cơn gió lốc vào cổ bốn tên cướp. Bị trúng đòn bất ngờ, cả bọn bị đá rớt xuống sông và không thấy tên nào trồi đầu lên mặt nước. Vừa lúc đó, bọn thảo khẩu từ hai bên bờ lau sậy, bơi xuồng túa ra như bay ông vỡ tổ. Đoàn ghe chúng tôi đốt đuốc sáng rực, gõ phèng la, thùng thiếc reo hò trợ chiến. Cả một khúc sông Vàm Cỏ Đông rực sáng ánh đuốc đêm và tiếng la hét ầm ỹ, náo động cả đêm khuya. Đồng bào sống dọc bên bờ sông, tay cầm cuốc, xẻng, dao, rựa chạy túa ra bờ sông, gọi nhau ơi ới: “Bà con ơi, bọn thảo khấu tới! Giết! Giết! Giết hết… đừng để cho một tên nào tẩu thoát.” . Đoàn ghe hương hồ cũng tăng tốc, chia làm hai cánh bảo vệ ghe nạn nhân. Bọn cướp biết bị động, tên đầu đảng rúc lên một hồi tù và, rồi thét to lên: “Đo toi! Đo toi! Đo toi…” (rút lui). Cả bọn bơi xuồng vào bờ, rồi luồn theo mấy con rạch nhỏ biến mất dạng trong bóng đêm.”
Một người bạn trẻ nôn nóng, hỏi:
– “Không biết ông võ sĩ đó là ai mà tài quá vậy, bác Năm?”
Tư Long nói:
– “Thôi được rồi, để bác Năm kể tiếp đi!”
Bác Năm Hứa tằng hắng lấy giọng, kể tiếp:
– “Lúc bấy giờ, chúng tôi cập ghe sát bên hông ghe của nạn nhân, rồi leo lên mui ghe. Một cảnh tượng vô cùng thương tâm, người thiếu phụ hấp hối trên vũng máu, thều thào trăn trối với ân nhân: “Xin hãy nuôi dưỡng dùm thằng Bền, con trai chúng tôi.” Người chồng cũng bị chém chết nằm trong khoang. Chỉ có đứa con trai khoảng 15 tuổi gì đó, nhờ trốn dưới hầâm ghe nên thoát chết.”
Lại cũng người bạn trẻ lúc nãy, sốt ruột, hỏi:
– “Người võ sĩ ấy là ai, mà tài giỏi quá vậy, bác Năm?”
Bác Năm Hứa gật gù, giọng đầy vẻ thán phục, nói:
– “Chú Hai Rồng: “Thần cước trên dòng sông Mekong!”
Tư Long vui mừng, nói:
– “Chú Hai Rồng, chính là người tôi muốn tìm đây! Nhưng, biết chú Hai Rồng bây giờ ở đâu mà tìm?”
Bác Năm Hứa cười, nói:
– “Cuộc đời của người dân thương hồ như đám lục bình trôi sông. Nay tấp bến nầy, mai tấp bến khác. Hai Rồng là tay giang hồ phiêu bạc, biết đâu mà tìm. Nhưng mà,” bác Năm Hứa bỗng vỗ vai Tư Long cười, nói. “Tôi mới gặp chú Hai Rồng hồi trưa tại chợ Thủ Thiêm. Nghe nói, chú Hai Rồng sắp hộ tống đoàn ghe thương hồ đi Sài Gòn vào sáng ngày mai. Chú Tư đi ngay bây giờ, may ra còn kịp. Con nước sắp bắt đầu ròng rồi. Cứ theo con nước nầy lên tới chợ Thủ, chắc trời vừa rạng đông.”
Tư Long mừng quá, nói:
– “Bữa nhậu tối nay do tôi đãi tất cả anh em!”
Trả tiền xong, Tư Long chào từ giã mọi người, hối hả đi ra bờ sông, bước xuống ghe tam bản, nhổ sào, nhắm hướng chợ Thủ chèo riết tới…
CHƯƠNG HAI
CHÚ HAI RỒNG,
THẦN CƯỚC TRÊN SÔNG MEKONG
NĂM ẤT MÃO (1915)
Khâm sứ Jean Charles và Toàn Quyền Đông Dương Ernest Roumé ra Nghị định, làm con đường liên tỉnh từ Sài Gòn – Cần Thơ – Rạch Giá. Bến phà Cần Thơ và Mỹ Thuận ra đời vào năm 1918 nối liền hai bờ sông Hậu và sông Tiền, giúp việc giao thông và chuyên chở hàng hóa bằng đường bộ phát triển nhanh chóng. Giới kinh doanh có máu mặt ở tỉnh Cần Thơ bắt đầu chú ý vào ngành vận tải. Vào thập 30, tỉnh Cần Thơ có các hảng xe đò đưa rước hành khách như hãng xe Trần Đắc Nghĩa, Cao văn Trạng, Nam Hòa, Đại Đồng, Vạn Lộc, Ngọc Lợi… lần lượt ra đời cạnh tranh nhau ráo riết. Bến xe đò lục tỉnh lúc đó nằm trên đường Ngô Quyền, chạy thẳng xuống bến sông Cần Thơ. Chỉ có một con đường duy nhất từ trong thành phố ra bên phà Cần Thơ, đều phải chạy qua cây cầu sắt, mang tên Sáu Thanh, bắc qua con rạch Khai Luông. Bên phải cây cầu sắt, cách con đường khoảng 150 thước là một ngôi biệt thự tráng lệ của Sáu Thanh.
Sáu Thanh, chủ hãng xe đò Vạn Lộc là một tay hào sảng, võ nghệ cao cường, đầy thế lực và tham vọng muốn vói tay tới tận Nam Vang, giành độc quyền kinh doanh vận chuyển đường bộ từ Sài Gòn – Nam Vang và ngược lại, nhằm mục đích ngăn chận âm mưu của Má Chín Xồi – ông trùm “xã hội đen” – tại Nam Vang. Tên nầy quyết triệt hạ Sáu Thanh với bất cứ giá nào để dành độc khai thác bên xe đò liên quốc gia tại Nam Vang để chở thuốc phiện từ Nam Vang về Sài Gòn tiêu thụ, đầu độc thanh niên Việt Nam. Sáu Thanh kết nạp dưới trướng nhiều tay giang hồ vũ dũng để bảo vệ các chuyến hàng hóa. Vì vậy, các đảng cướp đường bộ lẫn đường sông nghe danh Sáu Thanh đều phải tránh né, không dám đụng tới.
Quyết ăn thua đủ với Sáu Thanh. Má Chín Xồi bèn cho tổ chức “Đả lôi đài” tại một sân vận động ở Nam Vang vào khoảng giữa năm 1934. Hắn bỏ ra một số tiền lớn nhờ người móc nối với võ sư Na Rặc – Quyền vương Thái Lan – thách đấu với Sáu Thanh. Trận sinh tử đấu giữa Sáu Thanh và Na Rặc đã đi vào lịch sử quyền thuật và Sáu Thanh đã trở thành võ sĩ huyền thoại của Miền Tây Nam Việt vào thập niên 1930.
Trong cuộc đời võ sĩ, Sáu Thanh thường nhắc nhở các huynh đệ: “Khi một võ sĩ thượng đài đừng bao giờ khinh địch, cho dù sức dóc của địch thủ có gầy gò như con mèo, nhưng phải xem nó là một con hổ và phải dốc toàn lực chiến đấu.”
Sáu Thanh phái đàn em thân tín là Hai Rồng, một hào kiệt của miền Tây Nam Việt; sở dĩ có cái tên Hai Rồng vì trước ngực có xâm hình hai đầu rồng: “Lưỡng long tranh châu” rất hùng tráng. Tuy xuất thân từ dân anh chị dao búa ở bến xe đò lục tỉnh, nhưng bản chất anh hùng, trọng nghĩa khinh tài nên rất được giới anh chị tôn làm đại ca. Cùng với Ba Hổ là người anh em kết nghĩa, giúp Sáu Thanh điều khiển hệ thống chuyển vận đường bộ của hảng xe đò Vạn Lộc.
Hai Rồng lên đường qua Nam Vang bằng đường bộ, rồi qua Bangkok, tìm đến lò luyện võ của Na Rặc ở ngoại ô thủ đô. Và có xem trận thi đấu chung kết giải vô địch quyền vương giữa Na Rặc và một võ sĩ mang hai dòng máu Thái – Tàu. Na Rặc bảo vệ ngôi vô địch của mình dễ dàng, bằng cách hạ đo ván đối thủ ở hiệp nhì. Hai Rồng đánh giá võ công điêu luyện của Na Rặc rất cao. Vì vậy, ngày hôm sau, Hai Rồng lập tức trở về Cần Thơ kể lại với Sáu Thanh để tìm cách đối phó với Na Rặc.
Hai Rồng nói:
-Thể lực của Na Rặc rất tốt, ngực nở, bụng thon, tay chân nhanh nhẹn. Đầu cạo trọc chỉ chừa một chỏm tóc ở đỉnh đầu, thắt lại thành bím dài tới tận thắt lưng. Đuôi tóc có một miếng vải đỏ, quấn chặt một lưỡi dao nhỏ mỏng như lá liễu, ẩn trong mấy lọn tóc nên khó nhìn thấy. Đây là ám khí lợi hại, khi hắn nghiêng đầu, quật đuôi tóc vào mặt địch thủ, nếu không tránh được, có thể bị mù mắt như chơi.
Sáu Thanh hỏi:
-Võ sĩ nào cũng có ngón nghề tấn công sở trường của họ để hạ đối thủ trong nháy mắt. Anh Sáu muốn biết tuyệt chiêu của Na Rặc để hóa giải thế công của nó.
-Tôi có xem trận chung kết giải “Vô địch Quyền Vương” tại Bangkok. Na Rặc đã dùng tuyệt chiêu hạ đối thủ trong hai hiệp ngắn ngủi. Đòn tấn công sở trường của Na Rặc là dùng đầu gối và cùi chỏ cực kỳ lợi hại. Vào hiệp đầu, sau khi làm mấy động tác bái tổ truyền thống Thái Lan. Hai võ sĩ đứng hai gốc đài, lao tới húc vào nhau. Na Rặc nhún hai chân phóng người lên, nghiêng người bên phải ra đòn, giống như đòn “Phi tiêu cước” , đánh gối trái bay vào ngực địch. Bất ngờ, trúng đòn “gối bay” với sức mạnh bạt sơn, địch thủ gục liền xuống sàn đấu. Trọng tài phải ngưng ngay trận đấu. Khi tiếng kẻng hiệp hai bắt đầu. Lợi dụng lúc địch thủ còn chao đảo, chưa kịp phản ứng, Na Rặc nhanh chóng bay người lên, dùng hai đùi kẹp cổ, ra đòn “chỏ cặm” . Từ trên đầu, Na Rặc dùng cùi chỏ phải và trái, cặm xuống giữa đỉnh đầu như búa tạ ngàn cân hạ địch thủ đo ván, ngã xuống sàn đấu một cái rầm.”
-Na Rặc quả nhiên lợi hại! Theo sự hiểu biết của anh Sáu, hắn chỉ mới vừa ra hai chiêu trong “Tượng Quyền” đã hạ địch thủ một cách dễ dàng, Sáu Thanh giải thích, Nó cũng giống như giới võ thuật Trung Hoa được chia làm hai phái căn bản: Nam quyền, Bắc Cước. Nội gia Nam Phái đại diện bởi: Võ Đang Thái Cực Quyền, Bát Quái Quyền và Hình Ý Quyền. Ngoại gia Bắc Phái xuất xứ từ miền Bắc, gồm các võ phái lừng danh như Thiếu Lâm, Nga Mi, Không Động …đặc tính ngoại lực cương mãnh, tiến thoái linh hoạt, nhanh chóng đánh bại đối phương. Dù Nam Phái nội gia hay Bắc Phái ngoại gia đều dựa vào những động tác của linh vật như: Long, Hổ, Hạc, Ưng, Xà, Hầu hình. Võ Bình Định, Tây Sơn có Hùng Kê Thần Cước danh trấn giang hồ do Nguyễn Lữ bào đệ của vua Quang Trung sáng tạo, phù hợp với thể lực của người Việt Nam. Còn người Thái Lan dựa vào động tác của voi mà sáng tạo Tượng Quyền mà chủ yếu đòn thế phát sức mạnh cùi chỏ và đầu gối rất lợi hại. Địch thủ của Na Rặc bị đòn gối “Voi lồng xung trận” trúng vào huyệt “Cự khuyết” trước ngực, không tàn phế là may lắm rồi! Mười mấy năm về trước, anh Sáu có xem trận đả lôi đài Quốc tế tại Sài Gòn. Trận chung kết diễn ra giữa võ sĩ Thái Lan và Hồng Kông. Võ sĩ Thái kết thúc trận đấu bằng tuyệt chiêu “Voi bẻ gỗ” tối độc. Hằn đá tung địch thủ bay lên, rồi dùng gối hứng. Địch thu rớt nằm sấp trên gối, võ sĩ Thái liền dùng cùi chỏ, cắm vào huyệt “Mệnh môn” , đánh gẫy cột sống của địch thủ.” (Báo chí Hồng Kông thời đó gọi là đòn: “Elephant pulverizing tree” )
-Muốn chế ngự sức mạnh của “Tượng Quyền” . Anh Sáu sẽ dùng bản lãnh gì để giành chiến thắng?
-Trên sàn đấu, tùy cơ ứng biến, linh hoạt chiến đấu! Đó bản lãnh của “Hùng Kê Thần Cước, Sáu Thanh tự tin nói, Chú Hai và theo anh qua Nam Vang, quan sát trận đấu để rút kinh nghiệm. Còn chú Ba Hổ thay anh Sáu điều hành hảng xe Vạn Lộc.
Đúng hẹn. Má Chín Xồi lập lôi đài tại sân vận động ở Nam Vang. Dân Miên từ khắp nơi đổ về. Một số đồng bào lục tỉnh miền Tây Nam Bộ, vượt qua biên giới qua ngã Châu Đốc để cổ võ gà nhà trong trận “Long tranh, Hổ đấu” giữa Sáu Thanh, đại diện cho giới quyền thuật Việt Nam và Na Rặc, đại diện cho giới quyền thuật Thái Lan. Một cái quan tài màu đỏ, được Ma Chín Xồi cho khiêng đặt bên cạnh võ đài, mang ý nghĩa trận sinh tử đấu. Hai địch thủ cùng ký giấy “sinh tử trạng” trước khi bước lên võ đài.
Khi tiếng kẻng của ban trọng tài vừa vang lên, bắt đầu trận đấu. Sáu Thanh vờ hùng hổ lao vào địch thủ, Na Rặc cũng nhào tới chủ quan đầy khinh địch. Na Rặc dùng đòn “gối bay” sở trường của mình định hạ Sáu Thanh trông nháy mắt. Nhưng, bất ngờ Sáu Thanh dừng lại, xoay người sang phải tránh đòn gối. Nương theo đà xoay, Sáu Thanh dùng đòn chân “Câu liêm cước” , đá gót bàn chân phải vào huyệt “Yêu nhãn” (thắt lưng) của địch thủ, Na Rặc mất thăng bằng, ngã chếch phía trước. Sáu Thanh tiếp tục tấn công địch thủ bằng đòn “Diệt mã cước” bằng cạnh bàn vào mặt sau ống quyển của Na Rặc, làm đầu gối của hắn đập xuống sàn đấu. Na Rặc ngửa người ra, bật dậy như lo xo, chưa vũng chân tấn. Sáu Thanh đã hờm sẵn, thoái bộ vài bước, lấy trớn tung ngọn “Bàn long cước” , đá chéo gót chân vào huyệt “Đan điền” (duới rún). Bị trúng đòn, Na Rặc gập người, bay vào dây đài, ngã sấp xuống sàn đấu. Khán giả vỗ tay nhiệt liệt, tán thưởng võ sĩ Việt Nam.
Bị trúng ba đòn “Liên hoàn cước pháp” , Na Rặc lăn ba vòng để né đòn, rồi đứng dậy, dựa vào một gốc quan sát, có vẻ nhợn địch thủ. Sáu Thanh tiếp sát để chuẩn bị đòn tấn công kế tiếp. Bất ngờ, Na Rặc phóng người lên, dùng sức mạnh của gót chân phải, đá vòng từ trên xuống đỉnh đầu của địch thủ. Sáu Thanh thoái bộ tránh ngọn “Đảo sơn cước” vũ bão. Na Rặc dùng gan bàn chân, ra đòn “Trực tiêu cước” , đá thẳng vào ngực địch thủ. Sáu Thanh ngồi thụp xuống tránh đòn, xoay người, quét một đòn “Nghịch tảo cước” làm Na Rặc té bật ngửa. Nhưng, hắn bật dậy như cái lò xo, tiếng kẻng vang lên, chấm dứt hiệp nhứt.
Qua hiệp thứ hai. Na Rặc tận dụng hết tài nghệ thi đấu, nhưng không đánh trúng địch thủ đòn nào. Gần cuối hiệp hai, Sáu Thanh gài bẫy địch thủ, dùng đòn hư chiêu, chân trái đá tạt ngang từ ngoài vào hông địch thủ. Na Rặc nhảy lùi lại phía sau tránh đòn. Ngọn cước đi quá đà, Sáu Thanh cố tình để trống lưng. Na Rặc không bỏ lở cơ hội, bay người tới, dùng chỏ cặm vào huyệt “Đại chùy” sau gáy của địch thủ. Sáu Thanh chỉ chờ có thế, xoay người thấp xuống tránh đòn, bất ngờ phản công nhanh như chớp bằng đòn “Hổ vi cước” đá chọt thẳng gót chân ra phía sau, vào hạ bộ của địch thủ. Na Rặc bị trúng đòn, ngã bật ngữa vào dây đài, bị đánh bật trở lại. Sáu Thanh đứng dậy, dùng quả đấm thôi sơn: “Câu quyền” , đấm móc từ dưới lên vào cằm địch thủ. Na Rặc ngã ngửa xuống sàn đấu, chấm dứt hiệp hai.
Khi bắt đầu hiệp ba. Na Rặc dùng bộ pháp kỳ quặc, di chuyển từng bước như sâu đo, mũi chân trái và phải, vẻ những vòng tròn, nét dọc, nét ngang nguệch ngoạc trên sàn gỗ như vẻ bùa. Sáu Thanh đang tập trung nhãn lực vào đôi mắt của Na Rặc, bỗng hoa cả mắt, chập chờn ảo giác. Na Rặc phân thân ra làm hai, biến hóa thành bốn, thành sáu… hư hư, thực thực, vây kín Sáu Thanh vào giữa để tấn công. Quyền cước của Sáu Thanh bắt đầu rối loạn và trở thành cái bao cát cho Na Rặc tha hồ, đấm đá bằng những đòn tối độc. Sáu Thanh di chuyển vào những gốc võ đài, hai cánh tay che kín mặt, ngực, gồng mình chịu đòn. Lúc tiếng kẻng chấm dứt hiệp ba, Sáu Thanh ngã quỵ xuống một gốc đài, miệng thổ huyết.
Hai Rồng cầm cái ghế đẩu, nhảy lên đài, dìu Sáu Thanh ngồi xuống , dùng khăn lông tẩm nước ấm lau mặt, mồ hôi cho anh Sáu. Hai Rồng hỏi:
-Việc gì xảy ra vậy, anh Sáu?
-Có lẽ, anh Sáu bị nó chơi võ bùa! Anh thấy đến mười Na Rặc vây kín anh vào giữa để tấn công, làm anh hoa cả mắt, Sáu Thanh nói, Thực sự, anh không biết ai là Na Rặc thật để trả đòn. Vì vậy, quyền cước của anh Sáu hỗn loạn, đỡ gạt loạn cả lên.
-Bây giờ anh Sáu tính sao? Hai Rồng đề nghị, Hay là, anh bỏ cuộc trận đấu nay đi. Chờ tái đấu phục thù.
-Không được, thà chết võ đài, Sáu Thanh giọng cương quyết, thà chết vinh không sống nhục! Nhứt định không bỏ cuộc.
Lúc đó vào khoảng 3 giờ chiều. Mặt trời chếch bóng về hướng Tây. Na Rặc ngồi trên cái ghế đẩu ở gốc đài đối diện, cho đàn em tẩm quất, vẻ mặt hiu hiu tự đắc. Cái bóng đen của hắn trải dài, in rõ trên sàn đấu. Hai Rồng mừng rỡ, nói:
-Tôi nghĩ ra cách đối phó với thằng Na Rặc rồi, anh Sáu!
Sáu Thanh hỏi:
-Cách gì vậy, chú Hai?
-Anh có thấy cái bóng của Na Rặc in trên sàn đấu không?
-Thấy, rồi sao nữa?
-Anh Sáu chỉ thấy một cái bóng duy nhứt của Na Rặc thôi, phải không? Hai Rồng giải thích, chỉ có con người thật, mới có cái bóng! Anh tránh nhìn thẳng vào đôi mắt mà nhìn cái bóng của Na Rặc in trên sàn đấu, để biết chính xác điểm đứng và hướng di chuyển của Na Rặc.
Sáu Thanh gật đầu, nói:
-Anh sáu hiểu ý chú rồi. Cám ơn chú nghe!
Sau tiếng kẻng bắt đầu hiệp bốn. Na Rặc đầy vẻ tự tin, dùng bộ pháp sâu đo tiến về phía địch thủ, hắn xoay lưng đối diện với mặt trời. Sáu Thanh dán chặt đôi mắt vào cái bóng của Na Rặc đang chuyển động trên sàn đấu, rồi giả vờ như bị thôi miên, đánh đấm loạn xạ, chờ cho hắn tiến đến vừa tầm đá. Sáu Thanh bất ngờ vùng lên như mãnh hổ, phóng người lên dây đài, mượn sức bật của dây đài bay người lên, xoay người theo chiều kim đồng hồ, tung ra tuyệt chiêu “Hùng kê đoạt mệnh cước” , gót chân phải đá móc vòng thật chính xác vào cổ địch thủ. Tốc độ của ngọn cước nhanh và cương mãnh đến nổi, khán giã chỉ thấy Na Rặc bị văng vào gốc đài, đầu ngoẻo sang một bên rồi từ từ gục xuống như một thân cây bị đốn gẫy. Và cái tên: “Đoạt mệnh truy hồn cước” ra đời từ đó. Về sau, ngọn thần cước vô địch, ông truyền lại cho Hai Rồng. Một thời nổi danh là “Thần cước trên dòng sông Mekong” .
Sáu Thanh chết trẻ vào năm 35 tuổi. Bảng hiệu xe Vạn Lộc cũng biến mất trên tuyến đường Sài Gòn – Cần Thơ. Sau khi Sáu Thanh qua đời, trong chuyến về thăm quê nội ở xã Nhơn Ái, tỉnh Cần Thơ vào năm 1939, Hai Rồng và Ba Hổ tự ý giải nghệ, sống kiếp thương hồ rày nay, mai đó: Đạo nào vui bằng đạo đi buôn / Xuống biển lên nguồn, gạo chợ nước sông.
o0o
Trời vừa hừng sáng, Tư Long đã tới vàm rạch Thủ Thừa. Và từ đó vào quận Thủ Thừa còn non 2 cây số. Quận nay khá lớn vào thời đó, có nhà lồng chợ, nhà giây thép, nhà thương và vài máy xây luá…Bến đò chợ Thủ nổi tiếng phồn thị. Nhờ ở chỗ giáp nước, sông sâu nước chảy và nằm trên thủy trình từ Sài Gòn về lục tỉnh và ngược lại qua các hệ thống kinh rạch chằng chịt như Bến Lức, Thủ Thừa, kinh Arroyo Commerce, kinh Lacombe…và cuối cùng là kinh Tháp Mười trước khi đổ ra sông Tiền, ngang miệt cù lao Giêng.
Vừa chèo ghe đến chợ Thủ, Tư Long chèo ghe dọc theo bến đò, tìm những ghe thương hồ để hỏi tăm tin tức chú Hai Rồng; thời may, gặp một thiếu phụ đang múc nước sông vo gạo đằng sau lái một chiếc ghe tam bản. Tư Long tấp ghe lại hỏi:
-Thím Hai vui lòng cho tôi hỏi thăm.
-Bác muốn tìm ai vậy?
-Dạ, chú Hai Rồng!
-À, chú Hai Rồng hả?” thiếu phụ vui vẻ nói, Chú Hai dẫn thằng Bền đi ra chợ từ hừng sáng, có lẽ cũng sắp về tới nơi rồi đó!
-Vậy thì may cho tôi quá! Tư Long nói.
-Thôi, để cháu chỉ chiếc ghe của chú Hai Rồng, bác chèo ghe qua đó chờ cho chắc ăn nghen, thiếu thụ lấy tay chỉ nói, Bác có thấy đoàn ghe đang cắm sào dọc theo con rạch, bên cạnh cây cầu đúc không? Chiếc ghe của chú Hai là cái thứ ba đó!
Tư Long cám ơn rối rít, rồi chèo ghe qua, cặp sát ghe của Hai Rồng chờ. Tư Long tựa lưng vào cột chèo, vấn điếu thuốc rê đốt, đưa lên môi phì phèo cho ấm. Mặt trời vừa nhô lên khỏi mấy ngọn cau bên kia bờ rạch, ghe xuồng từ các vùng lân can đổ về chật bến. Họ chở theo những đặc sản vùng Đồng Tháp Mười nào là: rắn, rùa, lươn, each, đủ loại cá đồng, cá sông…để chở lên Sài Gòn bỏ mối cho các vựa cá ở cầu Ông Lãnh. Những mặt hàng tế nhuyễn do dân thương hồ chở từ Cam Bốt về, bày bán ở chợ rất được đồng bào ưa chuộng. Các bạn hàng lên, xuống hàng hóa vô cùng huyên náo. Kìa, đoàn ghe lường chở lúa từ hướng sông Vàm Cỏ Đông chậm chạp tiến vào. Nhiều chiếc ghe lườn chở lúa, khẳm đến nổi chỉ còn thấy cái be ghe, miễn cưỡng nổi trên mặt nước. Lúa tập về nay bán cho các chành lúa để xây thành gạo, chở lên sài Gòn phân phối cho các tỉnh khác.
Tư Long hút tàn điếu thứ hai, cha con Hai Rồng cũng vừa về đến bến, tay xách giỏ mây nay ắp thức ăn, xắn quần lội nước ra ghe. Chờ cho hai người trèo lên ghe xong, Tư Long đứng trên ghe, nói:
-Dạ, kính chào chú Hai!
-Ủa, anh là ai, sao lại biết tên tôi? Hai Rồng ngạc nhiên hỏi tiếp, anh tìm tôi có việc gì?
-Chú Hai cho phép tôi lên ghe, hầu chuyện với chú được không?
-Dạ được, xin mời anh lên ghe!
Hai Rồng nắm tay của Tư Long, kéo lên ghe, đưa vào trong khoang, tự tay rót nước trà mời khách, rồi hỏi:
-Xin anh cho biết quí danh và gặp tôi có việc gì?
Tư Long nói:
-Gọi tôi là Tư Long được rồi, quản gia của ông Bá hộ Bảnh ở kinh Cái Cơ. Tôi đại diện bà con nông dân ở đó, nhờ chú Hai giúp đở một việc quan trọng.
-Đồng bào nhờ tôi giúp đở chuyện gì? Hai Rồng khẳng khái nói, nếu đồng bào cần tới tôi. Hai Rồng nầy quyết không từ chối!
Tuy mới sơ giao, Tư Long vô cùng ngưỡng mộ và kính phục Hai Rồng. Tư Long bèn kể lại tất cả những chuyện gây hấn của Sana Thạch Sum về vấn đề biên giới, cũng như trận thư hùng giữa Lý Võ Sư và Thạch Sum cho Hai rồng nghe, rồi kết luận:
-Dân làng đang mong tôi trở về để lấy quyết định: đi hay quyết tâm ở lại.
-Từ đây đến ngày ngày lễ hội Chol-Chnam-Thmey, còn non 2 tháng nữa. Chúng ta có dư thời gian chuẩn bị trận chiến bảo vệ biên giới với Thạch Sum.” Hai Rồng nói. “Nhưng, tôi còn phải đảm đang một trọng trách, hướng dẫn đoàn ghe thương hồ đi Sài Gòn lần nầy là phải tiêu diệt “Bối Ba Cụm” . Bối là bọn cướp đường sông, phát sinh vùng Ba Cụm, đang hoành hành vùng Tân Kiên, Tân Bửu ở Bình Chánh – Gia Định. Chúng nó bơi lặn rất giỏi, mai phục dưới nước, chờ cho ghe thương hồ đi qua, rồi bất ngờ phóng lên ghe, bê hết những món gì chúng muốn lấy, kể cả nồi cơm đang đang sôi. Nhiều chủ ghe khi đi ngang qua Ba Cụm, mặc dầu đã cảnh giác tối đa, cắt cử người thay phiên canh chừng chặc chẽ; vật mà, thoát một cái, bọn bối xuất hiện lấy cắp hàng hóa, rồi lặn vô bờ nhanh như những bóng ma.
Tư Long nói:
-Lúc trước, tôi cũng có nghe danh bọn bối nầy; hình như, bọn Bối Ba Cụm không phải là người Việt mình, phải không chú Hai?
-Anh Tư nói đúng! Bọn chúng đều là người Tàu, nằm trong tổ chức qui mô Thiên Địa Hội, núp dưới danh nghĩa phù Minh diệt Thanh. Về sau, phân hóa thành hai hệ phái: nhóm Phúc Kiến, dưới danh nghĩa Nghĩa Hùng Đoàn là nhóm Kèo Xanh, nhóm Triều Châu dưới danh xưng Nghĩa Hòa Đoàn là nhóm Kèo Vàng. Nhưng trên thực tế, không mấy ai biết rõ thế nào gọi là “kèo Xanh” hay “kèo Vàng” ? Tại Sài Gòn, tay trùm mật thám Savani gài tên Võ văn Thôn ở Mười Tám Thôn vườn trầu làm trưởng ban trừ gian của Thiên Địa Hội, nằm vùng trong nhóm Triều Châu khai báo những ám hiệu và ám ngữ để liên lạc nhau. Vì vậy, một số hội viên quan trọng của hai nhóm nầy, lần lượt sa lưới cơ quan mật thám Pháp.”
Tư Long nói:
-Quê tôi ở quận Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Hai hội Cờ Xanh” và Cờ Vàng” hoạt động phi pháp, khủng bố, bắt cóc để buộc những thương gia, địa chủ giàu có phải đóng tiền vô quỹ của hội kín. Chúng tranh giành ảnh hưởng và quyền lợi, gây nên những trận đánh long trời lở đất, làm mất an ninh trật tự. Để vãn hồi hòa bình, chánh quyền thuộc địa Pháp mới thành lập một trung tâm hành chánh tại vùng nầy. Do đó, tỉnh Bạc Liêu được thành hình vào năm 1882. Trước đây, tôi bị chánh quyền tỉnh Bạc Liêu ra lệnh tầm nã vì trong một trận xung đột dữ dội, có mấy tên cờ vàng đàn em thân tín của Mã Tắc và một tên phú lít Tây bị hạ sát tại Đồng Nọc Nạn, nên tôi cùng một người anh em kết nghĩa huynh đệ là thầy giáo Lê văn Trí phải trôi dạt về tá túc với ông Bá hộ Bảnh. Có một đêm thanh vắng, tôi đang chèo ghe tại Vàm Lẻo, cửa vào rạch Bạc Liêu. Bỗng nghe có người cất tiếng hát bằng tiếng Tiều, giọng lơ lớ trên khúc sông hiu quạnh. Người bạn đồng hành cho tôi biết, đó là ám hiệu của bọn Thiên Địa Hội để nhận diện nhau.”
Hai Rồng nói:
-Tôi là dân thương hồ nên rành 6 câu những ám hiệu của bọn nầy: Nếu nhìn thấy ghe nào, có cái nón lá úp trên đầu bánh lái đều là người cùng phe. Đi đâu họ cũng mang theo một cây dù đen, xếp gọn lại. Chỉ khi nào cần, họ mới giương dù lên để đồng bọn nhận diện: cán dù màu xanh hay vàng. Lúc di chuyển, xem cán dù móc trên cánh tay, nếu móc quay vô mình là báo hiệu có người đang theo dõi, đừng tiếp xúc, cảnh giác. Vô nhà hội viên, nếu khách dựng dù, trở cán dưới đất sẽ ở lại lâu. Còn nếu cán trở ngược lên là có việc khẩn cấp, phải vội vã đi ngay.
Tư Long hỏi:
-Theo tôi biết, cả hai hệ phái Thiên Địa Hội sở dĩ tồn tại được là nhờ các băng nhóm giang hồ người Việt bản xứ thì phải?
Hai Rồng nói:
-Đúng! Các băng nhóm bản xứ nầy xưng hùng, xưng bá chiếm cứ từng vùng, hoạt động theo chủ nghĩa anh hùng cá nhân. Cách đây mấy mươi năm, tại Sài Gòn nổi lên hai tên tuổi lẩy lừng là Nguyễn văn Trước tự Tư Mắt và Phan Phát Sanh tự Phan Xích Long thì nhóm Thiên Địa Hội mới nổi đình, nổi đám. Tư Mắt chỉ là tay anh chị trong làng dao búa, đâm thuê chém mướn lấy nghề cướp bóc làm kế sinh nhai. Tư Mắt tự xưng mình là Thống lãnh Thiên Địa Hội, chiêu dụ được vài tay hảo hán và tập hợp được một số đàn em khá đông dưới trướng. Còn Phan Xích Long là con người có chí lớn, không chủ trương cướp bóc mà chủ trương chống áp bức, bất công xã hội và bọn cường quyền ỷ thế áp bức dân lành. Phan Xích Long cũng xưng là Thống lãnh Thiên Địa Hội. Dân lao động nghèo khổ vùng Chợ Lớn, Cần Đước, Cần Giuộc thuộc địa phận Gia Định, bao gồm vùng Sài Gòn – Chợ Lớn tới giáp ranh tỉnh Long An theo rất đông. Có thể nói, nhóm Thiện địa Hội do Phan Xích Long tổ chức rất có quy củ và bài bản. Vì vậy, khi Phan Xích Long bị mật thám bắt, giam ở khám lớn Sài Gòn, các thuộc hạ của y thuộc vùng Cần Giuộc, Cần Đước, Chợ Lớn đồng loạt nổi dậy, dùng tầm vong vạt nhọn, giáo mác, mã tấu định bao vây khám đường, định phá ngục, giải thoát cho “đại ca” Phan Xích Long. Tuy mưu sự bất thành, nhưng tiếng vang của Thiên Địa Hội làm chánh quyền thuộc địa ăn không ngon, ngủ không yên với bọn chúng. Bọn “Bối Ba Cụm” cũng tự nhận mình là nhóm “kèo xanh” Thiên Địa Hội để gây kinh hoàng cho những đoàn ghe thương hồ từ miền Tây Nam Bộ lên Sài Gòn – Chợ Lớn.
Tư Long nhìn Hai Rồng, e ngại, nói:
-Nếu như, chú Hai vai mang trọng trách, tiêu diệt bọn Bối Ba Cụm để bảo vệ đoàn ghe thương hồ. Tôi có thể neo ghe, cắm sào tại đây chờ chú Hai vài ngày cũng được mà.
-Đối với tôi, việc bảo vệ lãnh thổ vùng biên giới phía Tây Bắc chống bọn Thạch Sum rất hệ trọng. Còn việc tiêu diệt bọn Bối Ba Cụm là chuyện nhỏ. Tôi nhờ chú Ba Hổ làm cũng được mà, Hai Rồng nhìn thằng Bền nói, con ra đằng sau lái ghe, hú chú Ba Hổ qua đây cho tía dạy việc.
Thằng Bền ghe tía nói, liền đi khom lưng ra đằng sau lái, lên tiếng gọi, ghe đang cắm sào kế bên:
-Chú Ba Hổ ơi! Qua đây cho tía con nói chút chuyện!
-Ừa, chờ chút! Chú Ba qua liền!
Khoảng vài phút sau, Ba Hổ chống sào nhảy qua ghe Hai Rồng, đi vào trong khoang. Hai Rồng giới thiệu cho hai người biết nhau:
-Đây là chú Ba Hổ, em kết nghĩa giang hồ với tôi. Còn đây là anh Tư Long, quản gia của ông Bá hộ Bảnh ở vàm Kinh Cái Cơ.
Ba Hổ gật đầu chào Tư Long, rồi hỏi:
-Gần tới giờ nhổ sào lên đường rồi, anh Hai cho gọi tôi, có việc gì quan trọng lắm không?
Hai Rồng gật đầu, nói:
-Anh Tư Long, quản gia của ông Bá hộ Bảnh ở vàm kinh Cái Cơ, nhờ anh Hai lên miệt biên giới Việt – Miên, chống bọn thảo khấu Thạch Sum để bảo vệ tài sản và tánh mạng của đồng bào. Vì vậy, việc tiểu trừ bọn Bối Ba Cụm, bọn cướp đường sông ở miệt Bình Chánh – Gia Định, anh giao cho chú Ba đảm trách. Liệu chú Ba có địch lại tên thủ lĩnh Huỳnh Thanh Long?”
Ba Hổ cười tự tin, nói:
-Theo chỗ tôi biết, võ nghệ của tên Huỳnh Thanh Long cũng tầm thường thôi, nhưng tài lặn hụp thì vô song. Nhưng, tôi có cách triệt hạ hắn. Anh Hai đừng lo!
-Chú Ba nhớ lời anh Hai dặn: Chuyện bất đắc dĩ, phải giết địch thủ là hạ sách, phế võ công là trung sách. Nhưng, thu phục hắn để phục vụ cho đại nghĩa mới là thượng sách. Chú Ba đừng quên rằng, có lần bọn họ đã tham gia vào đội du kích của người anh hùng áo vải Nguyễn Trung Trực đã phục kích và hỏa thiêu chiếc tàu Espérance của giặc Pháp trên sông Nhật Tảo ở Tân An vào năm 1861, gây kinh hoàng cho thực dân Pháp.
-Tôi nhớ lời anh Hai dặn, Ba Hổ hỏi, sau khi thi hành xong công tác, tôi sẽ gặp anh Hai tại đâu?
-Chú Ba cứ về cù lao Ông Chưỡng đợi anh Hai, Hai Rồng dặn dò, nếu như chú Ba thu phục được tên thủ lĩnh Huỳnh Thanh Long cải tà qui chánh, phục vụ cho đại cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp. Anh em mình phải nhờ đến anh ta giúp nghĩa quân đào tạo cấp tốc, lực lượng thủy binh để đột kích các căn cứ hải quân của Pháp.
-Việc nầy, anh Hai để tôi lo liệu. Nhứt định sẽ thành công! Ba Hổ tự tin, giọng chắc nịch tiếp, bây giờ tôi phải hướng dẫn đoàn ghe thương hồ lên đường đúng theo kế hoạch của anh dặn. Hẹn gặp anh tại cù lao Ông Chưởng. Thôi, chúc anh gặp nhiều may mắn!
Mặt trời đã lên khỏi ngọn cau già bên kia con rạch cả sào. Mấy anh em thương hồ đã lần lượt trở lại ghe chuẩn bị nhổ sào rời bến. Có tiếng người gọi ơi ới:
-Anh Hai Rồng ơi! Tụi tui sẵn sàng rồi! Lên đường chưa?”
Hai Rồng, Tư Long và thằng Bền ra đứng trước mũi ghe, vẫy tay chào từ giã mọi người, nói:
-Chú Ba Hổ tạm thay tôi hướng dẫn đoàn ghe thương hồ lần nầy. Tôi còn phải đi ngược lên kinh Cái Cơ có chút việc. Chào tạm biệt! Chúc anh em thượng lộ bình an.
Họ ngậm ngùi từ giã nhau. Hai Rồng đứng lặng lẽ nhìn theo đoàn ghe thương hồ nhổ sào lên đường cho đến khi khuất dạng sau rặng cây mù u, rồi nói với Tư Long:
-Thôi, bây giờ mình cũng sửa soạn đi cho kịp con nước lớn. Anh Tư cột chiếc ghe tam bản của anh đằng sau lái. Thằng Bền chèo mũi, anh Tư phụ với tôi chèo lái.
o0o
Sau khi ghe nhổ sào rời bến. Họ thay phiên chèo xuôi theo dòng sông Vàm Cỏ Tây, đói ăn, mệt nghỉ. Khi ghe đến vàm kinh Lagrane, trời cũng vừa chạng vạng tối, mọi người đều thấm mệt. Họ cắm sào nghỉ qua đêm tại đây. Thằng Bền thắp ngọn đèn bão treo lên cây sào, rồi ra đằng sau lái ghe nấu cơm. Đánh được hơi người, đàn muỗi từ đâu bay túa ra, nhiều đến nổi trông giống như một đám mây màu xám tro di động, bao trùm lấy chiếc ghe. Tiếng muỗi bay kêu vo vo như tiếng của bầy ong bị vỡ tổ. Muỗi bám đầy người thằng Bền, chun vào lỗ mũi, tai, cổ áo, làm nó thất kinh, mở cửa khoang, bò vào bên trong, nói:
-Tía ơi! Muỗi ở đâu bay đến nhiều quá trời, cắn đau quá!
Tư Long cười, nói:
-Chung quanh vùng nầy là lung với đìa, cỏ năng, cỏ lát, lau sậy, phi lao, trâm bầu…mọc đan nhau thành rừng nên muỗi mòng và các loại côn trùng tiếp tục sinh sôi, nẩy nở từ năm nầy sang năm khác, nhiều vô số kể. Trâu bò, heo của điền chủ được ngủ mùng. Còn bọn tá điền nghèo khổ như ông Tư nay, phải dùng lá chuối khô bó dính chùm lại treo giữa chuồng đề ban đêm đàn heo chui vào trong đó tránh muỗi. Ngoài chuồng, còn phải đốt cỏ, rơm, lá cây, xơ dừa để un khói cho muỗi bay dạt xa ra.”
Thằng Bền nói:
-Muỗi ở Đồng Tháp Mười khiếp thật hả, ông Tư!
-Nhưng mà ông Tư có cách trị muỗi cho cháu nấu cơm, Tư long nói, cháu ra đằng sau lái với ông Tư.
Tư Long kéo sợi dây đỏi, cho chiếc ghe tam bản cập sát chiếc ghe cà dom, buộc chặt lại, rổi nhảy xuống ghe của mình để lấy bốn cái thùng thiếc ủ nay cỏ mục, xơ dừa, vỏ bưởi phơi khô, chuyền lên cho thằng Bền, rồi biểu nó lấy mấy cục than hồng bỏ vào trong thùng, đem để ở đằng sau lái và mũi ghe. Vài phút sau, khói bốc lên mù mịt, đàn muỗi tản ra xa…
Gần một tiếng đồng hồ sau. Bền dọn mâm cơm đạm bạc để giữa khoang ghe. Tuy chỉ có mấy con mắm lóc kho tộ, dĩa rau thơm, chuối sống và bần chát mà họ ăn uống ngon lành. Thằng Bền phải nạo hết lớp cơm cháy dưới đáy nồi mới đủ no. Cơm nước xong, Bền lui cui lo dọn dẹp. Tư Long trở xuống ghe tam bản lấy cái nóp, một chai rượu đế Cái Dừng, ngon nhất xứ Đồng Tháp và vài khúc khô lươn ướp sả ớt mang lên mui ghe cà dom vừa nướng khô, vừa nhậu với Hai Rồng, tìm cách đối phó với Thạch Sum.
Hai Rồng cầm chén rượu nhấp môi mà đôi mắt đăm chiêu nhìn dòng sông lộ vẻ ưu tư về trận thư hùng sắp tới với Thạch Sum.
Hai Rồng nói:
-Trận quyết đấu với Thạch Sum là trận đấu sinh tử. Tôi chưa nghĩ ra cách nào phá phép gồng của nó, dùng tuyệt chiêu quyền cước không thể tranh thắng được mà trận đấu nầy, tôi phải thắng; vì nếu bị đánh bại, đồng bào ta sẽ bị chúng “cáp Duồn” không chừa một mạng. Bây giờ, tôi mới nghĩ ra cách “thủ huề” mà thôi.
Tư Long hỏi:
-Chú Hai đấu kiểu “huề vốn” là đấu làm sao? Thật tôi không hiểu thấu!
Hai Rồng nói:
-Đánh nhau dưới sông, thủy chiến là nghề của tôi; may ra, tôi có thể đánh bại địch thủ. Nếu không, tôi sẽ khóa chặt tay, chân Thạch Sum cùng chết dưới nước với tôi. Chỉ còn cách đó thôi!
-Chưa cần thiết phải hy sinh như vậy đâu, Tư Long cảm động nói, còn nước còn tát, cùng lắm là cả dân làng đồng một lòng tử chiến với bọn cướp.
-Nhưng, tôi hỏi anh Tư, Hai Rồng ngắt lời hỏi, liệu dân làng có đủ sức đối phó với bọn cướp Thạch Sum không?
Tư Long nghe hỏi, nín thinh. Hai Rồng nói tiếp:
-Tôi đã đi qua nhiều vùng dọc theo biên giới Việt – Miên, từ Tịnh Biên, An Phú, Hồng Ngự…và từng chạm trán nhiều phen với các đảng cướp người Miên khét tiếng. Chẳng những họ giỏi võ mà còn khát máu nữa. Sau khi cướp sạch tài sản của đồng bào, lùa trâu bò đi thì chúng đốt nhà. Ai chạy không thoát thì bị chúng “cáp Duồn” , trẻ con bị chúng nắm hai chưn xé tét làm đôi, thiệt vô cùng dã man, Hai Rồng nói, chỉ có cách đó mới giết được Thạch Sum và làm chúng mất tinh thần. Chúng ta sẽ thừa thắng xông lên, tiêu diệt chúng nó. Nhưng, với điều kiện là dân làng phải biết chút ít võ nghệ. Anh Tư nghĩ sao?
-Anh em lực điền đều có sức khỏe; tuy rằng, họ không có nghề võ, nhưng họ có tài mọn ném lao, phóng chĩa để mưu sinh từ thuở nhỏ, Tư Long nói, không phải tôi nói khoe tài, một con cá cờ bằng bàn tay đang lôi dưới nước, cách tôi từ 10 đến 20 thước, không thế nào thoát khỏi ngọn chĩa của tôi phóng ra.
-Nếu được như vậy thì hay lắm! Tôi vừa nghĩ ra cách tiêu diệt chúng nó, Hai Rồng tính nhẩm, tính ra chúng ta còn tròm trèm gần 2 tháng. Chừng đó thời gian, tôi và cháu Bền có thể huấn luyện võ nghệ căn bản cho anh em lực điền đủ sức chiến đấu với bọn cướp Thạch Sum, mạnh dùng sức, yếu dùng mưu. Thôi, mời anh Tư cạn ly nầy rồi đi ngủ sớm!
Tư Long nói:
-Chú Hai đi ngủ trước đi. Tôi uống cạn ly nầy sẽ đi ngủ sau.
o0o
Từ khi vợ qua đời ở Đồng Nọc Nạn, cách đây mười mấy năm rồi. Dù sống ở nơi nào, Tư Long có thói quen ngồi uống rượu một mình, khi thì ở bờ ao sau nhà, khi thì ngồi trên bờ đê trong những bổi chiều tà, chờ ngắm trăng lên, vừa nhậu lai rai, vừa suy gẫm việc đời cho qua ngày đoạn tháng.
Nói chung, đời sống của người nông dân miền Tây Nam Bộ đều có giống như vậy, riết rồi thành nề. Cả ngày làm việc quần quật trên ruộng lúa, hết cày rồi bừa, gieo mạ xong thì chờ ngày đi cấy. Khi lúa bắt đầu trổ bông là phải coi chừng nạn sâu ray phá hại mùa màng. Lúc hột lúa chín vàng, sắp đến ngày gặt là sợ sợ lũ chim trời ở đâu kéo về phá lúa.
Hồi năm ngoái, lúc lúa đang trổ đòng đòng xanh mơn mởn; nào ngờ, chỉ trong vòng một, hai đêm bị lũ chuột đồng, cào cào, châu chấu cắn phá tiêu điều. Hết lũ giặc chim, chuột…đến lũ giặc cướp từ bên kia biên giới kéo sang đốt phá làng mạc, cướp của giết người. Vì vậy, đời sống của người nông dân miền Tây Nam Bộ rất cơ cực, lầm than, gặp mùa nước nổi thì trắng tay thao thức cái ăn. Nhứt là những đất mới khai phá như vùng đất trũng Đồng Tháp Mười nầy:
“Trên trời muỗi kêu như sáo thổi
Dưới nước đĩa lội như bánh canh”
Ban ngày, họ phải tranh đấu thật vất vả với thiên nhiên. Họ đã đổ mồ hôi, máu và nước mắt trên luống cày, dưới ánh nắng mặt trời mùa hạ như đốt cháy da người và nước ruộng đồng nóng gần bỏng da. Mỗi buổi chiều tàn, nắng nhạt dần trên thửa ruộng là họ đã nhìn thấy những dòng khói lam chiều mong manh từ những mái tranh nghèo, ẻo lả bắt đầu bay lên bầu trời như nhắc nhở những người thân thương, trở về bên mái ấm gia đình. Hạnh phúc làm sao khi nhìn thấy bóng dáng người vợ hiền chập chờn bên bếp lò, bập bùng ánh lửa rơm, chuẩn bị bữa cơm chiều. Vì vậy, họ yêu bóng đêm! Bóng đêm êm đềm làm sao! Họ trút bỏ được bộ áo bà ba đóng phèn dầy cộm, nhầy nhụa mồ hôi lúc ban trưa, trên thửa ruộng bùn lầy để quây quần bên cùng vợ con bên ngọn dầu mù u hắt hiu, dùng bữa cơm chiều muối dưa đạm bạc. Và hạnh phúc của họ thật đơn giãn như cuộc đời của họ: “Trúng mùa!” chỉ có vậy thôi.
Còn những chàng lực điền độc thân vui tính, tụm ba, tụm bảy ngoài bờ sông, bờ ruộng, bờ đê đốt lửa rơm nướng con cá, con lươn, rắn, chuột…rồi xúm nhau nhậu, hết lít nầy đến lít khác. Vào những đêm trăng sáng tỏ hoặc những đêm trăng thanh gió mát, họ rủ rê nhau đi giăng câu. Tôm cá mắc lưới, bắt được con nào là nướng liền tại chỗ, chia nhau nhậu cho đến khi “hoắc cần câu” , mặc cho ghe trôi đi đâu thì đi, muốn tắp vô bến nào thì tấp. Đến khi tỉnh rượu thì chèo ghe về nhà, chuẩn bị ra đồng cày tiếp.
Ông Tư Long ngồi trầm ngâm uống rượu một mình trên mui ghe, nhớ lại những ngày vui đã qua cùng người bạn đời trong mái ấm gia đình; bỗng đâu, có tiếng chuông chùa từ một thôn vắng xa xôi nào đó vọng lại, những hồi chuông công phu trầm trầm ngân nga kéo dài lê thê trong không gian tĩnh mịch, khi thì dồn dập đổ liên hồi, quyện vào không gian tĩnh lặng của một ngày sắp tàn, âm thanh huyền hoặc len lỏi vào tận tâm hồn làm ông chợt thức, trở về với thực tại.
Con trăng hạ tuần uốn cong như cái lưỡi liềm, treo vắt vẻo trên bầu trời lấp lánh muôn ngàn vì sao. Ánh trăng nhợt nhạt, bàng bạc mơ hồ, tỏa ánh sáng lung linh trong màn sương đêm trắng đục như khói đốt đồng tỏa ra, bay la đà trên sóng nước. Tư Long nhấp nhấp môi một hớp rượu đế cay xè, trong lòng bồn chồn lo lắng…
o0o
Trong khoang ghe, thằng Bền đang cuộn mình trong nóp, bỗng thương cha, nhớ mẹ cũng trăn trở không ngủ được. Nó chui ra khỏi nóp, rón rén bò lại phía cửa sổ, chống cái phên cửa lên, tựa cằm lên khung cửa, nhìn mông lung ra bờ sông. Phảng phất đâu đây mùi hương bông lục bình tỏa ra từ trên sóng nước thơm ngát. Nó nhìn xuống dòng sông, một đám lục bình lẻ loi bị sóng đánh, dạt vào mạn ghe, mang theo một đóa hoa mới nở với những búp non màu phơn phớt tím, bám đều đặn trên một cuốn hoa màu xanh của dọt cuối non. Thấy bông lục bình, Bền lại nhớ đến lời mẹ hiền: “Mẹ đặt tên cho bông lục bình là “hoa thương hồ” vì nó sống trôi nổi theo dòng nước, sáng đầu sông, chiều cuối sông, nhưng hoa vẫn nở và tự vươn mình lên giữa mùa giông bão, lướt trên sóng to, gió lớn mà đi. Nó có khác gì thân phận của dân thương hồ như chúng ta đâu.”
Bền thò tay ra ngoài khung cửa sổ, định ngắt đóa hoa lục bình dâng lên bàn thờ của cha mẹ; hình như, đóa hoa cũng có linh hồn, cũng biết sợ hãi, run rẩy trong lòng bàn tay của Bền. Và không hiểu vì sao, nó cũng động lòng trắc ẩn, lấy bàn tay vẫy nước cho đám lục bình trôi theo dòng nước.
Thấy tía nuôi đang ngủ ngon giấc, ngáy vang như sấm, Bền đi ra đằng sau lái, nay cánh cửa khoang sang một bền, vừa đủ lách mình chui ra ngoài. Nghe tiếng động, Tư Long quay đầu nhìn lại, thấy Bền đang leo lên mui ghe.
Tư Long nói:
-Khuya rồi, sao cháu chưa đi ngủ?
-Dạ, cháu chưa buồn ngủ nên leo lên đây nói chuyện với ông Tư cho vui, Bền hỏi, con kinh nầy tên gì vậy, ông Tư?
-Đây là con kinh Lạc Giăng (Lagrange), một trong những con kinh lớn nhứt của vùng Đồng Tháp Mười, bề rộng trên dưới 20 thước do sáng kiến của ông Tham Biện ở Tân An tên Lagrange. Đất vét từ lòng kinh đấp lên hai bên bờ cao như con đê là loại đất sét màu vàng xám, không trồng trọt gì được; vì vậy, dân cư sống sống dọc theo con kinh đào nầy rất thưa thớt. Cứ vài trăm thước mới có một mái nhà lá thấp lè tè, trước mỗi căn nhà lá là có con xuồng cắm sào dưới dòng kinh, Tư Long nói, cháu có thấy mấy ngọn đèn dầu leo lét phía xa xa trong con kinh đó không?
-Dạ thấy, vùng nầy sao buồn quá hả, ông Tư!” Bền hỏi. “Đất không trồng trọt được, dân làm sao sống?
-Họ sống không được bằng cách nầy, phải xoay sở bằng cách khác, trời sanh voi, sanh cỏ mà cháu; vả lại, thiên nhiên cũng đãi ngộ vùng Đồng Tháp. Ở vùng nầy là vùng đất trũng, toàn là cây tràm, cây đước, chen chúc với cây dừa nước, mù u, bần xanh, lau say, chưn bầu, cóc kèn…hợp thành những đám lá tối trời như vùng U Minh ở Cà Mau. Vì khí hậu quanh năm ẩm thấp nên nhiều loại côn trùng sinh sôi nẩy nở nhiều vô số nhứt là muỗi mòng. Ở đâu có côn trùng là ở đó có vô số cá đồng như cá lóc, cá bông, cá sặc, lươn, rắn. Ngoài ra họ còn vét đìa hoặc đào ao nuôi cá. Chỉ cần treo một vài ngọn đèn bão, móc trên mấy ngọn sào, cắm vào giữa đìa vào ban đêm sẽ có hàng đàn con thiêu thân lao vào ngọn, rớt xuống đìa làm mồi cho cá. Hằng năm, trước mùa nước nổi là họ tát đìa bắt cá bán cho các vựa cá ở chợ Thủ làm mắm hoặc làm khô cũng đủ sống suốt năm. Hồi ông Tư mới đến vùng nầy có lắm đìa, không biết có từ bao giờ: một cái đìa mẹ có có nhiều đìa con san sát chung quanh đìa. Có những cái đìa có loại cá bông gấm, cá lóc có râu mình có vằn hoặc đen ngòm, bóng lưỡng, có dài gần nửa thước, cân nặng 5, 6 kí lo là thường.
Bền nhìn Tư Long hỏi:
-Ông Tư à, hồi sáng này, ông Tư bàn chuyện gì với tía con mà sao có vẻ quan trọng quá vậy?
-Chuyện dân làng ở kinh Cái Cơ và Hố Cái Bác nhờ tía cháu giúp đở chống lại bọn cướp Thạch Sum dang hoành hành ở vùng nầy. Mà nầy, cháu có biết võ nghệ không vậy?
Bền khiêm nhượng, nói:
-Dạ, cháu cũng biết chút đỉnh, nhờ tía nuôi cháu dạy.
-Ừa, vậy cũng tốt!
Thấy khói từ trong các thùng thiết loãng dần, bầy muỗi quay trở lại tấn công, tôi có chuyện nầy muốn hỏi cháu.
Bền hỏi:
-Chuyện gì vậy, ông Tư?
-Dóc dáng của chú Ba Hổ giống như một công tử bạch diện thư sinh, trói gà không chặc, làm sao địch lại tên Huỳnh Thanh Long, thủ lãnh của bọn Bối Ba Cụm?
-Ông Tư đừng có lo! Chú Ba Hổ nổi danh là “Thần Châm” . Mũi châm của chú vừa cứu người, vừa diệt trừ kẻ gian ác. Tài búng châm của chú Ba, quỷ khóc thần sầu. Một mũi châm được chú Ba Hổ búng ra khỏi bàn tay đều trúng phóc tử huyệt của địch thủ. Một con ruồi đậu trên vách, cách chú Ba chừng 10 thước, cũng chưa chắc thoát khỏi mũi châm của chú. Thần Châm Ba Hổ là chú đó! Ông Tư yên chí đi, Bền hào hứng kể tiếp, sau trận đấu với võ sư Na Rặc, ông Sáu bị trọng thương, tía và chú Ba dìu ông Sáu ra bến tàu Nam Vang để về Việt Nam bằng ghe buồm. Má Chín Xồi cho 6 cao thủ võ nghệ cao cường, đuổi theo truy sát tới tận bến tàu. Chú Ba Hổ liền búng ra một loạt 6 mũi thần châm, nhằm vào yếu huyệt chỉ làm họ bị tê liệt, không động thủ được.
-Chú Ba có truyền nghề búng mũi châm cho cháu không vậy, Bền?
-Dạ có, nhưng phải khổ luyện chừng 10 năm nữa, họa may mới được như chú.
Tư Long khuyết khích:
-Có công mài sắt, có ngày nên kim mà cháu! Lo gì không thành công!
o0o
Trời vừa hừng sáng, có đôi chim vành khuyên ở đâu bay đến, đậu trên mui ghe, âu yếm rĩa lông cho nhau, rồi cất tiếng líu lo. Tiếng gà rừng cất tiếng gáy rộn rả từ thôn xóm xa xa vọng, báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Bền vừa thức giấc đã thấy ông Tư Long và tía đang ngồi uống nước trà đàm đạo có vẻ rất tương đắc.
-Bền à, thức dậy rửa mặt ăn sáng, con nước sắp lớn rồi đó, Hai Rồng nói, phần cơm trong nồi để trên cái cà ràng là phần của con đó.
Thằng Bền ăn vội vã hết phần còn lại cho xong bữa là mấy con chim bìm bịp ẩn mình trong mấy buội ô rô ở hai bên bờ sông kêu dậy ổ. Con nước đã bắt đầu lớn, mấy giề lục bình bập bềnh trên sóng nước, trôi trở vô.
Tư Long nói:
-Từ đây, chèo tiếp tục theo thủy trình trên nầy, vượt khoảng 20 cây số sẽ đến vàm Kinh 12, nằm bên tả ngạn sông Vàm Cỏ Tây, mình cắm sào nghỉ trưa tại đó rồi tiếp tục chèo thêm 10 cây số nữa sẽ đến quận Mộc Hóa. Chúng ta nghĩ qua đêm tại bến đò ở chợ quận.
Hai Rồng hỏi:
-Từ Mộc Hóa đến vàm kinh Cái Cơ và sông Long Khốt còn bao nhiêu cây số nữa hả, anh Tư?
-Dạ, còn khoảng 40 cây số nữa sẽ đến nhà ông Bá hộ Bảnh.
-Như vậy là xế trưa ngày mai là chúng ta sẽ về đến nơi, phải vậy không?
-Dạ, trể lắm là chiều ngày mai!
-Thôi, mình nhổ sào lên đường là vừa.
o0o
Nhờ gặp con nước lớn thuận buồm xuôi gió, khoảng xế trưa là ghe đã đến ấp Cai Quản trên vàm Kinh 12, bên tả ngạn sông Vàm Cỏ Tây. Mọi người đều dừng tay chèo, cắm sào nghỉ trưa, lo nấu cơm nước.
-Cháu Bền bắt nồi cơm dùm cho ông Tư nghen, Tư Long quay sang Hai Rồng nói, để tôi thả bộ vào trong ấp Cai Quản tìm mua vài con gà luộc để dùng tạm trưa nay và cơm chiều. Khoảng một giờ hơn là tôi trở lại ghe.”
Tư Long lên bờ đi rồi, Bền hỏi Hai Rồng:
-Theo lời ông Tư kể, con thấy võ nghệ của Thạch Sum không phải tầm thường. Tía cho con đi theo, giúp tía một tay nghen, tía.
-Mạnh mình dùng sức, yếu dụng mưu, tùy cơ ứng biến để hạ địch thủ. Cái lo của tía là không phải là đối đầu với Thạch Sum mà là dân làng không biết một chút võ công. Nếu như, trong lúc chúng ta tấn công vào sào huyệt của họ ở bên kia biên giới. Thạch Sum cho thuộc hạ đánh úp dân làng thì sao? Vì vậy, tía muốn con giúp dân làng lo phòng thủ tốt hơn để tránh kế “Điệu hổ ly sơn” của Thạch Sum. Tía cũng đang lo không biết chú Ba Hổ đủ bản lãnh khuất phục tên Huỳnh Thanh long, thủ lĩnh của bọn “bối Ba Cụm” không?”
Bền đề nghị:
-Từ đây đến ngày tết Miên “Chol-Cham-Thmey” còn khoảng 2 tháng nữa. Chừng đó thời gian, đủ để hai tía con mình huấn luyện căn bản võ thuật cho họ để tự lực chiến đấu với bọn cướp Thạch Sum. Tía nghĩ sao?
-Tía cũng ý nghĩ nầy. Nhưng thôi, chờ khi đến gặp dân làng, tía mới có nhận định chính xác để tìm cách giúp đở họ.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau. Tư Long mang về giỏ xách đồ ăn, vui vẻ nói:
-Thiệt là may! Trên đường đi vô làng, tôi gặp một vài anh em lực điền vừa mới tát đìa, bắt cá vừa xong, đang ngồi tụm ba dưới bóng cây ô môi, làm món cá lóc nướng trui rất độc đáo. Họ lựa những con lóc bự, nặng hơn một kí, rồi dùng những thanh tre lụi qua mình con cá, cằm xuống đất, lấy cỏ, rơm, sậy, nhánh cây khô chất chung quanh đốt cho ngọn lửa cháy bùng lên. Chờ đến khi lửa tàn, cạo sạch lớp vảy bị cháy khét bên ngoài, tôi nài họ lại 4 con cá lóc nướng trui bự tổ chảng với giá 5 cắc bạc. Họ còn tặng cho tôi nắm rau thơm đủ loại, một gói muối ớt và một chai rượu đế để nhâm nhi với bạn bè.
Tư Long vừa nói, vừa lấy mấy tấm lá chuối trong giỏ xách trải trên khoang ghe để xấp bốn con cá lên còn bốc hơi nghi ngút, rồi dùng đũa rọc theo sống lưng, tách mình con cá ra làm đôi, thịt cá phơi trắng ngần trông thiệt bắt mắt. Tư Long hỏi:
-Tôi còn vài hủ mắm thái cá lóc của chị Bảy Bến Tràm, nỗi tiếng khắp vùng Đồng Tháp để ở dưới ghe tam bản, để tôi lấy cho chú Hai và cháu Bền dùng thử.
Nói xong, Tư Long kêu thằng Bền đi ra đằng sau lái, kéo sợi dây đỏi cho chiếc ghe cập ghe cà dom, rồi nhảy xuống gọn gàng, chui vào trong khoang, lấy ra một keo mắm thái, bần chát, khế chua, đọt chọi chuyền tay cho Bền mang vào trong khoang trước, mình leo lên sau.
Đồ ăn bày ra sẵn sàng, cơm cũng vừa chín tới. Cả ba người quay quần bên mâm cơm đạm bạc. Hai Rồng gấp một miếng cá lóc nướng trui, kẹp với rau thơm bỏ vào miệng nhai, rồi khen hết lời:
-Tôi đã từng thưởng thức cá lóc nướng bọc đất sét nướng lửa rơm, nướng thùng thiếc ở miệt U Minh. Nhưng cá lóc nướng lửa rơm của bà con nông dân vùng nầy thật ngon hết sẩy.
-Món ăn dân dã nầy, tuy đơn giản thiệt, nhưng khi nướng cá cũng phải có kinh nghiệm. Phải canh lửa sao cho rơm vừa đủ chín con cá. Lửa lớn quá sẽ làm cá bị cháy khét, còn lửa yếu thịt cá sẽ nhão nhẹt. Phần ngon nhứt vẫn là ruột cá, nếu chưa chín sẽ có mùi tanh, ăn mất hứng, nhậu mất ngon, Tư Long giới thiệu món mắm thái của chị Bảy ấp Bến Tràm, nghề làm mắm cá lóc thấy đơn giãn nhưng cũng lắm công phu. Con cá lóc phải còn tươi sống, rồi ướp gia vị “gia truyền” rồi đem ủ vài ngày. Con nào chết phải dạt ra ngay vì nó ăn muối nhiều nên cá sẽ mặn, thịt bở và con mắm không đỏ. Mấy hôm trước, trên đường xuống chợ Thủ Thừa, tôi có tạt qua Bến Tràm, ghé nhà chị Bảy Mắm mua vài kí mắm thái để ăn dần.
Cơm nước xong, Tư Long giúp Bền dọn dẹp xong thì trời cũng đã trưa. Bền nói:
-Tía và ông Tư nghỉ lưng một chút, chờ con nước lớn rồi lên đường.
Tư Long nhắc Bền:
-Vào năm 1931, chánh quyền thực dân Pháp có ra quy định áp dụng cho các ghe, tàu. Nói chung là phương tiện di chuyển đường sông thuộc Nam Kỳ Lục Tỉnh: Tất cả ghe thuyền loại cỡ từ 3 cây chèo trở lên đều phải vẽ số do chánh quyền cấp. Số ghe bao gồm số thứ tự , viết tắt là No, sau đó là các ký hiệu của địa phương. Thí dụ, chiếc ghe thứ nhứt của tỉnh Rạch Giá được viết tắt là RP1 (Rạch Giá Province 1). Chẳng hạn, chiếc ghe thứ 2 của tỉnh Bến Tre được ghi tắt là BP2 (Bến Tre 2)…”
Bền thắc mắc, hỏi:
-Còn như những tỉnh có những chữ cái trùng nhau như Bến Tre, Bạc Liêu hay Châu Đốc, Cần Thơ thì làm sau phân biệt được?
-Việc nầy chánh quyền địa phương có quy định về màu sắc sơn “con mắt ghe” để dễ phân biệt, không nhầm lẫn.
-Anh Tư nhắc tôi mới nhớ. Chiếc ghe cà dom của tôi chỉ có hai cây chèo lái nằm ngoài quy định của chánh quyền, Hai Rồng nhắc Bền, chiều nay, mình sẽ nghỉ qua đêm tại bến đò Mộc Hóa. Con nhớ lời ông Tư dặn nghe, kẻo gặp lôi thôi với chánh quyền địa phương đó! Bởi vì, cột chèo thứ ba để cho con chèo mũi phụ với ông Tư và tía mà thôi.
-Dạ, con nhớ rồi!
o0o
Gác mái chèo mũi lên mui ghe xong, Bền ngồi xếp bằng yên lặng trước mũi ghe thưởng thức cái không gian yên lặng, mát dịu. Từ khi cha mẹ chết, rồi theo tía nuôi Hai Rồng sống lênh đênh kiếp thương hồ, trôi nổi bồng bềnh trên sóng nước. Đây là lần đầu tiên, Bền mới có dịp chèo ghe lênh đênh theo con sông Vàm Cỏ Tây đi vào vùng đất trũng Đồng Tháp Mười, nó giống như một cái lòng chảo chứa nước lũ đổ về vào mùa nước nổi, nhìn thấy tận mắt hệ thống kinh đào chằng chịt, những vạt tràm xanh ngút ngàn nằm ven sông, ăn sâu vào trong các ngách sông Vàm Cỏ Tây trên vùng đất trũng hoang sơ nầy: Trên tràm xanh ngắt một màu. Giữa lúa ma là giống lúa không ai trồng, tự nó mọc vươn lên vào giữa tháng ba, tháng tư. Vào mùa mưa dầm hoặc nước nổi dâng lên đến đâu, cây lúa vươn lên đến đó, có khi cao gần ngất ngưỡng trên 2, 3 thước không cần ai chăm sóc, gởi lúa cho trời, đến tháng 10 khi mùa nước lên cao điểm thì lúa chín cho những hạt gạo màu đỏ tươi. Lúa ma mọc chen với cỏ lác, lau, sậy… dưới nước là quê hương đủ loại tôm cá, rắn rùa…” . Thỉnh thoảng, Bền bắt gặp những căn nhà lá sống chung với lũ lụt, thấp lè tè, nấp sau những rặng tràm ven sông.
Bền cảm thấy mình như đi vào một thế giới hoàn toàn xa lạ, yên tỉnh lạ lùng khi vượt qua những cánh đồng tràm hoang dã hàng trăm năm với những bưng trấp, lung đìa, bàu sen là quê hương của đủ loại chim trời làm tổ quanh năm như: trích mồng đỏ, le le, cồng cộc, điên điển, gà nước… mà thú vị nhứt là ngắm nhìn những đàn những đàn sếu đầu đỏ bay rợp trời vào lúc hoàng hôn và hàng ngàn con trích đầu đỏ cất gáy lảnh lót và nhảy múa trên các lung sen vào lúc bình minh.
Con Kinh 12 dài khảng 30 cây số, chạy thẳng tắp từ đầu sông Vàm Cỏ Tây đến đầu con kinh Bà Bèo, cách quận Cây Lậy khoảng 6 cây số. Trước đây, con kinh 12 rất hẹp bề ngang, do ghe xuồng tấp nập vận chuyển hàng hóa, thủy sản từ Mộc Hóa đến quận Cai Lậy nằm trên Quốc Lộ 4 nên Tham Biện tỉnh Mỹ Tho cho xáng thổi vào, nạo vét lòng kinh cho sâu và rộng hơn. Tuy chợ Mộc Hóa tan sớm vào khoảng 10 giờ là không còn ai buôn bán nữa. Nhưng, ghe xuồng về đến đầu con Kinh 12 cũng đã xế trưa. Thằng Bền nhìn thấy những chiếc xuồng ba lá mõng manh di chuyển thành đoàn. Xuồng ba lá được cấu tạo bằng ba tấm ván ghép lại gồm hai tấm ván be và một tấm ván đáy và một bộ thanh gỗ cong làm thành khung để kết hợp ba tấm ván dính chặt vào nhau. Dưới những khung gỗ cong là “lỗ lù” giúp nước chảy gom lại giữa khoang xuồng để dễ tát. Xuồng ba lá hoặc ghe tam bản là phương tiện di chuyễn tiện lợi nhứt. Ở vùng nầy, nhà nghèo tới cỡ nào cũng có tối thiểu một chiếc xuồng ba lá dùng để di chuyển trên sông rạch, trên ruộng ngập nước dùng để mưu sinh như giăng câu, chài lưới, chuyên chở hàng hóa hoặc để thăm viếng nhau. Xuồng ba lá còn được gọi là “đôi chân của dân miệt vườn” không có chiếc xuồng kể như người cụt chưn. Cùng với vó bè vùng sông nước, đồ nghề kiếm thêm con cá, con tôm của người già, đàn bà, trẻ con sống dọc theo kinh rạch, đã nên một khung cảnh nên thơ độc đáo của miệt vườn miền Tây Nam Việt.
Tiết xuân là mùa bông lục bình, màu tím biêng biếc nở rộ, sắc hoa đẹp dân dã mộc mạc, nhưng không kém phần thơ mộng như cô gái quê không son phấn kiêu sa mà vô cùng quyến rũ, nó trang điểm cho những dòng sông quê hương thêm phần lãng mạn, làm rung động bao trái tim thi nhân mặc khách, khi lặng lẽ thả thuyền lênh đênh trên sóng nước hay trong cơn mưa chiều giăng kín mặt sông, để tìm nguồn cảm hứng thi ca. Từng giề lục bình trôi bồng bềnh trên mặt nước, sinh sôi nẩy nở thiệt mãnh liệt, nhiều đến nổi làm khúc kinh rạch vùng Đồng Tháp tắc ghẽn giao thông. Dân cư sống dọc theo hai bên bờ rạch, thay phiên nhau vớt lục bình ném lên bờ, đắp chung quanh gốc cây ăn trái như xoài, đu đủ, mảng cầu, sầu riêng… lớp trước chưa mục thành phân xanh, lớp sau bám vào đó mà mọc thành dãy màu xanh rì. Còn trên bờ là mùa bông so đũa, những cây so đũa cao ngất ngưỡng 9, 10 thước, mang những chùm bông màu trắng, đôi khi màu hồng pha sắc tím, kết thành chùm 3, 4 cái. Trái nhỏ và rất dài như đậu đũa treo lòng thòng bị gió thổi đong đưa. Khi trái chín nở bung ra thành hai mảnh, để. những hột nhỏ như hột đậu rơi xuống đất, trổi dậy thành những cây con, mọc chung quanh cây mẹ vào mùa mưa năm đó.
Mùa bông so đũa nở rộ rất ngắn, khoảng chừng một tháng thì mùa cá linh sắp sửa đi qua. Mỗi năm, cứ độ tháng 10 là nó theo con nước từ Biển Hồ đổ về nhiều vô số kể, lội đặc lền kinh rạch từ Hồng Ngự đến Mộc Hóa. Đến tháng hai năm sau, chỉ còn sót lại những đàn cá linh ham vui, lạc lối về, vẫn còn bơi lội dung dăng trên sông rạch miền Tây Nam Việt. Cá linh mà nấu canh chua bông so đũa với trái me non, ngon hết biết! Thằng Bền thấy tía nuôi chèo chống cật lực trên dòng sông Vàm Cỏ Tây với ông Tư Long, mồ hôi lúc nào cũng tuôn ra nhễ nhại như tắm, đêm trằn trọc thao thức suy nghĩ tìm cách đối phó với Thạch Sum cứu giúp dân làng. Biết tía thích món ăn dân dã nầy, Bền bèn xăn quần cao khỏi gối, ôm cây sào sào tre, tuột xuống nước, leo lên bờ con Kinh 12, đi về phía cái vó bè gần đó để hỏi mua cá linh.
Bền nhìn thấy một cụ già, tóc bạc phơ, râu dài tới ngực, đã qua rồi cái thời trai trẻ vật lộn với con trâu đi trước, cái cày theo sau, nắng mưa dãi dầu trên đồng ruộng hoặc lặn lội trong rừng tràm ngập nước đốn cây, tát đìa bắt cá, chống xuồng đi thu hoạch lúa ma để gia đình mưu sinh. Đứng bên cạnh cụ là thằng bé mình trần trùng trục, đen đúa đang phụ giúp ông, kéo khung cần vó khá cồng kềnh lên khỏi mặt nước, những con cá linh, tôm, tép… từ cái giỏ buộc dưới rún vó, nhảy bắn lên để cố thoát thân. Thằng bé lật đật nhảy xuống xuồng ba lá, cắm sào cạnh cây cầu dừa, chống xuồng đến, tháo cái giỏ ra, trút cá vào cái thùng thiếc, rồi buộc cái giỏ dưới cái rún vó như cũ. Nó nói:
-Ông nội ơi, cá đầy ắp thùng thiếc rồi! Nghỉ tay đi nội.
-Ừa, thôi được! Mình ăn không hết, làm mắm cá linh để dành mùa khô có cái mà ăn, ông cụ hỏi, chiều nay mầy định làm món gì cho nội ăn đây hả?
-Cá linh hai món: kho rục với mía lau ăn với rau thơm và nấu canh chua với bông so đũa.
-Ừa, được đa! Ông nội cũng khoái mấy món nầy lắm đó!
Những con cá linh còn mắc lưới vó, cố giẫy giụa thoát thân. Bỗng một con chim bói cá đang đậu yên lặng, thu mình trên rặng mù u gần đó, nó đột ngột vẫy đôi cánh nhỏ xíu, lao vào miệng vó nhanh như mũi tên. Trong ánh nắng gắt ban trưa, sáng lóa đến chói mắt từ dòng kinh hắt lên, cũng nhìn thấy vảy con cá linh loang loáng bạc, quẫy đuôi trong mỏ con chim bói cá, đang bay vút lên bầu trời xanh…
Thằng Bền tiến đến gần ông cụ, khoanh tay lại, lễ phép hỏi:
-Xin bán cho con một cắc bạc cá linh, được không ông?
Ông lão nghe thằng Bền hỏi, cười ngất, nói:
-Một thùng thiếc cá linh, qua bán chưa đến một cắc bạc. Cháu định mua về làm mắm cá linh hả?
-Dạ, con chỉ cần vài kí cá linh đủ nấu nồi canh chua với bông so đũa cho bữa cơm chiều nay. Tía con thích món canh chua nầy lắm!
-Thôi khỏi, qua cho không! Muốn lấy bao nhiêu thì lấy, ông gọi thằng cháu nội đang cắm sào chiếc xuồng tam bản bên cạnh cây cầu dừa, Cu Tèo à, mang thùng cá lên bờ cho ông nội.
Thấy người lạ hoắc đang đứng xớ rớ bên cạnh ông nội. Nó hỏi:
-Ai vậy hả, ông nội?
-À, cậu nầy định mua vài kí cá linh nấu canh chua với bông so đũa. Nhưng, ông nội cho, chớ không có bán.
Cu Tèo đặt cái thùng thiếc xuống đất, nói:
-Ở vùng nầy, cá linh giá bèo lắm. Ăn không hết, làm mắm không hết, phải đem làm phân cá để bón cây thuốc lá. Anh muốn lấy bao nhiêu thì lấy, tui cho anh.
Bền mừng lắm, nói:
-Để tui chạy u về ghe lấy cái rổ cái đã, nghe bạn.
-Thôi, khỏi đi anh! Tui cho anh luôn cái rổ cũ, Cu Tèo nói, để tui vô nhà lấy cái câu liêm, giựt vài nhánh cây xuống, tuốt lấy bông so đũa cho anh.”
Thoáng một cái, Cu Tèo đã hái xong một mớ bông so đũa, chất đầy trong cái rổ cá linh đưa Bền, hỏi:
-Ở dưới ghe, anh có sẵn me chín, ngò gai, rau mò om, cần dầy lá, ớt chưa?
-Chỉ có me chín mà thôi!
-Anh chờ chút nghen, tui ra vườn hái rau cho anh! Cây nhà lá vườn thiếu gì rau dùng để nấu canh chua.
Thằng Bền nhận đủ hết vật liệu, cám ơn hai ông cháu nhà quê tốt bụng, rồi ôm cái rổ cá linh và bông so đũa, hấp tấp đi về ghe. Thấy ông Tư Long đứng đằng sau lái ghe, có vẻ như trông ngóng mình thì phải. Bền gọi:
-Ông Tư ơi! Con về tới rồi đây nè!
Tư Long hỏi:
-Ủa, sao không nghỉ ngơi mà đi đâu vậy, Bền?
-Dạ, con đi mua cá linh nấu với bông so đủa đãi tía và ông Tư chiều nay.
-Thôi, lên nghe chiếc ghe tam bản, lo nghỉ ngơi rồi lo nấu bữa cơm chiều đi cháu! Con nước sắp lớn rồi, ông Tư và tía cháu sắp nhổ sào lên đường.
-Từ đây đến quận Mộc Hóa còn xa không, ông Tư?
-Còn khoảng 8, 9 cây số nữa. Mình chèo ghe tới đó trước 4 giờ chiều. Qua đêm tại đây, sáng mai tiếp tục cuộc hành trình.
Bền trèo lên ghe tam bản, đem rổ cá linh ra đằng sau lái, bỏ đầu, bỏ ruột, bỏ đuôi, rồi đem mớ bông so đủa rửa sơ, để nguyên giọt mật trong vắt trong túi mật của nó. Chính giọt mật ngọt nầy làm cho nồi canh chua có hương vị vừa ngọt ngào pha chút vị đăng đắng của trái khổ qua, ngon tuyệt vời. Xong đâu đó, Bền bắt nồi nước trên cái cà ràng, nhúm lửa đun nước cho đến khi sôi sùng sục mới bỏ mấy trái me chín vào, lấy đũa dầm me cho đến khi tan hết lớp cơm, vớt bỏ hột, cho cá linh làm sạch vào nồi. Chờ cho cá chín, nêm thêm chút muối hột, đường tán cho vừa ăn, rồi đổ bông so đũa vào nồi. Khi nồi canh chua vừa chín tới là chiếc ghe cà dom đã nhổ sào, hướng tới vàm Kinh 12, nơi gặp gỡ con sông Vàm Cỏ Tây… Bền chui vào khoang ghe đánh một giấc ngon lành, không còn biết trời đất gì hết…
CHƯƠNG BA
GÁNH HÁT BỘI “SÓNG TRƯỜNG GIANG”
Vào khoảng 4 giờ chiều. Một hồi trống ngạo nghễ không biết từ đâu vang lên vội đến: “Thùng thùng…lắc cắc, lắc cắc… thùng thùng…” làm Bền giựt mình thức dậy, ngơ ngác. Nó lấy tay dụi mắt, đi ra mũi ghe tam bản, ngước mắt nhìn lên thấy tía và ông Tư Long đằng sau lái chiếc ghe cà dom, đang nhịp nhàng vung mái chèo.
Bền hỏi:
-Bộ dân làng đang nổi trống đón mừng tía con mình, phải không tía?
-Tới đâu mà tới! Mình sắp tới quận lỵ Mộc Hóa thôi con, Hai Rồng trả lời rồi nhìn Tư Long nói. Hồi trống nầy, ai đánh mà nghe có hồn quá! Giống như tiếng trống trận của Võ nhạc Tây Sơn mà tôi có dịp thưởng thức lúc ra sông Côn mùa võ tại làng Kiên Mỹ, tỉnh Bình Định là quê hương của nhạc võ Tây Sơn. Tôi nhìn thấy một vị lão võ sư họ Bùi, điều khiển một dàn trống trận gồm 12 chiếc tượng trưng cho thập nhị chi. Đặc điểm của tiếng trống trận Tây Sơn chỉ ba hồi: xuất quân, xung trận và khải hoàn và hoàn toàn không có hồi thu quân như các triều đại lịch sử khác. Vì vậy, suốt một đời điều khiển ba quân, xông pha trận mạc: đánh Nam, phạt Bắc của Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ chưa hề lùi bước trước quân xâm lược nào. Hễ ra quân là phải chiến thắng.
Tư Long nói:
-Hình như là gánh hát bội “Sóng Trường Giang” của ông Bầu Tý, đang trình diễn ở đây thì phải?
-Sao anh Tư biết?
-Cách đây hai năm. Theo lời mời của ông Bá hộ Bảnh, ghe hát nầy có đến kinh Cái Cơ hát cho bà con nông dân ở đó coi. Ông Bầu Tý có hai tay đánh trống ác liệt lắm: một nam, một nữ. Tiếng trống trận vừa khoan hòa, vừa dũng mãnh, kiên quyết như thúc giục ba quân, tướng sĩ của vua Quang Trung xung phong ra trận tiền, tiêu diệt quân nhà Thanh để bảo vệ Tổ Quốc, Tư Long nói: – Chú Hai nói đúng đó! Điều phi thường của tiếng trống trận Tây Sơn là sự phối hợp kỳ diệu giữa tinh thần thượng võ khoan hòa và ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam mình, làm rệu rã tâm lý cuồng ngạo của kẻ thù dân tộc từ phương Bắc!
oOo
Khoảng cách giữa ghe thương hồ và chiếc “ghe hát bội” của Bầu Tý đang cắm sào trên bến đò quận Mộc Hóa thu hẹp dần. Thằng Bền nhún mình, nhảy lên ghe cà dom, đứng bên cạnh tía. Và mọi người thấy rõ một đôi thanh thiếu niên nam, nữ còn trẻ măng, trạc tuổi thằng Bền. Cả hai đang thi đua biễu diễn tài nghệ trước dàn trống trận trên mui chiếc ghe chài, tay cầm dùi trống lướt uyển chuyển trên mặt trống, phát những âm thanh ngạo nghễ, trầm hùng, khi thì vang rền quyết liệt như thúc giục ba quân xung trận. Động tác múa dùi, đánh trống, phối hợp cùng bộ pháp di chuyển của họ thật linh hoạt đẹp mắt. Khán giả ngồi chật trên cây đúc xi măng và dọc hai bên bờ sông, say mê nghe họ đánh trống.
Tư Long nói:
-Mình cập ghe bên hông ghe của họ, để mình có dịp chén thù, chén tạc với họ tối nay cho vui, chú Hai nghĩ sao?
Hai Rồng gật đầu ưng thuận ngay, nói:
-Được quá đi chớ! Bầu Tý với anh là chỗ quen biết nhau mà.
Khi hai nghệ nhân trẻ tuổi, chấm dứt phần biễu diễn đánh trống. Khán giả đồng loạt đứng dậy vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Ông Bầu Tý xuất hiện, leo lên cầu thang, đứng trên mui ghe chài, tay cầm loa giới thiệu chương trình biễu diễn của gánh hát bội tối nay:
-Kính thưa bà con cô bác: Tối nay là đêm biễu diễn cuối cùng của gánh hát bội “Sóng Trường Giang” tại quận lỵ Mộc Hóa. Thể theo lời yêu cầu của ông Cả Bàn ở ấp Bến Tràm. Toàn ban chúng tôi sẽ diễn vở “Tam Tạng thỉnh kinh” . Quí vị khán giả sẽ thưởng hức màn biễu diễn võ thuật vô cùng ngoạn mục giữa Tôn Ngộ Không do kép trẻ Ba Hiền thủ diễn và nàng Nhện Tinh do đào võ Năm Hậu đảm trách” . Gánh hát bội chúng tôi sẽ mở màn đúng 8 giờ tối. Xin bà con cô bác chiếu cố đến đúng giờ trình diễn. Tôi, Bầu Tý xin thay mặt toàn ban gánh hát bội “Sóng Trường Giang” , chân thành cảm ơn tấm thạnh tình của quý liệt vị dành anh em nghệ sĩ của gánh hát bội chúng tôi. Xin hẹn ngày tái ngộ.
-Đúng là bầu Tý rồi! Tư Long nói, rồi leo lên mui ghe cà dom gọi:- Ê! Anh bầu Tý mạnh giỏi? Tư Long đây nè!
Bầu Tý nhìn thấy Tư Long đang đứng trên mui ghe cà dom, cắm sào bên cạnh gọi mình. Ông Bầu Tý mừng lắm, vội vàng nhảy qua ghe cà dom, ôm chầm lấy Tư Long nói:
-Lâu quá gánh hát bội của chúng tôi, không có dịp ghé qua gia trang của ông Bá hộ Bảnh trình diễn, giúp vui cho bà con mình ở đó. Còn anh dạo nầy thế nào? Có khỏe không? Trông anh có vẻ ốm hơn hai năm trước, tóc lại bạc nhiều đó nghen, anh Tư Long.
-Nói thiệt với anh, bà con nông dân, tá điền của ông bá hộ Bảnh đang lo sốt vó về cái vụ Sana Thạch Sum sắp vượt kinh Cái Cơ, tấn công qua biên giới, “cáp duồn” đồng bào. Không phải riêng tôi, mà ai nấy đều mang một nổi lo. Không biết rồi đây sẽ ra sao! Tư Long nhìn sang Hai Rồng nói:- May nhờ có chú Hai Rồng đây, giúp chúng tôi bảo vệ bản làng, chống với lũ cướp ác ôn Thạch Sum.
Bầu Tý hỏi:
-Có phải Hai Rồng, thần cước trên dòng sông Mekong không? Nếu được người nầy giúp đở, bà con tá điền khỏi phải lo!
-Đích thị là chú Hai Rồng đó! Tư Long nói.
Hai Rồng khiêm nhượng, nói:
-Hai anh quá khen! Võ công của tôi cũng tầm thường! Tôi chỉ biết tận nhân lực tri thiên mạng thôi. Tôi sẽ cố gắng hết mình vì đồng bào.
Bầu Tý móc cái đồng hồ quả quít từ trong túi áo ra, xem giờ rồi nói:
-Bây giờ gần 5 giờ chiều rồi. Tôi cho anh em trong gánh hát lo ăn cơm nước, rồi còn dẫn họ ra chợ, lo hệ thống ánh sáng, sắp xếp ghế ngồi cho gia gia đình ông Cả Bàn và các quan lớn trong quận. Sau khi tấm màn nhung sân khấu khép lại, anh em mình nhậu với nhau một bữa cho thèm.
Tư Long nói:
-Rừng nào cọp nấy, gánh hát bội của anh đã về đến địa phương nầy, bữa nhậu tối nay phải do tôi đãi anh em trong gánh hát!
Bầu Tý nói:
-Người cháu nội đích tôn của ông Cả Bàn tên là Khiêm, vừa tốt nghiệp “đốc tờ” ở bên Tây về, bao giàn gánh hát bội trong hai đêm với giá 200 đồng cho mỗi xuất hát, diễn tại chợ quận cho đồng bào xem. Trước là mừng thượng thọ bát tuần cho ông Cả Bàn; sau nữa là chia vui với gia đình ông có người đổ đạt thành danh. Bữa nhậu đêm nay, phải do tôi đãi mấy anh để chúc mừng cho gánh hát bộ diễn thành công!
Tư Long hỏi:
-Đêm qua gánh hát diễn tuồng gì vậy, anh Bầu Tý?
Bầu Tý nói:
-Đêm qua, tụi tui diễn vỡ tuồng “Kim Thạch Kỳ Duyên” do cụ Bùi Hữu Nghĩa quê ở làng Long Tuyền, tỉnh Cần Thơ sáng tác. Phải nói đây là vở tuồng có giá trị văn chương đặc sắc. Nghe nói, năm 1934 có ông Tây tên Mi Đăng (Midan) đã lấy tuồng “Kim Thạch Kỳ Duyên” làm luận án tiến sĩ, viết bằng tiếng Tây được báo giới ca ngợi hết lời. Sau buổi diễn, ông Cả Bàn và đồng bào địa phương vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt và tăng tiền bao giàn một đêm lên đến 250 đồng, khỏe ru bà rù.
-Thôi được rồi, anh bầu Tý! Anh lo công việc của anh đi. Lát nữa, anh em mình sẽ gặp nhau, tha hồ mà hàn huyên tâm sự đến sáng.
Sau khi Bầu Tý đi rồi, Bền nói:
-Thôi, mình cũng lo ăn cơm chiều đi tía. Tối còn đi xem hát bội nữa.
Tư Long nói:
-Cháu lo hâm lại nồi canh chua cá linh nấu với bông so đũa đi. Ông Tư lo bắt nồi cơm. Canh chua nầy mà ăn với mấm thái là đúng điệu ẩm thực miệt vườn, có từ thời khẩn hoang lập ấp.
-Khỏi nấu cơm đi, ông Tư, Bền nói, cơm nguội còn nhiều lắm! Để dành bụng còn nhậu với ông Bầu Tý nữa chớ!
-Ừ, thằng Bền nói phải đó, anh Tư!
Thằng Bền chuyền nồi canh chua lên cho ông Tư Long bắt lên cái cà ràng, hâm nóng, còn mình lo xắt nhỏ ngò gai, rau om, ớt chín…chờ khi nồi canh chua sôi lên, liền bắt ngay nồi canh ra khỏi bếp, bỏ rau thơm vào. Mùi thơm bốc ra từ nồi canh chua làm ai nay đều cảm thấy đói bụng cồn cào…
Cơm nước vừa xong, Bền thấy ông Bầu Tý hướng dẫn 14 người trong đoàn hát lên chợ quận. Bền xin phép tía tháp tùng theo anh em nghệ sĩ ra chợ chơi cho biết. Hai Rồng nói:
-Xem họ cần gì, con giúp đở họ một tay! Đúng 8 giờ tối, tía và ông Tư Long sẽ gặp con tại sân khấu.
oOo
Mộc Hóa là một trong những quận nghèo nhứt xứ Nam Bộ, nằm heo hút bên tả ngạn, gần đầu nguồn sông Vàm Cỏ Tây. Ngoài những công sở như nhà việc, nhà thương, trường tiểu học, trụ sở cảnh sát là xây bằng gạch, mái lợp ngói đỏ; ngoài ra nhà lồng chợ, các quán cơm, quán cà phê hoặc tiệm chạp phô đều cất bằng ván. Khác với mọi hôm, khoảng 10 giờ sáng là chợ đã tan rồi, không còn người mua kẻ bán rộn rịp nữa, chợ vắng hoe, chỉ còn mấy anh lính cảnh sát mặc đồng phục, ngồi ngáp dài bên ly cà phê trong tiệm nước. Cách chợ hơn 100 thước là đồng không, mông quạnh, cỏ lát xanh ngắt một màu, chạy thẳng tấp tới chân trời xa.
REPORT THIS AD
Nhưng, đặc biệt từ ngày hôm qua. Khi ghe hát bội “Sóng Trường Giang” của ông Bầu Tý nổi trống nhạc võ Tây Sơn do hai tay trống cừ khôi trong đoàn là cậu Ba Hiền và cô Năm Hậu biểu diễn, đã làm cho đồng bào sống dọc theo sông Vàm Cỏ Tây vô cùng háo hức, vui mừng không tả xiết, họ ăn mặc chỉnh tề ra đứng dọc bên bờ sông, chào mừng ghe hát. Bọn làm nghề không vốn cũng ngưng hành nghề đạo chích, còn những người nông dân sống trong vùng sâu phải đốt đuốc lội bộ, băng đồng 4, 5 cây số đi xem hát bội.
Ở một địa phương xa xôi hẻo lánh, hiu quạnh gần như cô lập với thế giới bên ngoài. Nhân viên, công chức bị thuyên chuyển về Mộc Hóa, họ đều có chung một cảm tưởng như bị đi lưu đày, vì đường bộ chưa có, chỉ có đường sông mà phương tiện di chuyển duy nhứt là ghe tàu. Cho nên, lâu lắm mới có ghe hát về đây biểu diễn là bà con tấp nập đi xem. Truyền thống mê hát bội đã có mặt trong đời sống văn hóa miệt vườn từ lâu đời, nó theo chân người đi khẩn hoang lập ấp từ đầu thế kỷ 20 cho đến bây giờ. Già trẻ, bé lớn đều mê coi hát bội, ngoài nhu cầu giải trí, tuồng tích còn dạy cho người ta những bài học về nhân, lễ, nghĩa, trí, tín của người xưa để khán giả có dịp suy gẫm về đạo đức làm người. Nghi thức cúng đình luôn luôn gắn liền với các gánh hát bội. Nơi nào có đình là có hát bội đến trình diễn. Như vậy, có thể nói nghệ thuật sân khấu “Hát Bội” đã có mặt trong đời sống văn hóa truyền thống ở vùng đồng bằng sông Cửu Long từ đầu thế kỷ 20. Vì vậy, cái quan niệm cũ rích “xướng ca vô lại” không có chỗ đứng trong di sản văn minh miệt vườn của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Ngay từ trưa hôm qua, trên bến dưới ghe xuồng vô cùng nhộn nhịp. Những quán cơm, quán nhậu được cấp tốc dựng lên để phục vụ khán giả. Về đêm, đèn “măng sông” được thắp sáng choang như ngày hội lớn trong năm. Cái sân khấu được dựng lên mặt tiền nhà lồng chợ quận. Dân chúng phụ giúp nhân viên gánh hát, lăn tám cái thùng phi dầu hắc của quận, chuẩn bị làm con đường trải đá từ bờ sông đến nhà việc, để làm tám cột dã chiến, trên dùng gỗ tạp gác làm đà ngang, trên lót ván. Tại quận Mộc Hóa vào thập niên 40, nhà đèn của quận chạy bằng dầu “mazout” chỉ đủ cung cấp cho nhà việc, nhà thương, dinh ông Quận, còn đèn đường chỉ có vài ngọn sáng mù mờ, khi tỏ khi lu. Ông Cả Bàn trả 40 đồng tiền điện để tăng cường hệ thống ánh sáng cho đoàn hát: Hai cái máng gỗ đứng đứng hai bên cánh gà, mỗi máng có 4 bóng đèn 100 watts có bịt giấy kiếng màu xanh, hồng và màu vàng. Còn trong hậu trường, phải đốt thêm hai ngọn đèn “măng sông” để cho đào kép hóa trang.
Chưa tới 6 giờ chiều mà bầu không khí dưới bến sông và chung quanh chợ quận vô cùng náo nhiệt. Tiếng người gọi nhau ơi ới, bà con nông dân từ các ấp lân cận và các vùng xẻo sâu cách đó cả chục cây số như ấp Lò Gạch, ấp Cai Quản, ấp Bến Tràm, xóm Hội đồng Chiến…họ đi thành từng nhóm hoặc từng đoàn lũ lượt kéo đến bằng đủ mọi phương tiện di chuyển như ghe, xuồng và lội bộ băng đồng. Các quán cơm, quán giải khát chật nít người ngồi. Còn bọn trẻ con ngồi chồm hổm, vây quanh các gánh cháo, hủ tiếu, chè cười nói ồn ào như vỡ chợ… Một ly nước chanh đường hoặc một chén chè từ 2 xu tăng lên 4 xu. Chém đẹp! Nhưng không một ai than phiền, vì nôn nóng chờ đến giờ gánh hát kéo màn trình diễn. Các ông già, bà lão có nhiều kinh nghiệm đi xem hát hơn; thay vì, vào các quán nước ngồi chờ đợi làm gì cho tốn tiền, họ mang theo chiếu, nóp kiếm chỗ tốt trải ra ngồi chờ. Các ông vấn thuốc rê phì phà kể nhau nghe những kinh nghiệm về đồng áng, còn các bà têm trầu, nhai bỏm bẻm bàn chuyện mối mai con cháu nên duyên chồng vợ…thỉnh thoảng có tiếng trẻ khát sửa, giãy khóc, bà mẹ vạch áo cho con bú tỉnh bơ giữa đám đông người.
Thằng Bền cũng chạy đôn, chạy đáo phụ giúp nhân viên trong đoàn hát treo phong màn vẽ cảnh núi non chập chùng, hiểm trở, rồi lo sắp 3 hàng ghế ngồi ghế ngồi cho quan khách và gia đình họ, ngay trước sân khấu. Ông Bầu Tý kiểm tra lại hệ thống ánh sáng, kéo thử hai tấm màn nhung có trơn tru hay không? Trong hậu trường, ban nhạc công gồm có Hai Võng chơi đờn kìm, Chín Vĩnh chơi đờn cò, Mười Hào chơi đàn ghi ta phím lõm… bắt đầu so dây, chỉnh âm thanh cho đúng. Các vai diễn khác như Đường Tam Tạng, Trư Bát Giới, Sa Tăng… cũng lo mặc trang phục, vẻ mặt hóa trang với sự phụ trách của cô Tám Lựu, chuyên viên hóa trang của đoàn. Còn cậu Ba Hiền thủ vai “Tôn Ngộ Không” đánh côn và cô Năm Hậu thủ vai “Nhện Tinh” đánh song kiếm, dợt võ đằng sau hậu trường để diễn cho ăn khớp. Họ được hóa trang sau cùng vì vai diễn của cặp đào kép nầy chỉ biểu diễn song đấu vào hồi chót của vở tuồng.
Đúng 7 giờ chiều. Bầu Tý cho mở công tắc điện, cháy sáng rực sân khấu, rồi cho nổi trống như đánh trống múa lân, đánh chập chỏa xèng xèng, vui nhộn như ba ngày Tết. Nửa giờ sau, chiếc ghe hầu sang trọng, có tới 4 lực điền chèo, đưa cả gia đình ông Cả Bàn cập bến tàu. Ông Cả Bàn năm nay vừa đúng 80 tuổi, có vẻ yếu đuối lắm, đi phải có người dìu. Bầu Tý vừa hay tin, liền đưa 10 đồng cho Ba Hiền, biểu chạy u ra đằng quán cháo gà của dì Sáu, đặt 6 con gà luộc xé phai trộn rau râm, trước là để đãi khác, sau là để anh em trong đoàn ăn lấy sức.
Bầu Tý còn cẩn thận dặn:
-Nhớ cho bà ta biết, sau giờ diễn sẽ cho người đến lấy nghen, con trai!
Hai cái ghế bành có bọc đệm, đặt ngay trước sân khấu dành cho ông Cả Bàn và quan đầu quận Mộc Hóa, thân nhân chia nhau ngồi hai bên và dãy ghế thứ hai, dãy thứ ba dành cho công chức và lính cảnh sát quận. Còn lớp khán giả bình dân đến mỗi lúc mỗi đông đứng, ngồi đặc nghẹt đằng sau ba hàng ghế danh dự hoặc hai bên cánh gà sân khấu. Ông Bầu Tý liền cho gióng ba hồi trống, trước khi kéo tấm màn nhung, trình diễn vở tuồng: “Đường Tam Tạng Đi Thỉnh Kinh.”
oOo
Lớp một và lớp hai do anh Ba Sự thủ vai Đường Tăng phải hy sinh mái tóc chải kiểu “bảy ba” láng cón của mình để diễn cho đạt. Trư Bát Giới do Năm Phệ thủ diễn, còn Sa Tăng do Chín Cảo cao nhòng, đen thui diễn xuất. Còn mấy nàng nhện tinh do chị em nữ nghệ sĩ trong gánh hát ca diễn. Họ toàn là nam nữ nghệ sĩ nghiệp dư, chưa có tiếng tăm gì cả nhưng rất yêu nghề, chuyên đi lưu diễn giúp vui những buổi lễ cúng đình lớn ở Miền Tây như: đình Tân An, Bình Thủy, Ô Môn, Thốt Nốt, Long Trị…Bởi vì, phương thức tổ chức của gánh hát bội không tập trung nghệ sĩ cùng ăn, cùng ở, cùng tập dợt với nhau như các đoàn hát cải lương. Xong một chuyến lưu diễn, ai về nhà nay lo sanh kế. Bầu gánh giữ phong màn, sơn thủy, y quan, dụng cụ…Theo sự mời mọc của các địa phương, ông Bầu sẽ tập hợp các “bạn hát” lại, thầy tuồng, thầy đờn rồi mướn một chiếc ghe chài làm phương tiện di chuyển, lấy mui ghe chài làm sàn diễn tập. Khi ghe hát cập bến là họ đã diễn ăn khớp rồi. Gánh hát bội “Sóng Trường Giang” cũng không ngoại lệ.
Đứng sau cánh gà, Bầu Tý không ngờ tất cả anh chị em nghệ sĩ trong đoàn ca, diễn, múa, điệu bộ xuất thần, hay quá xá. Quan khách và khán giả bình dân vỗ tay từng chập, hoan hô nhiệt liệt. Trong hậu trường sân khấu, ai nấy đều lên tinh thần, chờ màn diễn then chốt là màn đấu võ cực kỳ sôi động giữa Tôn Ngộ Không và nàng Nhện Tinh để giải cứu sư phụ Đường Tăng. Lớp hai chấm dứt, tấm màn nhung vừa khép lại thì bất ngờ, chị Tám Lựu hớt hơ, hớt hải đi gặp Bầu Tý báo cáo:
-Thôi, chết mẹ rồi ông bầu ơi!
-Chuyện gì thì thủng thẳng nói, làm gì mà la hoãng lên vậy, chị Tám Lựu?
-Tới bây giờ, tui cũng chưa thấy mặt mày thằng Ba Hiền ở đâu để cho tui hóa trang nữa. Lớp ba sắp tới nơi rồi, ông tính làm sao đây, ông Bầu?
-Thôi, chia nhau đi kiếm nó coi! Ông Bầu Tý chợt nhớ nói:- À, tôi nhớ ra rồi! Cách đây gần hai tiếng đồng hồ, tôi có biểu nó chạy u ra quán cháo gà của dì Sáu đặt mua 6 con gà luộc xé phai trộn với rau râm, sau giờ diễn tới lấy, để tôi và thằng Chín Cao ra đó kiếm nó coi! Không có nó thì gánh hát bội “Sóng Trường Giang” sẽ rã gánh tại đây!”
Vừa thấy mặt ông Bầu Tý chạy đến, dì Sáu tru tréo:
-Chèng đéc ơi, nhậu gì mà nhậu dữ ác. Một mình nó ăn gần nửa con gà xé phai trộn gỏi, chơi luôn hai xị rượu nếp than. Ăn nhậu no say rồi gục tại bàn, không để ai làm ăn buôn bán gì hết! Say mèm như vậy làm sao mà diễn tuồng được hả, ông Bầu?
Ông Bầu Tý nói:
-Nó không diễn được đêm nay, tôi cho rã gánh tại nơi nầy, nghỉ hát luôn. Say khướt như vầy, làm sao diễn được lớp ba đây, nè trời?
Chín Cao nói:
-Để tui cõng nó về đằng rạp, rồi liệu tính sau.
Bầu Tý chợt nhớ đến thằng Bền, mắt sáng lên, nói:
-Ê, Chín Cao! Tao thấy thằng Bền, cháu anh Tư Long, giúp mình lo trang hoàng sân khấu, sắp xếp ghế ngồi hồi chiều, tay chưn của nó lanh lẹ, tháo vát. Nhờ nó đóng vai Tôn Ngộ Không thế thằng Ba Hiền được đa.
-Được không đó, cha nội? Ít ra, thằng Bền phải có chút nghề mới diễn chung với con Năm Hậu được; nếu không, nó đá cho hộc máu!
-Thôi, mầy lo cõng thằng Ba Hậu đi xuống ghe chài, cho nó ngủ đi, tao đi kiếm thằng Bền, ông Bầu Tý lắc đầu nói:- Không có chó thì bắt mèo, chớ biết sao bây giờ.”
Lúc đi ngang qua dãy ghế thứ ba, thấy Tư Long đang ngồi bên cạnh Hai Rồng và thằng Bền. Bầu Tý liền ngồi sà xuống bên cạnh, nói nhỏ:
-Thằng Ba Hậu nó nhậu sứa rồi. Anh Tư cho tôi mượn cháu Bền thế nó, đóng vai “Tôn Ngộ Không” lớp ba, được không anh Tư?
-Đâu anh hỏi thử nó coi?
Thằng Bền nghe hỏi, khoái lắm, chịu liền, nói:
-Tưởng gì khó, thủ vai “Tôn Ngộ Không” múa võ, đánh côn vù vù là nghề của con mà, ông Bầu!
-Thôi được rồi, ra sau hậu trường hóa trang cho kịp giờ diễn.
Thằng Bền mặc bộ đồ hóa trang “Tôn Ngộ Không” vô chật cứng, nói:
-Bộ đồ nầy chật quá, làm sao múa côn được, ông Bầu?
-Chú chỉ có mỗi một bộ đồ nầy thôi, ôÂng Bầu đề nghị:- Cháu cởi quần xà lỏn, áo thun, rồi mặc đồ hóa trang vô, thì vừa chớ gì.
Cởi bỏ quần áo lót xong, vận đồ hóa trang vô, cũng tạm thoải mái. Trong khi chị Tám Lưu lo hóa trang mặt mày, vẻ râu, mang hia, đội vòng kim cô lên đầu…ông Bầu Tý hướng dẫn cấp tốc vài động tác như gãi đầu, gãi nách, nhún nhảy, múa thước bản và vài câu nói lối…thì giờ diễn bắt đầu. Ba hồi trống vang lên thùng…thùng…thùng… tấm màn nhung từ từ kéo ra. Năm Hậu đã được hóa trang từ lâu, đang tập dợt đường kiếm của mình cho lão luyện để phục vụ khán giả, nên không biết ất giáp gì cả. Nghe tiếng trống báo hiệu mở màn là lật đật nhào ra sân khấu.
Trên sân khấu, Năm Hậu là nàng “Nhện Tinh” , song kiếm gác tréo sau lưng, hai tay chống nạnh, điệu bộ vênh váo đắc ý, đi qua lại, nhìn Đường Tăng đang bị trói ngô, nằm bên cạnh cái chảo nước một cách thèm thuồng. Y thị vừa định xốc nách Đường Tăng đem đi luộc; bất ngờ, Tôn Ngộ Không từ trong hậu trường, xách cây thước bảng phóng ra sân khấu, điệu bộ hùng dũng, nói:
-Bớ con tiện tỳ yêu quái kia! Muốn ăn thịt sư phụ của lão mổ, để sống lâu ngàn năm, phải hỏi cây côn của ta có đồng ý không cái đã.
Còn Năm Hậu rất ngạc nhiên, vì giọng nói nầy không phải của Ba Hiền, không biết thằng nào nhảy vô đây đóng thế vai của nó? Phản ứng tự nhiên, Năm Hậu hỏi cương, giọng kiêu ngạo:
-Mi là thằng bá vơ nào? Dám cả gan nhào đại ra đây đòi tỉ thí với bà hả, thằng quỷ nhỏ kia?
Thằng Bền trả lời, giọng trêu ghẹo:
-Tao mặc bộ đồ nầy, mi không biết tao là “Tôn Ngộ Không” sao hả, đồ đui?
Năm Hậu tức khí, vói tay ra sau lưng, rút song kiếm một cái rẹt, nói:
-Được rồi, để cho con đui nầy, dạy cho mi một bài học lễ nghĩa.
-Đấu thì đấu, sợ gì chớ! Rủi ro có bị thương, đừng thưa lính bắt tao nghe?
Năm Hậu liền múa song kiếm vù vù, khán giả chỉ thấy ánh kiếm loang loáng dưới ánh đèn màu, lúc phủ kín thân mình, khi che trên đầu, lúc luồn ra sau lưng, chém bên tả, đâm bên hữu. Có lúc, nàng múahai thanh kiếm quay thành hai vòng tròn như hai cái chong chóng. Lúc đang uyển chuyển, đảo thân mình xoay vòng tròn; bất thình lình, nàng hét lên một tiếng, trụ chưn trái, chưn phải co lên, còn hai cánh tay cầm kiếm, dang thẳng cánh tay trái ra, còn thanh kiếm kia chĩa thẳng lên trời, làm thành một gốc 90 độ, trông thật đẹp mắt.
Ngồi dưới hàng ghế khán giả, Hai Rồng phải chặc lưỡi, khen:
-Võ nghệ của cô bé nầy không phải tầm thường. Nhứt định phải có danh sư chỉ điểm đây.
Thằng Bền cũng đâu có chịu kém. Nó xuống tấn, hai bàn tay nắm chặt cái cán côn tròn bằng gỗ, chĩa thẳng đầu côn ra trước ngực, đảo đầu ngọïn côn quay tròn vù vù, trước chậm, sau nhanh, rồi đập ngọn côn bên trái, bên phải. Bền bật ngữa người ra, thọc đầu ngọn côn ra phía sau; đột ngột đứng dậy, dùng hai bàn tay cầm giữa cái côn, múa thanh côn quay tròn vù vù, che kín ngực, bụng, đầu…Một khán giả tinh nghịch muốn thử tài của Bền, bún liền mấy hạt sỏi nhắm lên người của Bên bay đến. Sỏi trúng vào côn gạt văng trở xuống sân khấu. Bền bất ngờ rùn chưn trái xuống, dũi thẳng chưn phải ra phía sau, nắêm chặt cán côn hướng về phía đào Năm Hậu thách đấu.
Đào nhí Năm Hậu chỉ chờ có thế. Nàng lộn hai vòng, vung tay kiếm, chém tạt hai bên hông địch thủ. Bền liền chống đầu côn xuống đất, bún hai chưn nhào lộn một vòng, nhanh chóng thọc ngược ngọn côn vào huyệt “yêu nhãn” nơi thắt lưng của nàng. Năm Hậu xoay người sang bên trái, quật ngược thanh kiếm, đánh tạt ngọn côn sang một bên. Nàng nương theo đà xoay, thuận tay nàng chém vòng xuống một đường kiếm lên giữa đỉnh đầu của địch thủ. Muốn tránh thế kiếm ác liệt của nàng, Bền nhanh chóng uốn cong người, nắm ngang ngọn côn đở lưởi kiếm nghe một cái kẻng. Hai bên giao đấu tận tình, đường côn và kiếm loang loáng dưới ánh đèn màu, chạm vào côm cốp. Khán giả đồng loạt vỗ tay từng chập, hoan hô tán thưởng. Bầu Tý không ngờ hai cặp đào kép trẻ nầy diễn ăn ý quá chừng, giao đấu tận tình. Ông đích thân đánh trống cổ võ, cả hai hừng chí, quyết ăn thua đủ với nhau, làm anh Ba Sự thủ vai Đường Tăng sợ bị lạc đạn, lăn qua cái phong màn, vô tuốt phía sau hậu trường, báo động:
-Ê, mấy cha nội! Làm ơn kéo màn lại, can hai đứa nầy lại coi! Tụi nhỏ hăng tiết vịt, quên đây là sân khấu hát bội, chớ không phải võ đài. Chúng nó quánh nhau ầm ầm, chạy nhảy làm rung chuyển sàn diễn. Sân khấu mà sập xuống là quê một cục đó nghen, mấy cha!
Bầu Tý nói:
-Kéo màn lúc nầy làm ông Cả Bàn và khán giả cụt hứng là mất hết tiền thưởng, anh em trong gánh hát đói dài dài.
Bầu Tý chưa nghĩ ra cách làm thế nào để can tụi nhỏ lại; thời may, ngoài sân khấu xảy ra một chuyện bất ngờ ngoài ý muốn, làm thằng Bền phải tự động quăng cây côn, chạy ào vô sân khấu hối Bầu Tý kéo màn lại lẹ lên. Bầu Tý không biết chuyện gì, hỏi cho ra lẽ:
-Sao không diễn tiếp, lại chạy vô hậu trường, kêu tao kéo màn. Tại sao vậy hả, Bền?
Thằng Bền dang chưn, đứng chàng hảng, chỉ vào cái đáy, nói:
-Cái quần nầy chật quá, bị tét đáy “lòi cu” ra ngoài rồi đây nè. Khán giả cười ầm lên, làm Năm Hậu mắc cỡ, quăng kiếm chạy tuốt ra đằng sau sân khấu, trốn biệt.
Bầu Tý đứng sau cánh gà, nhìn ra sân khấu, thấy khán giả còn ôm bụng cười rũ rượi, bọn con nít cười bò lăn lộn trên mặt đất. Còn ông Cả Bàn cười đến nổi ho sặc sụa, nước mắt ràn rụa, cười thở hơi lên, cười không kịp thở … Đốc tờ Khiêm ngồi bên cạnh lấy tay vuốt ngực ông nội. Bầu Tý thấy ông Cả Bàn lấy tay chỉ lên sân khấu, nói với Đốc tờ Khiêm chuyện gì không rõ, chỉ ghe loáng thoáng: thưởng…thưởng …thưởng… rồi nghẻo đầu sang một bên. Đốc tờ Khiêm vội vàng bế ông nội lên, chạy vào “Trạm Y Tế” của quận. Khán giả không biết chuyện gì, cũng rời sân khấu, ùn ùn chạy theo, đứng ngoài sân chờ nghe ngóng tin tức.
Khoảng nửa tiếng sau. Tin tức từ trong “Trạm Y Tế” được nhanh chóng lan truyền ra ngoài, làm mọi người sững sờ : “Ông Cả Bàn đã qua đời!” . Đốc tờ Khiêm một mặt cho người đem thi hài ông nội xuống ghe hầu trước. Còn mình, đích thân đến hậu trường sân khấu gặp gỡ Bầu Tý và mọi người trong gánh hát “Sóng Trường Giang” . Thằng Bền khép nép, đứng bên cạnh tía và Tư Long, chờ cơn thịnh nộ của Đốc tờ Khiêm. Nhưng không, ông thân mật đến bắt tay mọi người, rồi vò đầu thằng Bền.
Đốc tờ Khiêm trấn an mọi người:
-Tôi là Cao văn Khiêm, cháu nội của ông Cả Bàn, vừa đỗ bằng Bác sĩ Y Khoa ở Pháp về nước hơn 3 tháng, đang làm việc tại một bệnh viện ở Sài Gòn. Đáng lẽ ra, tôi phải đưa nội về trển chửa trị bệnh ung thư gan. Nhưng, nội tôi nhất quyết không chịu đi, nếu có chết thì chết tại quê nhà. Vì vậy, tôi phải ở lại Mộc Hóa săn sóc cho nội. Tôi biết, những ngày sắp tới đây, nội tôi sẽ vô cùng đau đớn vì chứng bịnh hiểm nghèo nầy. Không ngờ, cái rủi ro của cậu nhỏ nầy trên sân khấu, xảy ra ngoài ý muốn, đã giúp cho nội của tôi ra đi trong tiếng cười vui vẻ, thoải mái. Trước khi lìa đời, nội có trối lại là phải thưởng cho đoàn hát trọng hậu.
Đốc tờ Khiêm liền móc tiền trong túi áo, trao tận tay cho ông Bầu Tý 8 tờ giấy bạc “bộ lư” (giấy 100 đồng) và tặng riêng cho Bền 50 đồng, rồi từ giã mọi đi xuống bến tàu, đưa thi hài của ông Cả Bàn về nhà lo việc ma chay. Chính nhờ vào những tháng ở vùng quê để chăm sóc cho ông nội, Đốc tờ Khiêm mới nhận thấy đời sống bà con nông dân quá nghèo khổ, cơ cực và không có ai chăm sóc sức khỏe khi đau ốm, bịnh tật. Vì vậy, sau khi chôn cất cho ông Cả Bàn xong, Đốc tờ Khiêm bèn từ giã danh vọng, địa vị, tiền bạc. Ông chỉ lấy một phần gia sản của ông nội để lại, đóng một chiếc ghe chài loại trung, có gắn động cơ, trọng tải chừng 3, 4 tấn làm trạm y tế lưu động trên khắp địa bàn vùng sâu, xa xôi cách trở, chửa bệnh miễn phí cho đồng bào. Trên ghe còn có 4 giường nội trú, dành cho bệnh nhân cần ở lại để chăm sóc qua đêm. Phụ giúp với Đốc tờ Khiêm là vợ chồng người tá điền của ông Cả Bàn. Anh Nở lo chạy máy ghe, còn chị lo việc nấu ăn. Nhứt là khi mùa lũ tràn về cái rốn của vùng Đồng Tháp Mười, trạm y tế nổi lưu động bất kể ngày đêm để lo cứu giúp cho đồng bào.
oOo
Ông Bầu Tý và tất cả mọi người đưa tiễn ông Cả Bàn và Đốc tờ Khiêm ra tận bến tàu. Chín Cao nói:
-Đúng là tiền hung, hậu kiết!. Thiệt tui không ngờ ông Đốc tờ Khiêm là người trí thức trẻ tuổi mà rất biết điều.
-Thôi, cái rủi ro của mình, mà lại cái may của ông Cả Bàn. Vả lại, ổng đã 80 tuổi rồi, sớm muộn gì cũng phải chết, “sinh lão bịnh tử” là định luật của thế gian. Có ai mà lột da sống đời đâu nà, ông Bầu Tý nhìn Chín Cao nhắc:- Chú chạy ra đằng quán dì Sáu, mang mấy con gà luộc xé phai trộn rau râm về ghe để anh em nhậu. Còn tụi nầy trở lại chợ quận gom nhạc cụ, trống, kèn đem xuống ghe hát.
-Còn phong màn thì tính sao? Ba Sự hỏi.
Bầu Tý nói:
-Sáng sớm mai, mình trở lại mướn người tháo gở sân khấu, cuốn phong màn, quét dọn chợ lại cho sạch sẽ, rồi trở về Cần Thơ, chuẩn bị tập dợt tuồng mới để trình diễn 3 đêm cho lễ cúng đình Long Tuyền, Bình Thủy vào dịp lễ “Thượng Điền” tháng 4 âm lịch sắp tới đây.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau. Mọi người trở về đến ghe hát, cởi bỏ y phục hóa trang, nhảy xuống sông Vàm Cỏ Tây tắm giặt vừa xong thì Chín Cao cũng mang đồ ăn về tới, gầy sòng nhậu trong khoang ghe chài liền. Tiếng cười nói ồn ào làm Ba Hiền giựt mình thức dậy, ngơ ngác hỏi:
-Tới giờ diễn chưa vậy, mấy cha?
Nghe thằng Ba Hiền hỏi, ai nấy đều cười ngất. Cô Năm Hậu chọc quê:
-Nhậu cho đã, ngủ như chết không biết trời đất gì hết! Vãng hát từ khuya rồi đó, ông anh rể à!
-Ai diễn vai “Tề Thiên Đại Thánh” thế tui vậy?
Ông Bầu Tý chỉ Bền, nói:
-May nhờ cháu Bền, con nuôi của chú Hai Rồng, vào vai diễn thế cho mầy. Nếu không có cháu Bền, tao tuyên bố đoàn hát rã gánh tại đây luôn cho vừa bụng của mầy, thằng mắc dịch! Ừa, mà cháu Bền diễn đạt lắm. Tao cũng không ngờ nữa đó.
-Cám ơn cậu Bền nghe!” Ba Hiền nhìn ông Bầu Tý, nói:- Tại tía hết trơn, tui xin tía cho con vợ của tui đi theo ghe hát mà tía hổng cho. Nhớ vợ thấy mụ nội, tính nhậu chơi một ly xây chừng cho đở buồn. Ai dè, bắt trớn chơi luôn nửa lít đế: “Tửu nhập phá thành sầu” mà tía.
-Có nhớ vợ thì cũng nhớ vừa thôi, để dành phần cho con Năm Hậu nhớ chị của nó chớ, ông Bầu Tý đổ quạu, nói:- Tao để nó đi theo mầy, lấy ai chăn bầy gà, vịt và hai con heo ở nhà ăn đây hả? Mầy trả lời cho tao coi.
-Chú Tý nói phải đó! Nhớ vợ dữ he, Năm Hậu nói:- Thôi, thức dậy đi rửa mặt, rồi nhậu tiếp với mấy chú, mấy bác. Ngày kia là về tới nhà, gặp chị lớn của tui rồi.
Bỗng có tiếng người nào đó, đứng trên bến tàu, lên tiếng gọi:
-Bớ ông Bầu Tý, có ở dưới ghe hát không vậy?
Bầu Tý nghe gọi, lật đật buông đũa, đứng dậy, đi ra đằng mũi ghe, hỏi:
-Ai đó kiếm tui giờ nầy, có chuyện gì quan trọng không hả, anh Hai?
-Dạ có, đồng bào có chút lễ vật, nhờ tui mang tặng cho anh em trong gánh hát và có chút chuyện muốn thưa với ông Bầu Tý.
-Vậy thì, mời anh Hai xuống ghe hát đàm đạo. Bầu Tý nói.
Ông ta liền xách hai cái giỏ mây khá nặng, bước xuống cây cầu xi măng, nhảy qua ghe hát, theo ông Bầu Tý đi vô trong khoang ghe. Ông ta mượn mấy dĩa bàn, sắp thịt heo quay, bánh hỏi, rau thơm rồi nói:
-Đây là con heo quay sửa của đồng bào tặng cho anh em nghệ sĩ trong đoàn hát ăn lấy thảo. Luôn tiện, chúng tôi xin ông Bầu Tý và anh chị em vui lòng nán lại, phục vụ cho đồng bào thêm một xuất hát bội nữa, ông Bầu nghĩ sao?
-Vấn đề thù lao đêm hát như thế nào? Để tôi hỏi lại ý của anh em, rồi trả lời liền với anh ngay tại đây.
-Đồng bào địa phương sẽ trả với giá bao giàn là 400 giạ lúa cho xuất hát tối mai. Nếu ông Bầu đồng ý, chúng tôi sẽ đem đi xay thành gạo, vô bao, chở đến tận ghe hát vào chiều mai.
Ông Bầu Tý nhìn mọi người, nói:
-Ai đồng ý diễn thêm một đêm nữa, phục vụ đồng bào với giá bao giàn 400 giạ lúa. Xin đưa tay lên, qua sẽ theo ý kiến đa số!”
Tất cả mọi người đều đồng ý ở lại, diễn thêm một đêm nữa, để đáp lại tấm thạnh tình của đồng bào địa phương dành cho đoàn hát bội “Sóng Trường Giang” và đề nghị ông Bầu Tý chỉ lấy giá bao giàn tượng trưng là 300 giạ lúa được rồi.
Bầu Tý nói:
– “Chúng tôi đồng ý giá bao giàn là 300 giạ lúa. Gánh hát bội chúng tôi sẽ diễn vở “Phụng Nghi Đình” vào tối mai.”
Ông ta mừng rỡ, nói:
-Xin cám ơn ông Bầu Tý và tất cả anh chị em nghệ trong đoàn hát. Vấn đề dọn dẹp vệ sinh tại chợ quận vào sáng mai, để chúng tôi bao sân. Ông Bầu khỏi bận tâm.
-Mời tất cả mọi người nâng ly, cầm đũa nhậu tiếp, để đồ ăn nguội lạnh mất ngon! Bầu Tý nói.
Thằng Bền đứng lên, nói:
-Con không biết nhậu. Xin phép tía và mấy chú bác cho con trở về ghe của mình, kiếm cơm nguội ăn mới chắc bụng.”
Năm Hậu cũng đứng lên, nói:
-Chú Tý cho con xin một ít đồ ăn, đi với anh Bền qua nghe của ảnh, kiếm cơm nguội ăn mới no.
Tám Lựu nói:
-Ừa, để dì Tám lấy dĩa đựng thịt gà xé phai và thịt heo quay để hai đứa qua bên đó ăn với cơm nguội cho thoải mái, để người lớn bên nầy nói chuyện tự nhiên.
Khi hai cô, cậu đi rồi. Bầu Tý nhìn Hai Rồng nói:
-Tui coi bộ hai đứa nầy, lớn thêm vài tuổi nữa sẽ xứng đào, xứng kép lắm đó? Hay là anh để thằng Bền theo tôi học nghề hát bội: “Nhứt nghệ tinh, nhứt thân vinh” mà. Nhứt định, hai đứa nầy sẽ làm bộ môn nghệ thuật hát bội truyền thống, nổi đình nổi đám cho mà coi. Chú Hai Rồng nghĩ sao?
-Tôi sao cũng được, miễn là thằng Bền đồng ý là được thôi!
-Cháu Bền được bao nhiêu tuổi rồi, chú Hai? Bầu Tý hỏi.
-Mười sáu tuổi! Còn cháu Năm Hậu?
-Cháu Hậu nhỏ hơn Bền một tuổi, Bầu Tý cười nói:- Ông bà mình có câu: “Nhứt gái lớn hai, nhì trai lớn một” . Thôi, tụi mình kết làm sui gia được đó, chú Hai.
oOo
Bền thấy Năm Hậu bưng dĩa đồ ăn, theo mình qua ghe cà dom, e ngại nói:
-Tui nghe mấy người lớn nói cái gì là: Trai gái ngồi gần nhau như lửa gần rơm, không cháy thì cũng phực. Thôi, Hậu chịu khó ngồi trên mui ghe, chờ tui hâm nóng nồi cơm, rồi bưng lên mui ghe ăn chung nghen.”
Năm Hậu cưới, nói:
-Bộ Bền muốn cho muỗi thiêu tui hả?
-Đừng có lo, Bền đốt khói ung cho muỗi bay đi hết. Ngồi trên mui vừa ăn, vừa nói chuyện với nhau, thoải mái hơn.
-Ừa, sao cũng được? Bền muốn nhờ Hậu giúp gì không nè?
-Trên ghe còn một hủ mắn thái, rau thơm, ăn kèm với thịt heo quay, bánh hỏi thì đúng điệu lắm, Bền hỏi:- Có cần phải hâm lại nồi cơm không?
-Thôi, khỏi hâm nồi cơm đi, Bền! Bao nhiêu đó ăn đủ cứng bụng rồi, Năm Hậu nói:- Chuyền đồ ăn lên mui ghe cho Hậu, rồi lo đốt khói un muỗi.
Vài phút sau, mâm cơm về khuya đã dọn sẵn sàng trên mui ghe cà dom. Dưới ánh trăng hạ tuần mờ nhạt, Bền thắp lên ngọn đèn bão để giữa ghe cho sáng. Năm Hậu nói:
-Hậu ước gì đêm nay là đêm trăng tròn, bữa cơm tối nay trên dòng sông Vàm Cỏ Tây sẽ đầy thơ mộng, phải không anh?
-Bền lúc nào cũng ăn cơm chung vớí tía, mui ghe chỉ là nơi luyện võ nghệ. Vào những đêm trăng sáng, ít khi tía cắm sào ở các bến đò lục tỉnh hoặc gần quận lỵ, Bền thiệt thà nói:- Tía Hai Rồng thường cắm sào ở các bãi cồn hoặc cù lao hiu quạnh, rồi dẫn Bền lên bờ chỉ điểm võ thuật.
-Hèn chi, đường côn trên sân khấu khi nãy, Bền biễu diễn thiệt ác liệt, Năm Hậu cười nói:- Nếu không nhờ cái quần hóa trang của anh bị tét đáy, thế nào Hậu cũng bị anh dện cho một hèo.
Bền cười hềnh hệch, nói:
-Thôi, bỏ qua chuyện đó đi mà! Nhắc lại hoài, nghe dễ quê lắm nghen, Hậu!
-Người ta nói: “Thầy nào trò nấy” ! Chắc võ công của tía anh chắc phải thuộc hàng cao thủ? Năm Hậu hỏi.
Bền bèn thuật lại gia cảnh của mình, may nhờ có tía Hai Rồng xuất hiện, cứu mình kịp thời; nếu không, chắc đã bị bọn thổ phỉ người Miên “cáp Dồn” rồi từ khuya rồi, chớ đâu còn sống đến giờ nầy. Năm Hậu thương cảm nói:
-Bền và Hậu, hai đứa mình đều là con mồ côi, mồ cút hết trơn. Cha mẹ của Hậu đều chết rồi, may nhờ, ông Bầu Tý cứu thoát chết. Ông ấy rất tốt bụng, nhận chị lớn của Hậu làm con dâu. Ba Hiền là con trai một của ổng.
-Quê quán của Hậu ở đâu vậy? Bền hỏi.
-Chị em củaHậu là gái làng An Vinh, thuộc xã Tây Vinh, quận Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Đàn bà, con gái ở đó đều tinh thông võ nghệ, hầu như cô gái nào cũng biết qua hai môn võ căn bản là múa roi (côn) và đánh quyền: Ai về Bình Định mà coi / Con gái Bình Định múa roi, đi quyền. Năm Hậu kể.
Bền ngạc nhiên, hỏi:
-Là người ở ngoài miền Trung, mà sao Hậu nói rặc ròi giọng miền Nam vậy? Nếu Hậu không nói ra, đố ai mà biết Hậu sanh trưởng ở ngoài ấy.”
Năm Hậu cười, nói:
-Tại nhờ Hậu uống nước phù sa sông Cửu Long đó; vả lại, theo nghiệp hát bội mà nói giọng người ngoài ấy, khó nghe lắm!
-Bền nghe nói Bình Định là “Miền Đất Võ” . Một võ sư người Bình Định đã lưu danh thiên cổ tại một ngọn núi phía Bắc chợ Hà Tiên, gọi là núi “Ngũ Hổ” . Quê nội của Bền ở cuối con kinh Vĩnh Tế ăn thông với sông Giang Thành rồi chảy vào Đông Hồ, trước khi đổ ra biển Hà Tiên. Ông nội kể lại rằng:- Những người dân địa phương sống trong những xóm nhà hai bên ven sông Hà Tiên thường đến chân núi đó để lấy nước ngọt trong một cái giếng, đầy ắp quanh năm, đem về nhà uống. Bỗng một hôm, cả xóm báo động vì có một người trong xóm đi lấy nước ngọt từ sáng sớm tới chiều tối mà chưa thấy trở về. Anh em lực diền trong làng bèn tập hợp lại, đốt đuốc sáng rực một gốc trời, vừa đánh phèng la, đập thùng thiếc, vừa la hét ầm ỹ vang động dưới chân núi, để thú dữ tránh xa họ. Khi đến gần cái giếng, họ nghe tiếng bầy cọp rống à…um vang lên một cách rùng rợn. Họ hồn vía lên mây, bỏ chạy thục mạng về làng. Từ đó, không còn ai dám léo hánh đến cái giếng đó lấy nước ngọt nữa. Thế rồi một hôm, có một chiếc ghe bầu từ miền Trung ghé Hà Tiên, xin đồng bào tiếp tế nước ngọt trước khi vượt biển ra đảo Phú Quốc. Không may cho họ, gặp mùa hạn hán, nước ngọt không đủ dùng có đâu tiếp tế cho họ. Cuối cùng, họ phải liều mạng đến cái giếng ở dưới chưn núi lấy nước ngọt, bất chấp lời cảnh giác của dân địa phương về bầy cọp rừng đang hoành hành vùng đó. Một người đàn ông tình nguyện, gánh một cặp thùng thiếc bằng cây côn sắt, đi về phía giếng lấy nước ngọt và cho mãi đến xế chiều mà chưa thấy ông ta trở lại chiếc ghe bầu. Những người cùng đi trên chiếc ghe bầu, vầy đoàn với người trong làng đi tìm. Khi đến gần giếng nước, họ chứng kiến một cảnh tượng đầy hãi hùng. Trước mắt họ, cây cối ngã nghiêng, máu cọp rải rác khắp nơi. Ba xác cọp to lớn bị dập vỡ sọ chết. Còn người võ sĩ Bình Định vẫn đứng sừng sững, tay cầm cây côn sắt chĩa thẳng ngay đầu con cọp đầu đàn. Người và cọp nhìn nhau trừng trừng không nhúc nhích cục cựa gì hết; thì ra, người võ sĩ Bình Định và con cọp đầu đàn đã chết từ lúc nào. Ông không có nước uống nên chết vì bị kiệt sức. Từ đó, dân làng gọi đó là núi “Ngũ Hổ” vì võ nghệ và sức mạnh của người võ sĩ Bình Định còn mạnh hơn bốn con cọp dữ.”
Năm Hậu nói:
-Đường côn Bền múa khi nãy trên sân khấu, giống như đường roi tuyệt kỹ vang danh đất Thuận Truyền rất phổ biến tại Bình Định thì phải?
-Bền chỉ khổ luyện theo sự chỉ dạy của tía, tuy chưa đạt hết phần căn bản. Nhưng, đủ sức tự vệ bản thân, Bền nói:- Mấy năm về trước, tía Hai Rồng cũng đã từng lặn lội ra Bình Định tìm thầy bái sư, trau dồi thêm kỹ năng chiến đấu.”
Thấy trời đã khuya, Bền nhắc:
– Thôi, mình ăn chút gì đi, khuya lơ, khuya lắc rồi đó!
oOo
Đêm trên sông Vàm Cỏ Tây thật tĩnh mịch, con trăng hạ tuần thả xuống dòng sông một thứ ánh sáng nhợt nhạt mơ hồ. Trong cái không gian tĩnh lặng, chỉ còn ghe tiếng mái dầm của những thuyền giăng câu đêm, khua trên sóng nước, lẫn lộn với tiếng sóng vỗ rì rào vào be ghe. Tiếng con cú nào đó ẩn mình trong lùm cây, cạnh con đường làng, rúc lên từng chập nghe đến rợn người.
Lẫn trong tiếng gió thổi xào xạc, lướt qua mấy rặng mù u, dừa nước, trâm bầu… dọc theo bờ sông là tiếng mẹ ru con “ầu ơ” … lẫn tiếng võng đưa kẽo cà, kẽo kẹt văng vẳng vang lên từ một chiếc ghe thương hồ cắm sào gần đó giữa đêm khuya. Lời ru con nồng ấm, mộc mạc, âm điệu chân quê ngọt ngào, chan chứa tình mẫu tử thiêng liêng:
“Má thương con ruột thắt gan bào
Tía con bỏ má, má nào bỏ con
Thương nào bằng nổi thương con
Con ơi đừng khóc má buồn tủi thân…”
Nàng bỗng đổi giọng ru con, thương thân trách mình phận bạc, mới ra cớ sự như vầy:
“Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp như cơm khét dành khi đói lòng
Nơi thương tía má biểu không
Nơi chẳng bằng lòng tía má biểu ưng.”
Một người giăng câu đêm, cắm sào gần đó gần đó, đoán biết rõ phần nào gia cảnh của người đàn bà đó, hằng đêm buông lời hò ghẹo:
Bậu ơi! Đừng chê qua nhỏ thó làm qua buồn tình
Vậy chớ, con thằn lằn bao lớn mà nó ôm cột đình sát đeo hò…ơ…
Thiếu phụ trên ghe thương hồ, hò đáp lại, chọc quê anh chàng giăng câu si tình nào đó:
“Chuối non dú ép chát ngầm
Trai tơ đòi vợ khóc thầm suốt đêm
Khóc rồi bị má đánh thêm
Vợ đâu mà cưới nửa đêm cho mầy…hò ơ..
Hồi đó, chợ quận Mộc hóa có một căn nhà lầu duy nhứt của Hương cả Cần cất bên dòng sông Vàm Cỏ Tây, con gái lớn của Hương cả Cần rất đẹp mà cũng rất kiêu. Có khách thương hồ trồng cây si, thường cắm sào dưới bến nước trước căn nhà nàng. Nhưng, nàng đâu có màng. Chàng bất mãn, hò chọc tức:
Nhà bậu giàu, thịt thà đầy mâm, đầy thớt
Phận qua nghèo, trớt quớt con cu
Một mai bóng xế trăng lu
Thịt thà bậu hết, con cu qua còn.
Về sau, Hương cả Cần ham giàu nên gả nàng làm bé cho một “Xì thẩu” giàu có ở Chợ Lớn. Anh chàng bèn hò nhắn:
Lấy Tây, Tây về nước
Lấy Chệt, Chệt về Tàu
Lấy Tây, lấy chệt làm gì?
So bề nhân ngải sao bì với qua.
Điệu hò ru con và điệu hò huê tình lãng mạn đuổi nhau trên sông rạch vùng đồng bằng sông Cửu Long hoặc trong mùa cày, cấy trên đồng ruộng, nó tồn tại mãi mãi với thời gian và trở thành bất tử trong kho tàng văn chương miệt vườn. Riêng điệu hò ru con đã gieo hạt và thấm sâu vào tuổi thơ từ lúc tuổi nằm nôi cho đến trưởng thành về tình yêu quê hương xứ sở, tình tự dân tộc.
Lời hát ru con ngọt ngào của người mẹ nào đó; bất chợt, gieo vào lòng Hậu một nổi buồn tê tái, làm buốt giá tâm hồn. Nàng khát khao được rúc đầu vào lòng mẹ nồng ấm, được nghe những lời hát ru trìu mến “à ơi” của mẹ năm xưa. Hậu nhớ mẹ, nhớ cha rồi bật khóc nức nở…
-Lời ru con của ai, nghe sao buồn quá! Bền cũng nhớ mẹ nhớ cha như Hậu vậy đó, Hậu biết không? Bền nhìn Hậu, nói:- Quê hương của Hậu ở ngoài miền Trung xa lơ, xa lắc. Tại sao lại Hậu lại trôi dạt vào tận trong nầy vậy?
Năm Hậu ngồi gục đầu trên gối, mắt mơ màng nhìn xuống dòng sông mênh mông, rồi bắt đầu kể:
-Cha mẹ của Hậu, người gốc gác làng An Vinh, xã Tây vinh, quận Tây Sơn thuộc tỉnh Bình Định. Anh, chị và Hậu người nào cũng cũng được cha mẹ truyền dạy võ nghệ. Thời trai trẻ của cha mẹ, nổi tiếng bất bại trên sàn đấu. Ngoài ra, cha lại giỏi về nghề thuốc chuyên trị nội thương, trật đả, té gẫy tay chân, đau lưng, nhức mỏi…Vì vậy, mỗi năm sau vụ mùa là cha mẹ đưa các con lên ghe bầu, xuôi buồm xuống Quy Nhơn, Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết…để hát “Sơn Đông Mãi Võ” bán thuốc và chửa bệnh cho dân nghèo không lấy tiền. Bao giờ bán hết thuốc thì trở về lại Bình Định.”
Bền hỏi:
-Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, người ta phân biệt ghe và xuồng rõ ràng. Ghe có nhiều loại như ghe tam bản, ghe chài, ghe lườn, ghe cà dom, ghe ngo…Ở Rạch Giá, quê của Bền, còn có một loại “ghe xiệp” thường ra biển đánh bắt cá gần bờ và cào hến bán cho các trại chăn nuôi vịt. Nhưng, không biết hình thù chiếc ghe bầu ở ngoài ấy ra làm sao?
Năm Hậu nói:
-So với những loại ghe xuồng trong miền Nam, được đóng toàn bằng gỗ cao cấp như sao, dầu, cà chít…thiệt vững chắc, có khả chịu nước và sóng lớn. Nhưng, những chiếc ghe bầu ngoài miền Trung đan bằng tre, rồi dùng dầu chai trét các khe hở, nên trông thật mỏng manh và thô sơ. Vậy mà mỗi năm, có nhiều chuyến ghe bầu từ ngoài ấy, căn buồm theo cơn gió mùa chở dầu chai, dược liệu, đồ gốm, đồ khảm xà cừ…vào trong miền Nam bán, mỗi chuyến đi kéo dài độ vài tháng.”
-Thường mùa gió nào, gia đình Hậu mới xuôi vào Nam, còn theo mùa gió nào mới quay trở về miền Trung? Bền hỏi.
-Hậu nghe cha nói, đợi gió mùa Đông Bắc thổi mạnh vào phương Nam khoảng tháng 10 đến tháng giêng. Sau khi bán hết hàng, họ cắm sào quay quần bên nhau từng nhóm nhỏ năm, bảy chiếc tại một bến nước nào đó cho có bạn ghe, rồi lên bờ làm thuê, làm mướn hoặc hành nghề chuyên môn như chạm trổ, nấu ăn trong các hàng quán…đợi gió mùa hạ từ tháng 4 đến tháng 9 năm sau, bắt đầu thổi ngược lên mạn Bắc là họ chở theo các sản trong Nam như mật ong, dừa khô, gạo thóc, đường…nhổ sào rời bến, trở lại miền Trung.
-Tại sao chị em của Hậu trôi dạt vào tận nơi nầy? Còn tía má của Hậu bây giờ ở đâu? Không rước con cái về ngoài ngoải?” Bền hỏi.
-Mỗi năm, cha mẹ Hậu đều đưa hết con cái theo ghe bầu vào trong Nam buôn bán. Nhưng cách đây hai năm, anh trai của Hậu, mới vừa cưới vợ, nên không theo gia đình vào Nam. Đây là chuyến đi định mệnh, cha mẹ Hậu bàn tính giong buồm xuống tận đất mũi Cà Mau, tìm vùng đất mới để lập nghiệp. Nhưng, khi ngang qua cửa biển Mỹ Thanh thuộc vùng duyên hải tỉnh Sóc Trăng, chiếc ghe bầu mỏng manh bị cơn bão biển quật rã ra từng mảnh. Chị em Hậu nhờ ôm được cột buồm đã gẫy, bị sóng đánh, tắp vô bờ biển quận Vĩnh Châu; may nhờ, ghe hát bội của ông Bầu Tý đi ngang qua đó cứu nạn, bảo bọc cho tới bây giờ và nhận chị Tiền làm dâu con.
-Hậu có nghe tin tức gì của tía má không?
-Bặt vô âm tín, Hậu hy vọng, nói:- Biết đâu, cha mẹ Hậu còn sống sót, đã trở về ngoài ấy rồi cũng không chừng.
-Tại sao Hậu không về ngoài chuyến coi cho biết? Bền hỏi.
-Chị em Hậu nghèo lắm, không có tiền bạc gì hết! Làm sao mà trở về quê? Hậu nói:- Chuyến nầy, Hậu bán hai con heo cũng được sáu chục đồng, cộng với tiền thưởng mấy đêm hát tại mộc Hóa, chắc tạm đủ làm lộ phí trở về quê nhà. Trước hy vọng gặp lại cha mẹ, sau thăm gia đình của anh mình.
-Bền muốn mua hai con heo đó, Hậu chịu bán không? Bền nói nửa đùa, nửa thiệt:- Nhưng mà, Bền chỉ có 50 đồng, tiền của thầy thuốc Khiêm thưởng khi nãy, còn nợ 10 đồng, cho thiếu nghen.
-Khi nào Bền định bắt heo hả?
-Chừng nào cưới vợ sẽ cho người đến bắt, được không?
-Vậy, chừng nào Bền cưới vợ?
-Ai mà biết!
-Sao lại không biết chớ?
-Tại vì, tui không biết người ta có ưng làm vợ tui không?
Hậu phá lên cười, tát yêu vào má của Bền, nói.
-Quỷ vật anh! Mới có bi lớn mà biết “dê” gái rồi! Tui không bán heo cho Bền, mà còn mét tía của Bền nữa đó!
-Nói giỡn thôi mà, bộ giận thiệt hả, Hậu? Bền móc trong túi áo, tờ giấy bạc 50 đồng, còn mới cáu cạnh, đưa cho Hậu, nói.:- Hậu giữ số tiền nầy để làm lộ phí về quê. Mong Hậu gặp lại tía má.
Hậu cảm động, nói:
-Thôi, Bền cho Hậu mượn! Khi nào gặp lại nhau, Hậu sẽ hoàn lại, chịu không? Chịu thì Hậu mới lấy!”
-Ừa, như vậy cũng được. Nhưng, Bền biết tìm Hậu ở đâu? Đừng như, “Tìm ai như thể tìm chim. Chim bay biển Bắc, Bền tìm biển Nam” đó nghen.”
-Bền cứ về sông Ngã bảy Phụng Hiệp, hỏi thăm cô Hậu lái đò hoặc nhà của ông Bầu Tý thì ai cũng biết.
-Hậu vào nghề lái đò trên dòng sông Ngã Bảy Phụng Hiệp từ bao giờ vậy?
-Bằng mọi cách để có tiền trở về quê. Sau mùa gặt mướn hồi năm ngoái, Hậu để dành một ít tiền đủ mua một chiếc ghe tam bản cũ. Thế là, cuộc đời Hậu gắn bó đời mình vô chiếc ghe và trở thành cô lái đưa đò chuyên nghiệp trên dòng sông Ngã Bảy để kiếm cắc vô, cắc ra phụ với chú Tý. Chú ấy rất tốt bụng lắm, mà anh rể cũng chịu khó làm ăn, còn Hậu ai kêu gì làm nấy. Ngày nào trời mưa giông, Hậu ở nhà học nghề hát bội với ông bầu Tý, Hậu cười, nói:- Tuy lênh đênh phận gái đưa đò, nhưng ai cũng nể nang. Nghe danh gái Bình Định nầy, các băng cướp đườngng sông đều chạy mặt hết trơn, hết trọi.”
-Bộ ở sông Ngã bảy Phụng Hiệp cũng có bọn cướp đường sông sao, Hậu?
-Ở đâu mà không có bọn giết người, cướp của nầy chớ! Hậu nói:- Cách đây mấy tháng, trước Tết Nguyên Đán. Bọn cướp đường sông khoảng 20 tên do hai anh em Tư Búa và Bảy Mã Tấu làm thủ lãnh. Chúng thường xuất hiện hoạt động trong khu tam giác kinh Cái Côn và Cái Trâm và khúc sông Hậu khoảng cuối cù lao Mây, chận đánh cướp táo bạo các ghe thương hồ, chở đầy ắp hàng hóa theo hai con kinh nầy đi vào sông Ngã Bảy Phụng Hiệp để buôn bán. Trong số nạn nhân nầy có Bác Hai Thìn là anh họ của chú Tý bị Bảy Mã Tấu chém trọng thương và bị cướp sạch các tài sản. Ngoài ra, còn mấy vụ đánh cướp táo bạo khác trên con rạch Cái Thiên. Trong số nầy, có vợ chồng anh Can đi ăn đám cưới về, khi bơi xuồng ngang qua ấp Mái Giầm; bất ngờ, Bảy Mã Tấu và đám bộ hạ chèo ghe vượt lên, cập vào chiếc xuồng của vợ chồng anh Can, cướp hết nữ trang của chị Can. Vì vậy, chị em của Hậu phải ra tay trừ khử bọn chúng.
-Mãnh hổ nan địch quần hồ, làm sao hai chị em của Hậu đánh cho lại bọn thổ phỉ nầy chớ? Bền hỏi.
-Đêm 23 Tết, có hai ghe thương hồ cắm sào trên con kinh Cái Côn, chờ sáng vô chợ Phụng Hiệp bóc dở hàng hóa. Chú Tý dàn xếp với người chủ ghe, đồng ý để cho hai chị em Hậu bảo vệ dùm cho họ. Chị Tiền nằm phục trên mui ghe trước, còn Hậu nằm phục trên mui ghe sau. Quả nhiên, lúc nữa đêm về sáng, bọn chúng xuất hiện, di chuyển bằng xuồng ba lá, chia làm hai cánh tấn công: Tư Búa và 2 tên thuộc hạ tấn công ghe trước, còn Bảy Mã Tấu và 2 tên khác lo tấn công ghe sau, đụng độ với Hậu. Đây là lần xuất trận đầu tiên, chiến đấu sanh tử thực sự của chị em Hậu, Năm Hậu nói:- Tiếng tăm của gái Bình Định đi liền với thành tích trong giao đấu chống kẻ ác. Hậu thấy Bảy Mã Tấu để lộ sát khí, quyết giết kẻ phá hoại kế hoạch ăn hàng của bọn chúng. Hậu buộc phải giở tuyệt kỹ, sử dụng đòn “Bát” đánh bạt thanh mã tấu chém từ trên xuống, rồi nhanh chóng trở đầu ngọn côn, ra đòn đánh nghịch, điểm mạnh vào “sa mở” của Bảy Mã Tấu. Hắn hự lên một tiếng, hộc máu mồm. Hậu liền chống đầu côn trên mui ghe, phóng người lên tung ngọn “song cước” vào cổ và ngực của Bảy Mã Tấu. Bị trúng đòn, hắn rớt xuống nước nghe một cái ùm. Hai tên bộ hạ phóng mình xuống kinh, dìu hắn vào bờ, chạy biến vào trong bóng đêm. Trận thư hùng giữa Tư Búa và chị Tiền rất quyết liệt, ngoài sức mạnh và võ nghệ khá cao cường. Hắn múa cây búa nghe vù vù, chém vào hai bên sườn của chị Tiền, khí thế vô cùng ác liệt. Chị phải dùng đòn “Triệt” để phá đường búa chém tạt ngang sườn. Tư Búa xoay người quật ngược lưỡi búa chém tạt ngang cổ địch thủ. Chị Tiền né đòn, giả đò té ngửa trên mui ghe. Tư Búa mừng quá, hai bàn tay nắm chặt cán búa, dùng hết công lực giáng xuống đầu địch thủ. Chị Tiền nhanh chóng lăn mình qua một bên, lưỡi búa trợt mục tiêu, dính chặt cứng trên mui ghe, hắn không cách gì rút lên được. Chị Tiền đứng bật dậy như cái lo so, ngọn côn phăng tới đầu hắn thế mạnh như vũ bão. Tư Búa nhắm mắt chờ chết. Nhưng, khi đầu ngọn côn vừa chạm nhẹ vào mục tiêu. Chị Tiền đã thu côn về, tha chết. Tư Búa xúc động trước lòng nhân từ của chị Tiền, thề cải tà quy chánh, giải tản băng cướp đường sông.
-Lòng dạ chị của Hậu tốt thiệt! Bền phục sát đất! Mong có ngày Bền gặp chị Tiền để xin bái sư!
Trong khoang ghe chài, mọi người say túy lúy. Hai Rồng và Tư Long đứng dậy kiếu từ , trở qua ghe của mình. Dì Tám Lựu đứng đằng sau lái ghe hát, hú:
-Năm Hậu ơi! Về ngủ đi cháu, khuya rồi đó!
-Dạ, con về liền, Năm Hậu nhìn Bền bịn rịn, nói:- Thôi, Hậu về nghen, chúc Bền ngủ ngon!
Năm Hậu đứng dậy, cúi đầu chào chú Hai Rồng và Tư Long, nhún mình nhảy qua ghe chài một cách nhẹ nhàng. Nhìn bước chân của Hạu chạy thoang thoáng trên mui ghe. Hai Rồng gật gù, khen:
-Con gái Bình Định có khác!” Hai Rồng quay qua, hỏi Bền:- Ông bầu Tý muốn tía cho con gia nhập gánh hát bội của ổng để học nghề. Nhứt nghệ tinh nhứt thân vinh. Bảo tồn nền “Văn hóa truyền thống Dân Tộc” cũng là một cách phục vụ đất nước. Ý con thế nào cho tía biết?
Bền trả lời liền, một cách dứt khoát:
-Cái chí của con là đi theo tía, lớn lên tung hoành ngang dọc ở chốn chiến trường, giúp dân, giúp nước. Ánh đèn sân khấu không phải là nơi con biểu diễn võ nghệ để cho thiên hạ mua vui; vả lại, cái mạng của con là do tía cứu sống. Con vì háo danh, bỏ tía mà đi là bất nghĩa.
Tư Long nghe khoái quá, nói:
-Làm trai phải như vậy mới đúng! Thà chết ở chiến trường, da ngựa bọc thây. Chớ không phải hấp hối ở trong tay đàn bà, lũ trẻ nâng đỡ có đáng gì đâu?
Hai Rồng cảm động, nói:
-Cứu con là chuyện tình cờ, đừng nặng tình nghĩa quá! Hãy sống thật theo hoài bão của mình. Sau nầy, khi trưởng thành, con biết mình muốn gì, cứ mạnh dạng ra đi, không ai trách con đâu. Hồi nãy, tía nghe ông bầu Tý và mấy người trong ghe hát kể sơ qua thân phận của cháu Hậu, nghe cũng tội nghiệp lắm. Cháu muốn về quê ngoài Trung hy vọng gặp lại cha mẹ, còn sống sót sau cơn bão biển. Vì vậy, sau chuyến lưu diễn lần nầy, mọi người đồng ý, gom góp một ít tiền cho cháu Hậu làm lộ phí về quê nhà.
-Con cũng biếu cho Hậu 50 đồng, tiền thưởng của thầy thuốc Khiêm cho con, Bền cười ngắc nghẻo, nói:- Không dè, nhờ cái quần tét đáy, mà ghe hát được thưởng khẳm tiền. Ai cũng vui vẻ hết, phải không tía?
Hai Rồng vỗ vai thằng con, nói:
-Thôi, trời khuya rồi! Hãy đi ngủ, mai chờ con nước lớn, mình chèo ghe lên đường.
oOo
Trời vừa rạng đông, tiếng gà gáy rộ bên kia sông. Bền đã ghe tiếng mái chèo khua nước rộn ràng, tiếng người cười nói lao xao trên sông Vàm Cỏ Tây. Bền đã thức dậy, chống cái phên cửa lên, chỉ nhìn thấy cả một khúc sông chìm trong sương mù nhạt nhòa, trắng đục, bay la đà như mây trắng trôi trên sóng nước giống như một cảnh tiên trong một bức tranh thủy mạc. Sương mù bay giăng kín bến tàu, Bền có cảm tưởng bức màn sương được vén lên cho ghe, xuồng từ trong đó trôi ra, cập bến, cắm sào để lên hàng. Từ đằng sau lái, chiếc ghe hát đã nổi lửa từ bao giờ, thả ra những làn khói bếp mỏng manh, uể oải bay lên chìm trong sương mù. Tiếng của dì Tám Lựu oang oang, gọi:
-Ông Bầu Tý mời quý vị qua ăn sáng, rồi còn lên đường cho kịp con nước lớn.
Bền đánh thức tía và ông Tư Long dậy:
-Tía ơi, ông Bầu Tý mời tía và ông Tư qua bển ăn sáng.
Hai Rồng thức dậy, nói:
-Ừa, con qua bên đó trước đi! Tía và ông Tư rửa mặt rồi qua sau.
Bền vốc nước sông, súc miệng, rửa mặt, rồi leo lên mui ghe, đã thấy Năm Hậu chống roi, đang đứng chờ mình trên mui ghe hát từ lúc nào. Bền liền phi thân qua ghe hát. Năm Hậu thấy Bền, mừng lắm, bẽn lẽn, nói:
-Hậu có vật nầy tặng Bền làm kỷ niệm, trước khi chia tay.
-Hậu tặng cho Bền cái gì đây? Bền hỏi.
Năm Hậu lấy một quyển tập học trò từ trong túi áo bà ba, đưa cho Bền, nói:
-Bổn chánh đã mất trong cơn bão biển. Còn đây chỉ là bổn sao, căn cứ vào những động tác của Hậu, chị Tiền vẽ lại. Nét vẽ nguệch ngoạc không được đẹp lắm, chỉ là hình ảnh tượng trưng các bài quyền An Vinh và đường roi Thuận Truyền bí truyền mà chị em Hậu tiếp nhận từ tía, má truyền lại. Trông đường côn mà Bền múa trên sân khấu đêm qua, cũng đủ biết Bền đã có căn bản võ thuật. Cuốn sách nầy sẽ giúp Bền coi theo đó, trau dồi thêm tài năng. Hậu chúc anh siêng năng tập luyện sẽ thành công, còn đây là cây roi gia truyền của gia đình Hậu. Bền giữ lấy để tập luyện.
Bền cám ơn, bỏ cuốn tập vào trong mình, hỏi:
-Roi và côn khác nhau chỗ nào? Cây nầy gọi là roi mà sao không gọi là côn?
-Cây roi được làm từ một thân cây dẻo, có sức đàn hồi như thân tre đặc ruột hoặc cây mây già chẳng hạn, chiều cao bằng thân người dùng roi.
-Cám ơn Hậu nghen, Bền có vẻ buồn buồn, hỏi bâng quơ:- Không biết tới bao giờ, mới gặp lại Hậu?
Hậu nhìn xuống dòng sông, nói:
-Giề lục bình trôi sông kia là thân phận của hai đứa mình. Gặp nhau rồi lại chia tay. Bền trôi lên hướng Tây, còn Hậu sẽ dạt về phía Đông. Bao giờ gặp lại nhau? Cái đó, còn tùy thuộc vào duyên phận hai chúng ta. Thôi, mình vào trong khoang ghe đi, Bền. Họ đang chờ tụi mình đó!
Khoảng vài phút sau, Hai Rồng và Tư Long vô tới. Mọi người quay quần bên nồi cháo đậu đỏ và mấy dĩa dưa mắm, cá cơm kho tiêu và trứng vịt muối, đó là bữa ăn sáng đơn giản cho anh em trong gánh hát; thỉnh thoảng, Năm Hậu lén mắt nhìn Bền, đôi mắt huyền long lanh hai giọt lệ mỏng manh. Bền cũng thấy lòng mình xao xuyến trước giờ sắp chia tay.
Bữa điểm tâm vừa xong, mọi người vừa buông đũa, hớp vài ngụm nước trà. Bỗng có tiếng chim bìm bịp, ẩn mình trong các buội ô rô hai bên dòng sông Vàm Cỏ Tây, cất tiếng kêu rộn rã: “bìm bịp…bìm bịp…bìm bịp…” . Nó là loài chim có bộ lông vũ màu nâu, ức cổ màu đen và rất đỗi thân thương của dân thương hồ, có nhiệm vụ canh con nước lớn dùm cho họ. Mấy anh em nghệ sĩ hát bội, đều lên mui ghe chài, tiễn khách.
Mọi trở lại chiếc ghe cà dom, tra mái chèo vào quai dây luộc, điều chỉnh lại cho vừa tầm trên hai cột chèo đằng sau lái, còn Bền lo phụ trách mái chèo đằng mũi. Chờ xong đâu đó, Hai Rồng gọi Bền:
-Bền à, xong chưa? Nhổ sào đi con!
Bền nhổ cây sào tre tầm vông, gác lên mui. Hai Rồng và Tư Long vun mái chèo. Chiếc ghe cà dom từ từ tách rời ghe hát, trôi đi về miệt biên giới Việt – Miên. Bền quày đầu, nhìn lại, thấy Năm Hậu đứng một mình trước mũi ghe hát, đang lấy tay áo quẹt nước mắt…cảnh biệt ly nào cũng gieo lòng kẻ ở, người đi một nỗi buồn man mác. Lòng Bền lại lưu luyến cái bến nước, nhớ người bạn diễn một đêm trên sân khấu, vừa mới quen nhau đã vội xa nhau. Biết bao giờ gặp lại nhau trên bến nước, con sông nào? Năm Hậu đứng lặng nhìn chiếc ghe chở người bạn sơ giao, khuất dần vào sương mù…
Những tình cảm mơ hồ thường thoảng qua trên bến nước xa lạ, đã gieo vào khách thương hồ hoặc nghệ sĩ sống lênh đênh trên sóng nước một chút gì mộng mơ, lãng mạn đầy thi vị. Đôi khi, họ gắn bó suốt đời với kỹ niệm nào đó, không dễ gì quên; vì vậy, mỗi lần ghe thương hồ có dịp trở lại bến cũ, lòng họ lâng lâng một cảm giác vui sướng của một người lưu lạc tha phương được trở về thăm lại cố hương…
CHƯƠNG BỐN
CUỘC CHIẾN BẢO VỆ BIÊN GIỚI PHÍA TÂY NAM
Vào khoảng 4 giờ chiều cùng ngày. Tin ông Tư Long về đến đầu vàm kinh Cái Cơ là gia đình ông Bá hộ Bảnh và một số bà con tá điền trên đất của ông, đứng dọc theo bờ rạch Long Khốt háo hức chờ đợi. Ghe cà dom vừa cập cây cầu đúc xi măng là ông Tư Long dẫn tía con Hai Rồng giới thiệu ông Bá hộ Bảnh và dân làng. Thoạt nhìn thấy bộ tướng của Hai Rồng, họ nhìn nhau ái ngại, xì xầm:
– Không biết Tư Long có rước lộn người không đó? Cái tướng của ông nầy đâu phải là tướng võ sĩ, vai u thịt bắp, làm sao đấu lại Sana Thạch Sum nè trời?
Người khác nói:
-Ông Tư Long rước ông nầy về làm gỏi cho thằng Thạch Sum nó nhậu đó, mấy cha ơi!
Một người khác đề nghị:
-Ngày mai, chúng ta về nhà lo khăn gói cho sẵn sàng; rủi ro, có xảy ra chuyện gì, còn kịp chạy giặc, qua xứ khác lánh nạn.
Hai Rồng nhìn ánh mắt thiếu tin tưởng của mọi người, chỉ mỉm cười, phớt lờ. Sẵn dịp nầy, ông bá hộ Bảnh mời tất cả bà con tá điền ở lại dùng bửa cơm trưa thân mật và bàn kế hoạch đương đầu với đảng cướp Thạch Sum.
Căn nhà gói ba gian rộng lớn nằm trên vàm kinh Cái Cơ và rạch Long Khốt, địa thế rất tiện lợi cho việc giao thông, chuyên chở bằng đường thủy. Hằng năm, sau mỗi vụ mùa, ghe xuồng của tá điền chở lúa đến đong cho ông bá hộ Bảnh, tới lui tấp nập dưới bến. Việc kết toán sổ sách do Thầy Sáu Trí, anh em kết nghĩa của Tư Long, làm việc bù đầu cả ngày lẫn đêm. Vài tháng sau, khi lúa đã được phơi khô được vô bao bố chỉ xanh là từng đoàn ghe chài có trọng tải hai, ba chục tấn của các chành gạo từ Phú Lâm, Bình Thới, Thủ Thiêm…đến bốc hàng chở về các máy xay lúa.
Theo con đường lót gạch tàu dẫn vào nhà, khách phải qua một cái cổng xây bằng gạch, được đóng lại bằng hai cánh cửa sắt kiên cố, sơn màu đen và một cái hàng rào sắt, cao hơn hai thước bao quanh căn nhà ba gian đồ sộ, xây trên một cái nền đúc xi măng với sáu bực thềm để tránh lũ lụt hằng năm. Mái lợp bằng ngói âm dương màu đỏ, nỗi bật sự giàu sang, dường như lạc lõng giữa những căn nhà mái lá lợp bằng lá dừa nước thấp lè tè, màu xám xịt buồn hiu hắt như cuộc đời nông dân nghèo của họ.
Ông Bá hộ Bảnh đẩy cánh cửa sắt qua một bên, mời hai tía con Hai Rồng vào trong nhà, đi thẳng vô phòng khách, còn bà con tá điền ngồi ngoài sân gạch, chung quanh hòn non bộ. Ông bá hộ Bảnh ân cần, mời:
-Xin mời các anh em ngồi tự nhiên.
Thằng Bền khép nép ngồi xuống ghế trường kỷ cẩn xà cừ, bằng gỗ cẩm lai đã lên nước đen mun, được chạm trổ công phu, mặt ghế và bàn được lót bằng đá cẩm thạch màu xanh lam, nổi vân bóng láng.
-Phiền anh Tư ra nhà sau gọi vợ và con gái tôi ra chào khách. Biểu con Thu Hương pha trà hoa lài đãi khách nghe, anh Tư! Ông Bá hộ Bảnh quay sang Hai Rồng, nói:- Thu Hương nó học ở Sài Gòn và mới đậu bằng brevet hồi năm ngoái. Tuần trước má nó bịnh nên nó về đây thăm; có lẽ mươi hôm nữa, nó trở lên Sài Gòn tiếp tục đi học. Thu Hương là con một, nên má nó cưng chiều lắm.
Nghe có tiếng tằng hắng đằng sau lưng, Bá hộ Bảnh quay đầu nhìn lại, đã thấy nàng bưng khay trà, nhoẻn miệng cười duyên, nũng nịu nói:
-À há, Ba nói xấu con đó, phải không?
Ông Bá hộ Bảnh giới thiệu hai bên:
-Đây là Thu Hương, cục cưng của vợ chồng tôi. Còn đây là chú Hai rồng và cháu Bền do chú Tư Long rước về giúp dân làng, chống lại đảng cướp Thạch Sum.
Nàng khẻ gật đầu chào hai người, để khay trà lên bàn, rồi tự tay rót nước mời khách, rồi nhìn thằng Bền nở nụ cười thân thiện. Nó nhìn nàng trân trối vì nàng lộng lẫy quá, như người đẹp trong tranh vẽ. Mái tóc nàng đen óng ả, chảy dài xuống thắt long, mấy sợi tóc mai, sợi vắn sợi dài, gió thổi phất phơ trên đôi gò má đỏ hây hây. Chao ôi, đẹp làm sao là lúc nhoẻn miệng cười, đôi môi như vầng trăng khuyết, phơn phớt hồng tựa như bông ô môi, vừa đủ lộ hai hàm răng trắng ngần và đều như hột bắp. Còn đôi mắt loan của nàng, long lanh dưới cặp chưn mày cong như vầng trăng non mùng ba, con ngươi vừa tròn, vừa đen như hai hột nhãn, thêm cái sóng mũi dọc dừa làm khuôn mặt trái xoan tăng thêm vẻ hiền thục và thùy mị của nàng.
Hai Rồng thấy thằng Bền cứ nhìn nàng trân trối, lơ láo thần hồn, bèn khẻ đá vào chưn nó, nhắc khéo:
-Uống nước trà đi Bền, trà do cô Hai pha đó. Ngon ắm!
Bền bẽn lẽn, nói:
-Dạ, nước trà còn nóng quá, tía à.
Ông bà Bá hộ Bảnh:
-Má con đâu? Sao, chưa thấy ra chào khách?
Thu Hương nói:
-Dạ, má và mấy dì đang sửa soạn bữa ăn cho mọi người, để con đi ra nhà sau, mời má ra.
Thu Hương mặc chiếc áo bà ba dệt bằng tơ tằm màu vàng nhạt, ôm sát thân người vóc liễu mình mai và cái quần sa tanh đen mướt, làm dáng đi của nàng thêm tha thướt. Vài phút sau, bà Bá hộ Bảnh đi lên nhà khách, bình dị trong bộ áo bằng vải thô màu đen, khiêm tốn cúi đầu chào khách. Phong cách của bà thật bình dân, nên các gia đình tá điền ai cũng kính mến. Bà nói.
-Mấy chú về cũng kịp lúc đó! Bữa nay là ngày giỗ ông ngoại của Thu Hương, đồ ăn đã dọn xong ở ngoài sân phơi lúa rồi. Ông ra mời bà con, cô bác đi ra dùng bữa, kẻo đồ ăn nguội lạnh hết,- bà quay sang Hai Rồng, nói: – Mấy gia đình tá diền về dự đám giỗ đông lắm, nên tôi phải cho dọn sạch sẽ cái sân phơi lúa để tiếp đãi quí khách. Mong chú Hai thông cảm nghen.
Hai Rồng nói:
-Cái tình của đồng bào dành cho tía con tôi mới đáng quí, chớ ngồi ăn ở đâu mà không được.
Cái sân phơi lúa của Bá hộ Bảnh rộng lắm, bằng khoảng một phần ba sân đá banh, lúa được cào, dồn thành nhiều đóng chờ vô kho và bốn cái lẫm lúa, mỗi cái rộng bằng căn nhà ba gian, cất san sát dọc theo bờ kinh Cái Cơ, đầy ắp lúa đã phơi khô chờ các ghe chài của các chành gạo xuống chở đi xay.
oOo
Ông Bá hộ Bảnh là một trong những đại diền chủ trong vùng tam giác Kinh Cái Cơ và rạch Long Khốt, có gần cả ngàn mẫu ruộng cho trên trăm gia đình tá điền mướn canh tác. Mỗi năm ông thu về cả ngàn vạn giạ lúa, tiền bạc vô như nước; ngoài ra, ông còn mấy dãy phố ở Chợ Lớn cho mướn và một cái biệt thự lộng lẫy trên bờ sông Bến Nghé ở Sài Gòn để cho gia đình ở. Bữa nay, nhơn ngày giỗ của cha vợ, ông cho mời tất cả tá điền về tham dự để tìm cách đối phó với Thạch Sum. Ông Bá hộ Bảnh không phải là người nhát gan, là tay súng thiện xạ đã từng bắn hạ nhiều cọp dữ vùng Bảy Núi. Ông không tin cái phép gồng của Thạch Sum, chịu nổi sức công phá của đầu viên đạn súng “mousqueton” của ông.
Mọi người lần lượt ra tới sân phơi lúa, chia nhau ngồi trên 30 cái chiếu bông, trải trên nền gạch tàu đã sắp sẵng chén đũa và mấy chai rượu đế Cái Dừng nổi tiếng vùng Đồng Tháp Mười. Thu Hương cùng mẹ và mấy dì trong làng, đứng trong cái lều bạt lo chặt thịt heo quay và sắp thức ăn ra mâm, để mấy anh tá điền phụ bưng ra chiếu ngồi. Đám trẻ con chạy lăng quăng bên nàng, xin mấy khúc xương và thịt heo quay chặt vụn, chia nhau vừa ăn, vừa đùa giỡn, cười huyên náo như một ngày hội. Bỗng có một bé gái trạc 10 tuổi, vóc dáng xanh xao, gầy gò trong một manh áo sờn vai, mỏng manh. Bé rụt rè nắm lấy tay nàng, nói:
-Cô Hai ơi! Làm ơn cho xin chén cơm, em đói lắm, giọng em nói run run vì đói lạnh:- Nhà hết gạo, em phải ra ruộng móc củ co, củ ấu với tía ăn thay cơm đã mấy ngày rồi. Má đau bịnh cũng không có tiền thuốc thang gì hết.
Em bé xòe bàn tay bị co lát cắt rướm máu cho nàng xem. Thu Hương vô cùng xúc động, ngồi xuống ôm em bé vào lòng, vuốt tóc em, dịu dàng hỏi:
-Em tên gì?
-Dạ, em tên Hoa. Bé đáp.
Nàng dẫn em bé vào nhà bếp, nói:
-Hoa ngồi xuống ghế, chờ chị đi lấy thức ăn cho em.
Nàng lấy tô bới cơm nóng và thịt heo quay để lên trên, đưa cho bé Hoa. Nhìn bé Hoa lua cơm vào miệng vội vã để trấn áp cơn đói. Nàng đi lên nhà trên lấy thuốc đỏ và bông gòn, rồi quày quả trở xuống nhà bếp. Chờ khi bé Hoa ăn cơm xong, nàng lau rửa vết trầy trong lòng bàn tay cho em. Thu Hương hỏi:
-Tía em tên gì?
-Dạ, tía em tên Lê văn Hảo, tá điền của ông bà chủ!
-Thôi, được rồi! Thu Hương móc năm tờ giấy 10 đồng từ trong túi áo, nói:- Đây là 50 đồng, đem về đưa cho tía, nói là của cô Hai biếu, để về lo chạy thuốc cho má. Em đừng đi móc củ co ở ngoài đồng nữa! Ngày mai, chị nhờ chú Tư Long chở gạo ra cho. Nàng cuộn tròn năm tờ giấy bạc lại, cho vào túi áo của bé Hoa, rồi lấy kim tây cài miệng túi áo lại.
Bé Hoa rưng rưng nước mắt, nói:
-Em cám ơn cô Hai nghen!
-Nhà em ở gần đây không?
-Dạ, nhà em ở gần ấp Lò Gạch, cách nhà của cô Hai gần 3 cây số lận.
-Ba cây số? Thu Hương trợn mắt, hỏi:- Em lội bộ tới đây à?
-Dạ, đâu có! Em quá giang xuồng của thằng Tèo tới đây. Hồi sáng nó nói, nhà ông bà chủ có đám giỗ lớn lắm, mình ra đó kiếm ăn. Một lát nữa, em sẽ quá giang xuồng nó về nhà.
-Thôi được, em ra ngoài chơi với thằng Tèo đi, chờ nó đưa về nhà! À quên, đừng hé môi chuyện nầy với ai hết nghen!
-Dạ, em biết rồi! Bé Hoa nói.
Thu Hương, nàng sinh ra ở một nơi bùn lầy nước đọng, trưởng thành bằng những hạt lúa trổi dậy từ vùng Đồng Tháp Mười, quen sống trong sự nuông chiều của cha mẹ. Ông bà bá hộ Bảnh cưng nàng như trứng mỏng, khi nàng tới tuổi cấp sách đến trường thì được gởi lên Sài Gòn dồi mài kinh sử. Nàng như một con chim quý, được nhốt kín trong cái lồng son trưởng giả và gần sống cách biệt hẳn với cái thế giới đầy sinh động của những người nông dân tay lấm chưn bùn. Họ chiến đấu với thiên nhiên khắc nghiệt để cho cây lúa được đứng vững và vươn lên từng ngày trên những cánh đồng mênh mông thẳng cánh cò bay của ông Bá hộ Bảnh. Nàng tưởng rằng, sau mỗi vụ mùa là tất cả bà con tá điền đều có cơm ăn áo mặc và no ấm như nhau. Nhưng, nàng đâu có biết rằng, lúa sau khi gặt về phải phơi thiệt khô, rồi còn lo đong đếm cho ông Bá hộ Bảnh: nào là lúa giống, lúa ứng trước để ăn…cứ vay một giạ, trả thành hai giạ. Chẳng may, hồi năm ngoái, vùng Đồng Tháp bị lụt do nước sông Cửu Long dâng lên đột ngột, làm lúa chín không kịp gặt, bị chìm trong lũ lụt, úng hết. Gạo không đủ ăn, lấy đâu đong lúa ruộng. Vì vậy, gia đình vợ chồng Lê văn Hảo lâm cảnh đói khó. Má bé Hoa làm lụng vất vả, ban ngày theo chồng, dầm mưa dãi nắng, phơi lưng trên đồng ruộng mò cua, bắt ốc, chèo xuồng băng đồng gặt từng cây lúa ma. Từng đêm giăng câu, đặt lờ bắt từng con cá, con tôm đem bán hoặc đổi gạo nuôi con nên lâm trọng bịnh vì không có tiền chạy thuốc.
Nhờ có bé Hoa, nàng mới biết được hết nổi cơ cực của những gia đình tá điền, đang canh tác trên cả ngàn mẫu đất ruộng của cha nàng. Chẳng những vậy, họ còn đem sinh mạng của mình, đánh nhau với bọn cướp đất Thạch Sum để bảo vệ tài sản, đất đai của cha mình. Nàng lẩm bẩm một mình: “Như vậy, không công bằng chút nào cả!” Thế rồi, nàng cương quyết đi ra ngoài sân, gặp mẹ. Thu Hương ghé vào tai mẹ thì thầm:
-Má à, con có chút chuyện muốn thưa cùng ba má, nàng năm tay mẹ, nói:- Má vào vào trong nhà với con.
Bà Bá hộ Bảnh cằn nhằn, nói:
-Để thủng thẳng tối nay, thưa với ba má không được à? Việc gì quan trọng lắm sao, mà gắp vậy hả, con gái?
-Không, ngay bây giờ, má à! Chuyện quan trọng lắm!
-Thôi được rồi, con vô nhà trước đi. Tao đi mời ổng vô liền bây giờ.
Một lát sau, ông bà Bá hộ Bảnh đi thẳng lên nhà trên gặp con gái. Thu Hương đang ngồi trên bộ ghế trường kỷ chờ.
-Chuyện gì mà cần gặp ba má dữ vậy, Thu Hương? Ông Bá hộ Bảnh càm ràm:- Không chờ đến tối được sao con?
Nàng đứng dậy, nắm tay cha mẹ, hỏi:
-Ba má có thương con không? Nếu thương, con mới dám nói. Nếu không, con không dám nói đâu.
Ông Bá hộ Bảnh nhìn vợ , hỏi đùa:
-Sao, bà có nó không vậy? Còn tôi thì không rồi đó!
-Tôi cũng vậy, ai mà thèm thương cái con nha đầu lắm chuyện nầy chớ!
-Con muốn xin ba điều gì, cứ nói huỵch tẹt ra đi để ba má tính! Ông Bá hộ Bảnh nhìn con gái, hỏi:- Chắc thương thằng nào ở trên Sài Gòn rồi phải không con?
-Con mới có mười sáu tuổi mà ba! Con muốn học lên cao nữa mà!
-À, ba biết con muốn cái gì rồi. Muốn đi Tây học, phải vậy không? Nếu con muốn, ba má sẵn sàng.
-Con cũng muốn sang Pháp học. Nhưng, chưa phải lúc nầy.
Ông Bá hộ Bảnh lắc đầu, hỏi:
-Vậy chớ, con muốn cái gì hả?
Nàng cười hóm hỉnh, trả lời:
-Con muốn ba má chia gia tài cho con liền bây giờ!
Ông Bá hộ Bảnh ngạc nhiên, trợn mắt nhìn con gái, hỏi:
-Chia gia tài liền cho con bây giờ?
-Dạ phải, ngay bây giờ kẻo trễ.
-Con là con gái duy nhứt của ba má. Khi ba má trăm tuổi già thì tất cả tài sản nầy, dĩ nhiên thuộc về con. Cần gì phải cho con liền bây giờ? Mà con cần tiền để làm cái gì? Cần bao nhiêu, nếu thấy hợp lý ba cho con ngay.
Thu Hương cười, nói:
-Con chỉ xin ba ứng trước cho con một phần tài sản nhỏ thôi, để con mua một món quà tặng cho ba má.
Ông bà Bá hộ Bảnh nhìn nhau, cười ngất nói:
-Theo ba thấy, gia đình mình không thiếu một thứ gì cả. Ruộng đất cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi. Lúa chất đầy lẫm, gạo chứa đầy kho. Trên Sài Gòn có nhà lầu ô tô. Ở dưới nầy có ca nô. Tiền bạc có ngõ vô, mà không có lối ra, ăn xài đến mấy đời cũng chưa hết. Vậy chớ, con muốn mua thứ gì tặng ba má đây?
-Cái món quà mà con định mua tặng ba má, gia đình mình chưa có. Nàng nói.
-Đâu nà, nói thử cho ba nghe coi! Ông Bá hộ Bảnh nói.
Thu Hương trả lời, giọng nghiêm túc:
-Thưa ba, đó là cái “Đức” mà nhà mình chưa có!
Vừa nghe con gái đề cập đến cái “Đức” là ông ôm bụng cười ngặt nghẽo, quay sang nói với bà vợ:
-Bà nghe nó gì nói chưa? Con gái cưng của bà đòi lên mặt dạy đời cha của nó đó. Trứng mà đòi khôn hơn rận! – rồi ông trừng mắt, nhìn Thu Hương, nói: – Nếu như, ba chỉ nghĩ đến cái “Đức” thì làm gì ba má có một sản nghiệp to lớn như ngày hôm nay, để cho con thừa hưởng sau nầy chớ hả?
Bà Bá hộ Bảnh ngắt lời chồng, nói:
-Được rồi mà, ông để con nó nói, bà nhìn con gái, khuyến khích:- Nói tiếp đi con, ba mầy không nghe để tao nghe.
Thu Hương lắc đầu, thở dài nói:
-Thiệt lòng con không muốn cái gia tài kếch sù nầy đâu! Con chỉ xin ba má để cái “Đức” cho con thôi. Ba không nghe ông bà mình nói sao:- Cha mẹ ăn ở có đức, con không sức mà hưởng, phải vậy không, ba má?
Bà Bá hộ Bảnh gật đầu khen:
-Hay lắm, con gái nói phải đó ông à! Con gái hưởng đức cha mà!
-Mẹ con bà biết cái giống đếch gì mà nói chớ, ông Bá hộ Bảnh gắt, rồi quay sang con gái, hỏi: – Con là người có ăn học, thử giải nghĩa chữ “Đức” cho ba nghe thử coi nào.
Thu Hương bình tĩnh, thưa:
-Làm người, ai cũng có sanh, có tử. Lúc ra đời, thân thể trần truồng với hai bàn tay trắng. Những thứ của cải vật chất mà ba đã nhận từ cõi đời đem đến cho ba lúc sanh tiền, chỉ là của phù du. Một mai, ba trăm tuổi già thì những của cải nầy ba để lại cho người khác hưởng; chắc gì, cái gia tài đồ sộ nầy vĩnh viễn thuộc về con? Ba chỉ mang về bên kia cuộc đời, chính những gì mà đã cho người khác lúc còn sống. Đó chính là cái “Đức” mà ba mang theo để tạo dựng cho cuộc đời sau và để lại cho thừa hưởng ở cuộc đời nầy. Nàng quỳ xuống, ôm chân cha, thiết tha cầu khẩn:- Ba ơi! Lúa gạo của ba chất đầy kho, đầy lẫm; trong khi những gia đình tá điền nghèo khổ mất mùa vì bão lụt, không đủ gạo ăn. Ba đành lòng nhìn họ chết đói sao, ba?
Ông Bá hộ Bảnh đuối lý, đứng phắt dậy, nạt đùa:
-Thôi, đủ rồi đừng nói nữa!
Ông lẳng lặng đi ra ngoài hiên, khoanh tay đứng yên lặng, đăm chiêu nhìn ra ngoài hòn non bộ giữa sân suy tư. Mặt trời đã nghiêng chếch về phương tây, cái bóng râm từ hàng hiên lấn dần cái ánh nắng chói chan trên sân gạch.
Ông lẩm bẩm một mình:
-Mặt trời đã ngã bóng thiệt rồi! Và rồi hình như ông đã giác ngộ: – Đời người như vòng quay của mặt trời. Khi đã lên đến thiên đỉnh, tất phải đi xuống, xuống đến tận cùng. Chu kỳ của một kiếp người cũng thế thôi: “sinh, lão, bịnh, tử” và cứ thế mà quay cuồng mãi trong cái vòng luân hồi bất tận. Ngày mai, mặt trời sẽ mọc lên ở đằng Đông có còn rực rỡ như sáng ngày hôm nay hay nổi lên giữa cơn mưa bão mịt mùng. Điều đó còn tùy vào cái nghiệp chướng do mình tạo ra trong kiếp nầy.
Ông Bá hộ Bảnh nở nụ cười rạng rỡ, nhìn thấy một búp sen lẽ loi, trong hồ non bộ đang âm thầm trổ hoa, những cách hoa sen đỏ hồng làm rực rỡ một cảnh thiên nhiên mộc mạc. Và ông đã giác ngộ…
Ông vội vã quay gót trở vô nhà, nắm tay con gái, giọng trìu mến, nói:
-Tấm lòng nhân hậu của con đã đánh thức lương tâm của kẻ làm cha nầy. Ba đã nhận quá nhiều nơi họ, đã đến lúc ba phải dành cho họ con đường sống. Ông nhìn bà Bá hộ Bảnh, nói:- Bà mở cái két bạc, lấy tất cả giấy nợ mà anh em tá điền còn nợ mình, đưa hết cho tôi.
Bà bá hộ Bảnh cười tươi rói, nói:
-Được rồi, để tui đi lấy! Ông chờ chút nghen!
-Tôi đi ra ngoài đó trước, có nói một đôi lời với họ. Bà và con gái ra sau nghen.
Vừa ra tới chỗ ngồi, ông Bá hộ Bảnh nắm tay Tư Long đứng lên, bên cạnh mình, tuyên bố:
-Hôm nay, có mặt khá đông đủ bà con tại đây. Tôi xin có đôi lời vắn tắt: “Kể từ bây giờ, tôi hủy bỏ tất cả số nợ, nợ cũ cũng như nợ mới mà bà con chưa thanh toán. Và kể từ mùa gặt năm nay, tôi miễn thu lúa gạo vĩnh viễn, để bà con có đời sống ổn định và no ấm hơn. Tôi cắt đặt chú Tư Long và thầy Sáu Trí thay mặt tôi giải quyết những khó khăn cho bà con. Nếu như gia đình nào còn gặp khó ăn cần sự giúp đở, cứ gặp thẳng hai người nầy. Nội trong năm nay, qua mùa nước nổi, tôi sẽ mời viên Trường tiền (géomètre) ở Tân An xuống đây, phối hợp với thầy Sáu Trí đo đạt đất canh tác để làm bằng khoáng chính thức cấp phát cho bà con. Sau khi có bằng khoán trong tay, mọi người sẽ làm chủ đất đai của mình. Còn gia đình tôi sẽ dọn về Sài Gòn sinh sống, lo cho Thu Hương ăn học.”
Ông Bá hộ Bảnh vừa nói dứt lời, tất cả mọi người hét lên mừng rỡ, vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Vài anh lực điền chạy ào tới, công kênh ông Bá hộ Bành lên vai, đi một vòng sân phơi lúa, để cho mọi người bắt tay ông, tỏ lòng biết ơn.
Bà Bá hộ Bảnh ôm một đống giấy nợ, từ trong nhà tất tả chạy ra. Thu Hương tay xách thùng thiếc chạy sau mẹ. Ông Bá hộ Bảnh bảo mấy anh lực điền thả mình xuống đất. Ông cầm xấp nợ từ tay vợ, đưa lên cao cho mọi người thấy, rồi nói lớn cho mọi người nghe:
-Đây là tất cả giấy nợ, tôi đốt trước mặt mọi người, để chứng minh lời nói chân thành của tôi.
Thu Hương nhanh nhẹn để cái thùng thiếc dưới đất bên cạnh cha, rồi hớn hở, nói:
-Thùng thiếc nè ba! Bỏ hết giấy nợ vô đây đốt đi cho bà con mừng!
Và khi ngọn lửa cháy bùng lên, mọi người nhìn nhau xúc động, mừng đến rớt nước mắt, vì giai đoạn khổ đau trong cuộc đời của họ đã đi qua. Đời sống của họ sẽ tươi sáng hơn, no ấm hơn…
Thu Hương, mắt nàng đỏ hoe, nắm tay cha, nói:
-Con cám ơn cha, đã chấp nhận lời cầu xin của con.
Ông Bá hộ Bảnh vuốt tóc con gái, nói:
-Không, ba là người phải cám ơn con mới đúng! Nhờ con, ba mới giác ngộ: cái hạnh phúc của người cho, còn to hơn cái hạnh phúc của người nhận. Đây là món quà vô giá mà con tặng cho ba má; quả thiệt cái “Đức” gia đình mình chưa có, con gái à.
Ông Bá hộ Bảnh nhìn đồng hồ nói:
-Bây giờ gần 4 giờ chiều rồi. Xin bà con ai về nhà nấy, kẻo trời tối! Sáng mốt, vào khoảng 10 giờ, yêu cầu tất cả anh em tập hợp tại nơi đây để phân chia công tác.
Chờ mọi người lần lượt ra về. Tư Long nói với ông Bá hộ Bảnh:
-Để tôi đưa chú Hai Rồng và cháu Bền về đằng nhà tôi nghỉ ngơi. Nếu chiều nay, chú Sáu Trí về kịp. Sau bữa cơm tối, tụi tui sẽ hợp bàn kế hoạch đối phó với đảng cướp Thạch Sum. Ông chủ nghĩ sao?
Ông Bá hộ Bảnh nói:
-Chú Tư lo chỗ ở cho chú Hai và cháu Bền cho chu đáo nghe! Tối nay, xin mời tất cả mọi người lên dùng cơm với vợ chồng chúng tôi.
Rời khỏi nhà ông Bá hộ Bảnh. Hai Rồng nói:
-Xin cứ để hai tía con chúng tôi được tự nhiên. Ngủ trên ghe quen rồi, nằm chỗ lạ khó ngủ lắm!
Sau ba ngày hai đêm chèo chống cực lực, ai nấy cũng thấy mệt đứ đừ. Vừa nằm xuống sàn ghe là Hai Rồng và thằng Bền ngủ say cho đến chạng vạng tối. Tư Long phải xuống ghe đánh thức hai người thức dậy tắm rửa, rồi lên nhà ăn cơm chiều, ông bà Bá hộ Bảnh mời:
– Chú Sáu Trí đã về tới nhà cách đây hơn tiếng đồng hồ. Chú ấy muốn gặp chú Hai để bàn bạc kế sách bảo vệ an ninh cho đồng bào trong vùng. Tư Long nói:- Chú Sáu Trí ghe danh Hai Rồng từ lâu nên rất nóng lòng muốn gặp chú.
*
Trong buổi cơm chiều, mọi người trò chuyện rất thân mật. Thái độ của ông Bá hộ Bảnh rất cởi mở khác thường, khác hẳn thời gian trước đây. Tiệc tàn, thấy trời đã tối, Hai Rồng đứng dậy, kiếu từ mọi người, trở xuống ghe cà dom ngủ. Tư Long và Sáu Trí mang theo một lít đế và mấy con khô sặc nướng để vừa đàm đạo vừa nhậu lai rai. Tuy mới gặp nhau lần đầu, nhưng Hai Rồng và Sáu Trí rất tâm đầu ý hợp, chí lớn gặp nhau. Thời nào cũng thế, hào kiệt trọng anh hùng. Bây giờ, Hai Rồng mới biết tại sao ông Bá hộ Bảnh gọi Sáu Trí bằng “thầy”, vì Thu Hương đang chuẩn bị thi bằng tú tài một (Baccalauréat première partie) vào năm tới, nên Sáu Trí dạy luyện thi cho nàng trong thời gian ở nhà với cha mẹ. Còn thằng Bền thắp hai ngọn đèn bão, một để giữa khoang ghe và một móc trên cây sào tre ở đằng sau lái, rồi mang quyển vở học trò của Năm Hậu tặng để nghiên cứu và tự luyện tập đường roi tuyệt kỹ, vang danh đất Thuận Truyền, nhường cho người lớn nói chuyện trong khoang ghe.
Hai Rồng nhìn Sáu Trí, hỏi:
-Theo cách nhìn của tôi, chú Sáu phải là một tay khoa bảng. Nếu tôi đoán không lầm, chú Sáu đã đậu bằng tú tài đôi thì phải, kể như quan trạng áo gấm về làng, dư sức kiếm cho mình một địa vị khả quan trong xã hội. Xã hội bây giờ chỉ có hai con đường tiến thân tạo dựng sự nghiệp cho riêng mình. Một là khẩn hoang lập ấp, chịu khó vất vả thời gian đầu, rồi sau trở thành điền chủ. Hai là có bằng cấp để làm quan, có chức có quyền làm giàu mấy hồi, như ông Trần Trinh Trạch nhờ biết nói tiếng Tây, tuy chỉ làm Thơ ký Tòa Bố tỉnh Bạc Liêu. Dựa vào thế lực của thực dân Pháp, ông ta khẩn nhiều đất hoang trở thành đại điền chủ. Về sau, ông đắc cử Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ nên người ta gọi ông là Hội Đồng Trạch. Tại sao chú Sáu phải trôi dạt về nương náo vùng hẻo lánh nầy?
Sáu Trí nói:
-Tôi xuất thân con nhà nghèo mồ côi cha mẹ từ lúc lên mười. Ở đợ, chăn trâu cho nhà Hương cả Có ở quận Phước Long, tỉnh Bạc Liêu. Hương cả Có là đại điền chủ ruộng đất cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi, không kém cơ ngơi của ông Bá hộ Bảnh. Phần lớn đất đai, vườn tược dọc theo rạch Cạnh Đền có cả trăm mẫu thuộc về gia đình ông. Ông bà Hương cả Có lại hiếm con trai, chỉ có người con trai một tên Lê văn Tri, trạc tuổi tôi, vì không muốn con đi lên tỉnh học xa nhà, nên mướn thầy về dạy học cho con. Thầy giáo Đỗ Thừa Đức nguyên là hậu duệ của anh hùng Đỗ Thừa Lượng và Đỗ Thừa Tự ở vùng biển Bến Tre, Trà Vinh. Từ vùng đất Giồng Lai Vung, Long Hậu, hai vị anh hùng nầy xuống miệt U Minh lập căn cứ địa cùng với nông dân yêu nước khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Thầy Đức là người rất tốt bụng. Mỗi buổi chiều, tôi lùa đàn trâu xuống rạch Cái Tàu tắm sạch đất bùn, rồi hối hả cho chúng vào chuồng là tôi lật đật lên nhà trên nhờ thầy dạy dùm, học được chữ nào, hay chữ nấy. Chế độ cưỡng bách giáo dục thuở đó, Quan chủ quận Phước Long bắt buộc trẻ em trong 4 xã Phong Thạnh Tây, Ninh Thạnh Lợi, Phước Long và Vĩnh Phú phải lên một trong hai trường tổng: Thanh Bình và Thanh Yên đi học, nên mấy ông địa chủ giàu có trong vùng, phải mướn con tá điền đi học thay con mình, vì sợ sau nầy con mình bị nhà nước trưng dụng, bắt đi lính xa quê quán, có khi đưa sang Pháp đánh giặc, bỏ mạng ở một xứ thuộc địa khác. Vì vậy, tôi dùng khai sanh của anh Tri lên trường tổng Thanh Bình đi học thay cho anh ấy. Chỉ có ba năm, tôi đã lấy bằng tiểu học trước sự ngạc nhiên của Hương cả Có. Nhờ thầy giáo Đức nói vô mà tôi được Hương cả Có xuất tiền cho tôi ăn học cho đến khi lấy bằng tú tài đôi (baccalauréat deuxième partie) về trao lại cho Lê văn Tri theo sự thỏa thuận trước để ông bà Hương cả Có nở mày nở mặt với thiên hạ. Nhờ bằng tú tài của tôi mà anh Trí cưới được một cô con gái út của Hội đồng Huề ở tỉnh Trà Vinh. Còn tôi, vì dính líu đến biến cố đến vụ án “Đồng Nọc Nạn” nên theo anh Tư Long trôi dạt về Mộc Hóa, tá túc với ông bá hộ Bảnh, tránh sự truy nã của chánh quyền Thực dân Pháp. Chuyện nầy dài dòng lắm, tôi sẽ hết đầu đuôi vụ án Đồng Nọc Nạn cho anh Hai nghe sau.
Tư Long nói:
-Kể ra, ông bá hộ Bảnh không phải là hạng trọc phú bất nhân. Hồi trưa nầy, hành động của ổng đối với anh em tá điền vô cùng cảm kích. Tánh của ông bá hộ Bảnh rất ke re, cắc rắc; trái lại, bà và cô Hai rất tốt bụng, nhân từ và rộng rãi nên ai cũng mến. Chỉ có hai người nầy mới cảm hóa được ông ấy thôi. Tôi thật không ngờ, chỉ một sớm một chiều mà ông bá hộ Bảnh đã giác ngộ. Thiệt là một điều đáng mừng.
Hai Rồng nói:
-Còn về phần tôi, sau khi thi rớt bằng brevet, vì nhà nghèo, tôi phải bỏ học, đi làm kiếm sống. Trên một chuyến xe đò mang bảng hiệu Vạn Lộc từ Cần Thơ về Sài Gòn, lúc xe qua phà Mỹ Thuận, chạy gần đến cầu Cổ Cò thì bị 3 tên cướp, trang bị lựu đạn, mã tấu và một cây súng trường mousqueton chận đường. Chúng nhào lên xe vơ vét tiền bạc, nữ trang của hành khách. Tên cầm mã tấu định chặt ngón tay của một cô gái, ngồi trên hàng ghế trước mặt tôi, để lấy chiếc nhẫn vàng trước khi tẩu thoát. Tôi nộ khí xung thiên, tung một quả đấm thôi sơn vào mặt hắn. Bị trúng đòn bất ngờ làm hắn choáng váng, tôi nhào tới đoạt cây mã tấu, chém sả xuống đầu tên cầm súng. Hắn né đầu tránh khỏi, nhưng cây mã phập xuống trúng vai, phải buông súng, máu ra xối xả. Tên thứ ba cầm trái lựu đạn chưa kịp phản ứng thì bị một đàn ông trung niên tung một cước vào bụng, làm hắn văng ra bể kính xe, rớt xuống đường. Ông ta là “Sáu Thanh” chủ hảng xe đò “Vạn Lộc”” . Anh Sáu thán phục lòng dũng cảm của tôi, truyền dạy võ thuật và sau đó tôi rồi trở thành khắc tinh của dân giang hồ khét tiếng lục tỉnh miền Tây chuyên sống bằng nghề đâm thuê chém mướn. Quy luật của các tên trùm côn đồ tại các bến xe đò là tóm thâu quyền lực, hòng làm “đại ca” chốn giang hồ. Nguyên tắc số một của những tên trùm là “lấy huyết”” , truy sát, tận diệt các băng đảng côn đồ khác có thái độ khinh thường và xâm phạm vào địa bàn làm ăn của hắn ta. Các vụ ẩu đả, đâm, chém giữa các băng đảng côn đồ tại các bến xe đò lục tỉnh xảy ra hà rầm, gây kinh hoàng cho dân địa phương. Như tại bến xe đò Cần Thơ trên đường Ngô Quyền có tên Ba Hồ. Xuất thân của tên nầy làm biện sân, một loại tay sai hạng bét cho Tây trong đồn điền Cờ Đỏ, có nhiệm vụ kết toán số lúa do nông dân đóng lúa ruộng cho tụi Tây sau mỗi mùa gặt. Hắn rất giỏi võ, nỗi tiếng sau trận đụng độ với 20 tên côn đồ tại Thới Lai – nằm trên đường Ô Môn và Cờ Đỏ – là đám dân giang hồ tứ xứ đến từ bến xe đò Cần Thơ, cầu Tham Tướng, Cái Côn… Nhờ giỏi võ nghệ, hắn đi lên rất nhanh và trở thành “đại ca” tại bến xe Cần Thơ, gây bất ổn cho dân chúng, làm xúc phạm đến danh dự của anh Sáu Thanh. Vì vậy, tôi phải ra tay trừ khử tên lưu manh đầy tham vọng nầy. Trong trận thách đấu tại bến bắc Cần Thơ, kéo dài từ giờ chiều đến chạng vạng tối, hắn bị tôi phóng một cước vào cổ, văng xuống dòng sông Hậu. Từ đó, hắn biệt tích giang hồ. Nghe nói, hắn làm sát thủ tên Bí Thư Tỉnh Ủy Cần Thơ đầu tiên tên Quản Trọng Hàn vào năm 1938 để ám sát, khủng bố những Việt Quốc Gia yêu nước không đi theo cộng sản. (Về sau, Quản Trọng Hàn bị bắn chết tại Hóc Môn vào ngày 22 tháng 7 năm 1941. Ba Hô tham gia tập đoàn sát thủ của Trần văn Giàu và “Hung thần chợ Đệm” Nguyễn văn Trấn, bọn nầy giết người không gớm tay.)
Sáu Trí hỏi:
-Vì sao, anh Hai từ giã nghề dao, búa để trở thành dân thương hồ sống lênh đênh, rày đây, mai đó trên sông nước vùng đồng bằng sông Cửu Long? Nhứt định phải lý do nào đó, phải không anh Hai?
-Đúng vậy!- Hai Rồng nói:- Hồi năm ngoái, tôi may mắn gặp được Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ hai lần, lần cuối cùng tại xã Nhơn Nghĩa, tỉnh Cần Thơ hồi năm ngoái. Tại đây, ông đã giảng đạo về “Giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo” cho đồng bào địa phương; vì vậy, bác sĩ Trần văn Tâm và cả tôi nữa đã giác ngộ và trở thành tín đồ của ông,- Hai Rồng thuyết giảng về những nét chính. “Giáo lý PGHH là sự tổng hợp giáo lý của ba dòng tôn giáo chính là Phật, Khổng, Lão, phối hợp với truyền thống đoàn kết yêu nước, chống ngoại xâm của Dân Tộc Việt Nam từ ngàn xưa. Đức Thầy đã từng dạy các tín đồ rằng: “Không có một ai yêu thương dân tộc mình, chỉ có dân Việt Nam mình mới hết lòng yêu thương Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam mình mà thôi.” Chính vì vậy, tín đồ yêu nước Phật Giáo Hòa Hảo lâm vào cái thế trên đe dưới búa, luôn luôn là đối tượng thù nghịch của Thực dân Pháp và Việt Minh Cộng Sản. Thực dân Pháp gọi họ là “phiến loạn” còn bọn Việt Minh Cộng Sản gọi họ là
“phản động” cần phải tiêu diệt.”
Sáu Trí hỏi:
-Phật Giáo Hòa Hảo là một tôn giáo? Một chánh đảng? Một tổ chức cách mạng? Một giáo phái võ trang? Một đảng chánh trị mang danh tôn giáo? Hay một tôn giáo của mục tiêu chính trị?
Hai Rồng nói:
-Trước khi trả lời câu hỏi nầy, chúng ta hãy nhìn lại bối cảnh lịch sử nước từ khi Thực dân Pháp xâm lược nước ta cho đến bây giờ. Bộ máy tuyên truyền của Thực dân Pháp được huy động vào việc chế tạo mâu thuẩn, gây kỳ thị chủng tộc: “Bắc kỳ – Trung kỳ – Nam kỳ” , đó chánh sách gây chia rẽ để cai trị của Thực dân Pháp. Còn Việt Minh Cộng Sản thực hiện cái gọi là “Đấu tranh giai cấp” đang phá nát nền mống xã hội Việt Nam. Đối với giai cấp tư bản, VMCS chia ra nào là: cường hào ác bá, quan liêu, tư bản, tư sản dân tộc…Đối với gia cấp nông dân thì chia ra nào là: địa chủ, trung nông, bần cố nông. Đối với tử trí thức thì chia ra nhiều thành phần, nào là trí thức tiến bộ, bảo thủ, lạc hậu…tạo mâu thuẩn và xung đột lẫn nhau, làm phân hóa hàng ngũ người Việt Nam yêu nước, chỉ làm lợi cho Thực dân Pháp.
-Tôi hiểu anh Hai muốn nói điều gì rồi. Sáu Trí nói:- Thực dân Pháp và VMCS càng cố gây chia rẽ và phân hóa hàng ngũ người Việt Nam yêu nước thì Đức Huỳnh Giáo Chủ khai sáng đạo PGHH càng ra sức củng cố sự đoàn kết dân tộc. Ngài quan niệm rằng, mọi trọng tâm của các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc bị áp bức, muốn thoát khỏi ách độ hộ của Thực dân Anh hoặc Pháp đều phải dựa vào sức mạnh vô địch của sự ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, chớ không phải dựa vào sự giúp đở của ngoại bang vì “vọng ngoại tắc tử” . Đúng như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ đã nói: “Không ai thương dân tộc Việt Nam bằng chính người Việt Nam” Trong lịch sử đấu tranh oai hùng của dân tộc Việt nam chống kẻ thù truyền kiếp từ phương Bắc để tồn tại. Tổ tiên chúng ta đã kiên cường bất khuất, nhứt định không làm nô lệ cho dân tộc Đại Hán. Trải qua bao nhiêu thế hệ anh hùng dân tộc nối tiếp nhau từ triều đại nhà Ngô – Đinh – Lê – Lý – Trần – Nguyễn. Tổ tiên chúng ta chỉ dựa vào sức mạnh vô địch của “Tình đoàn kết truyền thống Dân Tộc Việt Nam” để tự lực chiến đấu và chiến thắng quân xâm lược từ phương Bắc. Tổ tiên chúng ta đâu có cầu viện quân ngoại nhập hoặc dựa vào một chủ nghĩa ngoại lai, vong bản nào đâu? Biểu tượng vĩ đại của tinh thần đoàn kết dân tộc là Hội Nghị Diên Hồng. Lời nói bất khuất và hào hùng của Đức Trần Hưng Đạo đã thắp một ngọn đuốc thiêng bất diệt và sẽ mãi mãi cháy sáng rực rỡ trong lòng dân tộc Việt Nam: “Nếu bệ hệ muốn hàng, xin chém đầu thần trước đã.”
-Đúng như nhận xét của chú Sáu! Hai Rồng nói:- Bác sĩ Trần văn Tâm có nói với tôi là trong thời gian ông còn học ở bên Tây, ông có dịp nghiên cứu về chủ nghĩa Cộng sản. Trình độ văn hóa và kiến thức của ông Hồ Chí Minh hiểu biết được bao nhiêu về chủ nghĩa Mác – Lênin? Làm sao nhận thức cho nổi “Sách lược chính trị” của Lenine viết trong tập tham luận “Về các vấn đề Dân Tộc và Thuộc Địa” ? Cái gọi là “Chiến tranh giải phóng Dân tộc” và “Đấu tranh giai cấp” chỉ là lưỡng diện. Hồ Chí Minh làm sao có đủ trí khôn để thấy được điểm “chiến lược chính trị” của Lenine và Staline là lần lượt giựt sập toàn bộ hệ thống thuộc địa cũ của Đế quốc Anh, Pháp, Tây Ban Nha…để biến nó trở thành hệ thống “thuộc địa kiểu mới” của bọn Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản? Bác sĩ Trần văn Tâm tiên đoán, không sớm thì muộn ông Hồ Chí Minh sẽ gây đại họa cho dân tộc Việt Nam. Đánh đuổi Thực dân Pháp ra cửa trước để rước cộng sản Nga – Tàu vào cửa sau, vẫn chỉ là “dịch chủ tái nô” tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa. Cái hiểm họa một ngàn năm bị thằng Tàu đô hộ; có lẽ, Hồ Chí Minh đã quên bài học lịch sử nầy rồi chăng? Tôi vô cùng kính phục ý chí tranh đấu mãnh liệt của Huỳnh Giáo Chủ cho nền độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, hướng “đức dũng” của tín đồ PGHH vào tình yêu đất nước và dân tộc. Sau khi trở thành tín đồ PGHH, tôi và chú Ba Hổ từ giã nghề dao búa, cải dạng thành dân thương hồ để tránh tai mắt tay sai Thực dân Pháp và kẻ nội thù VMCS, bôn ba xuôi ngược khắp nơi từ Đồng Tháp, Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ… kết nạp thêm các chiến hữu cùng chung lý tưởng để phát triển thêm lực lượng, chuẩn bị phất cờ khởi nghĩa. Cù lao Ông Chưởng là nơi hội tụ nghĩa quân đồng tâm, hiệp lực kháng chiến chiến chống Thực dân Pháp dành lại độc lập và thống nhứt đất nước.
-Cù lao Ông Chưởng nằm ở trên khúc sông Tiền hay sông Hậu? Sáu Trí hỏi.
Hai Rồng nói:
-Cù lao Ông Chưởng khá lớn, nằm trên một khúc sông Hậu thuộc tỉnh Long Xuyên. Đầu cù lao đối diện với xã Hòa Hảo, đuôi cù lao đối diện với châu thành tỉnh lỵ Long Xuyên. Khúc sông Tiền khi chảy qua sông Vàm Nao, rồi tới quận lỵ Chợ Mới, có một dòng sông nhỏ tách rời khỏi sông Tiền chảy quanh co, xuống vàm Chưng Đùn, đối diện với cù lao Ông Chưởng. Dòng sông đó là rạch Ông Chưởng, nổi tiếng xinh đẹp và trù phú. Rạch Ông Chưởng nối liền hai bờ sông Tiền và sông Hậu, tuy chiều chưa tới 20 cây số, nhưng có bảy khu chợ nằm rải rác hai bên bờ sông và dưới sông có vô số tôm, cá. Nhà cửa mọc chen chúc nhau hai bên con đường tráng nhựa bằng phẳng, rộng rãi, rợp bóng những hàng dừa, cây vú sửa xanh tươi. Vào những buổi chiều tà, mọi người già, trẻ đổ xô ra bờ sông câu cá, dạo mát.
-Mục tiêu hành động của anh Hai trong thời điểm nầy, như thế nào? Sáu Trí hỏi.
-Tránh việc biến bạn thành thù; cố gắng biến thù thành bạn. Đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết được, trung lập mọi lực lượng có thể trung lập được, phân hóa mọi lực lượng có thể phân hóa được. Vì vậy, tôi cố gắng giải quyết việc rắc rối ở biên giới Việt – Miên càng ít đổ máu càng tốt. Nếu phải huy động thêm lực lượng dân quân ốn ào sẽ gây thành cuộc chiến tranh biên giới mất, điều nầy sẽ làm lợi cho bọn VMCS và hoàn toàn bất lợi cho chúng ta.
-Nhận định của anh Hai, rất phù hợp với những suy nghĩ của tôi. Sáng mai, tôi sẽ đưa anh Hai quan sát kế hoạch phòng thủ biên giới. Sáu Trí nói:- Muốn chiến thắng kẻ thù; phải tạo cho mình cái thế “bất bại” trước đã, rồi mới tính đến chuyện chiến thắng! Sau khi hoàn thành công việc phân chia đất đai cho bà con tá điền. Chờ khi họ được cấp bằng khoáng xong. Tôi sẽ tìm về cù lao Ông Chưởng hợp tác với các anh. Chúng ta đồng tâm hiệp lực theo Đức Huỳnh Giáo Chủ phất cờ khởi nghĩa chống Thực dân Pháp.
Hai Rồng mừng lắm, nói:
-Được như vậy thì hay lắm!
Thấy trời đã quá nửa đêm về sáng, Tư Long nhắc:
-Thôi, chúng ta đi ngủ! Sáng mai còn nhiều việc để làm lắm đó! Ngày mai sẽ nói bàn tiếp chuyện quốc gia đại sự.
oOo
Sáng sớm nay cũng như hôm qua. Bền thức dậy sớm khi sương mù trắng đục như sửa còn mờ mịt trời đất, trôi lơ lững trên những ngọn dừa, ngọn cau ven sông, làm khuất lấp vầng thái dương trong khoảng thời gian ngắn ngủi. Con rạch Long Khốt vẫn mơ màng, uể oải êm trôi trong sương mù trĩu nặng hơi nước, lác đác vài ngọn đèn bão của xuồng giăng câu đêm vẫn còn lung linh, ẩn hiện trong sương. Không gian vẫn còn tĩnh mịch, chỉ nghe tiếng gà gáy eo óc trong thôn xóm xa xa và bầy chim trong các lùm cây ven sông bắt đầu líu lo, ríu rít gọi nhau, chờ đón một ngày mới bắt đầu; và rồi trong khoảnh khắc, tất cả đều bừng lên trong ánh bình minh rực rở. Sương mai tan dần, Bền ngồi bên khung cửa sổ, đã trông thấy rõ những vòm cây bần, mù u trút những chiếc lá úa vào nắng sớm như mưa, rơi lả tả xuống con rạch, theo dòng nước cuốn trôi đi…
Bền cầm lấy cây roi, rời khỏi chiếc ghe cà dom, bước lên bờ luyện tập đường roi bí truyền, theo từng chiêu thức do Năm Hậu ghi lại trong quyển vở học trò. Roi không phải là vũ khí đơn thuần để thủ mà còn để phản công. Công hay thủ đều do sự khổ luyện, linh hoạt, tùy cơ ứng biến của người sử dụng roi. Có khi lấy nghịch chế thuận. Có khi cộng lực, nương sức mạnh địch thủ để đánh bại địch thủ. Bền vừa đọc “lời thiệu” để hướng dẫn động tác cho mỗi đòn thế, gọi là phách. Có 8 phách roi căn bản làm nỗi danh đường roi Thuận Truyền: “Bát” phá đòn đánh từ trên xuống, “Bắt” phá đòn đâm từ nửa thân trên, “Triệt” phá đòn đánh tạt ngang sườn, “Chận” phá đòn đánh phất của địch thủ, “Hoành” đưa ngang roi bên trái, rồi chuyển sang phải để tìm thế tấn công địch, “Khắc” đánh roi của địch thủ văng ra xa, “Lắc” né đòn tấn công của địch đâm thẳng từ thắt long trở lên, “Tém” hất, gạt tất cả đầu roi đâm thẳng của địch thủ. Có những ngọn roi bí truyền, khai tử những địch thủ hung ác, hiếu sát, đối tượng nguy hiểm cho xã hội là khi đầu ngọn roi chấm vào yếu huyệt vùng sa mở bụng dưới, địch thủ sẽ cầm chắc cái chết trong vòng 3 hoặc 4 ngày. Roi “đổ thủy” một đầu chúc xuống, một đầu ngửa. Roi “rút” đánh hai đầu và roi “điểm huyệt” làm cho địch thủ bị tê liệt trong khoảng thời gian nhứt định.
Bền đặt tất cả tinh thần vào động tác luyện tập các đường roi một cách linh hoạt, không theo thứ tự nhứt định, trước chậm sau nhanh, biến các “phách” từ thủ sang công, từ công sang thủ, hư hư, thật thật. Vốn có căn bản võ thuật do sư phụ Hai Rồng truyền dạy, ngọn roi trong tay Bền trở nên linh động phi thường, chỉ thấy đường roi loang loáng, không thấy bóng người, chỉ nghe hơi gió phát ra vù vù. Bỗng thằng Bền chúc đầu roi xuống, phóng người lên tung liền hai cước thật đẹp mắt vào một đối thủ vô hình, theo thế “Tiền roi, hậu cước” . Bền giựt mình, nghe có tiếng ai đó, nhìn lén rồi vỗ tay khen ngợi, thì ra là Thu Hương, ái nữ của ông bà bá hộ Bành, đang đứng trước hiên nhà, nhìn ra bờ sông, tình cờ thấy Bền đang luyện võ. Nàng thả bộ xuống bờ sông, gặp Bền nói:
-Cậu Bền múa côn trông đẹp mắt lắm đó!
Bền khiêm nhượng, nói:
-Tôi chỉ học lóm vài đường roi, dùng để biểu diễn thôi mà, chớ chưa có thi đấu với ai bao giờ đâu. Cô Hai quá khen!
-Bền đi mời chú Hai lên nhà dùng điểm tâm. Thu Hương nói:- Còn tôi đi lại đằng căn nhà sàn, mời Chú Tư Long và thầy Sáu Trí.
Bền quày gót trở xuống ghe, thấy tía đã ăn mặc gọn gàng trong bộ đồ bà ba màu nâu cố hữu, một cái khăn rằn thắt ngang lưng. Bền thưa:
-Cô Hai nhờ con thưa với tía, ông bá hộ Bảnh mời tía lên nhà trên dùng điểm tâm với gia đình.
-Sao sáng nay, con thức sớm quá vậy, Bền? Hai Rồng hỏi.
-Con lên bờ đang tập múa roi, đi quyền thì gặp cô Hai đi tới. Bền nói.
-Thôi, hai tía con mình đi lên nhà, kẻo chủ nhà chờ. Hai rồng nói:- Sau khi ăn sáng xong, tía nhờ chú Tư Long hoặc thầy Sáu Trí chèo ghe đưa tía đi quan sát địa hình, địa vật vùng nầy để đặt kế hoạch phòng thủ cho chu đáo trước, rồi mới tính chuyện tấn công vào sào huyệt của Thạch Sum.
-Con có giúp được việc gì cho dân làng, không vậy tía? Bền hỏi.
-Sáng ngày mai, ông bá hộ Bảnh có triệu tập các chú lực điền trên sân phơi lúa. Tía nhờ con chỉ họ những thế võ căn bản, đủ để họ tự vệ bản thân và dân làng, mỗi khi chạm trán với bọn cướp Thạch Sum. Hai Rồng nói.
Hai tía con Hai Rồng bước lên bờ là gặp Tư Long và thầy Sáu Trí vừa đi trờ tới. Sáu Trí vui vẻ, nhắc:
-Một lát nữa, tôi sẽ chèo ghe đưa anh Hai dọc theo con kinh Cái Cơ, thăm vài anh em tá điền để trấn an họ. Luôn tiện, tôi sẽ chỉ anh Hai kế hoạch phòng thủ vùng biên giới phía Tây Nam.
Bền nói:
-Tía cho con đi theo với nghen, để con chèo ghe đưa tía và thầy Sáu đi.
-Ừa, có con đi theo cũng được. – Hai Rồng nói.
CHƯƠNG NĂM
LONG HUYỆT THẤT SƠN,
BỌN ĐỊA LÝ TÀU TRẤN ẾM
Sau khi dùng điểm tâm xong với gia đình bá hộ Bảnh. Cả ba người xuống chiếc ghe tam bản của Tư Long, Bền nhổ sào, chèo vô sâu trong con kinh Cái Cơ. Những gia đình tá điền kỳ cựu đã theo ông nội của bá hộ Bảnh vào khẩn hoang lập ấp vùng nầy, từ đầu thế kỷ 20. Lúc ban sơ, họ sống dọc theo biên giới Việt – Miên, rồi từ khi có con kinh Cái Cơ dài khoảng 30 cây số, lấy nước từ con rạch Long Khốt, rạch Cái Cái và rạch Sở Hạ chảy vào tháo nước phèn. Họ bắt đầu sống quần cư sống dọc theo con kinh nầy vì đó là thủy trình chính lúc bây giờ, vừa có nước ngọt do mấy con rạch đó chảy vào để sinh hoạt, vừa có nước để làm ruộng, vừa mưu sinh bằng đánh bắt cá như chài lưới, đặt vó, chất chà rồi dỡ chà, thả vịt dưới rạch, trồng thêm dừa nước, trên bờ trồng tre, tầm vông… để làm vật liệu cất nhà, cứ thế mà đất canh tác càng ngày càng mở rộng ra đến cả ngàn mẫu dọc theo hai bên con kinh Cái Cơ. Việc vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy từ Tân Châu, Hồng Ngự qua Mộc Hóa cũng khá dễ dàng. Các ghe thương hồ từ Hồng Ngự theo con rạch Sở Hạ để vào kinh Cái Cơ, rồi theo rạch Long Khốt xuống Mộc Hóa dỡ hàng hoặc bốc hàng rất tiện lợi.
Thầy Sáu Trí nói:
-Lấy nhà của ông bá hộ Bảnh làm tâm điểm, vạch một đường thẳng dài 8 cây số dọc theo con kinh Cái Cơ đến ấp Cần Đen, rồi từ nhà ông vạch một đường thẳng dài 4 cây số dọc theo rạch Long Khốt đến ranh ấp Bầu Biển. Khu tam giác nầy có khoảng chục ngàn mẫu đất, nhưng đất canh tác chưa tới 15 phần trăm, cho trên 200 gia đình tá điền mướn. Phần còn lại bỏ hoang, không người canh tác. Ông cho trồng cây tràm, cây đước mọc thành rừng, đem về cho ông bá hộ Bảnh nguồn lợi không nhỏ. Cây tràm rất dễ trồng, đất phèn cũng mọc được, mọc chen chúc nhau cây càng thẳng, không cần tốn công chăm sóc. Hằng năm sau mỗi vụ mùa, vài ba anh lực điền khỏe mạnh vào khai thác tràm, kết thành bè thả trôi về Vĩnh Long, Sa Đéc, Cần Thơ bán cho đồng bào miệt dưới, cất nhà cửa.
-Từ con kinh Cái Cơ cách biên giới Việt – Miên bao nhiêu cây số? Có bao nhiêu gia đình tá điền sống dọc theo con kinh nầy? Hai Rồng hỏi.
-Từ đây cách biên giới chỉ vài trăm thước mà đường ranh biên giới chỉ có tánh cách tượng trưng vì không có cột mốc phân chia biên giới rõ rệt,-Sáu Trí chỉ bãi đất trống, có trồng một đám tre tầm vông rậm đám, nói: Bãi đất trống có diện tích khá rộng, đó là nơi diễn ra trận thư hùng giữa Lý võ sư và Thạch Sum trước đây. Đó cũng là nơi trao đổi các sản phẩm địa phương giữa đồng bào mình và dân Miên ở làng Phum Chờ Rey. Vì vậy, Thạch Sum gây áp lực, buộc dân làng phải lùi sâu vào gần khu rừng tràm, cách kinh Cái Cơ là 2 cây số. Hầu hết gia đình tá điền sống dọc theo bên nầy bờ con kinh Cái Cơ, chỉ có khoảng 30 gia đình sống dọc theo rạch Long Khốt. Từ đầu kinh Cái Cơ chạy dài xuống đến ấp Cần Đen, tôi đặt 8 tháp canh, cách nhau 1 cây số. Cứ 20 gia đình họp thành một xóm, thay phiên cắt đặt người canh gác một tháp canh ngày đêm. Mỗi chòi canh cao 6, 7 thước, khi lên bằng thang cây. Mỗi khi có biến động thì tuột xuống bằng dây luộc cho nhanh, tẩu thoát qua bên kia bờ kinh Cái Cơ, Thầy Sáu Trí lấy tay chỉ một cái tháp canh phía xa xa, nói: “Mình sắp đến cái tháp canh đầu tiên rồi đó.”
-Chúng ta có ghé thăm họ một chút được không? Hai Rồng hỏi.
-Dạ, được chớ! Thầy Sáu Trí, quay đầu ra đằng sau lái, nói: Cháu Bền nhớ tấp ghe vào cái tháp canh đó cho chú Sáu nghen.
Khoảng 20 phút sau, Bền chèo ghe tấp bên cạnh cây cầu dừa để mọi người lên bờ, còn mình ngồi trên ghe chờ. Hai người đi theo bờ đê dẫn tới tháp canh, được dựng lên cách bờ kinh chừng 100 thước. Thấy thấp thoáng mấy người lạ mặt đi trên bờ đê. Một người từ trên tháp canh hỏi vọng xuống:
-Ai đó?
-Chú Sáu Trí đây! Cho phép tôi dẫn chú Hai Rồng leo lên tháp canh quan sát kế hoạch phòng thủ của xóm nầy nghe!
-Dạ được, mời thầy Sáu và chú Hai leo lên đây chơi.
Mười Tỵ, người lực điền phụ trách canh gác ca ban ngày, mở tấm ván lót sàn vuông vức, đủ cho một người leo lên tháp canh. Sáu Trí vỗ vai Mười Tỵ, thân mật:
-Sao, tình hình mấy đêm nay có gì lạ không, chú Mười?
-Dạ, tình hình gần đây hoàn toàn yên tĩnh. Bọn cướp Thạch Sum còn án binh bất động. Nhưng mà, cách đây ba đêm là phiên gác đêm của em, Mười Ngọ giọng ngập ngừng, nói: Em đối diện với một nguy cơ khác còn đáng sợ hơn bọn cướp Thạch Sum nữa, làm em sợ đến té đái luôn.
-Nguy cơ gì vậy? Sáu Trí ngạc nhiên, hỏi.
-Rắn! Cái tháp canh nầy cao trên 6 thước; vậy mà, con rắn khổng lồ nầy có thể ngóc đầu lên một cách dễ dàng, đủ biết nó bao lớn rồi, Mười Tỵ giọng vẫn còn sợ, kể tiếp: Vào khoảng 2 giờ sáng. Em đang ngủ gà, ngủ gật; bỗng có một khè thiệt lớn làm em giựt mình, mở mắt choàng dậy thì nội mẹ ơi…đầu một con rắn khổng lồ, bự bằng cái chậu, chờn vờn ngoài tháp canh, đôi mắt ngó em trừng trừng, thè cái lưỡi dài thượt, chực muốn ăn tươi nuốt sống em. Thời may, có một con chó trong xóm đang săn chuột gần tháp canh. Nghe tiếng chó sủa gâu gâu, nó nhào đầu xuống lẹ như chớp. Con chó ẳng lên một tiếng thiệt lớn, rồi im bặt. Em nhoài đầu ra, nhìn xuống thấy con chó nằm gọn lỏn trong miệng con rắn khổng lồ. Nó ngoạm con chó, lướt ào ào trong rừng lau sậy, phát ra tiếng gió như giông bão sắp đổ ập xuống. Em độ chừng chiều dài của con rắn nầy trên 20 thước, không biết đích xác là loại rắn gì, bề tròn lớn hơn thân cây dừa xiêm. Khiếp thiệt à nghen, chú Sáu.
-Ngoài chú em ra, còn có ai thấy con rắn nầy xuất hiện ở đâu nữa không? Sáu Trí hỏi.
-Dạ, có chớ! Hồi tháng trước, hai cha con thằng Bèo ở xóm trên, đang nhấp cá lóc dưới bờ kinh Cái Cơ vào lúc trời nhá nhem tối, bỗng nghe tiếng cành cây trên bờ kinh bị ai bẻ gẫy răng rắc làm thằng Bèo, vốn nhát gan rùng mình. Nó nhìn qua bên kia bờ kinh, bắt gặp hai con mắt của một con rắn khổng lồ bự bằng cái miệng chén, đầu của nó từ từ dựng đứng lên, thân mình bự như cái cột đình. Hai tía con thằng Bèo sợ dựng tóc gáy, quăng cần câu, chạy thục mạng về nhà, Mười Tỵ than: Kể từ khi thấy “nó” tới nay, mỗi lần nghe tiếng gió lay mấy ngọn tràm xào xạc trong bóng đêm là em phát sợ run.
-Chú Sáu mới về sống vùng nầy chưa được bao lâu. Nhưng, theo sự hiểu biết của chú thì những khu rừng tràm vùng Đồng Tháp Mười cũng giống những khu rừng tràm ngút ngàn vùng U Minh Thượng và U Minh Hạ tồn tại hàng trăm năm nay. Loại rắn khổng lồ nầy là “rắn hổ mây”. Những người thợ đốn tràm ở miệt U Minh thường bắt gặp loại rắn khổàng lồ nầy, nó dùng đầu và đuôi quấn vào hai thân cây, còn thân mình thì thả xuống nước như cái võng, đong đưa tát nước để bắt cá. Ban đêm mà nghe có tiếng tát nước ào ào giữa rừng khuya, chính là nó đó.
-Có cách nào để tránh khỏi bị nó nuốt chửng không, chú Sáu?- Mười Tỵ hỏi.
-Chỉ có cách dùng một con vật khác như chó hoặc mèo tế thần thôi, Sáu Trí nói: Còn cách thứ hai là dùng cây tầm vông vạt nhọn làm vũ khí chống lại nó. Cháu nên phổ biến kinh nghiệm nầy cho đồng bào quanh vùng nầy biết để phòng thân nghe.
-Còn muỗi Đồng Tháp Mười cũng khiếp đảm lắm. Cứ mỗi buổi chiều khi mặt trời lặn là muỗi từ các lung, đìa, đầm lầy chung quanh vùng nầy bay ra ào ào, kêu bên tai vo vo như tiếng đàn ông vỡ tổ. Em quơ chân, múa tay lia lịa màvẫn bị muỗi đốt như thường. Mười Tỵ nói.
Trong khi hai người trò chuyện, Hai Rồng phóng tầm mắt nhìn qua bên kia biên giới, để tâm quan sát địa hình, địa vật vùng biên giới Việt – Miên, rồi nêu ý kiến với Sáu Trí:
-Nói rằng, đây là hệ thống tháp canh nằm trong “kế hoạch phòng thủ” thì không đúng, tháp canh chỉ có nhiệm vụ quan sát và báo động cho đồng bào quanh vùng kịp thời lánh nạn mỗi khi có biến cố mà thôi, có đúng như vậy không, chú Sáu?
-Anh Hai nhận xét rất đúng! Đây chỉ là kế hoạch phòng thủ thụ động, còn phòng thủ tích cực là chủ động tìm cách tấn công địch , chớ không phải chờ kẻ địch tấn công mình.
Hai Rồng vô cùng tâm đắc về nhận xét của Sáu Trí, bật cười ha hả, nói:
-Nhận xét của chú Sáu rất hợp ý với kế hoạch của tôi là “Tiên hạ thủ vi cường”, mình phải ra tay trước, hơn là chờ bọn cướp Thạch Sum làm cỏ dân làng. Chúng ta sẽ bàn lại vấn đề nầy sau.
-Tâm lý của bà con nông dân vùng nầy không muốn sống xa ruộng đồng, mồ mả ông bà nên khó tập trung họ lại, để tổ chức thành làng chiến đấu cùng chung lưng, đấu cật chống lại bọn cướp để tự vệ; vả lại, chính vì vùng nầy không có hệ thống giao thông bằng đường bộ. Phương tiện di chuyển chủ yếu của đồng địa phương là dùng ghe, thuyền trên kinh Cái Cơ, nên họ cất những căn nhà sàn, sống rải rác thành “làng dài” dọc theo bờ kinh; vì vậy, tôi chỉ có thể tổ chức phòng thủ theo chiều rộng mà không thể tổ chức phòng thủ theo chiều sâu giống như ở “Đồng Nọc Nạn” trước đây được. Mỗi khi nghe báo động là đồng bào bồng bế nhau chạy về phía khu rừng tràm lánh nạn. Trên đường di chuyển, đồng bào có đặt nhiều hố chông làm để làm chậm tốc độ truy sát của bọn cướp, Sáu Trí nói: Bàn chông làm bằng những thanh tre tầm vông vạt thiệt nhọn, cắm trên những tấm ván gỗ đặt dưới đáy hố, có chiều sâu từ một đến 2 thước. Miệng hố được lót bằng những nhánh cây khô, trên phủ một lớp cỏ, rơm, lá rừng…để ngụy trang.
-Từ trước tới giờ, dân làng có bắt sống được tên cướp Miên nào bị sụp hầm chông không? Hai rồng hỏi.
-Có ít nhứt vài ba tên cướp bị mấy anh lực điền bắt sống. Nhưng, họ không giết để trả thù, chỉ băng bó vết thương cho họ rồi thả về. Nhờ vậy, thời gian gần đây vùng nầy tạm yên tĩnh.
Mười Tỵ lấy tay chỉ hàng cây thốt nốt cao ngất ngưởng từ 15 tới 20 thước, cách biên giới trên một cây số, nói:
-Sau hàng cây thốt nốt là làng Phum Chờ Rây, có vài mươi căn nhà sàn được dựng trên những cọc tràm khá cao của đồng bào Miên sống tập trung ở trong làng. Bản tánh họ rất hiền hòa và thiệt thà. Em có mấy thằng bạn trẻ người Miên, nhà ở sát bìa làng. Đêm nào có bọn cướp ghé trong làng là nó đốt cây đèn bão, treo trên cây thốt nốt bên hông nhà, báo động cho bà con bên nầy biết để chạy lánh nạn. Mùa nước nổi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long thường bắt đầu vào cuối tháng 7, mực nước lên cao nhất vào cuối tháng 9 xóa sạch lằn ranh biên giới, không còn ai phân biệt chủng tộc nữa. Họ tương trợ, đùm bọc lẫn nhau như bà con ruột thịt, chia sẻ với từng chén cơm, manh áo, chuyền tay từng điếu thuốc rê hút cho ấm lòng. Trẻ con người Việt bơi xuồng qua bên kia biên giới, leo lên mấy cây thốt nốt, dùng chĩa ba ngạnh săn chuột đồng. Chuột ở trên cây thốt nốt tránh nước lũ nhiều lắm. Con chuột nào cũng mập ú ù.
Hai Rồng hỏi:
-Mình có thể lội băng qua cánh rừng nầy, qua làng Phum Chờ Rây viếng thăm, xã giao được không?
-Dạ, được chớ! Mười Tỵ ngập ngừng, nói: Nhưng, mình phải có quà cho ông trưởng làng mới được.
-Theo chú em, họ thích mình tặng quà gì cho họ? Hai Rồng hỏi.
-Mình tặng lúa sạ giống cho ông ta để phân phối cho dân làng thì họ sẽ vui mừng lắm! Theo chỗ em biết, dân làng Phum Chờ Rây không gieo trồng lúa sạ như mình. Họ chỉ ăn lúa trời cho, gọi là lúa ma. Thân cây lúa ma cao trên 4, 5 thước. Bông lúa cho ít hột màu đỏ, nhỏ và cứng cơm. Họ gặt lúa ma cũng đơn giãn lắm, thường thì một người bơi xuồng giữa những đám lúa ma, còn một người đứng đầu mũi xuồng, cầm hai thanh tre đập ngọn lúa cho hột văng vào be xuồng ghe rào rào. Khoảng đầu tháng giêng là họ đi gặt lúa ma. Từ Phum Chờ Rây đến Phum Khsêt, Phum Sênta… thuộc tỉnh Svay Riêng lúa ma mọc tràn nhiều cánh đồng. Có đám rộng vài chục công chớ không ít. Hột lúa rụng xuống đất, mùa sau trổi dậy thành đám khác. Nó tăng trưởng mạnh lắm, mực nước lên tới đâu, nó theo tới đó. Không làm mà có ăn, gặt kiểu nầy cũng kiếm được vài giạ lúa mỗi ngày, nên cần gì gieo trồng cho mất công. Nhưng, dù sao lúa sạ vẫn cho năng xuất cao hơn nhiều.
Sáu Trí nói:
-Theo tôi nghĩ, lúa ma là một họ với lúa sạ mà nguồn gốc của nó đều phát xuất từ bên Miên. Năm 1890, cố đạo Conte, coi nhà thờ Năng Gù ở Long Xuyên, đem một giống lúa lạ từ bên cao Miên về gieo trồng thử. Người Pháp gọi là riz flottant (lúa nổi), nước nổi lên tới đâu, nó theo tới đó. Người mình gọi là lúa sạ, đất không cần cày bừa, chỉ gieo hột giống xuống đất, rồi đợi tới mùa gặt, khỏi phải cấy.
-Có lẽ, hôm nào có giống lúa sạ, mình mang sang vài giạ biếu họ để dò xét tình hình bên đó như thế nào, Hai Rồng kết luận: Như vậy, bọn cướp Thạch Sum không phải là người làng Phum Chờ Rây. Nhưng, sào huyệt của bọn cướp ở đâu? Em có biết chính xác không?
-Dân làng không một ai biết đích xác sào huyệt bọn nầy ở đâu cả, chỉ khi nào nghe tiếng chó sủa rộ giữa đêm khuya khoắc, mới biết là họ kéo đến như bóng ma.
-Thôi, bây giờ chú Sáu phải đưa chú Hai Rồng đi thăm mấy tháp canh ở xóm dưới, Sáu Trí căn dặn: Nhớ canh gác cẩn thận! Lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác bọn cướp tấn công bất ngờ. À, ngày mai nhớ tới tập hợp trên sân phơi lúa của ông Bá hộ Bảnh để nghe phân chia công tác, góp ý kiến về kế hoạch bảo vệ đất đai vùng biên giới, nghe em!
-Dạ, em sẽ có mặt cùng với anh em tại nơi đó vào sáng ngày mai, Mười Tỵ lấy ba cái ống tre treo toòng ten trên vách tháp canh, mời khách: Hai cái ống tre nầy là nước cây thốt nốt, hương vị ngọt ngào và đậm đà lắm mà nó còn có công dụng chữa táo bón rất công hiệu. Còn ống tre nầy nước thốt nốt đã lên men có vị chua ngọt rất độc đáo. Người Miên gọi là “chu êm”, cái chất chua ngọt nầy, uống nhiều sẽ say vì nó giống như một thứ rượu nhẹ, nhậu với khô lươn hoặc khô rắn bắt lắm.
Mười Tỵ đưa mọi người xuống tận bờ kinh tiễn khách. Thằng Bền chèo ghe tiếp tục cuộc hành trình cho tía và chú Sáu quan sát các tháp canh kế tiếp. Khi trở về tới đầu nhà thì trời đã về chiều. Tư Long đứng trên sàn nước sau nhà, nóng ruột chờ mọi người trở về dùng cơm chiều. Thằng Bền vừa tấp ghe vô cây cầu ván đã ngữi thấy mùi mắm kho bốc lên từ căn nhà sàn thơm phức, khoái lắm. Tư Long nói vọng xuống:
-Đi hồi sáng tới giờ chắc mệt và đói bụng rồi, phải không? Mấy chú đi tắm rửa rồi ăn cơm. Chiều nay tôi đãi mấy chú và cháu Bền một lẩu mắm kho đặc biệt!
-Nghe mùi mắm kho là cháu đói bụng rồi đó, ông Tư ơi!
Bước vô nhà thấy cái lẩu mắm kho để giữa bàn, đang bốc hơi nghi ngút, chung quanh bàn là hai dĩa rau sống to tướng gồm đủ loại rau với chén đũa đầy đủ. Sáu Trí liền ngồi sà vào bàn, nói:
-Mình ăn trước rồi tắm sau cũng được mà, anh Hai nghĩ sao?
-Đi suốt ngày, tôi cũng đói bụng lắm rồi, chú Sáu!
Mọi người quay quần bên lẩu mắm kho, cái món mắm kho dân dã đã đi vào ca dao Miền Nam từ thời khẩn hoang, đặc biệt là vùng Đồng Tháp có câu dao phổ biến:
Muốn ăn bông súng, mắm kho
Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã thèm
Thằng Bền đếm thử có đến trên 10 loại rau: bông súng, ngó sen, dưa leo, khế, rau thơm đủ loại, tần ô, bắp chuối, giá sống, rau muống chẻ, ớt hiểm…chưa kể vài thứ rau có sẵn trong lẩu như đậu bắp, nấm rơm, khổ qua. Thịt cá thì có cá lóc, cá bông, tôm càng, thịt ba rọi xắt mỏng và một chén ốc lát dằn dưới đáy lẩu sôi sùng sục gọi là “ngọc trầm thủy thượng”, thêm dĩa bún và chai rượu đế để dẫn mối nhậu.
Tư Long nói:
-Cái nồi nước dùng trong lẩu do tôi pha chế gồm có mắm sặc và mắm “prohok” (bò hóc) của người Miên làm bằng cá treylênh, bự cả gang tay nên có mùi vị rất độc đáo. Thôi, mời mọi cầm đũa.
Bỗng nghe có tiếng chân bước chân trên cầu thang, Tư Long buông đũa, nhìn ra ngoài cửa thì bắt gặp ông Bá hộ Bảnh vừa đi vừa nói:
-Mấy chú cho tôi tham gia tiệc nhậu nầy với chớ!
-Hoan hỉ rồng tới nhà tôm, Tư Long nói: Xin mời ông chủ ngồi vào bàn tiệc.
Thằng Bền nhanh nhẩu đi ra chái bếp sau hè, lấy thêm chén đũa để trên bàn. Ông Bá hộ Bảnh cười, giọng thân mật nói:
-Kể từ nay, yêu cầu mọi người tôi là cậu Hai Bảnh được rồi. Đất đai nầy, nay mai sẽ thuộc quyền sở hữu của bà con tá điền, nên tôi đâu còn là bá hộ nữa, đúng vậy không, chú Tư?
Tư Long đứng dậy, cầm chai rượu đế rót ra mấy cái chung nhỏ, rồi mời mọi người nâng ly:
-Mời cậu Hai Bảnh và mọi người người cạn ly, rồi cầm đũa, kẻo thức ăn nguội mất ngon.
Sau bữa cơm chiều, trời đã chạng vạng. Bầy muỗi từ các lung, đìa bắt đầu bay ra tấn công. Thằng Bền lo đốt khói un muỗi, còn Tư Long thắp ngọn đèn “măng sông” treo giữa nhà cho sáng, rồi phụ với Bền bưng chén dĩa ra sau sàn nước để sáng mai rửa. Cậu Hai Bảnh nói:
-Bây giờ, chúng ta có thể bàn bạc kế hoạch đối phó với Thạch Sum. Suốt ngày hôm nay, thầy Sáu và chú Hai đi quan sát địa hình, địa vật vùng biên, chắc phải có nhiều ý kiến cần thảo luận, phải vậy không?
Hai Rồng nói:
-Đồng hoàn đồng ý với chú Sáu Trí. Kế hoạch của chúng tôi là vượt biên đánh thẳng vào sào huyệt của Thạch Sum: “tiên hạ thủ vi cường”. Chỉ có cách nầy mới bảo đảm thắng lợi.
Tư Long suy nghĩ một lát, rồi nói:
-Tôi tán thành kế hoạch tấn công vào sào huyệt của Thạch Sum trước, tuy có táo bạo và liều lĩnh. Nhưng, tiến thì tiêu diệt địch, nếu thất bại, mình lùi về thế phòng ngự cũng không muộn. Còn hơn là ở đây chờ bọn cướp đến giết bà con mình, phải vậy không?
Hai Rồng nói:
-Thời gian tấn công thích hợp nhứt vào sào huyệt của Thạch Sum là đêm 14 rạng ngày 15 tháng tư nầy là ngày bắt đầu Lễ hội Truyền thống Chol-Chnam-Thamay của dân tộc Miên. Đó là ngày lễ hội trọng đại và thiêng liêng nhứt trong năm của người Miên, tương tự như Tết Nguyên Đán của người Việt mình. Trong ba ngày lễ hội nầy, bọn cướp lo ăn nhậu say sưa, múa Lâm Thol như điên, hát Dù Kê thả giàn…chắc chắn sẽ chểnh mảng việc canh gác, doanh trại sẽ bỏ ngỏ. Tôi đã coi lịch rồi, ngày 14 tháng 4 rơi vào ngày mùng 7 âm lịch. Ánh trăng thượng tuần chưa sáng lắm, cơ hội bằng vàng giúp ta tiến sáng vào sào huyệt của Thạch Sum khá dễ dàng. Tôi dùng chiến thuật “đánh hỏa công”, đốt doanh trại, gây náo loạn trước, rồi tấn công bất ngờ sau.
Bá hộ Hai Bảnh khen:
-Chú Hai Rồng tính kế như vậy hay lắm. Thiệt là diệu kế!
Hai Rồng nói:
-Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Vì vậy, ngày 9 tháng 3 sắp tới đây, rơi vào mùng 1 âm lịch của tháng 2. Lợi dụng đêm tối như mực, tôi đích thân đi vào sào huyệt của Thạch Sum thám thính tình hình trước, chọn con đường tiến sát thuận tiện nhứt để tấn công cho chắc ăn.
-Còn biết địch mà không ta thì năm ăn, năm thua, Sáu Trí cười, nói: Anh Hai nên nhớ rằng: thời gian từ đây tới ngày đó, chỉ còn tròm trèm một tháng rưởi nữa thôi. Liệu ta có đủ thời gian huấn luyện những anh lực điền chất phát, trở thành những chiến binh dũng cảm, đủ khả năng đương đầu với bọn cướp hung ác võ nghệ đầy mình hay không?
Hai Rồng nói:
-Ngày mai, tôi nhờ chú Tư tuyển chọn 50 anh lực điền tình nguyện chiến đấu, dưới sự huấn luyện của tôi và cháu Bền về kỹ thuật đánh cận chiến với địch và sẵn sàng phương tiện di chuyển bằng xuồng nhẹ. Cứ hai người một xuồng, di chuyển tập trung đến mục tiêu, có thể dùng đường sông hoặc băng đồng và việc nầy tôi sẽ quyết định, sau khi dọ thám sào huyệt của đảng cướp Thạch Sum.
Sáu Trí nói:
-Còn tôi và chú Tư đã chuẩn bị kế hoạch theo phương án cũ, trong trường hợp không cầu viện cao thủ trợ giúp, buộc phải tự lực chiến đấu là đào hầm chông và cắm chông nhọn dọc theo con kinh Cái Cơ để chận bước tiến của địch và dùng chĩa để dứt điểm từng tên cướp một. Triệt hạ Thạch Sum phải nhờ đến tài thiện xạ của Cậu Hai Bảnh.
-Thằng Thạch Sum dầu có mình đồng da sắt, chưa chắc đã chịu được sức công phá của đầu viên đạn “mousqueton”. Mấy chú có thể tin tưởng vào tài thiện xạ súng trưởng của tôi, Bá hộ Bảnh tự hào, nói: Mấy năm trước, vùng núi Cô Tô ở Thất Sơn có xuất hiện một con cọp một mắt to lớn, cực kỳ hung dữ thường xuống núi bắt người, vật trâu bò ăn thịt, gây kinh hoàng cho dân làng dưới chưn núi, người ta sợ quá phải gọi kiêng là “ông Một”. Tiếng đồn tới tai tôi; vì vậy, tôi vác cây súng trường “mousqueton” lên núi Cô Tô cao 614 thước, quyết bắn hạ con ác thú nầy, trừ hại cho dân làng,- Bá hộ Bảnh nói. – Tôi qua đêm tại xóm kinh Hương biện Leo, cách quận lỵ Tri Tôn khoảng 4, 5 cây số để sáng ngày mai chuẩn bị leo núi Cô Tô. Đêm đó, tôi tình cờ làm quen được ông Cao, một tay thiện xạ cừ khôi, thuộc hàng danh gia vọng tộc tại tỉnh Cần Thơ. Ông Cao nghe đồn trên núi Cấm có một Bạch Hổ có bộ lông trắng phau rất hiếm có và cũng rất tinh khôn. Ông Cao trở lại núi Cấm mấy lần nhưng không hạ được Bạch Hổ; mặc dù, ông ta được mấy vị sư trụ trì tại chùa Phật Lớn ở lưng chừng núi Cấm cao khoảng 400 thước, khuyên không nên giết Bạch Hổ vì đó là con cọp tu rất hiền lành, không bắt người, súc vật để ăn thịt. Ai giết Bạch Hổ sẽ gặp chuyện chẳng lành. Nhưng, ông Cao là người theo Tây học, không tin dị đoan. Và lần đó, ông bắn hạ được Bạch Hổ ẩn tu tại vồ Bồ Hong trên đỉnh núi Cấm cao 716 thước, cao nhứt trong bảy ngọn núi của tỉnh Châu Đốc. Từ vồ Bồ Hong, có thể nhìn thấy biển Hà Tiên và cánh đồng Ba Thê, Bảy Thưa, Láng Linh trải dài dưới chưn núi. Còn tôi cũng may mắn bắn hạ được hung thần cọp một mắt trong khu rừng, gần nơi Điện Kín là một cái hang sâu trên chỏm núi Cô Tô ngổn ngang xương người bị nó ăn thịt. Không khí trong hang tối mịt, lạnh lẽo đến rợn người. Tôi phải theo dấu nó mấy ngày đêm mới hạ được Ông Một. Dân làng mừng lắm!
-Lý do nào cậu Hai rửa tay gác súng, không đi săn nữa? Chắc phải có lý do, chớ không phải không có? Tư Long hỏi.
-Đúng vậy đó! Thất Sơn bảy núi rất huyền bí và linh thiêng. Tôi nói thiệt, mấy chú cũng không tin đâu! Bá hộ Bảnh hớp ngụm nước trà cho thấm giọng, rồi nói tiếp: Dân cư sống tại Thất Sơn nói rằng, có một vị bác vật tốt nghiệp ở bên Tây về lên núi Cấm khảo sát và khám phá được một cái hang sâu. Ông đi vào cái hang đó và đi ra bằng cửa hang Điện Kín trên chỏm núi Cô Tô.
-Nói như vậy là cái hang trên núi Cấm đó, ăn thông với hang Điện Kín trên núi Cô Tô thì phải? Hai Rồng hỏi.
-Đến nay, cái hang vẫn còn là một nghi vấn. Vì sau khi xuống thám hiểm cái hang sâu thẳm đó, không biết ông ta thấy gì ở dưới đó mà sau khi trở lên, ông cấm khẩu, âm thầm bỏ đi tu tiên, không làm việc cho Tây nữa. Nên không một ai biết sự thật như thế nào.
-Sau khi bắn hạ được Bạch Hổ, ông Cao có gặp chuyện gì chẳng lành xảy ra không vậy, cậu Hai? Sáu Trí hỏi.
-Ông Cao rất hãnh diện về tài thiện xạ của mình. Sau khi bắn hạ được Bạch Hổ núi Cấm, bộ da được dồn bông rất khéo trông như giống như thật. Ông Cao đặt Bạch Hổ nhồi bông trên bộ ván gõ mun nơi giữa phòng khách cho bạn bè chiêm ngưỡng. Ông còn làm một cái lục lạc bằng đồng đeo vào cổ Bạch Hổ để tăng thêm vẻ uy nghi của chúa sơn lâm. Thế rồi, hai tháng sau. Trong một đêm mưa giông, sấm chớp nổi dậy đùng đùng vào lúc chồng vắng nhà, bà Cao nghe có tiếng lục lạc rung leng keng ngoài phòng khách. Qua đêm sau, bà cũng nghe tiếng lục lạc rung leng keng nữa. Động tánh hiếu kỳ, bà Cao thức dậy, vén màn nhìn ra ngoài phòng khách thì bà thấy Bạch Hổ đang đi lòng vòng chung quanh bộ ván gõ mun. Bà Cao sợ quá ngất xỉu. Khi chồng trở về, bà kể chuyện kinh dị nầy cho ông Cao nghe, nhưng ông không tin. Và ngay tối hôm đó, ông Cao rình thấy tận mắt lúc Bạch Hổ nhảy xuống bộ ván gõ mun, ông mới tin. Sáng hôm sau, ông lật đật cho người mang Bạch Hổ ra trước sân nhà đốt thành tro bụi. Cũng ngay tối hôm đó, tất cả chưn nhang cắm trong lư hương đặt trên bàn thờ tổ tiên, không ai đốt mà phựt cháy rụi. Đó là điềm báo trước sự suy tàn của họ Cao đã điểm.
Bá hộ Bảnh uống xong một ngụm nước trà rồi nói tiếp:
-Vì vậy, núi Cấm còn có tên gọi là Thiên Cẩm Sơn vì ngọn núi nầy rất hiểm trở có rất nhiều thú dữ và vô cùng linh thiêng nên tôi tự động giải nghệ, rửa tay gác súng để tránh chuyện chẳng lành xảy đến cho dòng họ. Tôi có đến làng Ba Chúc dưới chân núi Tượng, bên kia là núi Dài tới mấy lần. Vừa bước xuống xe, tôi rất ngạc nhiên thấy toàn là những chùa chiềng mọc lên khắp nơi, phần nhiều những ngôi chùa nầy được xây cất rất đồ sộ, nền đá tường gạch. Nhưng, đặc biệt chùa nào cũng giữ theo truyền thống lúc ban đầu , mái chỉ lợp lá mà không lợp ngói. Tôi được ông Gánh là một trong những người lảnh đạo tinh thần của khoảng 15.000 tín đồ đạo Hiếu Nghĩa trong làng Ba Chúc, cho biết vấn đề người Trung Hoa trấn ếm núi Thất Sơn là chuyện có thiệt, chớ không phải là chuyện hoang đường
Hai Rồng nói:
-Nhận xét của cậu Hai rất đúng! Trước đây, tôi cũng được nghe nói: ông Phạm Thái Chung tức Đạo Lập – một đại đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An – đã khám phá ra cây trụ đá mà người Tàu dùng để trấn yếm tại núi Ngược, vùng Ton Hon, Thất Sơn và ông đã cho đào lên, đem về làng Bài Bài, xã Nhơn Hưng, quận Tịnh Biên, tỉnh Châu Đốc, trưng bày cho dân chúng xem. Ngoài ông Đạo Lập ra, còn có Đức Bổn Sư Ngô Lợi – một vị trong dòng kế truyền Bửu Sơn Kỳ Hương (sau Phật Trùm) – cũng khám phá tại đây một cây trụ ếm khác, chôn dấu dưới gốc ba cây đa lớn để che mắt thiên hạ. Đức Bổn Sư đã điều động 50 môn đệ, đem búa riều tới để phá gốc cây đa, phải đào đất thiệt sâu mới trục được cây trụ ếm nầy lên. Cây trụ ếm nầy bị các môn đệ của Đức Bổn Sư phá hủy. Còn cây trụ yếm do Đạo Lập phát hiện được mang về làng Bài Bài vẫn còn nhưng những hàng chữ khắc trên đó đã bị thời gian xoáy mòn, chỉ còn đọc đươc mấy chữ nầy: “Hoàng Thanh, Càn Long ngũ thất niên, trọng thu, cốc đán.” Theo ước đoán, trụ ếm nầy được chôn vào mùa thu, tháng tám, đời vua Càn Long nhà Mãn Thanh năm thứ 57 tức 1792 Tây Lịch.
Tư Long hỏi:
-Nhưng, tụi Tàu chôn các trụ ếm nầy vùng Thất Sơn với mục đích gì?
-Theo dự đoán của tôi, mấy tên thầy địa lý Tàu trồng mấy trụ bia nầy không nhằm mục đích phân chia ranh giới Việt – Miên vì nó không liên quan vì đến lãnh thổ của nước Tàu cả, mà liên quan đến phong thủy địa lý thì đúng hơn. Tụi Tàu muốn trấn ếm dân tộc Việt Nam mình cất đầu lên không nổi để đễ bề thống trị mà thôi. Lịch sử một ngàn năm đô hộ của thằng Tàu vẫn còn đó! Hai Rồng giải thích: Khoa học huyền bí Trung Hoa rất chú trọng đến phong thủy còn gọi là khoa địa lý. Nó được truyền sang Việt Nam từ dời nhà Lê. Một người Việt Nam tiếng tăm lừng lẫy, được xem như là thủy tổ của khoa địa lý nước ta là ông Nguyễn Đức Huyên, người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, Hà Tỉnh nên người ta thường gọi là “Thầy địa lý Tả Ao”. Thầy địa lý dùng khoa phong thủy chọn đất tốt để lập thành quách, cung điện, chùa chiền, đặt mồ mả, hoặc cải táng hài cốt tổ tiên vào các long huyệt để sau nầy dòng họ được hưng vượng, đời đời no ấm.
Tư Long hỏi:
-Thầy địa lý dùng phương pháp gì để tìm huyệt dưới lòng đất?
-Thầy địa lý sử dụng địa bàn và tróc long để tìm huyệt dưới lòng đất. Sau khi đánh giá các huyệt, rồi tìm phương hướng, định vị trí để cải tác hài cốt của tổ tiên và xây cất mồ mả bền vững trên phần đất đó được tồn tại lâu dài. Ngược lại, thầy địa lý có ác tâm trù ếm, hảm hại thân chủ bằng cách tìm những huyệt “tuyệt địa”, rồi bảo họ an táng di thể vào nơi đó thì còn cháu sẽ tàn mạt, nghèo đói dài dài. Vì thế, tôi dám quả quyết rằng: Những trụ bia do phái Bửu Sơn Kỳ Hương đã khám phá là do bọn thầy địa lý Tàu theo chân nhóm Mạc Cửu lãnh đạo, khai khẩn vùng đất Hà Tiên trấn ếm. Vì dưới con mắt của thầy địa lý Tàu thì đất nước Việt Nam nói chung và vùng núi Thất Sơn địa linh nhân kiệt nói riêng có nhiều long huyệt vượng khí linh thiêng nên từ thời vua Hùng Vương dựng nước đến nay đã trải qua bốn ngàn năm, thời nào cũng có minh chúa, anh hùng xuất hiện cứu nước lúc lâm nguy như Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trải, Nguyễn Huệ…Theo như truyền thuyết, long huyệt ở sông Hồng Hà là khí thiêng sông núi, hun đúc tinh thần lập quốc, bất khuất, tự cường của Việt tộc bị Cao Biền là thầy địa lý Tàu trấn ếm cho bằng hết. Nhưng, rồng thiêng đã kịp ẩn mình xuống vịnh Hạ Long, Hai Rồng nói: Cách đây khoảng một trăm năm, hiện tượng đất sạt lở cù lao Mây là do “cù dậy” hóa thành rồng bay ra biển Đông. Rất có thể là long huyệt sông Cửu Long bị động là do thầy địa lý Tàu trấn ếm nên hóa thành bay ra biển Đông ẩn mình kịp thời.
Mọi người đang say mê theo dõi câu chuyện về long huyệt sông Cửu Long, bỗng nghe tiếng của Thu Hương gọi cha ngoài cửa:
-Cha ơi, mẹ gọi cha về nhà ngủ! Trời khuya rồi đó!
Ông Bá hộ Bảnh quay đầu ra cửa, nói:
-Con về trước đi! Nói với má là ba về liền bây giờ!
Tư Long nói:
-Để tôi đốt đuốc đưa cậu Hai về!
-Thôi khỏi đi, chú Tư! Tôi đi một mình được mà, Bá hộ Bảnh chợt nhớ điều gì, vỗ vai Tư Long, nói: À, sắp đến tháng 4 rồi đó! Ngày mai, chú Tư nhắc bà con tá điền: Ai ở trong hạn tuổi từ 18 đến 60 phải chuẩn bị ra cơ quan hành chánh quận Mộc Hóa lo tiền đóng thuế thân. Bắt đầu từ tháng năm, ai chưa đóng thuế thân sẽ gặp rắc rối với bọn lính mã tà đó. Hồi năm trước, có mấy cậu lực điền trong làng mình bị phạt hết 5 ngày tù và 6 đồng bạc.
oOo
Đúng hẹn lại đến, khoảng 10 giờ sáng hôm sau. Tất cả bà con nông dân, lực điền trên phần đất của ông Bá hộ Bảnh, tập hợp đông đủ trên sân phơi lúa trên 150 người gồm già trẻ bé lớn. Họ háo hức chờ đợi phân công tác để bảo vệ xóm làng. Sau khi nghe Hai Rồng trình bày về kế hoạch tấn công thẳng vào sào huyệt của đảng cướp Thạch Sum vào ngày lễ hội Chol – Chnam – Thamay, là ngày lễ lớn nhứt trong năm của người Cao Miên như ngày Tết Nguyên Đán của chúng ta. Thừa lúc họ lo vui chơi, ăn nhậu say sưa, ta bất ngờ xông vào tấn công tiêu diệt họ. Theo tôi nghĩ, chỉ có cách đó mới tiết kiệm được xương máu của đồng bào.
Tư Long nói:
-Chú Hai Rồng tính kế như vầy hay lắm! Thật là diệu kế! Còn ai có cao kiến gì hay hơn, xin mạnh dạn đứng lên trình bày để chúng ta cùng bàn bạc?
Bác Chín Dậu đưa tay, xin phát biểu ý kiến:
-Lối đánh xáp lá cà với bọn cướp, nghe thì hay lắm. Nhưng, anh em chúng tôi có người nào biết võ nghệ đâu mà chọi cho lợi với bọn cướp của Thạch Sum mà đứa nào, đứa nấy võ nghệ cùng mình? Còn thằng Thạch Sum mình đồng da sắt, làm sao hạ nó cho được hả, chú Hai?
Hai Rồng nói:
-Tôi đã nghĩ đến trở ngại nầyrồi. Nhưng, việc huấn luyện kỷ thuật chiến đấu cho anh em lực điền có đủ khả đánh cận chiến với địch do cha con chúng tôi hướng dẫn cho họ.
-Từ đây tới ngày đó, chỉ còn vài chục ngày nữa mà thôi. Thời gian quá cấp bách, liệu chú Hai có kịp đào tạo họ thành cao thủ được không? một lực điền hỏi.
-Chú em nói đúng lắm! Nhưng, chừng đó thời gian cũng đủ cho tôi hướng dẫn họ kỷ thuật tác chiến, cách sử dụng vũ khí trong các thế đánh cận chiến căn bản như một chiến binh, Hai rồng nói đùa: Chưa phải lúc tôi mở võ đường, nhận họ làm đệ tử truyền thụ võ thuật, để họ trở thành cao thủ thi đấu trên võ đài.
Sáu Trí đứng lên, nói trấn an mọi người:
-Để tiết kiệm sinh mạng của anh em, chúng tôi đồng ý sẽ dùng mưu kế nầy…
Sáu Trí nói chưa dứt lời, một người đàn ông tuổi ngoài 80, nhưng trong còn tráng kiện và tác phong đạo mạo, đứng lên ngắt lời, nói:
-Tôi là thầy giáo Hoài đã nghĩ hưu, quê ở tỉnh Châu Đốc, chớ không phải là người ở địa phương nầy. Nhân dịp xuống đây thăm người bà con, nghe nói ông Bá hộ Bảnh rất hào hiệp, xóa nợ và trả đất đai cho tá điền tự làm chủ, tôi rất khâm phục nên theo họ tới đây, thấy mặt ông cho biết, rồi ông giáo Hoài đề nghị: Việc dùng mưu chước nào để tấn công địch, tôi sẽ góp kế mọn, xin bàn bạc sau với quí vị sau. Trước mắt, chúng ta nên tuyển chọn người tình nguyện, càng đông càng tốt rồi sau đó mới tính tới việc huấn luyện kỷ thuật chiến đấu. Không biết ý kiến quý vị như thế nào?
-Tôi hoàn toàn đồng ý với ông giáo Hoài, Hai Rồng quay sang Tư Long, nói: Việc nầy, phải nhờ anh Tư phụ trách tuyển chọn anh em lực điền nào tình nguyện dùm chúng tôi.
Hai Rồng nói vừa dứt lời, Tư Long sốt sắng, đứng lên kêu gọi:
-Chú Hai Rồng cần 50 lực điền theo giúp chú để đánh nhau với đảng cướp Thạch Sum. Vậy, cháu nào tình nguyện, xin bước ra khỏi hàng, đứng sang bên phải của tôi.
Kết quả thật bất ngờ, hầu hết lực điền đều hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Rồng, có trên 70 người tình nguyện. Ông Bá hộ Bảnh rất phấn khởi, nói:
-Được lắm, càng đông càng tốt. Tôi nghĩ cũng cần 20 người ở lại cùng tôi bảo vệ làng và làm lực lượng ứng chiến khi cần thiết. Thời gian thiệt là cấp bách, chúng ta chỉ còn vài tuần để chuẩn bị, Bá hộ Bảnh quay sang Hai Rồng, hỏi: Chú Hai còn có ý kiến gì không?
-Bây giờ, chúng ta có thể cho mọi người trở về nhà, ngày mai trở lại để chịu sự huấn luyện của tôi. Những anh em nào ở xa có thể ăn ở tại đây. Hai Rồng nói.
-Chú Tư Long đã lo chỗ ăn, chỗ ở cho mọi người rồi. Còn chuyện nầy nữa, mấy anh em nhớ theo chú Tư Long ra kho lúa nhận lúa gạo để cho gia đình tạm thời sanh sống trong thời gian mấy anh em vắng mặt ngoài đồng áng. Bá hộ Bảnh nói.
Trên sân lúa chỉ còn lại bốn người. Ông Bá hộ Bảnh mời thầy giáo Hoài, Hai Rồng và thầy Sáu Trí vào nhà vừa uống trà vừa bàn bạc mưu lược tiêu diệt đảng cướp Thạch Sum. Sau khi được ông bá hộ Bảnh giới thiệu để mọi người biết nhau, ông giáo Hoài nhìn Hai Rồng, nói:
-Trước đây, tôi đã từng dạy học cho bà con Việt Nam sanh sống ở Biển Hồ bên Cao Miên. Tôi đã đi lại nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người Pháp, Việt và dân địa phương ở bên đó và mới trở về nước khoảng năm nay vì đã có tuồi. Tôi được biết Thạch Sum là một loại anh hùng Lương Sơn Bạc. Hắn chuyên đánh cướp bọn nhà giàu bất nhân, lấy tiền bạc giúp đở nông dân nghèo. Mấy tên đại gia người Tàu và bọn Chà Và ở Nam Vang mướn nhiều cao thủ võ lâm, võ nghệ siêu quần từ lục địa sang để triệt hạ Thạch Sum, nhưng đều bị hắn đánh bại. Ngoài ra, còn một trở lực khác là Thạch Sum rất được lòng bà con nông dân nghèo tại địa phương, họ sùng bái Thạch Sum như một vị anh hùng dân tộc và gọi hắn là “Sana” tức nguyên soái. Lòng dân là thành lũy vững chắc bảo vệ sào huyệt của đảng cướp Thạch Sum. Cho dù chú Hai có đánh bại, giết được Thạch Sum thì sẽ gây thù chuốc oán với người Cao Miên và hận thù chủng tộc giữa người Việt và Miên, sống dọc theo biên giới chắc chắn sẽ bùng nổ. Điều nầy sẽ gây bất lợi cho các phong trào kháng chiến chống thực Pháp sau nầy. Vì vậy, tôi đã mạn phép ngắt lời chú Sáu Trí lúc nãy, xin thứ lổi, ông giáo Hoài hớp một ngụm trà, rồi nói tiếp: Nói đến mưu kế diệt địch cần phải xét cho thâm sâu, bàn bạc cho kỹ lưỡng. Mưu thành là do kín đáo, thất bại là do tiết lộ cơ mưu, việc binh không gì trọng bằng bí mật để có thể bất kỳ tấn công địch làm địch không tiên liệu được. Nếu để lộ mưu thì mưu cùng.
-Lời dạy của thầy rất chí phải. Xin bái phục! Sáu Trí nói.
-Mấy chú định dùng mưu gì để tấn công vào sào huyệt địch? không đợi Sáu Trí trả lời, thầy giáo Hoài tiên đoán: Có phải mấy chú định dùng “Thiên hỏa công” dùng lửa đốt sào huyệt trước, đốt người sau. Đúng vậy không, chú Sáu?
Bất ngờ bị ông giáo Hoài nói trúng tim. Sáu Trí hơi lúng túng, nói:
-Dạ, đúng như thế! Nhưng, sao ông biết rõ như vậy?
Ông giáo Hoài bật cười ha hả, nói:
-Không dấu gì ông Bảnh và mấy chú, tôi không phải là thầy giáo đâu, nó chỉ che dấu thân phận của tôi mà thôi. Đánh giặc Pháp dành lại độc lập cho đất nước mới là nghề của tôi.
Ông giáo Hoài trầm ngâm trong giây lát, hồi tưởng lại chuyện xưa, rồi ngậm ngùi kể lại những chiến tích oanh liệt khi tham gia đoàn nghĩa quân, do người anh hùng áo vải Nguyễn Trung Trực lãnh đạo, vang danh với chiến tích lẫy lừng, đốt tàu Espérance trên vàm sông Nhựt Tảo vào năm 1861 mà người cha của ông đã hy sinh trong trận thủy chiến lừng danh đó.
Hai Rồng hỏi:
-Ông giáo có tham gia trận thủy chiến, đốt tàu Espérance trên sông Vàm Tảo vào lúc đó không?
Ông giáo Hoài nói:
-Không, vì lúc đó tôi mới lên 9 tuổi, còn quá trẻ để tham gia chiến trận. Tôi thật sự gia nhập lực lượng nghĩa quân cùa anh hùng Nguyễn Trung Trực và tham gia trận đánh đột kích hạ thành Kiên Giang vào đêm 16 tháng 6 năm 1868 vô cùng thần kỳ và táo bạo. Bọn thực dân Pháp đã coi thảm bại nầy là một “biến cố bi thảm”, ông giáo Hoài vấn một điếu thuốc rê, đưa lên miệng bập bẹ một vài hơi, rồi bắt đầu nói về trận đánh lịch sử đó…
CHƯƠNG SÁU
ANH HÙNG NGUYỄN TRUNG TRỰC
HẠ THÀNH GIẶC PHÁP
Giữa lãnh tụ Nguyễn Trung Trực và Bửu Sơn Kỳ Hương có mối quan hệ mật thiết, bắt đầu từ khi ông về tá túc với gia đình họ Lâm tại làng Mỹ Hội, tỉnh Long Xuyên. Tại đây, ông sống theo lối tu hành Bửu Sơn Kỳ Hương, thường mặc áo nâu sồng; thỉnh thoảng, ông bơi thuyền sang cù lao Bình Thạnh Đông thăm Cố Quản Trần Văn Thành. Ông sống rất đạm bạc, mỗi bữa cơm chỉ ăn với một khô cá sặc mà thôi.
Ông tên thật là Nguyễn Văn Lịch, nguyên quán tỉnh Mỹ Tho, theo binh nghiệp làm đến chức Quản Cơ của triều đình Huế ban cho. Khi quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông, ông cùng với người bạn là Nguyễn Văn Cầm quy tụ nghĩa binh chống giặc Pháp xâm lược.
Ngày 10-1-1861, ông điều động nghĩa binh tấn công một chiếc tàu Pháp, giết thuyền trưởng Bourdais và 30 tên giặc Pháp khi bọn nầy mở cuộc ruồng bố tại vùng Bảo Định Hạ ở Mỹ Tho.
Ngày 11-12-1864, ông dùng hỏa công đốt tàu Espérance trên vàm sông Nhật Tảo ở Tân An, tiêu diệt toàn bộ địch quân, trong số nầy có Trung tá Parfait. Chiến công nầy là một chiến công oanh liệt hy hữu và lần đầu tiên kháng chiến quân dưới sự lãnh đạo của ông đã dùng chiến thuật du kích tiêu diệt được một tàu chiến Pháp. Sau đó, ông còn mở những cuộc tấn công khác nhắm các đồn Thuộc Nhiêu, Thủ Thừa, Bến Lức, Mỹ Hạnh, Phước Lý, Long Thành, Phú Lâm, Bà Hom. Và sau khi Pháp lấn chiếm các tỉnh miền Tây, Nguyễn Trung Trực cũng đổi địa bàn hoạt động kháng chiến về vùng Hà Tiên để cản bước quân thù.
Có thể nói, trận đánh đột kích thành Rạch Giá đêm 16 tháng 6 năm 1868 vô cùng thần kỳ và táo bạo. Quân sử Pháp đã coi thảm bại nầy là một biến cố bi thảm làm tổn thương uy tín không ít cho thực dân Pháp.
Thành Rạch Giá còn gọi là thành Sơn Đá (dịch âm từ chữ soldats) được Pháp xây sau khi chiếm được Hà Tiên và Rạch Giá được nâng cấp tỉnh lỵ, quản hạt hành chánh kiêm luôn cả vùng Cà Mau. Vì gần vàm biển và ngay trung tâm tỉnh lỵ, thành Sơn Đá rất kiên cố do lính “lê dương” (légionnaires) trú đóng. Pháp còn lập ra Ty Thương Chánh để thu thuế má, kiểm soát kinh tế, tổ chức đội lính mã tà và ban hội tề cấp tổng, xã với dã tâm dùng người bản xứ cai trị người bản xứ để tiếp tay cho guồng máy cai trị theo đường lối thực dân Pháp. Tên chủ tỉnh người Pháp đầu tiên tại Rạch Giá có hỗn danh là Chánh Phèn, nguyên là Hải quân Trung úy. Vị chánh quan nầy có bộ râu trái ấu, mầu vàng hoe như đất phèn nên dân địa phương đặt cho hắn cái hỗn danh là “Chánh Phèn”.
Theo binh pháp cổ kim, muốn vây thành, đánh thành và hạ thành cần một binh lực đông, võ khí công phá mạnh để đột phá khẩu và tấn công nhanh và rút nhanh. Nhưng, trận đánh thành Sơn Đá đêm 16 tháng 6 năm 1868, thủ lãnh kháng chiến quân Nguyễn Trung Trực và lực hượng nghĩa binh gần như không có gì so với binh lực và võ trang của phía quân Pháp được bố trí trong đồn với tường cao và kiên cố thì làm sao có thể triệt hạ được đồn lũy giặc? Như vậy, người chỉ huy phải là một thiên tài về quân sự, biết khai thác tối đa những sơ hở của địch. Trước tiên, Nguyễn Trung Trực đã đánh lạc hướng bọn Pháp bằng chiến thuật “thanh đông kích tây” khi ông chọn Hòn Chông tại Hà Tiên như chiến trường chủ yếu sau khi Pháp chiếm Hà Tiên. Trước đó, ông đã được triều đình Huế bổ nhậm chức Thành Thủ Úy Hà Tiên. Nhưng, chưa về tới nơi nhậm chức thì Hà Tiên đã lọt vào tay giặc Pháp. Về mặt tâm lý, ông Nguyễn Trung Trực cũng đánh lừa được quân Pháp, chúng lầm tưởng ông quyết rữa hận quân Pháp ngay trên địa phận Hà Tiên. Nhưng, Hà Tiên chỉ là “diện”, còn “điểm” chính là thành Sơn Đá. Còn Sân Chim là nơi tập trung nghĩa binh mà quân Pháp không ngờ tới. Theo tài liệu Đại Nam Nhứt Thống Chí của sứ quán triều Nguyễn, chợ Sân Chim tức là “Sở Điểu Đình”, vùng cỏ cây rậm rạp, nơi hang ổ của chim muông, nên các sân trống để phơi lúa chim thường sà xuống.
Sử gia Pháp Paulin Vial đã mô tả “vùng sân chim” như sau: “Vùng sân chim nơi Quản Lịch Nguyễn Trung Trực tụ tập dân khởi loạn để gây biến cố bi thảm ngày 16 tháng 6 năm 1868 tại Kiên Giang là đáng chú đối với nhà cầm quyền thuộc địa…toàn rừng rậm…nhà cửa hết sức thưa thớt…thôn dân khỏe mạnh, lầm lì ít nói, khí sắc hung tợn. Người nào, người nay đều có vẻ là một tên khởi loạn ngầm, sẵn sàng chống cự lại ta bằng bất cứ phương tiện gì có trong tay họ như dao búa, gậy gộc và hai tay không. Chúng ta không thể dùng tàu lớn để tiến sâu vô rừng được. Bộ binh thì coi như không thể hành quân vô đó rồi. Còn dùng pháo binh thì như quăng thí xuống biển. Đây đúng là một bưng biền hay đúng hơn nữa là một chiến khu”.(Les premières années de la Cochinchine).
Lực lượng chủ yếu đánh đồn Sơn Đá xuất phát từ Sân Chim. Nghĩa binh của ông Nguyễn Trung Trực phân tán mỏng và di chuyển bằng ghe nhỏ theo sông rạch ra biển Rạch Giá. Tới giờ hành động, nghĩa binh đã lén lút đổ bộ quanh bờ kinh rạch chợ Rạch Giá. Chờ đến khuya, khi nghe lệnh xuất phát vào lúc gần 4 giờ sáng, nhờ cây da sầm uất sát đồn mà nghĩa quân leo lên được mặt tường, mở toang cửa đồn cho đồng đội đồng loạt ào ạt xông vào đồn giặc, tấn công bất ngờ. Sau gần hai giờ hỗn chiến thì đồn Sơn Đá bị lực lượng nghĩa binh triệt hạ khi ánh bình minh vừa ló dạng giữa tiếng bùng vỡ mừng reo của đồng bào Kiên Giang.
Các yếu tố khác để mang lại thắng lợi ngoạn mục là kế ly gián giữa lính lê dương Pháp phòng thủ nội vi đồn và đội mã tà phòng thủ ngoại vi đồn bằng sự mua chuộc, tuyên truyền để tạo mâu thuẫn trong lực lượng phòng thủ của Pháp nhờ công lao của hai người phụ nữ trong lực lượng nghĩa binh.
Và quan trọng hơn hết là yếu tố bất ngờ, đánh chớp nhoáng và mạnh như trời giáng, khiến quân Pháp hoảng hốt trở tay không kịp. Cuối cùng, yếu tố tâm lý quyết chiến và tất thắng của những con người ái quốc, can trường, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng đã giúp lực lượng công đồn thương vong ít và gây tổn thất nặng nề cho quân Pháp.
Tổn thất của quân Pháp trong trận đánh úp này rất trầm trọng. Quan chủ tỉnh Chánh Phèn, trung úy Sauterne, thiếu úy Gamard và một số hạ sĩ quan thuộc cấp bị giết tại trận, chỉ trừ tên cai Duplessis thoát thân ra ngoài, trốn trong lùm cây và được hai vợ chồng già Việt Nam thương tình cho ẩn náu. Sĩ quan và binh lính tử vong của Pháp gồm 5 võ quan và 67 binh lính. Gần 100 thứ võ khí đủ loại bị tịch thâu. Thảm bại quân sự nầy đã gây một dấu ấn kinh hoàng và đau thương cho thực dân Pháp đến nỗi họ phải lập đài tưởng niệm tử sĩ tọa lạc trước mặt đồn Sơn Đá, khắc những dòng chữ: “Aux morts de la Grand Guerre 1914 – 1918 et la surprise de 1868” (Tưởng niệm các tử sĩ của thế chiến 1914 – 1918 và trận đột kích 1868).
Qua hai ngày đồn Sơn Đá bị mất, Thiếu tướng Hải quân Ohier mới được tin điện báo tại Mỹ Tho nên ra lệnh cho Trung tá Léonard Ansart đem viện binh từ Vĩnh Long qua Rạch Giá để tái chiếm lại đồn. Thủ lãnh Nguyễn Trung trực và nghĩa binh chống cự kịch liệt đến hơn 3 giờ chiều ngày 21 tháng 6 năm 1868 thì thoái quân lui về Hòn Chông, rồi sau đó rút ra đảo Phú Quốc tiếp tục kháng chiến. Như vậy, anh hùng Nguyễn Trung Trực và lực lượng nghĩa binh đã chiếm giữ đồn Sơn Đá và làm chủ tình hình tỉnh Rạch Giá được 5 ngày đêm. Quả là một chiến công vô tiền khoáng hậu trong lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp vào thế kỷ thứ 19.
Lúc bấy giờ, Tổng đốc Phan Khắc Thân trước áp lực của Pháp, có ý nhượng bộ yêu sách Pháp, bắt Thủ khoa Huân giao nạp cho Pháp, ông Nguyễn Trung Trực có nói với Phan Khắc Thân rằng: “Nước có loạn, người tôi trung được đánh giá xuyên qua hành động giết giặc cứu nước nhiều hơn cân đai trật phẩm của triều đình. Với dân cư là như thế, còn như với tướng sĩ, cái dũng, cái trí, cái nghĩa khắc phục người chiến hữu nhiều hơn là tiếng hò hét dõng dạc…”
Cuối cùng, thực dân Pháp theo mưu kế của tên Việt gian là Lãnh binh Tấn, bắt mẹ ông và gia đình nhiều binh sĩ của ông, cho nên rốt cuộc, trước một tình thế vô vọng, ông đành chấp nhận điều kiện của thực dân Pháp là nạp mình để cứu mẹ và thân nhân của các chiến hữu. Pháp dụ ông cộng tác thì được trọng dụng. Nhưng, ông dõng dạc chấp nhận cái chết để đền nợ nước.
Ngày 27 tháng 10 năm 1868, Pháp đem ông ra hành quyết tại Kiên Giang. Bài thơ tuyệt mạng của ông trước giờ thọ hình tại pháp trường đã biểu lộ tư thái ung dung, khí phách hào hùng của một vị anh hùng dân tộc tên Nguyễn Trung Trực. Ông là hiện thân của dũng tướng Trần Bình Trọng đời Trần, chấp nhận cái chết đền nợ nước. Tiếng thét ngạo nghễ của ông trước giờ bị giặc Mông Cổ hành quyết vẫn còn vang vọng mãi trong tâm thức của Việt Tộc qua mọi thời đại: “TA THÀ LÀM QUỶ NƯỚC NAM, KHÔNG LÀM VƯƠNG ĐẤT BẮC”.
Thư kiếm tùng nhung tự thiếu niên,
Yêu gian đảm khí hữu long tuyền.
Anh hùng nhược ngộ vô dung địa,
Bảo hận thâm cừu bất đái thiên.
Thi sĩ Đông Hồ dịch:
Theo việc binh nhung tự thuở trai
Phong trần hăng hái tuốt gươm mài
Anh hùng gặp phải hồi không đất
Thù hận chan chan chẳng đội trời
Cái chết của ông đã làm nhiều người thán phục và đau xót, có nhiều nghĩa binh đã tự sát, chết theo ngài để tỏ lòng trung nghĩa với vị chủ tướng.
Hai Rồng ngắt lời ông giáo Hoài, đột ngột, hỏi:
-Thưa ông Giáo, trước khi vị anh hùng Nguyễn Trung Trực ra nạp mình cho thực dân Pháp để cứu mẹ già thoát khỏi vòng lao lý, ông có nghe ngài có trối lại điều gì với các nghĩa binh dưới quyền chỉ huy của ngài không?
Ông giáo Hoài rưng rưng nước mắt, ngậm ngùi thuật lại lời nói cuối cùng của ông nói với nghĩa binh trước khi nạp mình cho thực dân Pháp cứu mẹ già rằng: “Việc kháng chiến chống thực dân Pháp là việc chung của cả dân tộc, không có tôi thì đất nước sẽ có nhiều người khác đãm trách. Tôi chỉ có một đấng sanh thành, nở lòng nào để mẹ già bị nhục hình trong nhà tù của thực dân Pháp? Vì vậy, sau khi tôi ra nạp mình cứu mẹ, nếu tôi có mệnh hệ gì thì tất cả các anh chị em nghĩa binh hãy rút toàn bộ về chiến khu Bảy Thưa tại vùng Láng Linh do Cố Quản Trần Văn Thành lãnh đạo để tiếp tục kháng chiến chống thực dân Pháp đến ngày toàn thắng, quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi!..”
Sáu Trí hỏi tiếp:
-Sau khi vị lãnh tụ Nguyễn Trung Trực bị thực dân Pháp hành quyết vào năm 1868, ông giáo có về chiến khu Láng Linh hợp tác với Cố quản Trần Văn Thành hay qua bên Miên sống bằng nghề gõ đầu trẻ, chờ thời cơ?
Ông giáo Hoài nói:
-Lời dặn dò của ông Nguyễn Trung Trực đã gây ấn tượng sâu xa trong tâm hồn chúng tôi; vì vậy, toàn bộ nghĩa binh còn sống sót rút lui về vùng Láng Linh, hợp tác với Cố Quản Trần Văn Thành là một trong những đại đệ tử của PHẬT THẦY TÂY AN. Phải nói rằng, ông ấy là một lãnh tụ kháng chiến kiên quyết và can đảm vô cùng. Chiến khu Bảy Thưa tại vùng Láng Linh vô cùng hiểm trở. Tại đây, anh em chúng tôi giúp mở mang đồn trại, tích trữ lương thực, đặc biệt là mở ra năm lò đúc súng vừa chế đạn do đề đốc Văn chỉ huy (vào năm 1936, dân địa phương đào được tại Bảy Thưa 3 lò đúc và 12 họng súng đồng). Vì kỷ thuật lúc ấy còn kém, nên chỉ chế tạo được kiểu súng nạp đạn vào nòng rất chậm, tầm đạn đi không xa, hỏa lực kém không bằng súng của Pháp.
Hai Rồng nói:
-Ông Cố Quản Trần Văn Thành có cái nhìn rất chiến lược, vượt hẳn một số lãnh tụ cần vương lúc bấy giờ, phải không ông giáo?
-Đúng vậy đó! Có thể nói rằng, tổ chức kháng chiến của ông Trần Văn Thành lúc đó được xem là hùng hậu hơn hầu hết các tổ chức khác. Tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương khắp nơi nghe đại đệ tử Trần Văn Thành đã lập chiến khu, dựng cờ khởi nghĩa nên hưởng ứng nồng nhiệt, tự động đem tiền bạc, và vận tải lương thực, thực phẩm như lúa gạo, cá khô, rau đậu… đến tiếp tế cho nghĩa quân, nhiều đến đỗi phải dùng xe trâu kéo về chiến khu. Đích thân bà Cố Quản Trần Văn Thành phải huy động dân quân đào một con kinh nhỏ nối liền rạch Cái Dầu vào Láng Linh để chuyển vận lương thực bằng đường thủy. Con kinh đó, có tên là “Kinh Ông Bà” (ám chỉ ông bà Trần Văn Thành) cho đến bây giờ vẫn còn lưu thông, ông giáo Hoài tiếp: Vì vậy, tên chủ tỉnh Long Xuyên là Emile Puech bố trí kế hoạch tấn công, triệt hạ căn cứ kháng chiến quân Bảy Thưa bằng mọi giá. Trước tiên, Emile Puech cho quân bao vây, triệt hạ các đường dây tiếp tế lương thực, thực phẩm cho nghĩa binh. Vì vậy, trong khu kháng chiến thiếu lương thực và bà Trần Văn Thành nỗi bật vai trò người phụ nữ Việt Nam theo truyền thống: “GIẶC ĐẾN NHÀ ĐÀN BÀ CŨNG ĐÁNH”. Bà huy động mọi người xản xuất tự túc, chịu đựng lâu dài. Cố Quản Trần Văn Thành nuôi hy vọng vào sự tiếp tay của triều đình để xoay chuyển tình thế, nhưng hoàn toàn vô vọng vì triều đình quá nhu nhược. Và trận đánh cuối cùng quyết định đã xảy ra vào tháng 2 năm 1873, Hải quân Đề Đốc Dupré mở cuộc tổng tấn công vào chiến khu Bảy Thưa bằng hải lục quân, súng đồng, đánh từ nhiều mặt. Cố Quản Trần Văn Thành cùng người con trai là Trần Văn Chái đốc thúc lực lượng nghĩa binh tử chiến cho đến ngày 21 tháng 2 thì quân Pháp tràn ngập tuyến phòng thủ cuối cùng là đồn Hưng Trung. Cũng từ ngày đó Cố Quản Trần Văn Thành mất tích, có người nói ngài đã tử trận, nhưng không tìm thấy xác.
Sáu Trí nôn nóng hỏi, tiếp:
-Việc gì đã xảy ra khi quân Pháp tràn ngập chiến khu Bảy Thưa?
-Sau khi chiến khu Bảy Thưa lọt vào tay quân Pháp, người con trai của Cố Quản là Trần Văn Chái bị Pháp bắt, áp giải về Long Xuyên. Bà Trần Văn Thành rất đau đớn vì chống mất, con trai bị giặc Pháp bắt. Nhưng, bà vẫn còn đầy đủ nghị lực và tiết tháo để viết một bức thư, cuốn theo một con dao nhỏ, giấu giữa một đòn bánh tét, cho người mang tới Long Xuyên đưa tận tay người con trai. Bức thư ấy được viết như sau: “Con đã bị giặc bất, ấy là gần xong bổn phận của con đối với đất nước. Nếu như quân thù cứ đem lợi danh cám dỗ, con liệu không thoát được mà về, má muốn con hãy tự dùng con dao nầy mà quyết định đời con để bảo tồn danh tiết cả nhà ta lâu nay đã hy sinh vì Tổ Quốc.” Thế rồi năm hôm sau, cậu Trần Văn Chái dùng con dao nầy tự sát tại ngục thất Long Xuyên, năm đó cậu được 18 tuổi đời.
Nói đến đây, ông giáo già không cầm được nước mắt, giọng nghẹn ngào kết luận: Những tổ chức kháng chiến mà tôi đã tham gia cho chúng ta thấy rằng, những người nông dân miền Nam chân chất thật thà đã biểu lộ tấm lòng yêu nước vô hạn trong việc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngay cả giới chị em phụ nữ thì bà Trần Văn Thành là một tấm gương hy sinh cao cả, sáng chói của giới phụ nữ trong thời kỳ chống giặc ngoại xâm. Chính tư tưởng BỬU SƠN KỲ HƯƠNG đã hướng đức dũng của giới nông dân miền Nam trở thành những chiến sĩ kiên cường, bất khuất. Bằng chứng là sau khi chiến khu Bảy Thưa tan rã, một số chiến binh thoát được khỏi vòng vây của địch, họ cùng nhiều nhân vật Bửu Sơn Kỳ Hương tiếp tục gây dựng phong trào “Nghĩa binh nông dân” kháng Pháp dưới sự lãnh đạo của ĐỨC BỔN SƯ NGÔ LỢI tại làng kháng chiến An Định, hoạt động trên vùng lãnh thổ từ Mỹ Tho về Châu Đốc với sự tham gia đông đảo của tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương
Ông Bá hộ Bảnh giờ mới lên tiếng, vỗ vai ông giáo Hoài, giọng chân thành, nói:
-Suốt cuộc đời của anh giáo đã bôn ba khắp đó đây, lo việc quốc gia đại sự. Bây giờ đã có tuổi rồi, nếu anh không chê tệ xá. Tôi xin mời anh ở lại đây, nương náu tuổi già với chúng tôi. Việc nước để cho thế hệ trẻ lo toan. Ý anh thế nào?
Ông giáo Hoài cảm động, nói:
-Cám ơn tấm thạnh tình của ông. Nhưng, suốt cuộc đời của tôi lúc nào cũng nặng nợ núi sông. Từ bên Cao Miên, tôi nghe nói tại cù lao Ông Chưởng ở Long Xuyên, có một lãnh tụ kiệt xuất đã xuất đầu lộ diện, đó là ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ đang chiêu mộ nghĩa binh, chuẩn bị phất cờ khởi nghĩa kháng chiến chống thực Pháp. Tôi trở về đây, xem hư thiệt như thế nào, rồi trở qua Miên kêu gọi con cháu đang sống bên đó, trở về nước tham gia lực lượng nghĩa binh của Đức Huỳnh Giáo Chủ đánh Pháp giành nền độc lập dân tộc.
Hai Rồng nghe nói, hớn hở thưa:
-Tiếng đồn quả không sai! Thú thật với ông giáo, tôi là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đây. Từ khi Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương ra đời vào năm 1849 được phân định ra làm ba thời kỳ: Thời kỳ khai sáng do Giáo Tổ Phật Thầy Tây An từ 1849 đến 1856. Thời kỳ củng cố do Phật Trùm Bổn Sư từ 1868 đến 1901, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương huy động tín đồ tham gia tích cực kháng chiến chống Pháp. Và bắt đầu từ năm 1939 đến nay là thời kỳ thứ ba, phát triển tích cực và quảng đại quần chúng nhất của Bửu Sơn Kỳ Hương do Đức Huỳnh Giáo Chủ chủ xướng. Nhưng, trong giai đoạn nầy, đạo Phật Giáo Hòa Hảo chưa phải là thời kỳ quân sự hóa rộng rãi mà là thời kỳ sanh hoạt thuần túy về tôn giáo mà thôi. Những nhân vật được tín đồ PGHH biết đến nhiều nhất là những phần tử trí thức theo Nho học hoặc Tây học có địa vị trong xã hội là những người làm việc trực tiếp với Đức Huỳnh Giáo Chủ, được ngài tin cậy và giao phó, nghiên cứu sách lược để đối phó với thực dân Pháp, đồng thới thay mặt Đức Thầy điều hành guồng máy sinh hoạt của tổ chức. Những nhân vật nầy được mặc nhiên công nhận bởi khối tín đồ là những là “cao đồ của Đức Huỳnh Giáo Chủ” thuộc thành phần lãnh đạo tuyệt đại đa số là quần chúng nông thôn. Hai nhân vật điễn hình là luật sư MAI VĂN DẬU – người gốc gác ở quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ – tốt nghiệp Đại học Luật khoa tại Pháp Quốc, trở về Việt Nam hành nghề luật sư, nhưng bản tánh cương trực, thẳng thắng không thích hợp luồn cúi chốn quan trường nên ông bỏ nghề luật sư, rồi sau quy y trở thành tín đồ PGHH và người thứ hai là bác sĩ Trần văn Tâm như tôi vừa thưa khi nãy. Nông dân là nhân tố quyết định thắng lợi trong việc kháng chiến chống thực dân Pháp sau nầy. Hai Rồng kết luận: Trong bối cảnh chánh trị hiện nay, Đức Thầy đề ra hai nguyên tắc hành động: “Chính trị quan trọng hơn quân sự và quần chúng quan trọng hơn quân đội, phải tranh thủ nhân tâm, đừng ghét cái gì dân thích và đừng thích cái gì dân ghét, hãy thuận theo ý dân mà xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn cho vững mạnh trước để vận động quần chúng thành thị, lôi kéo phần tử trí thức, sinh viên học về hợp tác với chúng ta, đoàn kết thống nhứt chiến tuyến, chờ thời cơ phất cờ khởi nghĩa chống thực dân Pháp.”
Ông giáo Hoài bật cười sung sướng, nói:
-Đức Huỳnh Giáo Chủ đúng là một vị lãnh tụ anh minh sáng suốt, chính là người mà tôi muốn tìm đến để bàn việc quốc gia đại sự. Sau khi rời khỏi nơi đây, tôi sẽ chèo ghe về cù lao Ông Chưởng, quan sát địa hình, địa vật ở đó để góp ý xây dựng chiến khu theo kinh nghiệm của tôi trong thời gian hoạt động trong chiến khu Bảy Thưa, An Định…
Hai Rồng ngắt lời, hỏi:
-Muốn xây dựng một chiến khu “bất khả xâm phạm” thì phải làm thế nào, thưa ông giáo?
Ông giáo Hoài nói:
-Tôi hoàn đồng ý với quan điểm của Đức Huỳnh Giáo Chủ: Yếu tố lòng dân là thành trì vững chắc nhứt để bảo vệ chiến khu. Tôi muốn nhắc lại một giai đoạn lịch sử đã xảy ra cách nay hơn 700 năm: Trước khi anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mất. Vua Trần Anh Tôn tới tận giường bệnh thăm hỏi về phương cách chống giặc ngoại xâm để giữ nước. Đức Trần Hưng Đạo đưa ra một triết lý chiến đấu và nó trở thành nghệ đánh giặc giữ nước của Việt tộc qua mọi thời đại: “Đại lược, kẻ địch có trường trận, ta có đoản binh. Lấy đoản chế trường là sự thường trong binh pháp. Nếu quân địch tràn qua như lửa, như gió, thế ấy dễ trị. Nếu chúng dùng chước tầm ăn dâu, khong cần mau thắng và chẳng cướp bóc lương dân, thì ta phải lựa dùng tướng giỏi, xem tình thế mà quyền biến như người đánh cờ vậy. Nhưng, phải tùy từng lúc mà chiến đấu. Cốt cho binh tướng như thân tình như cha con thì mới dùng được. Và phải nới sức dân để làm cái chước sâu rễ sâu, gốc vững. Đó là phương sách giữ nước hay nhứt.”
Ông giáo đặt câu hỏi để mọi người suy nghĩ:
-Nhà Trần tồn tại đến năm 1413 là năm Trần Quý Khoách bị giặc Minh tiêu diệt, chấm dứt một trong những triều đại chống quân xâm lược phương Bắc oanh liệt nhứt trong lịch sử Việt tộc. Ngay từ năm 1407, các tôn thất nhà Trần nổi lên đánh giặc Minh nhưng tất cả các cuộc khởi nghĩa đều thất bại. Nhưng, chỉ có một mình người anh hùng áo vải Lê Lợi thành công là nhờ vào những yếu tố nào?
Sáu Trí nói:
-Theo sự suy nghĩ của tôi, lý do khiến Lê lợi thành công, có thể gồm 4 yếu tố chánh: Thứ 1. Có chủ nghĩa, lãnh đạo tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc và nắm vững tình tự dân tộc là lòng căm thù giặc Minh tàn bạo. Thứ 2. Có nhân tài tợ giúp như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Sát, Lưu Nhân Chú…Thứ 3. Có dân chúng hưởng ứng. Thứ 4. Có chiến khu Lam Sơn được bảo vệ bởi lòng dân.
Ông Giáo Hoài gật đầu, nói:
-Thầy Sáu Trí nói đúng lắm! Phép lập chiến khu là một tư tưởng chiến lược được hoàn chỉnh vào thời anh hùng Lê Lợi chống giặc Minh. Theo kinh nghiệm của tôi, có hai loại chiến khu: chiến khu chính và chiến khu phụ. Chiến khu chính là căn cứ địa đầu tiên là cái vốn căn bản để xây dựng lực lượng, tích trử lương thực nuôi quân để làm bàn đạp mở rộng chiến khu phụ như vết dầu loang dần ra, ông Giáo Hoài, giọng thán phục nói: Đức Huỳnh Giáo Chủ quả là nhà chiến lược có cái vô cùng chính xác về nguyên tắc hành động vào thời điểm nầy: chánh trị quan trọng hơn quân sự và quần chúng quan trọng hơn quân đội. Bất cứ một nhà chiến lược nào không tiến hành đúng quy luật nầy sẽ bị kẻ thù tấn công, phá vở trong thời kỳ phôi thai.
Hai Rồng vui mừng, nói:
-Chuyến đi nầy, tôi may mắn gặp được anh Sáu Trí và ông giáo cùng chung chí hướng, ý hiệp tâm đầu, đồng tâm hiệp lực giúp Đức Huỳnh Giáo Chủ chuẩn bị phất cờ khởi nghĩa chống thực Pháp. Sau khi giải quyết vu tranh chấpï biên giới với Thạch Sum. Chúng ta sẽ gặp nhau tại cù lao Ông Chưởng.
-Nhất định là như vậy, ông giáo Hoài nói: Bây giờ tôi phải rời khỏi nơi đây. Sáng ngày mai, tôi sẽ chèo ghe về cù lao Ông Chưởng, nhờ bà con tiến dẫn, hy vọng gặp được Đức Thầy, người mà tôi ao ước được diện kiến bấy lâu nay.
Ông Bá hộ Bảnh nói:
-Để tôi bảo một chú lực điền chèo ghe đưa anh đi, đỡ đần giúp anh một tay.
-Cám ơn ông. Tôi có một chiếc ghe tam bản đang cắm sào dưới bến, tôi chèo ghe đi một mình được mà, ông giáo Hoài nhìn Hai Rồng, nói: Chú Hai có thể tiễn tôi ra ngoài bờ kinh được không?
-Dạ, được chớ! Hai Rồng trả lời, rồi lật đứng dậy, đi theo ông giáo ra ngoài bờ kinh Cái Cơ.
Ông giáo Hoài vỗ vai Hai Rồng, nói:
-Tôi có chiêu nầy muốn nói riêng với chú, chẳng những đánh thắng Thạch Sum mà còn giải quyết ổn thỏa vụ tranh chấp biên giới với hắn. Chú muốn nghe không?
Hai Rồng gật đầu, vui vẻ nói:
-Ông Giáo có chiêu gì hay, xin chỉ giáo!
Không biết ông giáo Hoài chỉ cho Hai Rồng tuyệt chiêu gì mà trông Hai Rồng có vẻ tâm đắc lắm…
CHƯƠNG BẢY
HAI RỒNG TÌM CÁCH VƯỢT BIÊN GIỚI
Ngay buổi xế chiều hôm đó, trên căn nhà sàn của Tư Long trên bờ kinh Cái Cơ. Hai Rồng nhìn Tư Long hỏi:
-Thời gian rất cấp bách, sắp bước qua tháng 3 rồi, chúng ta chỉ còn khoảng 7 tuần lễ để chuẩn bị ra quân. Sáng mai, tôi muốn đích thân vượt biên giới qua bên Miên do thám tình hình. Phải tìm cho ra sào huyệt của Thạch Sum trước, để chọn con đường tiến sát nào an toàn nhứt, bảo đảm yếu tố bất ngờ. Vì vậy, tôi rất cần người rành đường đi nước bước ở bên đó, giúp tôi một tay. Anh Tư có biết ai ở vùng nầy tình nguyện đi với tôi không?
Tư Long suy nghĩ giây lát, nói:
-Tôi nhớ ra rồi: thằng Tư Kê, con trai của Chín Dậu. Nhà hai cha con họ ở ấp Bầu Biển. Gia đình họ cũng là tá điền mấy đời của ông Bá hộ Bảnh. Tôi nghĩ, thằng Tư Kê biết rành sào huyệt của Thạch Sum lắm.
-Nếu vậy thì hay quá! Ngay bây giờ, anh Tư có thể cùng tôi bơi xuồng xuống ấp Bầu Biển gặp Tư Kê được không, anh Tư?
-Bây giờ còn sáng bửng, chắc hai tía con nó đi ruộng gặt “lúa ma”, chắc chưa về tới nhà đâu. Thôi, chúng ta dùng cơm chiều đi, rồi bơi xuồng xuống đó cũng còn kịp thì giờ mà.
-Thôi cũng được, mình ăn cơm xong rồi đi.
Thằng Bền nói:
-Tía cho con đi theo với, nghe tía! Con cũng muốn biết sào huyệt của Thạch Sum ở đâu. Nếu có việc gì xảy ra, con còn biết đường qua bên đó cứu tía chớ, phải không tía?
Hai Rồng nói đùa:
-Qua bên đó nạp mạng cho Thạch Sum hay cứu tía hả, Bền?
Tư Long vò đầu thằng Bền, khen:
-Cháu Bền nói cũng đúng lắm đó! Thà biết trước, còn hơn là không biết gì hết, phải không?
-Ờ cũng được, ăn cơm cơm xong rồi chúng ta cùng đi.
oOo
Hai cha con chú Chín Dậu đi ruộng gặt “lúa ma”, về đến nhà trời cũng chạng vạng tối. Chín Dậu nói:
-Lấy mấy tấm lá chuối, đậy kỹ lưỡng mấy giạ “lúa ma” lại. Sáng mai, cho vô bao rồi chở ra nhà biếu dì Bảy Mẹo. Bây giờ lo nấu cơm nước, trời sắp tối rồi đó.
Tư Kê vừa nhóm lửa trên cái cà ràng, hâm lại nồi cơm, nồi canh chua và ơ cá rô vừa than thở:
-Phải chi má còn sống, phụ với tía con mình, lo cơm nước thì đở khổ biết mấy, Tư Kê bất ngơ,ø hỏi chận đầu: Con nghe nói dì Bảy Mẹo ở xóm đình coi cũng được người lắm. Con còn nghe người ta đồn là tía phải lòng bả rồi đó nghen.
Chín Dậu bĩu môi, nói:
-Nói thiệt với bây nghe! Bả mà chịu theo không, tía cũng không dám rước về nhà nữa. Đàn bà gì mà dữ như chằn tinh gấu ngựa. Vã lại, chồng bả là Mười Dần, anh em kết nghĩa với tía. Tía mà lấy bả là trái với đạo nghĩa giang hồ, mặt mũi nào nhìn mặt thiên hạ nữa chớ! À, tao cũng nghe mấy thằng lực điền ở xóm đình xầm xì là mầy lẹo tẹo với con Ngọ, việc nầy có thiệt không, Tư Kê?
Tư Kê chối leo lẻo:
-Làm gì có chuyện đó đâu mà tía lo, tía ơi! Con tình cờ gặp con Ngọ trong lúc hai đứa mò nghêu ở dưới rạch thôi mà tía!
Chín Dậu hỏi gằn:
-Có phải hai đứa mầy chỉ mò nghêu thôi, phải vậy không, Tư Kê?
-Dạ phải, chỉ mò nghêu thôi mà tía!
Chín Dậu cười, nói:
-Chỉ có mò nghêu thôi thì không hề gì! Mầy mà lén phén mò…sò là mầy chết với má nó đó! Đừng có tưởng má con Ngọ tên Mẹo là bả hiền khô như con mèo nghe mậy. Bà ta là con sư tử cái đó biết chưa, thằng quỉ!
Thằng Tư Kê làm bộ ngây thơ, ngơ ngác, hỏi:
-Dạ, tụi con chỉ mò nghêu thôi mà. Ở sông làm gì có…sò mà mò hả tía?
Chín Dậu cố nén cười, nói:
-Mầy đừng có giả mù sa mưa với tao nghe! Mà thôi, tía tin lời mầy. Tía thấy con Ngọ, mặt mày cũng sáng sủa, dễ coi, ăn nói lễ phép, biết kể trên người dưới. Nếu tụi bây có tình ý với nhau, hãy đợi vài năm nữa, tía đi hỏi cưới nó cho mầy. Còn mầy có thói hư “mèo mả gà đồng” nên kiếm chỗ khác chơi cho chắc ăn. Tao không muốn bà Bảy Mẹo đốt nhà tía, nghe chưa con!
Nghe tía khen cô Ngọ, Tư Kê khoái chí, cười híp mắt, nói:
-Cần gì phải đợi tới vài năm nữa, lâu quá tía ơi! Cưới vợ thì phải cưới liền tay, chớ để lâu ngày, thằng khác rinh dĩa mứt gừng của con, dông mất thì sao, tía?
Nghe thằng con đòi cưới vợ, Chín Dậu cũng giựt mình, quát:
-Mầy còn con nít trân, chưa đầy 16 tuổi mà vợ con cái nỗi gì chớ? Bao giờ mầy tới tuổi trưởng thành, tao mới xin cưới con Ngọ cho mầy!
Thằng Tư Kê mặt mày nhăn nhó, hỏi:
-Con trai bao nhiêu tuổi mới gọi là trưởng thành vậy hả, tía?
-Phải ngoài 20 tuổi! Hồi đi cưới má mầy, tao cũng trạc tuổi đó!
-Như vậy, con còn phải chờ thêm 3, 4 năm nữa, mới được cưới vợ, Tư Kê giẫy nẫy, phân bua: Tía còn nhớ thằng Tèo, con chú Hai Thinh ở Mộc Hóa không? Nó bằng tuổi con, mới lấy vợ hồi năm ngoái mà năm nay vợ nó sắp đẻ rồi đó, tía à!
-Thôi được, chờ sau khi ông Bá hộ Bảnh giải quyết vụ tranh chấp biên giới Việt – Miên với Thạch Sum coi ra sao cái đã, khi mình có bằng khoán của trường tiền cấp, tự mình làm chủ mấy mẫu đất ruộng nầy, hai tía con mình phải lên kế hoạch làm ăn lâu dài, dành dụm chút tiền cất lại căn nhà cho tươm tất, rồi còn lo cho cháu nội lên tỉnh ăn học nữa chớ! Mà tao chỉ sợ tánh nết con Ngọ, giống con gái mẹ của nó làm khổ mầy, còn tao vô can cũng bị vạ lậy nữa.
Thằng Tư Kê có vẻ không tin, nói:
-Tía nói làm sao chớ! Con thấy bác Bảy Mẹo hiền khô. Con Ngọ muốn ngăn nào được ngăn nấy, có thấy bác gái la rầy nó bao giờ đâu nà!
Chín Dậu hỏi:
-Mầy biết rành má con Ngọ bằng tao không? Bây có biết tại làm sao tía con Ngọ bỏ nhà ra đi biệt tăm từ khi con Ngọ mới năm, sáu tuổi đời không? Cho tới nay, không một ai biết tông tích của ổng ở đâu? Còn sống hay đã chết rồi cũng không chừng!
-Thiệt vậy sao tía?
-Thiệt chớ sao không thiệt! Chín Dậu nói: Tía con Ngọ tên Mười Dần, anh em kết nghĩa với tía. Hồi đó, sau mỗi mùa lúa là tao với ổng vào rừng đốn tràm, kết lại thành bè thả xuống miệt Cần Thơ, bán cho mấy nhà dựa chứa vật liệu cất nhà, dọc theo rạch Cái Khế. Hai anh em sướng khổ có nhau. Anh Mười Dần thân thể kềnh càng, ăn nói rổn rảng, mặt mày râu ria lổm chổm, coi ngầu hết biết, còn tướng đi thì như cọp. Nhưng, ai có dè đâu, cọp nầy thuộc về“cọp thiến” Ổng sợ vợ hết chỗ nói nỗi, nghiêm chỉnh thi hành gia pháp râm rấp, không dám hó hé, vợ bắt nạt thì gục đầu nín thinh.
-Gia pháp của bác Bảy gái ra làm sao, con nghe nổi ốc cùng mình vậy, tía?
Chín Dậu kể:
-Hồi đó, anh Mười Dần mà đi ruộng về nhà trễ bị phạt quỳ ngoài sân. Đi chơi với bạn, có mùi rượu ra chuồng heo mà nằm, say bí tỉ thì bị phạt đòn. Bả bắt gặp ổng liếc mắt đưa tình với ai thì bị phạt quỳ giữa đường, giữa xá. Tức nước vỡ bờ mà không vùng lên được, ổng lén bỏ nhà trốn đi mấy lần mà cũng không thoát, bị bả tóm cổ, lôi về nhà nện cho phù mõ. Chị Bảy Mẹo ốm nhom như cây tăm; vậy mà, mỗi lần bả bặm trợn, hét lên một tiếng là Mười Dần sợ té đái trong quần. Thế mới ghê!
Tư Kê nghe má vợ tương lai hung dữ như vậy, thằng con tè quá, hỏi:
-Có thiệt như vậy sao, tía? Con nghĩ, chắc tướng tinh của bác Bảy gái là sư tử hay cọp rằn gì đó!
-Thiệt chớ sao không thiệt! Chín Dậu trầm ngâm, nhớ lại chuyện xưa, nói: Cách đây mười năm, nhà ông Sáu Thịnh ở xóm đình có đám giỗ bà má vợ, Mười Dần đại diện gia đình đến dự. Trong bàn tiệc, ảnh không dám uống rượu vì sợ phạm gia uy, bị bạn bè chọc quê. Chạm tự ái, Mười Dần uống luôn một hơi mấy xị rượu đế. Tiệc tàn, trước khi về nhà, ảnh còn lận theo một cây củi đòn vào lưng, rồi dõng dạc tuyên bố thật hách: Lần nầy tui nhứt định vùng lên, nện nó một trận cho bỏ cái thói“thượng cẳng chưn, hạ cẳng tay” với tui. Một lần nầy cho nó cạch luôn tới già!
-Bác Mười Dần có dám vùng lên thiệt không, tía? Tư kê hỏi.
-Tưởng gì, khi về đến nhà, vừa thấy mặt vợ hầm hầm là Mười Dần rụng rời cả tay chưn, lật đật quì xuống đất, hai tay dưng cây củi đòn cho vợ, rồi tự động nằm dài xuống đất cho vợ đánh. Chị Bảy Mẹo sẵn cây củi đòn, phang vào mông đít chồng như mưa, phát nào ra phát nấy. Mỗi lần bị vợ đánh đau quá, Mười Dần nỗi điên, thét tướng lên: Lần nầy tao đánh cho chết mẹ mầy luôn! Tao đập cho mầy chết, rồi tao đi ở tù cũng cam. Chết nè…chết nè… Tiếng thét của Mười Dần vang vội giữa đêm khuya làm bà con lối xóm nhìn nhau sững sơ,ø hỏi nhau:“Không biết Mười Dần có uống lộn mật gấu ngâm rượu hay sao mà bỗng nỗi cơn điên, đánh vợ tàn nhẫn quá, nè chời!” Còn ông Sáu Thịnh thấy Mười Dần lận lưng cây củi đòn, bèn lật đật chạy theo. Vừa chạy tới cửa, nghe tiếng Mười Dần hét vọng ra tới ngoài đường, bèn đạp cửa xông vô nhà can gián. Sáu Thịnh chưng hửng, thấy Mười Dần đang nằm dài dưới đất chịu đòn. Sau trận đòn đó, Mười Dần xấu hổ bỏ nhà đi biệt tăm luôn cho tới bây giờ.
Tư Kê nghe nói cũng lạnh xương sống, nói:
-Con dám chắc con Ngọ không giống má nó đâu. Tía đừng có lo!
Chín Dậu cười ha hả, nói:
-Mầy cưới vợ, mắc mớ gì mà tao lo chớ! Cùng lắm là mầy nhừ đòn, rồi mang đầu máu, lết về nhà ở với tía. Má nó mà làng chàng tới đây là biết tay tao!
-Đừng lo tía! Nó mà đục con phù mõ là con không nhịn nó đâu. Con không giống như ông già tía của nó đâu nghe, tía.
-Thôi, đừng nói trước con! Không chừng, lúc đó mầy còn tệ hơn Mười Dần,
Bỗng Chín Kê nhớ ra điều gì, buộc miệng hỏi: Mầy nghe ai đồn là tao lẹo tẹo với bà Bảy Mẹo hả, Tư Kê?
-Thì mấy thằng bạn con ở xóm đình chớ ai vô đây! Tụi nó thấy tía vô nhà bác Bảy gái nhiều lần, chớ không phải một lần đâu à nghen, tía.! Tư Kê hỏi vặn: Mà tía có tới nhà bác Bảy gái nhiều lần thiệt hôn, tía?
Chín Dậu gật đầu, nói:
-So bề vai vế, Mười Dần lớn tuổi hơn tía, nên tía xem chị Bảy Mẹo như chị dâu. Bả bây giờ có hối hận cũng đã muộn. Bác Mười mầy không biết sống, chết ra sao nữa? Được một cái là bả vẫn ở một mình như vậy nuôi con chờ chồng trở về, đã gần mười năm rồi còn gì, tuổi xuân xanh của người đàn bà qua lẹ lắm!
-Bây giờ con đã hiểu! Xin lổi tía nghen!
Chín Dậu thở dài, nói:
-Hai má con bà Bảy Mẹo sống về nghề đan lọp, bán cho bà con nông dân vùng nầy bắt tôm, tép. Để có một cái lọp hoàn thành phải trải qua nhiều công đoạn khá vất vả như chọn tre, đập vành, chẻ nan, bện hom, dệt khung…mỗi ngày chỉ sản xuất được 5, 6 cái lọp làm sao đủ sống? Nên phải đi cấy mướn, gặt thuê cho người ta, ai kêu đâu làm đó. Vì vậy, hôm nào hai tía con mình đi giăng câu, chài lưới bắt được nhiều tôm cá, tía mang đến biếu, giúp đở hai mẹ con bả, đở vất vả phần nào trong việc mưu sinh. Tao sống làm sao không thẹn với anh Mười Dần là được rồi. Còn ai muốn nói sao thì nói, tía không cần biết: vàng thiệt không sợ lửa!
Tư Kê nói:
-Trời tối rồi, tía đi đốt đèn để trên bàn. Con đi dọn cơm ăn, rồi đi nghĩ sớm. Sáng ngày mai, mình còn ra nhà ông Bá hộ Bảnh tập võ nữa.
Hai tía con Chín Dậu ăn cơm nước vừa xong, Tư Kê thấy thấp thoáng ba người từ bờ rạch Long Khốt đi lên. Tư Kê nói:
-Tía à, hình như có ai tới thăm nhà mình đó, tía!
Chín Dậu quay đầu nhìn ra sân, ngạc nhiên nói:
-Ủa, anh Tư Long và cha con chú Hai Rồng chớ ai! Thôi, con dọn mâm cơm ra ngoài sàn nước, rồi bắt ấm nước sôi, pha trà cho tía tiếp khách.
oOo
Vừa gặp nhau, Tư Long đi thẳng vào vấn đề ngay:
-Anh Chín nè, chú Hai Rồng muốn gặp cháu Tư Kê để nhờ hướng dẫn, vượt qua biên giới Việt – Miên dọ thám sào huyệt của Thạch Sum. Không biết cháu Tư Kê có sẵn lòng giúp hay không?
-Để tôi hỏi nó, coi có giúp được việc gì cho anh Tư và chú Hai không? Chín Dậu gọi con: Tư Kê à, ra ngoài nầy cho tía biểu. Có chú Tư Long muốn gặp con đó!
Tư Kê nghe tía gọi, từ trong bếp hối hả đi ra, gật đầu chào khách:
-Bác Tư gặp con có chuyện gì không?
-Bác Tư thì không! Nhưng, chú Hai Rồng muốn nhờ con giúp một việc thiệt quan trọng.
Hai Rồng nhìn Tư Kê hỏi:
-Chú nghe nói, cháu biết rõ sào huyệt của đảng cướp Thạch Sum ở bên Miên, phải không cháu?
-Dạ, biết chớ! Tư Kê kể: Hồi giữa mùa lũ năm ngoái vào khoảng cuối tháng 9, mực nước ở Đồng bằng sông Cửu Long đang dâng lên từng ngày, cũng là thời điểm săn bắt ếch, tụi con gọi mùa săn “gà đồng”. Con và thằng bạn rũ nhau bơi xuồng qua bờ rạch bên kia, sát biên giới Việt – Miên để săn bắt ếch, bán cho mấy quán nhậu. Tối hôm đó trời tối mịt, bạn con bơi xuồng, con ngồi đằng mũi, tay thủ cây chĩa. Hễ gặp ếch ngồi trên mấy giề lục bình là con quơ cây đèn bão qua lại thì nó ngồi bất động một chỗ, vì mắt ếch rất bắt đèn. Con chưa kịp phóng chĩa đâm nó, bỗng thấy hai chiếc xuồng bơi về phía tụi con. Tưởng họ là dân ăn ếch, con giơ cây đèn bão lên để nhận diện bạn bè. Nào ngờ, vừa thấy bọn người lạ mặt nầy có mang theo mã tấu là thằng bạn con, nhanh chân phóng xuống nước, trốn trong mấy giề lục bình, thoát được. Còn con chậm chưn bị chúng nó kê mã tấu vào cổ, bắt trói gô lại, quăng xuống xuồng bơi qua biên gới. Gần tới trưa thì về đến sào huyệt. Mấy ngày sau, con mới biết đó là sào huyệt của đảng cướp Thạch Sum.
Tư Long hỏi:
-Như vậy, cháu biết đích xác sào huyệt của Thạch Sum ở đâu rồi, phải không?
-Dạ, chẳng những con biết rõ mà còn biết những con đường đi thẳng vào sào huyệt của Thạch Sum nữa, bác Tư à!
Hai Rồng hỏi:
-Có mấy ngã đường có thể xâm nhập được vậy, cháu?
-Dạ, có hai ngã đường: bơi xuồng theo con rạch Long Khốt, vượt qua biên giới, đi ngược lên thị trấn Svay Riêng hoặc vượt qua kinh Cái Cơ rồi băng qua cánh đồng lầy phía trước cũng được. Lúc trốn thoát được ra khỏi trại, con leo tường, lội băng đồng về tới kinh Cái Cơ theo ngã nầy.
Tư Long hỏi:
-Theo ý cháu, chọn con đường nào ít nguy hiểm nhứt? Chớ chú Tư thấy, làm sao vượt qua cánh đồng lầy đó được chớ? Sình lầy có chỗ ngập gần tới bụng, lại phải đi len lách trong đám lau sậy cao quá đầu người, đầy rắn độc, đĩa trâu lội lềnh như bánh canh, con nào con nấy lớn bằng ngón tay cái, ớn thấy mẹ!
Tư Kê cười, nói:
-Bác Tư ơi! Con có nói đi bộ, lội sình đâu nà! Mình chống xuồng ba lá đi dễ ợt. Bọn cướp người Miên cũng lùa trâu bò bằng con đường nầy mà.
-Ừ, dùng xuồng thì tao đồng ý liền!
Hai Rồng lắng nghe ý kiến hai người, rồi hỏi Tư Kê:
-Cháu nhắm chừng coi, sào huyệt của Thạch Sum cách đây chừng bao nhiêu cây số?
-Theo chỗ con biết, gọi là sào huyệt không đúng lắm, mà gọi là cái trại thì đúng hơn, vì trại nằm trong khu vực lộ thiên, cách bờ sông chừng hơn trăm thước và cách con kinh Cái Cơ khoảng 5, 6 cây số!
-Như vậy, trại nầy cách tỉnh Svay Riêng đâu có xa lắm phải không, cháu?
-Chú Hai nói đúng! Tụi nó bắt con bắt con lùa trâu, bò đi dọc theo bờ sông Stưng Svay Riêng là con rạch Long Khốt nối dài chảy bên Miên, lên gần tới thị trấn khoảng 2 tiếng thì tới nơi.
Chín Dậu cũng lấy làm ngạc nhiên, nói:
-Trại của đảng cướp Thạch Sum ở gần thị trấn Svay Riêng, tại sao chánh quyền địa phương không đem binh lính tới dẹp loạn, thế mới là chuyện lạ.
Tư Kê cười, nói:
-Có gì lạ đâu, tía! Nghe nói, viên quan phó chủ tỉnh Svay Riêng có bà con họ hàng gì đó với Thạch Sum, chẳng những không bắt bớ lại còn chống lưng cho ông ta nữa đó, tía à!
Tư Long, nói:
-Hèn chi, Thạch Sum nó lộng hành quá mức!
Tư Kê nói:
-Bọn Tàu và Chà Và giàu có ở Nam Vang chi tiền, mướn nhiều cao thủ xuống định giết Thạch Sum. Nhưng, tất cả đều bị Thạch Sum đánh bại dễ dàng.
Hai Rồng nói:
-Ngày mai, cháu có chịu đi với chú qua bên Miên, dọ thám tình hình và quan sát doanh trại của bọn cướp Thạch Sum như thế nào, để nghiên cứu kế hoạch hành động cho chính xác, được không cháu? Hai Rồng đề nghị luôn: Chú cháu sẽ giả dạng thợ câu, bơi xuồng đi bằng đường thủy trước. Bận về, chống xuồng băng đồng trở về. Cháu nghĩ sao, được không?
-Con thì sao cũng được, đường nào cháu cũng biết rành mà.
Hai Rồng mừng lắm, nói:
-Thôi, quyết định như vậy đi! Sáng mai, Chú Hai hẹn gặp cháu và anh Chín tại gia trang ông Bá hộ Bảnh nghe!
oOo
Sau khi tiễn khách tại bến nước. Lúc trở vô nhà, Chín Dậu nói giọng lo lắng:
-Nếu không mai gặp chuyện chẳng lành, tía không biết chú Hai Rồng có đủ bản lãnh bảo vệ cho mầy không? Nói thiệt, tía cũng hơi lo đó!
-Đường đi nước bước con rành lắm mà! Dễ dầu gì bọn chúng phát hiện được đâu mà tía lo làm chi cho mệt người, Tư Kê trấn an tía, nhưng vẫn lo âu, nói: Tía à, theo con thấy chú Hai Rồng không phải là đối thủ của Thạch Sum đâu.
-Mầy căn cứ vào đâu mà dám chắc như đinh đóng cột vậy?
-Con nhìn thấy tận mắt trận thư hùng giữa Thạch Sum dùng tay không, đấu với một võ sĩ người Nhựt Bổn với thanh trường kiếm và chuôi kiếm dài. Trận thách đấu xảy ra ngay giữa doanh trại của bọn cướp.
-Có thiệt như vậy sao?
-Thiệt mà tía! Con nghĩ là tên sát thủ người Nhựt nầy do bọn Tàu và Chà Và ở Nam Vang mướn để thanh toán Thạch Sum chớ không ai xa lạ đâu, thằng Tư Kê thuật lại diễn tiến trận đấu: Thoạt đầu, người võ sĩ Nhựt tuốt thanh kiếm ra khỏi vỏ bọc, hai bàn tay nắm chặt chuôi kiếm dơ lên khỏi đầu, đôi mắt nhìn đăm đăm vào địch thủ. Còn Thạch Sum, sắc mặt vẫn ung dung, đứng chờ địch thủ xuất chiêu. Bất thình lình, người võ sĩ Nhựt hét lên một tiếng thiệt lớn, dùng hết sức mạnh chém sả xuống đầu của Thạch Sum mạnh như sấm sét. Thạch Sum phản ứng nhanh như tia chớp, dùng hai lòng bàn tay kẹp chặt cứng lưỡi kiếm vào giữa. Tên võ sĩ Nhựt dùng hết sức lực cố rút lưỡi kiếm ra khỏi lòng bàn tay thép; vì vậy, khi Thạch Sum vừa thả bàn tay ra làm tên võ sĩ mất thăng bằng, ngả bật ra phía sau.
-Rồi sao nữa con? Chín Dậu nôn nóng, hỏi.
-Tên võ sĩ Nhật bật người dậy như cái lò xo, dùng hết uy lực chém tạt một nhát kiếm ngang sườn phải, Thạch Sum không thèm né tránh, gồng mình lên đở nhát kiếm nầy. Thanh kiếm chạm vào người Thạch Sum dội bật ra như chém vào cột sắt. Biết mình không là địch thủ, hắn đứng dậy, tra kiếm vào vỏ, cúi đầu chào Thạch Sum một cách kính cẩn rồi lặng lẽ, quay gót bỏ đi một nước.
Chín Dậu thở dài, chậc lưỡi, nói:
-Tiếng đồn về Thạch Sum mình đồng, da sắt thiệt không sai chút nào! Tía cũng đồng ý với mầy, làm cách nào chú Hai Rồng có thể đánh thắng được Thạch Sum đây?
Tư kê nói:
-Thôi, chuyện đâu còn có đó, tắt đèn đi ngủ nghen tía. Sáng mai, hai cha con mình còn phải đi gặp họ nữa đó!
oOo
Hai tía con Chín Dậu vừa chợp mắt, bỗng nghe có tiếng đập cửa ầm ầm làm Chín Dậu giựt mình, ngồi bật dậy, vén mùng, hỏi:
-Đêm hôm khuya khoắt, ai tới kiếm tui vào giờ nầy vậy cà?
Một người đàn bà đứng ngoài cửa, lên tiếng:
-Tui đây mà, dậy mở cửa cho tui vô nhà lẹ đi!
-Mà tui là ai vậy?
-Bảy Mẹo, má con Ngọ đây, được chưa cha nội!
Chín Kê giọng dứt khoát, nói:
-Chuyện gì thì thủng thỉnh để sáng mai nói. Bây giờ chị về nhà đi. Tui không mở cửa đâu.
-Sao kỳ cục vậy, cha?
-Có gì kỳ cục đâu nà, Chín Dậu nói: Tui chết vợ, còn chị giá chồng. Gặp nhau nửa đêm khuya khoắt như thế nầy bất tiện lắm. Người ta mà biết được, cười cho thúi đầu. Tui còn mặt mũi nào nhìn anh Mười Dần chớ! Thôi chị về nhà đi!
Bảy Mẹo nghe nói, cười khúc khích, nói:
-Thôi, mở cửa đi! Có người muốn gặp anh, chớ không phải tui đâu, cha nội ơi!
-Ai vậy?
-Mở cửa đi thì biết!
Cực chẳng đã, Chín Dậu kéo cái then gài cửa, nói:
-Thôi, xô cửa vô nhà đi!
Vừa thấy một người đàn ông theo chị Bảy Mẹo bước vô nhà. Chín Dậu ngạc nhiên đến sửng sờ trông giây lát, rồi mừng quá thét lên:
-Chèng đéc ơi! Anh Mười Dần! Chín Dậu trách: Trốn đi đâu mà trốn mất biệt mười mấy năm trời vậy, cha nội? Làm ai nấy đều tưởng là anh chết bờ, chết bụi ở xó xỉnh nào rồi!
Mười Dần cười, nói:
-Chết đâu mà chết! Tối hôm đó, tao quá giang ghe ra chợ Mộc Hóa nhậu tiếp với mấy thằng bạn đến nỗi say mèm. Chúng nó quậy banh nhà lồng chợ bị lính mã tà hốt hết vô bót, ngủ muỗi một đêm. Sáng hôm sau, ai đóng tiền phạt được thả về. Chỉ có tao là không có giấy đóng thuế thân nên bị chúng nó áp giải ra châu thành Tân An, chờ điều tra.
Chín Dậu nói:
-Sao lúc đó anh không nhắn cho chị Mười hoặc cho tui biết để đem tiền lên đóng thuế thân cho anh?
Mười Dần lắc đầu, nói:
-Tao gặp lúc vận xui, bị bắt nhằm lúc “Đệ nhứt Sư đoàn Kỵ Binh” (1st REC) của Pháp đang đóng tại Ma Rốc cần bổ sung lực lượng nên tao được chọn, đưa lên tàu sang Alger để huấn luyện cấp tốc. Sau đó, tao được bổ sung cho đơn vị nầy, đi chiến đấu với dân quân kháng chiến bản xứ, thuộc địa của Pháp từ Alger, Ma Rốc, Tunisie… trong suốt gần 10 năm trời. Đến đầu năm 1940, đơn vị nầy giải tán. Nhờ vậy, tao được chánh phủ Pháp trả về nguyên quán. (cuối năm 1945, 1st REC được tái thành lập, trở thành đơn vị thiết giáp đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Jean de Lattre de Tassigny và đơn vị nầy đổ bộ vào Đà Nẳng ngày 4/1/ 1947, tham gia trận đánh đầu tiên tại Huế).
-Anh còn sống sót trở về quê hương xứ sở là mừng lắm rồi, Chín Dậu nhìn chị Bảy Mẹo nói: Lần nầy, anh Mười trở về, chị đừng có “thượng cẳng tay, hạ cẳng chân” với anh Mười nữa nghe bà!
Chị Bảy Mẹo cười toe toét, nói:
-Chú coi nè, tướng tui ốm nhách, ốm nhom như cò ma. Lúc giận quá, đánh ảnh có mấy cây như phủi bụi mà ảnh cứ làng lên, làm thiện hạ ở cái xứ Mộc Hóa gọi tui là “sư tử cái” thế mới tức chớ! Tui bị trúng kế của ổng rồi, chú Chín ơi!
Mười Dần nghe vợ nói, bật cười ha hả, nói:
-Đây là tuyệt chiêu của tao! Nhờ vậy, hơn mười năm nay, chẳng có ma nào dám bợ tới dĩa mức gừng của tao.
Chín Dậu nhìn con, nói:
-Tư Kê nè, mầy phải học chiêu nầy của ông già vợ để mà giữ vợ chung thủy suốt đời đó nghen, mậy!
Ngọ liếc xéo Tư Kê, nói:
-Hổng dám đâu, chú Chín ơi! Ảnh mà phạm gia quy là con…chém thiệt đó!
Chín Dậu nói:
-Thôi, bây giờ anh chị Mười và cháu Ngọ về nhà nghĩ. Sáng ngày mai, hẹn gặp nhau tại gia trang ông Bá hộ Bảnh để bàn chuyện đánh bọn cướp Thạch Sum để bảo vệ đất đai, tài sản của bà con nông dân. Tụi mình coi giúp họ được gì, mình cố gắng giúp.
Trước khi ra về, Mười Dân thân mật vỗ vai Chín Dậu, nói:
-Cám ơn chú và Tư Kê đã hết lòng giúp đở, săn sóc hai mẹ con nó thay anh trong suốt 10 năm qua. Ơn nghĩa nầy, Mười Dần không bao giờ dám quên.
Chín Dậu kề tai Mười Dần, nói nhỏ:
-Chiêu của anh thâm bỏ mẹ! Anh gieo tiếng ác cho bả là “sư tử cái” phòng khi anh có bề gì là bả phải ở vậy suốt đời thờ anh! Đố cha thằng nào dám rinh bả về nhà để mang họa, phải không cha nội?
-Thiệt không ai hiểu tao bằng Chín Dậu! – Mười Dần cười hì…hì đáp.
CHƯƠNG TÁM
ĐỌ SỨC TRÊN SÂN TẬP VÕ
Hừng đông, báo hiệu một ngày mới sắp bắt đầu. Con rạch Long Khốt còn chìm đắm trong sương mù. Sương giăng giăng khắp nơi, trôi bồng bềnh như mây, lững lơ trên những hàng cây dừa, cây cau từng vạt màu trắng đục. Sương che ánh mặt trời vừa mới tỏa ra một vùng ánh sáng màu hồng nhạt, bừng lên phía chân trời xa. Gà rừng cất tiếng gáy rộn rã đánh thức mặt trời và chim muôn còn đang say ngủ trong các lùm cây, cất tiếng kêu ríu rít chào đón bình minh, phụ họa có tiếng kêu lảnh lót của giống chim bìm bịp vang lên đâu đó, trong các buội ô rô mọc hoang hai bên ven rạch, báo hiệu con nước sắp lớn, như nhắc nhở khách thương hồ chuẩn bị nhỗ sào cho kịp con nước. Con rạch Long Khốt còn đang uể oải trôi êm ả, bỗng xôn xao tiếng mái chèo khua sóng nước rộn ràng, từ khắp nơi tấp nập đổ về bến nước, trước gia trang của ông Bá hộ Bảnh. Đúng hẹn lại đến, các anh em lực điền gặp nhau trên sân phơi lúa của ông Bá hộ Bảnh, nóng lòng chờ đợi được huấn luyện võ nghệ để trở thành những nghĩa binh tự bảo vệ làng quê.
Hai Rồng và Bền đã thức dậy, nai nịt gọn gàng đang ngồi uống nước trà trong khoang ghe, chờ mọi người tới. Bình minh, một ngày mới đã thực sự bắt đầu, một ngày khác hẵn mọi ngày, sương mù loãng dần trên rạch Long Khốt. Bên bờ kinh Cái Cơ vẫn còn vài con xuồng ba lá, lác đác cập bến.
Một lát sau, Hai Rồng và Bền từ trên bờ sông lững thững đi lên. Chờ cho mọi người đến đông đủ, chú Tư Long cho sắp xếp đội ngũ. Theo như sự thỏa thuận trước, Chín Dậu tình nguyện làm trưởng toán “hỏa đầu vụ” lo việc cơm nước cho anh em. Cháu Bền phụ trách việc huấn luyện võ thuật cho các bạn lực điền. Bản thân Tư Long lo các phương tiện phục vụ cho kế hoạch đột kích vào sào huyệt của Thạch Sum. Ông Bá hộ Bảnh giúp đở về mặt tài chánh, chỗ ăn, chỗ ở cho 70 người tình nguyện ở lại gia trang. Còn Tư Kê không thấy gia đình bác Mười Dần, nóng ruột hỏi tía:
-Trưa trờ, trưa trật rồi, sao chưa thấy bác Mười Dần dẫn bác gái và em Ngọ tới vậy, hả tía?
Chín Dậu cười, nói:
-Tao nghĩ tối qua, hai người tâm tình thoải mái sau hơn 10 năm xa cách nên thức dậy trễ; thủng thỉnh, họ tới chớ gì, khéo lo! Bộ mầy nhớ con Ngọ dữ lắm hả?
-Dạ, con muốn gặp em Ngọ trước khi theo chú Hai Rồng vượt biên giới dọ thám thôi mà, tía!
Hai Rồng chứng tỏ được bản lãnh chỉ huy và khả năng làm việc bên cạnh quần chúng. Bằng một giọng đanh thép, Hai Rồng tuyên bố:
-Hôm nay, các anh em lực điền đang được tập hợp thành đội ngũ, các bạn sẽ được huấn luyện kỹ thuật chiến đấu để trở thành những nghĩa binh tự bảo vệ đất đai, tài sản và sanh mạng của chính mình và thân nhân gia đình của các bạn. Các anh em hãy nhớ lấy lời tôi hôm nay: ”Để mất một tấc đất đai sông núi, biển cả của tổ tiên cho ngoại bang là chúng ta đắc tội với tiền nhân!” Muốn chiến thắng kẻ thù, phải tạo cho mình cái thế bất bại trước đã. Nghĩa là, chúng ta phải có tổ chức thành đơn vị chiến đấu: Tổ chức hay là chết!. Tiến, chúng ta có thể tiêu diệt được địch. Lui, ta có thể phòng ngự, bẻ gãy các cuộc tấn công của kẻ địch. Tôi xin đặt tên đội là: “Đội Nghĩa Binh Long Khốt”. Các anh em đồng ý không?
Những cánh tay rạm nắng, trước đây chỉ biết cầm cuốc, xẻng, cày bừa đã mạnh dạn đưa lên, đồng thanh hô to:
-Tụi tui đồng ý! Tụi tui đồng ý!…
-Tôi và cháu Bền sẽ phụ trách huấn luyện võ nghệ cho các anh em. Từ khi giặc Pháp xâm lược nước ta, mang theo vũ khí tối tân, hỏa lực mạnh. Dân tộc Việt Nam chúng ta đã sử dụng các loại vũ khí truyền thống như đao, kiếm, cung tên, giáo, côn, gậy gộc và cả quyền cước…để đối đầu với quân thù; tóm lại, lúc gặp nguy biến bất ngờ, chúng ta thấy bất cứ vật gì ngay trong tầm tay là chụp lấy làm vũ khí đánh lại kẻ thù. Đó là lý do tại sao, nghĩa binh dùng tầm vông hoặc tre già vạt nhọn, đầu bịt sắt như cây giáo, lúc đánh địch, kết hợp các chiêu thức tổng hợp của roi, thương, côn. Nếu không có vũ khí, ta dùng quyền cước để đánh ngã đối phương, đoạt vũ khí địch. Hiện nay, phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp đang sôi sục khắp nơi trên bình diện cả nước. Riêng tại miền Tây Nam Bộ, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đang dần dần được đoàn ngũ hóa thành từng đơn vị từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, nung nấu hùng tâm Bi, Trí, Dũng, đồng một lòng tiến dưới lá đạo kỳ của Đức Huỳnh Giáo Chủ, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giành nền độc lập dân tộc. Bắt đầu từ ngày hôm nay, xuất phát từ nhu cầu cấp bách chống bọn cướp đất Thạch Sum để bảo vệ gia đình, làng xã…các anh em phải chuyên tâm trau dồi võ thuật, xa lánh rượu chè, hút xách, bài bạc để gây dựng thành phong trào khỏe bảo vệ đất nước, Hai Rồng nói: Tôi muốn giới thiệu Nguyễn văn Bền, con nuôi tôi, sẽ thay tôi hướng dẫn các anh em vài chiêu thức căn bản về quyền cước và côn để chiến đấu với địch, trong lúc tôi vắng mặt.
Bền đang đứng bên cạnh chú Tư Long, nghe tía gọi, vội vàng chạy tới, đứng bên cạnh tía và gật đầu chào mọi người với đầy vẻ tự tin, có thể hoàn thành nhiệm vụ của tía giao phó. Bền nói:
-Như tía tôi đã nói khi nãy, nếu như bị kẻ địch tấn công bất ngờ. Lúc đó, mình vớ được bất cứ vật gì trong tầm tay để làm vũ khí chiến đấu với địch; chẳng hạn, cây dao chẻ củi, gậy gộc, cuốc, xẻng… và đây là vài thí dụ.
Bền nói xong, đi lại phía đống củi khô bên cạnh nhà bếp, lấy con dao dùng để chẻ củi dựng bên cạnh, rồi trở lại vị trí biểu diễn những chiêu thức mà sư phụ Hai Rồng chỉ dạy. Hai Rồng bước lui ra ngoài sân, đứng bên cạnh Bá hộ Bảnh và Tư Long xem tài nghệ múa dao. Còn các anh em lực điền ngồi vây tròn, xem Bền thi thố võ công.
Chú Tư Long chăm chú nhìn lối đánh dao điêu luyện của thằng Bền cũng đủ biết võ thuật của Hai Rồng như thế nào rồi. Ngọn dao trong tay của Bền phóng ra trong thế công vô cùng hiểm hóc, đâm, chém, thọc đều là nhũng đòn sát thủ nhanh như ánh chớp. Trong thế thủ cũng linh hoạt không kém, Bền quay tít ngọn dao vô cùng uyển chuyển, che kín những yếu huyệt trên người, hơi gió phát ra vùn vụt, tưởng chừng như không có loại vũ khí nào có thể chạm vào người được.
Hai Rồng nhìn thằng con biểu diễn, quay sang Tư Long, nói:
-Thiệt ra, tôi cũng không ngờ thằng Bền tiến bộ nhanh chóng đến như vậy. Tôi rất hài lòng!
-Anh hùng xuất thiếu niên mà chú Hai, Tư Long khen: Con hơn cha là nhà có phước đó!
Vừa lúc thằng Bền hồi bộ, chắp cán dao chào mọi người. Bất ngờ, Hai Rồng cầm cái hủ rượu bằng sành, ném lên trời rồi thét lớn:
-Bền, đở nè con!
Thằng Bền ngước lên trời nhìn, chờ cho cái hủ sành rơi xuống vừa tầm, nó vừa xoay người, vừa co gối phải cao hơn khỏi ngực, cụm mấy đầu ngón chân lại, phóng ra ngọn ”trực tiêu cước” dũng mạnh, bung chân đá thẳng lên, cái hủ sành bể văng ra từng mảnh rơi xuống đất. Các anh em lực điền đồng loạt đứng lên, vỗ tay tán thưởng. Thu Hương đứng bên cạnh mẹ nhìn ra sân, xem Bền biểu diễn võ công. Nàng cũng khâm phục và ngưỡng mộ chàng thiếu niên tuổi trẻ tài cao.
Bền cuối đầu chào mấy anh lực điền, hỏi:
-Tui được tía Hai Rồng giao cho nhiệm vụ, hướng dẫn các bạn vài miếng nghề để chống lại bọn cướp Thạch Sum, Bền thách thức: Nếu như, có ai trong các bạn không phục, xin mời bước ra khỏi hàng cùng tôi giao đấu.
Bền vừa nói dứt lời, một vài anh lực điền vạm vỡ tranh nhau lên tiếng:
-Có tui đây!
-Còn tui nữa!
Bền nhìn một lượt, hỏi:
-Các bạn muốn đấu với tui từng người hay đấu một lượt?
Một người đứng lên, nói:
-Tụi nầy muốn đấu với bạn một lượt, dám không?
Bền cười, nói:
-Có gì mà không dám! Xin mời các bạn!
Có bốn lực điền trẻ tuổi, trông khá lực lưỡng, thuộc loại ”ăn mạnh, vác nặng” tách ra khỏi hàng ngũ, vây thằng Bền vào giữa. Một người trong bọn họ thét to lên:
-Nhào vô một lượt anh em!
Sau tiếng hét, cả bốn người cùng hè nhau xông vô, định lấy thịt đè người. Bền nhanh nhẹn ngồi thụp xuống, trụ thân người trên bàn chân trái, chân phải duỗi thẳng rồi xoay người theo hình vòng cung, bàn chân co lại như cái móc ra đòn chân ”tảo địa cước”, đá móc vào gót, kéo mạnh chân các địch thủ, làm cả bốn chàng mất thăng bằng, ngã lăn kềnh trên mặt đất. Mọi người trên sân cười ầm lên một cách vui vẻ. Bền tới đỡ từng người đứng dậy. Một người lên tiếng:
-Chú em mầy giỏi thiệt đó nghen! Tui phục chú em rồi đó!
Bền cao hứng, nhìn mọi người, hỏi:
-Còn ai không phục, xin mời bước ra khỏi hàng, cùng tôi giao đấu tiếp.
Mọi người ngồi im phăng phắc. Bỗng, có một giọng nói trong trẻo từ trong nhà vọng ra:
-Có tôi, muốn thách đấu với cậu Bền!
Mọi người ngạc nhiên, chưng hửng quay đầu nhìn về phía trong nhà. Tưởng ai, thì ra là tiểu thư Thu Hương. Nàng gọn gàng trong bộ áo chẽn màu đen, một cái khăn rằn quấn ngang thắt lưng eo, đi chân đất, chậm rãi bước ra đối diện với Bền. Ông bà Bá hộ Bảnh vô cùng ngạc nhiên đến sững sốt. Ông khoát tay bảo con gái:
-Thôi, đi vô nhà đi con! Đây là sân luyện võ, chỗ nầy không phải chỗ của đàn bà con gái đâu!
Thu Hương đứng lại, quay đầu nhìn cha, nói:
-Truyền thống dựng nước và giữ nước của tiền nhân ta trong suốt bốn ngàn năm, đều có sự tham gia của các bậc anh hùng liệt nữ như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, nữ tướng Bùi Thị Xuân cỡi voi xông pha trận mạc. Sử sách còn ghi rành rành truyền thống đánh giặc giữ nước của dân Việt Nam mình: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, bộ ba quên thiệt rồi sao?
Bà Bá hộ Bảnh vốn cưng chiều con gái, nói:
-Thôi, thây kệ nó đi! Cho nó té đau một trận cho nó tởn tới già, hết còn đèo bồng. Ông nghĩ sao?
-Ừ, cũng được! Nhưng, tôi có điều kiện?
Thu Hương mừng lắm, hỏi:
-Điều kiện gì vậy, ba?
-Ba cho phép con thử sức với cậu Bền một chiêu thôi nghe, con! Ông Bá hộ Bảnh nhấn mạnh: Nếu con thua cậu ta là trở vô ngay lập tức, con chịu không?
-Con đồng ý điều kiện của ba. Thu Hương nói.
Thu Hương nhí nhảnh trả lời, rồi đi về phía Bền. Nàng đứng thẳng người, cúi đầu phía trước, tạo với hông một góc 30 độ để tỏ lòng tôn trọng đối thủ, rồi nở nụ thật tươi, giọng khiêu khích, nói:
-Nhường cho cậu Bền xuất chiêu trước đó! Nếu sau ba chiêu, Bền không thắng được tôi thì phải gọi tôi ”chị Hai” đó nghen! Chịu hôn?
Bền bật cười, tự tin tài nghệ của mình, gật đầu, nói:
-Đồng ý liền! Chuyện nhỏ thôi mà!
Thằng Bền hết nhìn tiểu thư Thu Hương, rồi nhìn tía như thầm hỏi ý kiến. Riêng Hai Rồng có cái nhìn rất tinh đời, khi thấy đôi chân của tiểu thư từ từ tiến từng bước và lối chào khi đối diện với đối thủ, biết ngay nàng không phải là thiếu nữ tầm thường, nhất định nàng phải có danh sư chỉ điểm, nhưng chưa biết nàng thuộc một phái nào. Hai Rồng nhìn Bền, gật đầu, nói:
-Bền con, tận tình thi đấu!
Bền cũng không dám xem thường đối thủ. Thoạt đầu, Bền đứng ”chảo mã tấn”, thế đứng trông thật vững chắc và linh động, có thể công, thủ nhạnh nhẹn, sẵn sàng dùng chân trước đở và phóng cước. Bền di chuyển thân pháp tới lui từ ”chảo mã tấn”, bước tréo chân trái về phía trước thành ”Xà tấn”, rồi rút chân phải bước ra trước thành ”Chảo mã tấn”. Bất thình lình, Bền rùn mình xuống, đạp chân trái xuống đất, nhảy tung người lên phía trước, dồn sức mạnh của thân mình xuống quả đấm ”giáng quyền”, đánh xuống vai tiểu thư. Thấy vậy, mà không phải vậy, chỉ là đòn giơ cao đánh khẽ, cũng đủ làm cho bà Bá hộ Bảnh sợ quá, nhắm mắt lại, không dám nhìn Thư Hương bị trúng đòn. Nhưng, nàng xuất chiêu nhanh như ánh chớp, nàng dùng đòn Hanegoshi, nắm cổ tay của Bền, kéo mạnh đối thủ về bên phải của mình khiến Bền mất thăng bằng nghiêng sang một bên, nhón gót chân phải để phá đòn. Thu Hương chỉ chờ có thế, nàng nhanh chóng ra tiếp đòn Haraigoshi bằng cách giơ chân lên ngang đùi phải của Bền, dùng lưng của mình điểm tựa, nhấc bổng hông phải của Bền lên, gạt chân phải, quật Bền rơi xuống đất theo hình vòng cung.
Bền té ngồi bẹp dưới đất, nhìn Thu Hương, ngơ ngác, hỏi:
-Chiêu nầy chiêu gì, độc quá vậy, chị Hai?
Thu Hương không trả lời, nói:
-Còn hai chiêu nữa, ra tay đi cậu em!
Bền không nói không rằng, từ phía sau nàng, bất ngờ xông tới nhập nội, ôm chặt cứng đối phương, hai cánh tay xiết lấy ngực nàng, ghì chặt lại, dỡ nàng lên hỏng chưn. Bền chủ quan, tưởng nàng bị chiêu nầy dù có vùng vẫy cách mấy, cũng khó thoát khỏi hai cánh tay như gọng kềm xiết chặt lại. Bền giọng trêu chọc:
-Sao chịu thua chưa vậy, chị Hai?
-Chưa chắc thua đâu em út! Coi chị Hai ra tay nè!
Thu Hương vừa nói xong, lập tức tấn hai chân xuống, bước lùi ra phía sau, nhưng vẫn giữ vị trí ngoài chân phải của Bền, cánh tay trái co lại, lòng bàn tay lật ngửa, dùng đòn chỏ đánh ngược vào chấn thủy của đối phương. Bị trúng đòn khá đau, Bền bắt buộc nới lỏng hai cánh tay ra. Thu Hương khai thác sơ hở nầy ngay lập tức, nàng nằm chặt lấy tay áo của Bền, quỳ chân phải xuống, quật Bền nằm chổng gọng trên mặt đất. Bền chưa kịp hoàn hồn, Thu Hương khống chế đối phương bằng đòn khóa khuỷu tay udekujiki, nàng xoay cánh tay phải Bền, kéo chặt vào ngực mình và hai chân khóa chặt ngang cổ họng. Bền cố giẫy giụa, cuối cùng phải đầu hàng. Thu Hương cười, nói:
-Thua chị hai chiêu rồi đó nghen! Còn một chiêu nữa, ngồi dậy ra tay đi, nàng hăm: Chiêu thứ ba, em út không chết cũng bị thương cho mà coi!
-Được rồi, Bền thua chị hai chiêu, Bền thách: Chiêu thứ ba, Bền dùng roi đấu với chị. Sao dám đấu với tui không, chị Hai?
-Được, chớ sao không! Em út đi lấy roi đi!
Bà Bá hộ Bảnh nhìn thấy Thu Hương quật ngã Bền nằm dài trên mặt đất. Bà ngạc nhiên như người từ trên cung trăng, rớt xuống đất. Bà nói:
-Chèng đéc ơi! Con Thu Hương đi học võ hồi nào vậy, ông Bảnh?
-Tui cũng như bà, có biết ất, giáp gì đâu nà, cậu Hai Bảnh mắng yêu con gái: Con gái mà văn võ song toàn như nó, chỉ có nước ế chồng! Nó mà nổi tam bành lục tặc lên là thằng chồng nó ”sứt tay, gẫy gọng” như chơi! Tui thấy nó vật cậu Bền như vật ngóe. Tui cũng phát ớn xương sống đó!
Bà Bá hộ Bảnh chậc lưỡi, nói:
-Con gái gì mà như con trai không bằng!
Bền chạy te xuống ghe lấy cây roi gia truyền của Năm Hậu tặng, chạy trở lên sân tập võ. Bền lấy đầu roi vẽ một vòng tròn trên mặt đất, rồi nói:
-Bền múa roi trong phạm vi vòng tròn nầy thôi, nếu chị đánh bật được Bền ra khỏi vòng tròn là chị thắng! Sao, chị đồng ý không?
-Được, chị Hai đồng ý điều kiện của em út! Nào, xuất chiêu đi!
Bền cầm roi bước vô, đứng giữa vòng tròn, nói:
-Chị Hai, coi đường roi gia truyền tuyệt kỹ, danh bất hư truyền đất Thuận Truyền nè!
Bền liền di chuyển thân pháp uyển chuyển nhẹ nhàng theo ngũ hành, thất bộ vô cùng ảo diệu, đồng thời dồn hết uy lực xuống cánh tay, đảo cây roi trước chậm sau nhanh, phát ra ngọn gió vun vút. Những tuyệt chiêu là các phách roi bí truyền của Năm Hậu ghi chép trong quyển vở học trò, tuy luyện chưa đạt hết phần tuyệt kỹ, nhưng những chiêu công phá và thủ rất xuất sắc. Hai Rồng nhìn Bền múa roi cũng phải tấm tắc khen ngợi năng khiếu luyện võ hiếm có. Còn Thu Hương đứng nhìn Bền quay tít ngọn roi lúc cương, lúc nhu, lúc công, lúc thủ linh hoạt như rồng bay, phượng múa che kín toàn thân. Trong lúc Thu Hương đang lúng túng, tìm cách xông vào tấn công đối thủ; bất ngờ, Bền dùng thế ”tiên cước, hậu roi”, Bền chống đầu roi xuống đất làm trụ, phóng người lên dùng ngọn ””đảo sơn cước”” đá vòng từ ngoài vào cổ đối phương bằng cạnh trong bàn chân phải. Thu hương phải bật ngữa người ra phí sau, tránh ngọn ”đảo sơn cước”. Nhưng, khi nàng vừa bật người đứng dậy đã quá muộn. Khi đôi chân vừa chạm đất, Bền liền xuống tấn, hất ngược đầu roi, chĩa thẳng vào chấn thủy của Thu Hương thì dừng lại. Mọi người trên sân tập vỗ tay hoan hô nhiệt liệt cả hai đối thủ.
Bền cười, nói:
-Chiêu nầy chị Hai thua Bền rồi đó nghen! Như vậy, là huề cả làng, không ai thắng ai!
Thu Hương vui vẻ, nói:
-Bền còn thua chị một chiêu! Phải gọi tôi là chị Hai mới được chớ!
-Ừa, cũng được! Bền hỏi ngay: Lúc nãy, chị Hai dùng chiêu gì đánh ngã Bền dễ dàng như vậy? Chị Hai dạy Bền đi, được không?
-Được chớ sao không! Nhưng, phải làm lễ bái sư đàng hoàng để bổn cô nương coi được mới nhận đệ tử.
-Chuyện nhỏ!
Bấy giờ, ông bà Bá hộ Bảnh, Hai Rồng, Tư Long và mọi người chạy ùa vào sân. Anh em lực điền công kênh thằng Bền lên vai, còn phái yếu vây quanh Thu Hương xin thụ giáo vài chiêu để phòng thân. Hai Rồng nhìn Thu Hương, hỏi:
-Cháu học Nhu Đạo với danh sư nào? Được bao lâu rồi?
Thu Hương nói:
-Dạ, cháu theo học võ Judo với võ sư Albert, Đệ ngũ đẳng, ông là môn đệ của giáo sư Nhu đạo người Pháp tên Henry Buchet ở Sài Gòn được gần 3 năm, nên tay nghề còn non lắm! Nàng nhìn Bền, trêu: Chỉ đủ sức quật ngã cậu Bền hai chiêu thôi hà!
Bền gãi đầu, cười, nói:
-Bền cũng dùng môn võ cổ truyền đánh bại chị Hai một chiêu; như vậy là huề cả làng, đúng không?
Hai Rồng nói:
-Theo như truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam mình, ”giặc đến nhà, đàn bà cũng ra trận”;vì vậy, chú Hai đề nghị như vầy: Cháu Bền huấn luyện côn, quyền cho mấy cậu lực điền, còn cháu Thu Hương dạy Nhu đạo cho mấy chị em phụ nữ, biết được một vài miếng tự vệ cũng tốt lắm!
Mấy cô đứng bên cạnh Thu Hương nhao nhao, nói:
-Tụi con hoan nghinh ý kiến của chú Hai Rồng hai tay, luôn hai chưn!
Một chị đàn bà khác lên tiếng:
-Biết vài miếng võ để tự vệ cũng nên lắm chớ! Thằng chồng tui, mỗi lần nó đi nhậu say mèm ở đâu về là nó giở trò bạo lực, đánh tui phù mặt, phù mày!
Hai Rồng quay sang hỏi Thu Hương:
-Sao, ý kiến của cháu như thế nào?
Thu Hương nói:
-Trong thời gian cháu còn ở đây, cho đến hết mùa hè năm nay. Cháu sẽ hướng dẫn chị em những nguyên tắc căn bản của Nhu đạo như Deashiharai (kỹ thuật ném), Ukigoshi (ném qua hông) hoặc Seoinage (ném qua vai)…để tự vệ. Nhu đạo lấy nhu thắng cương, rất thích hợp với thể lực của phái yếu.
Bà Bá hộ Bảnh cẩn thận, dặn dò:
-Nè, học võ đễ phòng thân và tự vệ, chớ không phải dùng bạo lực ăn hiếp chồng đó nghen, mấy cô!
Tư Long nói tiếp:
-Thôi, để khỏi mất thì giờ, tôi chia ra làm hai toán: mấy cô nào muốn học võ thuật với cháu Thu Hương, tập hợp ở gốc sân tuốt đằng kia. Còn mấy cậu theo tôi tới nhà kho lấy côn bằng tre, chọn cây nào vừa tay, theo cháu Bền bắt đầu luyện tập ngay bây giờ. Tới giờ cơm, tôi sẽ đánh kẻng, mọi người tự động vô khu nhà bếp, xếp hàng lãnh phần ăn trưa, chiều cũng vậy. Sống tập thể, tập luyện, ăn, ngủ đều theo tiếng kẻng.
Còn thằng Tư Kê đứng xớ rớ trên cây cầu ván dưới bến rạch, sốt ruột chờ bác Mười Dần hoài mà không thấy, bèn chạy vô sân tập, gặp ngay chú Hai Rồng, hỏi:
-Chừng nào, chú cháu mình vượt qua biên giới dọ thám hả, chú Hai?
Hai Rồng ngước nhìn mặt trời, nói:
-Bây giờ còn sớm lắm! Chờ xế chiều, chú cháu mình lên đường cũng chưa muộn lắm đâu!
Tư Kê ngập ngừng, hỏi:
-Khoảng 2 giờ chiều hãy lên đương, được không chú Hai?
-Sao, có chuyện gì trục trặc không, Tư Kê?
-Cháu còn đang chờ bác Mười Dần, bạn của tía cháu tới, Tư Kê nói: Gần trưa rồi, sao cháu chưa thấy bác Mười Dần tới nữa?
-Thôi, cũng được! Khoảng 2 giờ chiều, chúng ta lên đường, không đổi ý nghe!
oOo
Gần đúng ngọ, Mười Dần chèo chiếc ghe tam bản đưa vợ và con gái tới cập bến cây cầu ván. Tư Kê nhìn thấy họ, mừng quá chạy bay xuống, đón họ lên. Ngọ hỏi:
-Ủa, giờ nầy anh còn đứng ở đây, không tập võ nghệ gì ráo trọi vậy ta?
Tư Kê lắc đầu, nói:
-Tui còn phải chờ gặp Ngọ, rồi mới đi được chớ!
-Đi đâu vậy, anh?
-Đi với chú Hai Rồng, vượt biên giới qua bên đất Miên dọ thám, chớ đi đâu!
-Xạo hoài! Ngọ không tin!
-Thiệt mà, Ngọ!
Mười Dần thấy Bền đang hướng dẫn khoảng 50 anh lực điền đang dàn thành sáu hàng ngang trên sân tập, mỗi người cầm một cây roi bằng tre tầm vông, đứng cách xa nhau 5 thước. Bền đi tới, đi lui trước hàng ngũ, miệng hô lời thiệu, hướng dẫn động tác đánh roi, đòn thế là những phách roi căn bản…
Khi Bền hô lớn lời thiệu: ”BÁT” là anh em lực điền khởi động ngọn roi trong tay, đánh phá đòn từ trên cao xuống, đầu ngọn roi chúc xuống đất. Bền hô tiếp lời thiệu thứ hai: BẮT là anh em lực điền hất đầu roi lên lưng chừng, đâm thẳng vào ngay chấn thủy của đối phương. Một chàng lực điền nói:
-Hồi nãy tới giờ, chỉ tập mới có hai chiêu, tui đã thấy oải còn hơn bửa củi, giã gạo nữa, nghe mấy cha!
Bỗng có tiếng kẻng từ khu nhà bếp vang lên, Bền cho anh em dừng tay. Trước khi tản hàng, Bền nhắc nhở mọi người:
-Ba ngày đầu, các anh em phải tập thiệt nhuần nhuyễn hai trong tám phách roi căn bản là ”Bát” và ”Bắt”. Khi nào ngọn côn của các bạn đánh ra có đủ uy lực vững mạnh. Tôi sẽ hướng đẫn các anh em những phách roi kế tiếp. Thôi, chúng ta tới khu vực nhà bếp lãnh phần cơm trưa. Xế chiều, chúng ta ra sân tập tiếp tục.
Đám thiếu nữ đang tập Nhu đạo từ gốc sân đàng kia cũng dừng tay, theo Thu Hương tới khu nhà bếp. Bỗng có một cô trong đám, gọi giựt ngược một anh chàng lực điền, đang đi phía trước:
-Ê, anh Ba Xị! Đứng lại chờ tui một chút coi!
Ba Xị ngoảnh mặt lại, hỏi:
-Mầy kêu tao có chuyện gì vậy hả, Sáu Lùn?
Sáu Lùn ngoắc Ba Xị lại, đứng gần mình, hỏi:
-Tui nghe người nói, anh nói xấu sau lưng tui, có không cha nội?
Ba Xị ngạc nhiên, hỏi:
-Ủa, tao nói xấu mầy về chuyện gì hả, Sáu Lùn?
Sáu Lùn lập lại nguyên văn, lời nói của Ba Xị:
-Con Sáu Lùn, nó lùn tè, lùn tịt! Tao mà cho nó hun, nó phải leo lên cái ghế đẩu mới hun được tao!
Ba Xị cười, khiêu khích, nói:
-Nhớ chớ sao không, rồi em định làm gì qua đây hả, Sáu Lùn tịt?
Sáu Lùn cười hì, hì…nói:
-Anh bự con thấy mẹ! Cọp ăn ba ngày chưa hết! Tui thì lùn tịt, đầu đít chưa tới thước mốt! Làm gì dám đụng tới anh chàng Ba Xị chớ!
Vừa nói dứt lời, Sáu Lùn bất ngờ xông tới, dùng tay trái kéo Ba Xị về phía trước, còn tay phải quàng qua eo hắn và đồng thời xoay hông của mình, làm cho Ba Xị mất thăng bằng phải nhót gót chân lên. Chị Sáu Lùn không bỏ lỡ cơ hội, bước chưn phải vào phía trong bàn chưn phải của Ba Xị, rồi xoay lưng theo đường vòng cung, ném Ba Xị bay qua vai, rớt xuống đất nghe một cái đụi. Trông lúc Ba Xị còn lơ láo thần hồn, Sáu Lùn khoái chí, nói:
-Sư phụ vừa mới dạy cho tui chiêu nầy khi nãy, Sáu Lùn hăm he: Tui học được chiêu nào, tui chơi anh liền chiêu đó, cho anh biết thế nào là lễ độ với con Sáu Lùn nầy! Ba Xị mà nhằm nhò gì! Bốn Xị cũng té hộc gạch với tui!
Mấy anh em lực điền và thiếu nữ nghe chị Sáu Lùn nói, ai cũng bật cười rần lên. Tư Long thấy không khí vui vẻ, đầy phấn khởi, nói:
-Thời gian rất cấp bách, mong các cháu cố gắng chuyên cần luyện võ nghe! Thôi, chúng ta đi dùng cơm trưa, rồi tập luyện tiếp!
Chín Dậu và mấy chị em tá điền phụ trách cơm nước. Bà Bảy Mẹo và Ngọ thấy vậy cũng xăn tay áo vô phụ giúp, cơm và thức ăn được sắp trên cái bàn dài. Mọi người xếp hàng, chờ lãnh phần cơm trưa của mình.
oOo
Sau khi được Chín Dậu giới thiệu đại khái về quá trình hoạt động trong quân đội viễn chinh Pháp trong mười năm tại nước thuộc địa Châu Phi, Mười Dần được ông Bá hộ Bảnh mời vào trong nhà vừa dùng cơm trưa, vừa đàm đạo với Hai Rồng, Tư Long và Sáu Trí. Mười Dần kể lại cuộc phiêu lưu bất đắc dĩ của mình và những kinh nghiệm chiến đấu với dân bản xứ tại Châu Phi. Mười Dần đề nghị:
-Theo tôi nghĩ, muốn giải quyết Thạch Sum cũng dễ thôi: đánh rắn là phải đập cái đầu của nó trước. Thằng Thạch Sum có phép gồng, mình đồng da sắt là đối với đao, kiếm, quyền, cước kìa. Còn đối với súng đạn tối tân bây giờ là nó chết chắc. Tôi chỉ cần một cây súng trường mousqueton là tôi sẽ bắn gục nó tại chỗ liền. Không nói dấu gì các anh em, tôi là cựu huấn luyện viên tác xạ cho bọn lính lê dương, gồm đủ quốc tịch Đức, Ý, Nga toàn là những thứ dân bạt mạng, giang hồ tứ chiến tại Trung Tâm Huấn Luyện của Pháp ở Alger.
Ông Bá hộ Bảnh nói:
-Anh em chúng tôi đã suy nghĩ đến vấn đề nầy rồi! Nhưng, còn chờ chú Hai Rồng vượt biên giới thám thính trước, xem tình hình thực tế bên đó như nào, rồi chúng tôi sẽ nghiên cứu kế hoạch hành động cho thiệt chính xác.
Hai Rồng nói:
-Vào khoảng 2 giờ chiều nay, tôi và Tư Kê sẽ vượt qua biên giới Việt – Miên dọ thám tình hình. Chậm lắm là sáng ngày mốt, tôi sẽ trở về đây báo cáo tình hình thực tế cho các anh em
CHƯƠNG CHÍN
HAI RỒNG ĐI VÀO ĐẤT MIÊN DỌ THÁM
Nghe cái đồng hồ treo tường gõ một tiếng “boong” khô khan ngân dài, mới đó đã một giờ trưa. Hai Rồng đứng dậy xin phép mọi đi ra ngoài lo chuẩn bị phương tiện và hành trang để vượt sang biên giới, đi vào vùng đất địch dọ thám. Vừa thấy tía bước ra khỏi cửa, thằng Bền vội vã chạy đến, nói:
-Tía cho con đi theo với! Thằng Tư Kê đi với tía con không yên tâm chút nào hết! Có thằng tướng dở đi theo, dầu sao cũng đở ông tướng hay mà tía!
Hai Rồng cảm động, nói:
-Con đi theo, lở như có chuyện gì xảy ra, chỉ làm tía vướng bận tay chân chớ có ích gì. Bảo vệ cho cháu Tư Kê đã là một chuyện khó khăn rồi. Thôi, con lo việc huấn luyện mấy anh em lực điền thay cho tía cũng tốt. À, con đi theo tía xuống ghe, tía có vật nầy muốn giao lại cho con.
Xuống tới ghe, Hai Rồng dỡ tấm ván ghe, lấy dưới khoang lên một cái hộp gỗ lên nước đen bóng, nắp cẩn xà cừ rất đẹp, dài khoảng 6 tấc. Bền hỏi:
-Hộp gỗ nầy đựng bảo vật gì vậy, tía?
Hai Rồng mở nắp hộp, lấy ra hai thanh đoản kiếm nằm trong vỏ bọc bằng da thuộc. Hai Rồng nói:
-Với hai thanh đoản kiếm nầy, tía tung hoành ngang dọc từ sông Tiền đến sông Hậu, từ miền Lục tỉnh tới Sài Gòn, trừ Việt gian, diệt cường bạo, cứu khổn phò nguy. Ngày nay, nhìn thấy con đã trưởng thành, tía rất vui mừng. Tía muốn tặng lại cho con một thanh đoản kiếm để phòng thân, coi như là kỷ niệm của tía truyền lại cho con.
Bền đở lấy, tuốt kiếm ra khỏi vỏ bọc, cầm ngang thanh kiếm để gần cái phên cửa sổ để cho ánh nắng chói chan ban trưa soi lên, lưởi kiếm thật mỏng, phản chiếu ánh sáng màu sắc xanh lạnh và nổi bật hoa văn thật đẹp. Bền khẻ bún ngón tay vào lưỡi đoản kiếm, nó run lên và phát ra tiếng “keng” âm thanh ngân dài như tiếng chuông ngân. Bền nói:
-Đây là thanh bảo kiếm hiếm có, tía giữ lấy để chiến đấu với kẻ thù. Tài nghệ của con không đủ sức để bảo vệ nó. Để thanh đoản kiếm nầy lọt vào tay kẻ xấu là con có tội với tía. Bền tò mò, hỏi: Tía mua cặp bảo kiếm nầy bao nhiêu tiền vậy, tía?
-Cặp bảo kiếm vô giá nầy thuộc về gia đình lão ngư già tên Lê Trọng Nghĩa, ông sống cô độc trong một làng chài hẽo lánh tại một bãi biển ngoài miền Trung. Ông Nghĩa đã già lại là một phế nhân, ông không muốn cặp bảo kiếm nầy mai một nên tặng lại cho tía để tiếp nối sự nghiệp của tiền nhân, kháng chiến chống thực dân Pháp. Nó có giá trị như một ngọn đuốc thiêng của những người thuộc thế hệ Cần Vương, trao lại cho những thế hệ tiếp nối. Bữa nay, tía đi vào vùng đất địch với Tư Kê, chưa biết lành dữ như thế nào. Nếu tía có mệnh hệ gì để hai thanh bảo kiếm nầy mai một là bố đắc tội với ông ấy. Vì vậy, tía trao một trong hai thanh bảo kiếm nầy cho con, coi như là “truyền nhân” của tía. Con hãy sống như thế nào để tía không lỗi đạo với tiền nhân. Con hiểu ý tía rồi chớ?
-Dạ, con hiểu! Bền hỏi: Ông Lê Trọng Nghĩa là người như thế nào vậy, tía?
-Ông Lê Trọng Nghĩa là một đảng viên “ĐẢNG VIỆT NAM QUANG PHỤC HỘI” là một trong những người theo chí sĩ Phạm Hồng Thái tìm cách vượt biên giới sang Xiêm. Khi đến địa phận Xiêm, tất cả mọi người cải trang thành thương nhân Hoa Kiều, xuống tàu buôn của người Anh sang Hồng Kông. Sau đó, dùng đường bộ đến tỉnh Quảng Châu bên Trung Hoa. Tại đây, Phạm Hồng Thái được huấn luyện về đường lối hoạt động cách mạng thanh niên Việt Nam du học lúc bấy giờ. Khi tổ chức “TÂM TÂM XÔ do nhà cách mạng Phan Bội Châu khởi xướng được thành hình. Phạm Hồng Thái cùng Hồ Tùng Mậu, Vũ Hải Thu được tổ chức cử đi Thượng Hải, Hồng Kông, Đông Kinh để tuyên truyền cho tổ chức Tâm Tâm Xã. Nhưng, Hai Rồng ngậm ngùi, kể tiếp: Khi viên toàn quyền MARTIAL MARLIN ở Đông Dương sang Nhật Bổn để yêu cầu trục xuất những phần tử cách mạng. Vì vậy, tổ chức Tâm Tâm Xã chỉ định Phạm Hồng Thái ám sát Toàn Quyền Merlin và phái Lê Hồng Sơn theo trợ giúp.
Bền hỏi:
-Lúc đó ông Lê Trọng Nghĩa đang làm gì và ở đâu?
Hai Rồng nói:
-Mặc dầu không được ai chỉ định. Nhưng, ông quyết định đi theo Phạm Hồng Thái bí mật yễm trợ. Khi phái đoàn của Merlin trên đường trở về Đông Dương, ghé lại Quảng Châu đêm 18 tháng 6 năm 1924 để dự tiệc tại nhà Victoria, nằm ở phía Bắc thành phố Sa Điện. Phạm Hồng Thái cải trang làm ký giả lọt qua hàng rào an ninh vào được bên trong khách sạn, ném một quả bom giữa bàn tiệc làm một người Pháp và ngoại quốc chết ngay tại chỗ, riêng Toàn Quyền Merlin chỉ bị thương nhẹ. Bom nổ, Phạm Hồng Thái thoát được khỏi khách sạn, chạy về hướng Tây Hòa Khẩu bị bọn lính phòng vệ đuổi theo rất ngặc. Và lúc đó, ông Lê Trọng Nghĩa mới xuất đầu lộ diện, với hai thanh đoản kiếm nầy, ông xông vào truy cản bọn lính phòng vệ để cho Phạm Hồng Thái có thì giờ chạy thoát. Những đường kiếm tuyệt kỹ bí truyền của vùng đất võ Bình Định, được Lê Trọng Nghĩa đem ra chiến đấu quyết liệt. Do hành động bất ngờ, xảy ra quá mau lẹ làm cho cả bọn hoảng hốt, luống cuống chưa kịp phản ứng. Ông Lê Trọng Nghĩa xử dụng song kiếm xuất quỉ, nhập thần, vận dụng hết công lực kết hợp với thần, khí, nhãn pháp tung ra những đoàn thế kiếm vũ bảo, đường kiếm phóng ra như mây cuộn, chém xuống như chim ưng vồ mồi, ánh kiếm loang loáng như rồng bay, phượng vũ từng thây giặc Pháp ngã xuống la liệt, đầu lìa khỏi cổ, tứ chi bị đứt lìa, máu đổ linh láng trên mặt đất. Nhưng rồi, mãnh hổ nan địch quần hồ. Cuối cùng, ông bị giặc bắn gẫy chân phải, ngã quỵ xuống mặt đường. Quần chúng cảm phục bản chất anh hùng của người dũng sĩ đất Việt, đồng loạt ào vô hiện trường, để cho người khác cỗng ông trên lưng chạy thoát.
Bền ngắt lời, hỏi:
-Còn ông Phạm Hồng Thái có thoát thân được không, tía?
Hai Rồng lắc đâu, nói:
-Khi anh hùng Phạm Hồng Thái chạy đến sông Châu Giang thì cùng đường vì trước mặt có con sông lớn ngăn chận! Ông thà chết không để bị giặc bắt, liền gieo mình xuống dòng sông tuẫn tiết. Để trả thù, sau khi vớt được tử thi, Pháp đem phơi thi hài của ông trên bờ sông mấy ngày, rồi mới giao cho nhà cầm quyền Trung Hoa đem mai táng tại chân đồi Bạch Vân. Năm 1925, Tỉnh trưởng Quảng Đông là Hồ Hán Dân cảm phục sự hy sinh cao cả nầy nên cho cải táng di hài của Phạm Hồng Thái vào khu Hoàng Hoa Cương là nơi an táng 72 nhà liệt sĩ Trung Hoa Dân Quốc vào tháng 3 năm 1925.
Bền hỏi:
-Sau đó, có khi nào tía gặp lại ông Lê Trọng Nghĩa không?
-Sau khi nhận hai thanh bảo kiếm gia truyền nầy do ông Lê Trọng Nghĩa trao tặng. Ba ngày sau, tía có trở lại mái nhà tranh của ông bên làng chài để từ giã xuôi Nam thì mới hay ông đã treo cổ tự vẫn mà hai cánh tay vẫn còn ôm chặt di ảnh của anh hùng Phạm Hồng Thái vào trong lòng. Dân làng chài vô cùng cảm phục tấm lòng trung nghĩa, đem mai táng thi hài của ông Lê Trọng Nghĩa và lập miếu thờ người anh hùng trung liệt dưới chân đồi, Hai Rồng nói: Hoa tự do phải được tưới bằng máu, không phải đi bằng đầu gối trước quân xâm lược, van xin mà có. Con phải tâm niệm điều nầy.
Nghe tía kể, Bền cảm động, rưng rưng nước mắt, nâng thanh đoản kiếm ngang mày, khấn: “Con là Nguyễn văn Bền, nguyện suốt đời hết lòng vì dân vì nước. Xin tổ tiên chứng giám lời thề của con: sống và chết như anh hùng Phạm Hồng Thái!
Hai Rồng cởi chiếc áo bà ba, vắt thanh đoản kiếm sau lưng, nai nịt chặc chẽ rồi mặc áo vào, nói:
-Thôi, tới giờ tía phải lên đường rồi, mình đi lên bờ, kẻo họ chờ!
Hai tía con Hai Rồng đi tới bờ kinh Cái Cơ đã thấy mọi người đứng chờ. Duy chỉ có Tư Kê là vắng mặt. Chín Dậu sốt ruột, nói:
-Không biết cái thằng mắc dịch nầy, biến đi đâu mất tiêu rồi cà?
Mười Dần cười, nói:
-Nó đi từ giã con Ngọ, chớ đi đâu! Chú khéo lo thì thôi!
Thằng Bền chỉ về phía nhà bếp, nói:
-Tư Kê vác nóp trên vai, đi với cô ngọ tới rồi kìa!
Tư Long đưa hai cái “sà rông” màu đen cho Hai Rồng và Tư Kê mặc vào, trông không khác gì người Miên. Ngọ tinh nghịch lấy lọ chảo thoa lên mặt Tư Kê đen bóng lên, nói:
-Như thế nầy mới là ngụy trang chớ phải không, chú Chín?
Chín Dậu nói:
-Mầy ngụy trang cho nó kiểu nầy, tao thấy nó không giống người Miên mà là giống bọn chà và!
Tư Long nói:
-Mấy đòn bánh tét, cơm vắt gói lá sen, khô cá sặc nướng, mấy trái dừa tươi đã lột vỏ để dưới khoang đủ cho hai người dùng trong hai ngày đường.
Hai Rồng nói:
-Bây giờ chúng tôi lên đường là vừa, quay sang Tư Kê, bảo: Thôi, đi cháu Tư Kê!
Tư Kê quay đầu lại, nhìn thằng Bền, nói:
-Khi nào trở về, nhớ dạy em vài chiêu nghe, sư phụ!
Bền nói:
-Được rồi, đi đường nhớ cẩn thận, đừng để người ta phát hiện nghe, Tư Kê.
Cả hai từ giã mọi người, rồi bước chiếc xuồng ba lá được ngụy trang thành xuồng giăng câu, có mui lợp hình mái nhà, thấp lè tè với đầy đủ phụ tùng của dân sống về nghề hạ bạc như: lưới chài, cần câu, vó cá…Hai Rồng nhổ sào rời bến, bơi đằng lái, còn Tư Kê bơi đằng mũi. Thằng Bền gọi vói theo:
-Tía với Tư Kê bảo trọng nghe!
Sau khi Hai Rồng và Tư Kê rời bến nước, Bền gọi các anh em lực điền ra sân tiếp tục luyện võ nghệ. Thu Hương và các cô thanh nữ đã có mặt trên sân tập từ lúc nào rồi. Vợ chồng ông Bá hộ Bảnh đứng trong nhà nhìn ra sân xem con gái và Bền dạy võ thuật. Ông Bá hộ Bảnh bất ngờ, hỏi vợ:
-Vợ chồng mình không có con trai nói dõi. Tôi thấy cháu Bền thiệt thà, trung hậu, ngay thẳng. Tôi muốn nhận cháu Bền làm dưỡng tử, bà nghĩ sao?
Bà bá hộ cười, nói:
-Tôi cũng có ý nghĩ nầy chưa kịp nói ra, ông đã nói trước rồi! Nhưng, tôi chỉ e cháu Bền không ưng thôi!
Bá hộ Bảnh nói:
-Hay là vợ chồng mình bàn trước với chú Tư Long xem sao đã. Coi ý kiến chú như thế nào, rồi quyết định sau cũng không muộn.
-Ừa, vậy cũng được!
oOo
Nhờ con nước đang lớn, không đầy một giờ sau, cả hai vượt qua khỏi cột mốc biên giới. Càng bơi xuồng vào sâu bên trong lãnh thổ của Miên, thượng nguồn của con sông Stung Svay Riêng hẹp dần và hoang vắng; thỉnh thoảng, mới bắt gặp một vài căn nhà sàn của đồng bào Miên với những hàng cây thốt lốt mọc thẳng tắp trên bờ sông.
Bỗng Tư Kê lấy tay chỉ về phía trước, bên phải dòng sông, nói:
-Chú Hai có thấy rặng cây thốt lốt phía xa xa, dọc theo bờ sông không?
-Chú thấy rồi, cháu! Hai Rồng nói.
-Đó là một cái làng khá đông dân cư sống về nghề nông. Qua khỏi cái làng nầy la sắp sửa vượt qua trại của Thạch Sum, nằm đối diện bên kia sông. Chú cháu mình phải cẩn thận nghe, chú Hai!
Hai Rồng trấn an, nói:
REPORT THIS AD
-Ừ, cháu yên tâm đi! Bình tĩnh, không việc gì phải lo!
Khoảng hơn nửa giờ sau, khi xuồng vượt qua khỏi làng nầy. Tư Kê báo động:
-Sắp tới trại của Thạch Sum rồi! Chú Hai nhìn bên kia bờ sông đối diện với làng nầy là trại của đảng cướp Thạch Sum đó!
Hai Rồng chỉ thấy mấy dãy nhà san, nhô lên bờ tường đất cao trên vài ba thước, bao bọc chung quanh trại dùng để ngăn chận lũ lụt hơn là bảo vệ an ninh. Một cái cầu tàu bằng gỗ ván rất bề thế, từ bờ sông chạy thằng vào cổng ra vào doanh trại, được đóng kín bằng bởi hai cánh cửa bằng những thanh gỗ tròn, kết chặc lại với nhau rất kiên cố. Dưới dạ cầu và dọc theo bờ sông cỏ lát và phi lau mọc tràn bờ.
Hai Rồng và Tư Kê tiếp tục bơi xuồng vượt qua khỏi trại một khoảng khá xa, rồi tấp xuồng vào mấy gốc bần cành lá sum sê bên rặng dừa nước, chia nhau mấy vắt cơm nắm ăn đở đói lòng. Tư Kê hỏi:
-Chú Hai biết ai vắt cơm nắm nầy cho chú cháu mình không? Không đợi Hai Rồng trả lời, Tư Kê nói luôn: Con Ngọ nó tự làm lấy đó! Sao, chú Hai ăn ngon không?
-Ừ, ngon lắm! Mấy nắm cơm vắt nầy, chẳng những giúp cho chú cháu mình đở đói lòng mà còn gói ghém tình thân ái và sự quan tâm của Ngọ dành cho cháu đó, đúng không?
Tư Kê khoái chí cười ngắc nghẻo, nói:
-Dạ, đúng quá xá đi chớ!
-Bao giờ cháu định cưới cô Ngọ, nhớ báo cho chú Hai biết nghe!
-Dạ, chờ khi có bằng khoán đất trong tay, tự mình làm chủ đất dai của mình, khỏi phải đong lúa ruộng như hồi đó là cháu xin hỏi cưới Ngọ làm vợ, Tư Kê nói: Thiệt không ai có thể ngờ rằng, ông Bá hộ Bảnh tốt quá đối với hạng tá điền tay lấm, chân như thế nầy, phải không chú Hai?
-Cháu nói đúng đó! Đối với những hạng đại địa chủ vùng đồng bằng sông Cửu Long, ít có người sớm giác ngộ như ông Bá hộ Bảnh.
-Hồi nãy, chú Hai có thấy cái lạch nước chảy bên hông trại không? Bận về, mình bơi xuồng theo cái lạch nước nầy, rồi dùng sào tre chống xuồng băng đồng trở về kinh Cái Cơ, Tư Kê nói: Với lại, hai bên bờ cái lạch nước, cây cỏ mọc um tùm, mình chống xuồng men theo cái lạch nước có trời mà thấy.
Hai Rồng nói:
-Thôi, cháu đi ra đằng mũi xuồng, chú ngồi đằng lái, móc mồi vào lưỡi câu, thả xuống nước, giả vờ như đi câu để không ai nghi ngờ!
oOo
Đến xế chiều, có một chiếc ghe ngo khá lớn từ Svay Riêng chèo nước ngược hướng về trại. Từ lâu, chiếc nghe ngo của đồng bào Miên là hình ảnh đại diện chop hum sóc, tượng trưng cho sự no ấm. Từ phía xa, Tư Kê đã nhìn thấy rõ cái đầu rồng cao nghệu nổi trên mặt nước. Những phu chèo ngồi dàn hai bên mạn ghe ngo, vung mái chèo đều đặn, chiếc ghe ngo rẻ nước, lướt tới nhanh chóng.
Thoáng thấy người đàn ông, tóc húi cao, đôi mắt long lên rất dữ tợn, cổ đeo vòng cà tha, bên bằng chỉ ngũ sắc và mấy cái nanh heo rừng to bằng ngón tay cái, cong vút treo lung lẳng trước bộ ngực để trần, lộ nước da đen bóng, làm nổi bật bắp thịt ở cánh tay, vai ngực nổi cuồn cuộn như thừng chảo. Hắn vận một cái “sà rông” màu sắc sặc sỡ, ngồi đường bệ trên cái đôn bằng gỗ, đặt chính giữa chiếc ghe ngo. Một gia nhân đứng phía sau, tay cầm một cài lộng màu vàng đứng hầu.
Vừa thấy chiếc ghe ngo lướt tới, Tư Kê lật đật đứng dậy, chấp hai tay trước ngực, rồi gập mình chào một cách kính cẩn, tung hô:
-Krap tul Sana! (Kính chào nguyên soái!)
Thạch Sum ngoáy đầu lại, nhìn Tư Kê rồi gật đầu chào lại, có vẻ rất hài lòng. Chờ cho ghe ngo đi một khoảng khá xa, Tư Kê ôm bụng cười, hỏi:
-Sao, chú Hai thấy cháu đóng kịch có nghề không?
-Cháu vờ cũng giỏi lắm, Hai Rồng khen: Nói tiếng Miên như người bản xứ!
-Cháu học lóm được vài câu tiếng Miên, trong thời gian làm nô dịch cho bọn cướp ở trong trại.
Hai Rồng ngồi trầm ngâm, suy nghĩ kế hoạch đột nhập doanh trại đêm nay, rồi nói với Tư Kê:
-Chờ đến nửa đêm, mình bơi xuồng quay trở lại. Khi gần đến cầu tàu, chu sẽ lặn xuống nước, bơi vào bờ để tìm cách đột nhập vào trại. Cháu bơi xuồng đến đầu cái lạch nước, cắm sào trong buội rậm, chờ chú Hai.
Tư Kê đưa ý kiến:
-Thôi, khỏi đi chú Hai, cứ chờ tới khuya là chú cháu mình cứ bơi xuồng vô thẳng cái lạch nước. Dấu xuồng trong đám lau sậy, rồi tìm cách, leo qua bờ đất vào trong doanh trại. Cháu hướng dẫn luồn sâu vào trong trại, không sợ bị phát hiện.
-Nhưng, nếu bị bọn cướp canh gác phát hiện thì sao?
-Cháu đã ở trong trại nầy hơn 3 tháng rồi, rất hiểu rõ lề lối sinh hoạt và thói quen của bọn cướp, cả ban ngày lẫn ban đêm, chẳng có ma nào canh gác cả.
Nghe Tư Kê nói, Hai Rồng vẫn còn ngờ vực, hỏi:
-Rộng rộng lớn, bề thế như vầy mà không có người canh gác ngày đêm mới là lạ. Nếu như bị quân lính của chính phủ tấn công bất ngờ làm sao trở tay cho kịp?
Tư Kê giải thích:
-Theo chỗ cháu biết, dân địa phương sống dọc theo bờ sông và dọc theo con đường số 1 từ Prêk Khsay, qua thị trấn Svay Riêng đến tận Chipu, họ tôn xưng Thạch Sum là Sana như một vị cứu tinh của người nghèo, giàu lòng nghĩa hiệp, chuyên đánh cướp của bọn nhà giàu bất nhân, bọn cường hào ác bá để giúp đở người nghèo; vả lại, võ nghệ của Thạch Sum rất cao cường, bộ hạ thiện chiến. Vậy, còn có ai dám vào hang hùm vuốt râu cọp đâu, chú Hai?
Hai Rồng nói:
-Theo chú biết, thông thường sào huyệt của các đảng cướp dọc theo biên giới Việt – Miên, thường dựa vào địa thế núi non hiểm trở hoặc thành lũy kiên cố để dễ bề phòng thủ . Trường hợp của đảng cướp Thạch Sum là một ngoại lệ: dựa vào lòng dân để bảo vệ họ. Như vậy, càng dễ cho chúng ta hành động.
Tư Kê nói:
-Thôi, bây giờ chú cháu mình thay phiên ngủ, chờ nửa đêm thức dậy đột nhập vào doanh trại theo kế hoạch.
Hai Rồng nói:
-Được rồi, cháu ngủ trước đi! Chú Hai canh chừng cho!
oOo
Gần nửa đêm, Hai Rồng đánh thức Tư Kê dậy, nhổ sào rồi lặng lẽ bơi xuồng về phía doanh trại. Từ phía xa, đã nhìn thấy ánh lửa trại cháy sáng rực, tiếng nhạc ngũ âm vang lên bập bùng, trầm bổng. Tư Kê nói:
-Có lẽ, giờ nầy bọn cướp đang say sưa trong vũ điệu “Lâm Thol” cổ truyền để chuẩn bị mừng ngày lễ sắp đến.
Lúc nhìn thấy chiếc ghe ngo của Thạch Sum đang neo bên cạnh cầu tàu. Tư Kê nói nhỏ:
-Thạch Sum hiện đang có mặt trong doanh trại đó nghe, chú Hai!
-Sao, cháu sợ phải không?
Tư Kê nói cứng:
-Đi với chú Hai không sợ!
Nói vậy, chớ không phải vậy! Lúc bơi xuồng vượt qua cầu tàu, khi rẻ vào vô cái lạch nước là trống ngực nó đánh lô tô, tay chân luýnh quýnh, mồ hồ lạnh toát ra…Tư Kê rùng mình ớn lạnh, ngó dáo dác. Thình lình, nó nghe có tiếng chân người đi sột soạt trong đám lau say mọc um tùm. Tư Kê líu lưỡi, nói ú ớ:
-Có người đi trong đám lau sậy…chú Hai ơi!
Hai Rồng vói tay qua sau lưng, nắm cán thanh đoản kiếm, sẵn sàng rút ra khỏi vỏ…
CHƯƠNG MƯỜI
ĐỘT NHẬP SÀO HUYỆT THẠCH SUM
Sau khi con rắn khổng lồ biến mất trong đám lau sậy. Tư Kê vẫn còn chưa hoàn hồn, vừa lấy tay vuốt ngực, vừa nói:
-Hồi cha sanh mẹ đẻ tới giờ, cháu chưa từng thấy con rắn nào bự cở nầy à nghen, chú Hai! Thiệt hú hồn, hú vía!
-Thôi, mình bơi xuồng tiếp đi, Tư Kê!
Cả hai bơi xuồng theo lạch nước một khoảng khá xa, gặp một đám đế, phi lau, cỏ lác mọc xen kẽ nhau rậm rạp, cao quá đầu người. Tư Kê nói:
-Mình dấu xuồng ở đây được đó, chú Hai.
-Được, địa điểm nầy khá kín đáo đó!
Cả hai bước xuống nước, kéo xuồng dấu trong đám lau sậy, rồi thận trọng đi len lỏi trong đám có lác, luồn vô sát bờ tường đất. Hai Rồng quỳ xuống đất cho Tư Kê đứng lên vai mình, rồi từ từ đứng dậy. Tư Kê lấy tay bám vào bờ tường, rướn mình lên, ló đầu qua khỏi bờ tường đất, nhìn vào bên trong quan sát động tĩnh. Bên những đống lửa trại cháy gần tàn, đám bộ hạ của Thạch Sum say mèm, nằm ngủ la liệt trên mặt đất. Tư Kê bèn nhảy vào bên trong trước, nép sát vào bờ tường. Hai Rồng phóng mình, phi thân qua bờ tường, rơi xuống mặt đất nhẹ nhàng, không gây tiếng động, khoát tay ra dấu cho Tư Kê theo mình. Cả hai trườn mình dưới dãy nhà sàn, rồi ẩn mình sau mấy cột nhà, nhìn bao quát khắp trại quan sát.
Doanh trại gồm năm gian nhà sàn, cất theo hình chữ U. Gian chính giữa trông rất bề thế, mái lợp ngói đỏ, vách ván bằng gỗ mun, nhưng chiều dài có vẻ ngắn hơn hết. Bốn gian kia chia đều làm hai bên với chiều dài hơn 100 thước mỗi bên, vách ván, mái lợp bằng lá cây thốt lốt, cách nhau một cáisân rộng để cho bộ hạ luyện võ, thi đấu hoặc liên hoan tập thể.
Hai Rồng hỏi nhỏ:
-Thạch Sum ở gian nhà nào?
-Thạch Sum ở gian chính giữa cùng với bộ hạ thân tín, trung thành với hắn ta..
Tư Kê nói.
– Còn đám thuộc hạ và gia đình chia nhau sống trong mấy gian nhà hai bên.
-Còn khu vực nhà bếp và kho lưng thực nằm ở đâu?
-Kho lương thực và nhà ăn tập thể nằm phía sau gian nhà giữa. Cháu bị chúng nó nhốt trong kho lương thực hồi mấy tháng trước.
-Suỵt! Hai Rồng ra dấu yên lặng.
-Chuyện gì vậy, chú Hai!
-Nhìn về phía trước gian nhà chính giữa xem!
Tư Kê thấy ba người đang bước xuống cầu thang. Thạch Sum đi xuống trước, hai tên bộ hạ đi phía sau. Một tên vác cây côn sắt, còn tên vác cây mã tấu có vẻ nặng lắm. Thạch Sum có thói quen ra sân luyện võ, múa quyền, tung cước trước khi đi ngủ.
Hai Rồng chăm chú theo dõi cũng không thể biết hắn thuộc về môn phái nào; có lẽ, hắn là đệ tử của nhiều môn phái. Có lúc, hắn sử dụng Nam quyền, Bắc cước Thiếu Lâm Tự, khi thì hắn dùng đòn gối và chõ như các võ sĩ Thái Lan. Vì vậy, quyền cước của Thạch Sum vô cùng linh hoạt nhanh, chắc và mạnh không thể tả, có thể giết người trong nháy mắt.
Và bây giờ là lúc luyện công, Thạch Sum xuống tấn vững như núi, gồng mình lên để cho hai tên trợ thủ thay phiên nhau dùng côn đánh và mã tấu chém vào người chẳng khác nào đang tẩm quất cho hắn. Côn đánh và mã tấu chém vào người hắn đều vội ngược lại.
Sau cùng, hai tên thủ hạ xếp một chồng gạch cao cả thước. Thạch Sum đứng trước đóng gạch, xuống tấn, hét một tiếng thiệt to, dùng trán đập mạnh xuống chồng gạch như người ta lấy một cái búa tạ đập xuống, rồi để cho tên trợ thủ hạ cầm từng viên gạch kiểm soát lại, viên gạch nào cũng bể làm đôi, không có viên nào còn nguyên vẹn cả.
Hai Rồng chặc lưỡi, nói:
-Cái đầu của Thạch Sum lợi hại thiệt!
Chờ cho Thạch Sum và hai tên trợ thủ trở lên căn nhà sàn, cả hai chú cháu đi lần theo bờ tường đất, vòng ra phía sau dãy nhà bếp và nhà kho quan sát. Tư Kê nhìn thấy cái cột gỗ trồng giữa nhà kho và nhà bếp, nó có vẻ sợ sệt, hối Hai Rồng trở lại chỗ cũ. Tư Kê trèo qua bờ tường đất trước, chạy một mạch tới chỗ giấu xuồng, kéo xuống nước, leo lên ngồi chờ, vừa thấy bóng dáng Hai Rồng là nó giục:
-Leo lên xuồng lẹ lên, chú Hai!
Hai Rồng hỏi:
-Trông bộ tịch cháu giống như gà mắc đẻ, sợ hả?
-Còn lâu cháu mới sợ, – Tư Kê làm bộ nói cứng- Nhưng mà thôi, bước lên xuồng đi chú Hai. Chú bơi đằng lái, cháu bơi đằng mũi.
-Khu nhà bếp có gì làm cho cháu sợ vậy, Tư Kê?
-Chú hai có thấy cái cột gỗ trồng chính giữa nhà kho và khu nhà bếp không? Cái cột đó là nơi hạ trâu, bò làm tiệc khao quân đãi bộ hạ sau một chuyến ăn hàng đoạt nhiều chiến lợi phẩm.
-Như vậy, cột gỗ đó, phải có cái gì làm cháu sợ, đúng không?
-Tại chú Hai không biết thôi! Thay vì, người ta đập đầu trâu, bò bằng búa tạ, còn Thạch Sum dùng quả đấm thôi sơn của mình thế mới ghê chớ!
-Cháu có thấy tận mắt không?
-Dạ, thấy tận mắt! Lúc đó, cháu bị nhốt trong nhà kho, nhìn ra thấy rõ lắm, – Tư Kê kể lại: Sau khi con trâu bị cột lại, Thạch Sum một tay nâng đầu nó lên, tay kia vận công, đấm xuống giữa đầu con trâu nghe một cái bốp, con trâu rống lên một tiếng thiệt lớn, nhảy dựng lên, từ từ ngã quỵ xuống đất, giẫy giụa một vài cái rồi nằm ngay đơ cho thợ nấu ăn xẻ thịt; vì vậy, khi thấy cột gỗ đó làm cháu sợ!
Khi họ bơi xuồng rời khỏi doanh trại của Thạch Sum khoảng vài trăm thước là đến đầu lạch nước. Cả hai dùng sào tre chống, xuồng lướt ào ào về hướng biên giới Việt – Miên.
Nửa đêm về sáng. Trên cánh đồng Miên ngập nước lé đé, cỏ lác, lau, đế, sậy… mọc tràn bờ cao quá đầu người, cái lạch nước có một vài đoạn bị cỏ gai, cỏ tranh xoán vào nhau thành từng vạt. Cả hai phải vất vả chống xuồng lướt trên những vạt cỏ đi tới. Dưới ánh trăng non thượng tuần mờ nhạt, bầy đom đóm vẽ những đường ánh sáng lập lòe ma quái trên cánh đồng cỏ lác, Tư Kê căng cặp mắt hết nhìn phía trước, nhìn ngang, nhìn dọc vì sợ con rắn khổng lồ xuất hiện, đó là mối nguy thường trực cho đồng bào sống dọc biên giới Việt – Miên. Chiếc xuồng lướt trên những vạt cỏ tạo nên âm thanh xào xạt làm mấy con vịt trời, giật mình đập cánh bay vút lên, luồn vào một đám lau sậy khác để lẩn trốn làm Tư Kê giật mình.
Vượt qua những vạt cỏ lác lá dầy, cứa vào cánh tay hai người rướm máu, ngứa ngáy khó chịu. Phía trước mặt, cái lạch nước chảy im lìm dưới ánh trăng thượng tuần màu vàng nhạt mờ ảo bao phủ cánh đồng, làm tăng thêm vẻ âm u se lạnh. Trời càng về sáng, sương xuống càng nhiều làm Tư Kê thấm lạnh. Để phá tan bầu không khí yên lặng, Hai Rồng hỏi:
-Lúc cháu vượt thoát khỏi sào huyệt của Thạch Sum, làm thế nào cháu vượt qua khỏi cánh đồng Miên gai góc nầy? Phải mất bao nhiêu ngày, cháu mới về đến kinh Cái Cơ?
-Lúc cháu trốn thoát nhà kho, cháu cạy cửa nhà bếp lấy trộm một con dao quắm, sẵn có chão đụn bắp luộc, cháu vớt cả chục trái bỏ vào cái áo đang mặc, buộc thành cái tay nải, quàng qua cổ, trèo lên cây mít sát bờ tường đất gần khu nhà bếp, nhảy ra ngoài. Nhờ có cây dao quắm, cháu đốn một cây chuối làm phao, bơi len lõi trong cánh đồng cỏ lác và lau sậy xoắn vào nhau, cao quá đầu người, cháu phải dùng dao quắm mở đường mà bơi tới. Lúc đó, mùa nước nỗi qua rồi, nhưng cánh đồng vẫn còn ngập nước, nhiều chỗ sâu quá đầu người, nếu không nhờ có cây chuối lội bì bõm, không thế nào cháu lội nước về tới kinh Cái Cơ. Cũng nhờ cả chục trái bắp luộc mang theo ăn đở đói, không thì cũng chết đói.
Hai Rồng khen:
-Kể ra, cháu cũng lanh trí đó chớ! Mưu sinh thoát hiểm cũng giỏi!
Tư Kê nói:
-Cháu sợ nhứt là muỗi khi bơi qua mấy cái lung, bị động đàn muỗi bay ra như đàn ong vỡ tổ. Bầy muỗi bám đầy mình, cháu quơ tay múa chưn luôn mà muỗi vẫn chun vào lỗ mũi, lỗ tay; vì vậy, cháu phải trầm mình xuống nước, chỉ nổi lên mặt nước để hít thở. Cháu đánh vật với bầy mưỡi gần cả tiếng đồng thì may quá cháu gặp cái lạch nước nầy đây, cháu ôm cây chuối nầy bơi một mạch tới kinh Cái Cơ phải mất gần hai đêm một ngày.
Bình minh, mặt trời vừa ló dạng, cái lạch trước mặt nước lấp lánh ánh mặt trời. Thoang thoảng đâu đây mùi hương nồng của bông lục bình lẫn mùi cỏ lát và bùn sình đó là đặc điểm của đồng cỏ Miên. Mây trời hình như bay thật thấp ở đằng chân trời điểm vài cánh cò trắng từ đâu bay sà xuống đám cỏ tranh săn mồi. Tư Kê nói:
-Thôi, chú cháu mình cắm xuồng tại đây nghỉ xả hơi một lát. Ăn sáng xong rồi còn chuẩn bị vớt lục bình. Cháu đoán chỉ còn vài ba cây số nữa là về đến kinh Cái Cơ rồi!
-Ừ, chú cũng thấy đói rồi đó!
Tư Kê dỡ tấm ván ghe, lấy hai vắt cơm, cá khô sặc nướng và hai trái dừa để giữa khoang để chia nhau ăn sáng. Ăn sáng xong thì trời đã sáng bửng. Hai Rồng nói:
-Sẵn sàng chưa? Chúng ta đi là vừa!
-Dạ xong rồi, chú Hai!
Họ tiếp tục chống xuồng vừa đi được một khoảng, Hai Rồng bỗng thấy thấp thoáng có chống xuồng phía trước, bèn lên tiếng báo động:
-Có người chống xuồng phía trước mặt. …Dừng lại chờ xem họ là ai cái đã.
-Đâu, đâu…để cháu coi…
Tư Kê giọng hoảng hốt, lấy tay che mắt nhìn phía trước, rồi nói:
– Ai như là tía cháu thì phải…. Đúng rồi! Tía cháu đó chú Hai!
Tư Kê lấy hai bàn tay bụm lại thành cái loa, gọi lớn:
-Tía ơi! Chú Hai và con về tới đây rồi nè!
Cả hai cha con chống xuồng riết tới gặp nhau. Chín Dậu thấy cả hai người trở về an toàn mừng lắm, nói:
-Mầy đi rồi, cả đêm chú Tư Long, cháu Bền và tía ngủ không yên giấc. Tía mới rủ anh Ba Đế đi đón chú Hai với mầy…
Quay sang Hai Rồng, Chín Dậu nói:
– Thằng Bền muốn cũng đi đón chú. Nhưng, sợ chú rầy vì nó phải thay chú tập võ nghệ cho mấy cậu lực điền.
Anh Ba Đế ngắt lời, nói:
-Thôi, tụi mình về để chú Hai nghỉ ngơi dưỡng sức. Thức trắng cả đêm chống xuồng có vẻ mệt đứ đừ rồi đó!
Tư Kê hỏi:
-Bộ tía với chú Ba vét sạch lục bình phía trước lạch nước rồi hả, tía?
-Ừa, tao với chú Ba mầy phải vét lục bình cả tiếng đồng hồ mới khai thông lạch nước phía trước. Vừa mới vét xong thì mầy với chú Hai vừa về tới.
Hai Rồng nói:
-Tôi và Tư Kê sắp sửa đi vét lục bình, không ngờ hai anh đã làm cái công việc nầy trước dùm tụi nầy rồi.
Ba Đế đề nghị:
-Nhà vợ chồng tui ở ngay cái đầu lạch nước, bên kia bờ kinh Cái Cơ. Sẵn dịp nầy, tui mời mọi người ghé nhà tui dùng cháo rắn hổ hành, nhậu vài ba sợi với rượu tam xà đởm cho lợi sức nghe!
Tư Kê cười, nói:
-Vô độ nhậu với chú Ba làm gì có vài ba sợi, vài ba lít thì có, phải không chú Ba?
Hai Rồng nói:
-Thôi như vầy, tụi mình ghé nhà anh Ba làm vài tô cháo rắn, kẻo phụ lòng anh chị Ba. Còn nhậu thì để dịp khác, tôi phải trở về gặp chú Tư Long, Sáu Trí để bàn tính công việc.
Chín Dậu gật đầu, đồng ý ngay:
-Ừa, chú Hai nói phải đó! Nhậu thì lúc nào mà chẳng được. Chờ khi đánh tan cái bọn cướp Thạch Sum rồi nhậu mới sướng!
Ba Đế lo âu, hỏi:
-Sao, chú Hai nhắm ra quân chuyến nầy có lấy ăn không? Thú thiệt, tui cũng hơi lo. Tụi nó mà làm cỏ vùng nầy là vợ chồng tui chết trước đó!
Hai Rồng giọng quả quyết, giữ vững tinh thần mọi người:
-Nếu tôi không hạ được Thạch Sum, tôi thề không trở lại dòng sông Vàm Cỏ Tây nầy nữa. Các anh an tâm đi!
Tư Kê vọt miệng, nói:
-Đêm hồi hôm, con thấy Thạch Sum luyện công, mã tấu chém vào người nó như chém vào cột đá, con ớn quá! Không biết chú Hai có chiêu gì để đánh bại hắn ta?
Ba Đế đưa ý kiến, nói:
-Tui nghe có người nói, dùng máu chó mực tẩm vào lưỡi dao, có thể phá được phép gồng của tụi Miên, chú Hai nghĩ sao?
Chín Dậu nói thêm:
-Ừa, dùng cách nầy cũng có lý lắm! Tui cũng nghe người ta nói y chang như vậy! Chú Hai làm thử coi!
Hai Rồng lắc đầu, nói:
-Đối với tôi, giao đấu thắng bại phải phân minh. Nếu tôi dùng dao, kiếm đấu với người tay không. Đánh thắng như vậy, đâu phải là anh hùng hảo hớn. Còn đâu là tinh thần thượng võ của dân Việt Nam mình, phải không mấy anh?
Ba Đế nói:
-Thôi, chuyện nầy tùy chú Hai! Chúng ta chống xuồng về nhà đi là vừa, bao tử của tui kêu rột rột rồi đó, mấy cha à!
oOo
Họ chống xuồng vừa về tới đầu lạch nước là thấy thím Ba ngồi chồm hổm dưới gốc cây ô môi trên bờ kinh, miệng nhai trầu bỏm bẻm, nóng ruột chờ chồng. Mọi người cắm sào bên cạnh cây cầu dừa, Ba Đế dẫn Hai Rồng lên, khoe với vợ:
-Đây là chú Hai Rồng! Người mà anh Tư Long mời về để giúp bảo vệ dân làng của mình đó, bà biết không?
Vợ Ba Đế cúi đầu chào, nói:
-Sẵn dịp chú Hai và cha con anh Chín tới thăm, tui mời mọi người lên nhà dùng bữa cháo rắn hổ hành lấy thảo với vợ chồng tui nghen!
-Dạ, cám ơn chị Ba!
Hai Rồng nói. Mái nhà lá của vợ chồng Ba Đế nghèo rớt mồng tơi, không có lấy một cái bàn cho đàng hoàng để ăn cơm. Ngoài hai cái chõng tre kê sát hai bên vách vừa làm chỗ ngủ, chỗ ăn cho hai vợ chồng. Chờ mọi người ngồi vào chiếu là thím Ba dọn chén đũa, rồi bưng cái nồi cháo rắn còn nóng hổi, khói bốc nghi ngút, đặt giữa chiếu và một dĩa gỏi rắn xé phai trộn với bắp chuối, rau thơm. Ba Đế nhắc khéo vợ:
-Bà còn quên một món ruột cho tui rồi nghen, bà!
-Rượu đế phải không? Hết từ ngày hôm qua, bộ ông quên rồi sao?
-Ừ, tôi cũng quên lửng!
Chín Dậu can:
-Thôi mà cha nội! Ban ngày mà nhậu cái nỗi gì! Thôi, mời anh em cầm đũa đi, tui cũng đói lắm rồi.
Tư Kê múc ngay một chén cháo ra chén, đưa lên miệng vừa thổi, vừa húp rột rột, rồi gắp thêm một đũa gỏi bỏ vô miệng nhai:
-Chà, thím Ba nấu cháo rắn ngon hết sẩy, nghe tía! – Tư Kê chắc lưỡi, hít hà, khen: – Nè tía, trong các loại rắn ở vùng Đồng Tháp Mười, loại nào độc nhứt, vậy tía? Có phải rắn mái gầm không?
-Ừ, mầy nói cũng đúng! Kinh nghiệm dân gian, người ta nói: Mái gầm mổ chết tại chỗ, rắn hổ lết về nhà, – Chín Dậu giải thích- Rắn mái gầm có hai loại: mình rắn có khoang đen rồi khoang trắng nối tiếp nhau. Còn loại kia thì có khoang vàng và khoang đen mà loại nào cũng tối độc như nhau. Phải cẩn thận khi đốt đuốc đi ban đêm, loại rắn mái gầm hay theo đóm ăn tàn, nó sẽ theo về đến tận nhà.
-Dạ, con nhớ rồi, tía!
Nồi cháo rắn ai cũng khen ngon đáo để, Tư Kê đặt chén cháo xuống chiếu, hỏi:
-Chú Ba bắt con rắn hổ hành nầy ở đâu vậy? Truyền nghề cho cháu với!
-Ở đống củi phía sau nhà, cạnh cây xoài tượng gần bờ mương. Cặp rắn hổ hành nầy ăn không bao nhiêu gà con của thím Ba mầy nuôi… – Ba Đế chặc lưỡi, nói- Bả cằn nhằn tao hoài; cuối cùng, tao phải thức canh mấy đêm liền mới phát hiện được nó. Tao lấy chĩa đâm nó, nhưng đâm hụt, cả hai con phóng vô đống củi trốn biệt.
Thím Ba cười, chọc quê:
-Ông bây giờ sáng xỉn, chiều xỉn còn sức đâu mà đâm với chém! Nó không phập lại ông là may phước rồi. Tới cử rượu là tay chưn run rẩy như mắc kinh phong. Ông mà không nhờ cái đìa cá của tui là ông đói dài dài. Nhà dột, cột xiêu cả năm rồi, nói với ông biết bao nhiêu lần mà ông chưa chịu lợp lại. Ông biết mùa mưa sắp tới rồi không?
Ba Đế nghe vợ trách móc, trơ cái mặt lì ra, nhe răng cười hì hì, nói:
-Bà nầy nói nghe ngộ không! Dạo nầy tui có lụt nghề thiệt. Đâm con gì cũng trật lất. Nhưng, có một cái, miễn tui đâm trúng ngay phóc thì thôi chớ, phải không má con Hai?
Biết ý ông chồng xỉn sắp nói sảng, thím Ba Lít lật đật buông đũa, tuột xuống giường một cái rột, đi te te ra đằng sau bếp, ngồi trên sàn nước ăn một mình.
-Nè chú Ba, làm sao chú bắt được cặp rắn hổ hành nầy vậy? – Chín Dậu hỏi.
-Hết cách rồi, tui phải chèo ghe ra Mộc Hóa mời anh Bảy Sẹo, cháu ngoại của ông Mười Hớn, thầy rắn nỗi tiếng ở vùng Đồng Tháp Mười mấy mươi năm về trước. Bảy Sẹo có bà con xa với con vợ tui… – Ba Đế nói- Phải công nhận, ảnh bắt rắn tài tình thiệt nghen mấy cha! Bảy Sẹo vẽ bùa trong lòng bàn tay, rồi vỗ xuống miệng hang ba cái, không đầy mươi phút sau, cặp rắn hổ hành ngoan ngoãn bò ra khỏi miệng hang. Con nào cũng dài gần hai thước, mình tròn như lon sửa bò.
Thoáng nhấp nháy, cả nồi cháo rắn và dĩa gỏi sạch bóc. Hai Rồng và cha con Chín Dậu chào từ giã vợ chồng Ba Đế bơi xuồng trở lại gia trang Bá hộ Bảnh. Thằng Bền đang dạy võ cho đám lực điền, thấy tía và Tư Kê trở về an toàn, chạy tới nắm tay tía mừng rỡ, hỏi:
-Tình hình bên đó ra sao hả, tía?
Hai Rồng đáp:
-Bên cạnh những thuận lợi, cũng có những cái bất lợi. Phải tùy cơ ứng biến đối phó với Thạch Sum. Tối nay, tía sẽ bàn với mọi người để một giải pháp tốt nhứt!
Vừa hay tin Hai Rồng và Tư Kê về đến nơi, mọi người tới hỏi han tin tức sốt dẻo. Ông Bảnh hỏi:
-Tình hình bên Miên ra làm sao chú Hai?
-Cũng có vẻ căng lắm. Nhưng, không sao! Tôi không để đồng bào thất vọng đâu!
-Chú thức trắng cả đêm, chắc cũng mệt mõi lắm rồi! Thôi, vào nhà dùng cơm trưa với anh em.
-Cám ơn cậu Hai! Tôi vừa ăn mấy tô cháo rắn ở nhà anh Ba Đế hồi nãy rồi, còn đang no phình bụng đây- Hai Rồng nói- Tối nay, tôi xin gặp đầy đủ mọi người để báo cáo tình hình rồi cùng nhau hợp bàn kế hoạch đột kích sào huyệt Thạch Sum.
Sáu Trí nói:
-Anh Hai tính như vậy, được lắm! Bây giờ, anh đi nghỉ cho khỏe đi! Hẹn gặp nhau tối nay nghe!
Hai Rồng quay sang bảo Bền:
-Tía xuống nghe tắm rửa, rồi nghỉ một lát. Khoảng xế chiều nhớ đánh thức tía dậy nghen!
-Dạ, con biết rồi!
Trời sắp sửa chuyển sang mùa vào hạ, khí hậu khá oi bức. Những cơn gió đồng nội mang theo hơi nước thoang thoảng mùi bùn, cỏ dại len vào trong khoang nghe đủ mát. Hai Rồng ngả lưng xuống ván ghe, ngủ thiếp đi lúc nào không hay…
-Tía ơi, thức dậy! Mọi người đang chờ tía trên nhà ông Bảnh!
Hai Rồng nghe tiếng thằng Bền gọi, giựt mình ngồi dậy, nhìn qua khung cửa sổ, thấy ánh nắng chiều vàng nhạt còn vương vấn trên mấy tàu lá dừa phe phẩy trước cơn gió chiều bên kia bờ rạch Long Khốt. Hai Rồng hỏi:
-Ủa, mấy giờ rồi con?
-Trời sắp chạng vạng rồi đó, tía à!- Bền cười, nói: Thấy tía mệt, ông Tư Long để cho tía ngủ thêm một lát nữa.
-Ông Tư Long bây giờ đang ở đâu?
-Ông Tư Long và mọi người đang có mặt trên nhà ông Bảnh chờ tía đó! .. Tía thức dậy rửa mặt, con để sẵn thau nước lóng phèn ở đằng sau lái. Con lên dùng cơm chiều với anh em lực điền, rồi gặp tía sau nghe!
-À nầy, sau bữa cơm, con lên nhà trên gặp mọi người nghe. Kế hoạch đột kích sào huyệt của Thạch Sum, con cũng gánh vác một phần nhiệm vụ trong đó.
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
CỘI RỄ CỦA HẬN THÙ
Cơm nước xong, mọi người họp mặt đông đủ tại phòng khách nhà cậu Hai Bảnh, nghe Hai Rồng thuyết trình kế hoạch đột kích doanh trại của Thạch Sum. Hai Rồng nói:
-Sau khi đến tận nơi quan sát tình hình thực tế, theo như sự nhận định của tôi: đó là một doanh trại lộ thiên, không giống sào huyệt bí mật như chúng ta tưởng tượng. Cái yếu tố nầy giúp cho chúng ta nhiều điều kiện thuận lợi. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có nhiều bất lợi.
Mười Dần nói:
-Chú Hai phân tích kỹ phần nầy, cho anh em chúng tôi nắm vững vấn đề, được không, chú Hai?
Hai Rồng nói:
-Thuận lợi cho chúng ta là doanh trại không có người canh gác vào ban ngày lẫn đêm, cũng không có cả lô cốt canh gác. Theo tôi nghĩ, cái bờ tường đất cao khoảng 3 thước chỉ nhằm mục đích chống lũ lụt, hơn là bảo vệ an ninh. Thạch Sum ỷ mình võ nghệ cao cường, bộ hạ thiện chiến, chủ quan khinh địch, không đề cao cảnh giác để doanh trại bỏ ngõ. Điều đó giúp cho kế hoạch đột kích vào ban đêm, đạt được yếu tố bất ngờ mà không sợ bị phát hiện, nắm chắc phần thắng lợi. Nhưng, bất lợi cho chúng ta là doanh trại của Thạch Sum dựa vào lòng dân bảo vệ, cái bất lợi là ở chỗ đó. Đối với đồng bào Miên quanh vùng, Thạch Sum là một vị anh hùng dân tộc, một loại anh hùng Lương Sơn Bạc chuyên đánh cướp bọn nhà giàu bất nhân, giúp đở người nghèo. Nếu cuộc đột kích bất ngờ xảy ra, dân chúng bên kia con sông Stưng Svay Riêng là con rạch Long Khốt nối dài, sẽ bơi xuồng qua tiếp cứu, giải vây cho bọn cướp là cái chắc. Chừng đó, nếu chúng ta bắt buộc phải chống trả quyết liệt với họ, chính điều nầy sẽ khoét sâu thêm hận thù chủng tộc Việt – Miên.
Mười Dần quả quyết, nói:
-Tôi nghĩ cứ triệt hạ tên đầu đảng Thạch Sum là giải quyết xong mọi chuyện về biên giới. Nếu như đồng bào Miên có muốn trả thù cho Thạch Sum, cứ việc kéo qua đây. Ta tổ chức phòng thủ chu đáo, cẩn mật thì còn sợ gì ai chớ? Ông Bảnh cho tôi mượn khẩu súng trường mousqueton và một băng đạn. Tui đi với chú Hai qua bên đó, chỉ cần một viên đạn là tui kết liễu đời hắn. Bắn sẻ là nghề của tui hồi trong quân đội viễn chinh Pháp. Tui không tin cái đầu của Thạch Sum chịu nỗi sức công phá của súng đạn tối tân bây giờ! Chú Hai nghĩ sao?
Hai Rồng nói:
-Giải quyết Thạch Sum chỉ là phần ngọn của vấn đề, cội rễ của vấn đề là làm thế nào hóa giải hận thù giữa hai dân tộc Việt – Miên để hòa bình sớm vãn hồi vùng biên giới phía Tây Nam, có lợi cho công cuộc kháng chiến chống thực Pháp sau nầy. Nếu có bắn chết Thạch Sum, chỉ chặt đi được phần ngọn, cái gốc rễ của thù hận vẫn còn tồn tại, nó sẽ đâm chồi khác, một Thạch Sum khác sẽ tiếp tục gây bất ổn vùng biên giới, cho nên bắn chết Thạch Sum là hạ sách. Thượng sách là làm thế nào thuyết phục được Thạch Sum hóa giải thù hận giữa hai dân tộc và chịu chung sống hòa bình với với đồng bào ta sống dọc theo biên giới. Cho nên đột kích doanh trại của Thạch Sum là chuyện bất đắc dĩ.
Sáu Trí nói:
-Tôi hoàn toàn đồng ý với anh Hai. Nhưng, làm thế nào thuyết phục được Thạch Sum chịu hóa giải hận thù, đó mới là cái tuyệt khó, trừ phi anh Hai đánh bại được hắn, rồi tùy cơ ứng biến đổi thù thành bạn thì may ra.
Cậu Hai Bảnh nói:
-Theo ý tôi, kế hoạch đột kích doanh trại Thạch Sum là phải giải quyết song hành phần ngọn lẫn gốc cùng một lúc. Nếu như, gặp phải tình huống xấu, phải triệt hạ Thạch Sum trước; vì vậy, tôi đề nghị để anh Năm Dần theo hổ trợ chú Hai. Tôi sẽ giao khẩu súng mousqueton cho anh Năm Dần sử dụng, chỉ nổ súng trong trường hợp bất khả kháng mà thôi! Ý chú Hai như thế nào?
Hai Rồng nói:
-Tôi đồng ý với phương sách nầy với điều kiện, khi nào tôi bị Thạch Sum đánh bại, anh Năm Dần tùy nghi hành động hành động và cố gắng đưa tất cả anh em trở về an toàn, hoàn chỉnh kế hoạch phòng thủ biên giới, sẵn sàng chống trả các cuộc tấn công bất thần của đồng bào Miên ào qua biên giới trả thù cho anh hùng của họ bị bức tử. Anh Năm Dần là người có nhiều kinh nghiệm chiến trường, nhân tuyển thích hợp nhứt đứng ra cán đáng việc nầy.
Cậu Hai Bảnh nói:
-Coi như chúng ta thông qua phần nầy. Bây giờ, chú Hai có thể trình bày kế koạch đột kích sào huyệt của Thạch Sum cho mọi người thông suốt, coi có thể giúp được gì cho chú Hai hoàn thành nhiệm vụ.
Hai Rồng cầm cục phấn trắng vẽ trên tấm bảng đen, sơ đồ doanh trại của Thạch Sum cho mọi người khái niệm tổng quát về doanh trại nầy, rồi trình bày:
-Tôi chọn ngày 14 tháng 4 là ngày bắt đầu lễ hội Chol – Chnam – Thamay để đột kích sào huyệt của Thạch Sum, đây không phải hành động quang minh chánh đại. Tôi chọn ngày nầy vì muốn tiết kiệm xương máu của các anh em. Có hai con đường tiến sát doanh trại của Thạch Sum: bơi xuồng theo đường sông và chống xuồng băng qua đồng lầy. Theo tôi, con đường băng qua đồng lầy sẽ đạt được yếu tố bất ngờ, tuy nhiên tốc độ di chuyển sẽ chậm đi một chút và vất vả hơn. Ý các anh như thế nào?
-Chọn con đường chống xuồng băng qua đồng lầy là hợp lý nhứt, – Mười Dần hỏi: Chú Hai ước tính từ kinh Cái Cơ đến sào huyệt của Thạch Sum bao nhiêu cây số. Nếu chống xuồng băng đồng phải mất bao nhiêu tiếng đồng hồ?
-Tôi ước tính từ 7 đến 8 cây số là cùng, nếu chống xuồng theo cái lạch nước băng qua đồng khoảng 5 tiếng. Vì vậy, khi trời vừa chạng vạng tối là chúng ta xuất phát sẽ tới nơi trước nửa đêm, chừng đó cũng đủ thì giờ cho chúng ta hành động.
Sáu Trí hỏi:
-Anh Hai cho tôi biết, cần bao nhiêu nhân lực?
Hai Rồng nói:
-Tôi chỉ cần khoảng 30 anh lực điền. Tôi và cháu Bền đi mở đường, còn anh Mười Dần và Tư Kê đi đoạn hậu. Cứ ba người ngồi trên một chiếc xuồng, di chuyển theo hàng dọc. Khi đến doanh trại, chia ra làm hai cánh quân: cánh thứ nhứt sẽ do cháu Tư Kê và Bền dẫn 20 anh em cắm chông dọc theo bờ sông, rồi tìm chỗ ẩn núp. Khi nào thấy doanh trại phát hỏa, lập tức đốt cầu tàu.
Bền hỏi:
-Sau khi phóng hỏa đốt cầu tàu, rồi tụi con sẽ xông vào trong doanh trại tiếp chiến với tía, phải không?
Hai Rồng nói:
-Không cần! Nhiệm vụ toán của con là chận đánh tiếp viện từ bên kia sông tràn qua. Thạch Sum rất được lòng dân, khi thấy doanh trại phát hỏa, dân chúng sẽ dùng xuồng vượt qua sông chữa cháy.
Bền gật đầu, nói:
-Bây giờ, con hiểu rồi! Khi cầu bị đốt cháy, bắt buộc họ phải nhảy xuống nước, lội vào bờ sẽ vướng chông. Tụi con sẽ chận đứng họ tại bờ sông để cho tía có thời giờ thanh toán mục tiêu bên trong, phải không tía?
-Chính xác như vậy đó! – Hai Rồng quay sang Năm Dậu, nói: Việc bên ngoài, nhờ anh Năm Dậu giám sát dùm! Còn tôi và 10 anh lực điền, mang theo mỗi người vài bó đuốc tẩm dầu lửa vượt tường đất vào bên trong trại. Cứ 5 người phụ trách đốt một dãy nhà. Tôi phóng hỏa đốt dãy nhà chính giữa. Nếu như, ai thấy Thạch Sum xuất hiện, hãy tránh xa ra, vì anh em không phải là đối thủ của hắn. Riêng cá nhân tôi cũng muốn đấu một trận tranh tài cao thấp để giải quyết cội rễ của hận thù chũng tộc Việt – Miên! Tôi cũng nhắc lại, nếu có giao tranh cố gắng tránh đổ máu.
Tư Long hỏi:
-Chú Hai cần những phương tiện gì và những vật dụng cần thiết gì để phục vụ cho cuộc đột kích sắp tới?
Hai Rồng nói:
-Nhờ anh Tư chuẩn bị cho tôi: 12 chiếc xuồng ba lá để di chuyễn, cứ ba người ngồi trên một xuồng, 40 lít xăng hoặc dầu lửa, mỗi người 5, 6 bó đuốc. Dùng tre hoặc tầm vông, chẻ ra vót nhọn để làm chông cài dọc bờ sông.
-Chú Tư cho biết kích thước và số lượng để tôi lo. Tư Long hỏi.
-Bề dài tối thiểu 8 tấc và khoảng 500 cây chông vót nhọn cũng tạm đủ, – Hai Rồng nói- Đây chỉ là kế hoạch sơ khởi của tôi! Nếu các anh em có ý kiến gì hay sẽ bổ sung vào buổi họp lần sau.
Sáu Trí hỏi:
-Kế hoạch của anh Hai đưa ra, thiên về giải quyết phần ngọn là Thạch Sum và bộ hạ của hắn. Còn phần gốc là cội rễ hận thù chủng tộc giữa người Việt và Miên làm sao giải quyết? Nếu như để cho anh Năm Dần giải quyết Thạch Sum theo cách của ảnh, có ảnh hưởng gì đến sách lược kháng chiến chống Thực dân Pháp sau nầy?
Hai Rồng nói:
-Sau khi tổ chức kháng chiến của lãnh tụ NGUYỄN HỮU HUÂN bị tan rã, phong trào chống Pháp đáng kể nhứt kế tiếp hoạt động vùng đất từ Mỹ Tho về Châu Đốc là do ĐỨC BỔN SƯ NGÔ LỢI lãnh đạo, với sự tham gia đông đảo của tín đồ BỬU SƠN KỲ HƯƠNG và quần chúng. Trong đó hai vật Ong và Khả đã huy động dân chúng tại vùng Thuộc Nhiêu, Cai lậy, Tân Hiệp vào năm 1878, điều khiển cuộc khởi nghĩa tại Mỹ Tho. Hai vị nầy về sau bị Trần Bá Lộc vây bắt. Ngày 29 tháng 5 năm 1878, Trần Bá Lộc ra bố cáo rằng: Ai bắt được ông Năm Thiếp – một bí danh khác của Đức Bổn Sư Ngô Lợi – thì được thưởng 1.000 quan tiền. Nhưng, nhờ vào tinh thần đoàn kết keo sơn giữa tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương và quần chúng bao che, không tiết lộ hành tung của Đức Bổn Sư và tổ chức kháng chiến làm thực dân Pháp bó tay, không thể dò ra manh mối. Ở đây, tôi muốn nói rõ là Đức Bổn Sư có tầm nhìn rất chiến lược là liên kết với kháng chiến Cao Miên để tăng cường nổ lực chống Pháp. Tình hình chánh trị tại Cao Miên vào thời kỳ đó, vương triều nhu nhược. Nhưng, có hai vị hoàng thân là ACHAR SOA và SI -VATHA tổ chức khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Sau khi Achar Soa thất bại, Đức Bổn Sư cùng với hoàng thân Si – Vatha hợp tác với nhau. Sự liên kết nầy được thành hình làm giảm đi tinh thần bài Việt của người Miên rất nhiều. Lực lượng kháng chiến người Miên do hoàng thân Si – Vatha được dân làng An Định giúp đở tận tình và hoạt động kháng chiến của họ tại vùng biên giới Miên – Việt rất hiệu quả và đạt nhiều thắng lợi. Tháng 4/ 1885, quân Si – Vatha tấn công tỉnh Treang và Takeo. Vào tháng 5 năm 1885, liên quân Việt – Miên đánh chiếm đồn biên giới của Pháp tại Phú Thạnh với chiến thuật tấn công chớp nhoáng. Đại úy Ferussec không dám phản công mà phải chờ 200 viện binh của Thiếu tá Goulias mới tái chiếm được đồn Phú Thạnh.
Sáu Trí hỏi tiếp:
-Liên minh kháng chiến Việt- Miên còn mở các cuộc tấn công nào khác không, anh Hai?
-Sự liên minh kháng chiến chống thực dân Pháp của hai dân tộc Việt – Miên lan rộng sang đến vùng Hà Tiên. Với 400 quân tấn công tỉnh Hà Tiên, đốt chợ và nhiều tên Việt gian làm chó săn cho thực dân Pháp đã bị tiêu diệt, làm tên chủ tỉnh Châu Đốc tức giận, mở cuộc hành quân vào làng An Định, bắt hết dân chúng điều tra lý lịch, mới phát hiện quê quán của họ, hầu hết ở miền lục tỉnh quy tụ về đây. Tên Chủ Tỉnh Châu Đốc nhận định rằng: 158 dân đinh là dân bất hảo, chống đối sự khai hóa của người Pháp từ tứ xứ gom về đây, tất cả đều theo đạo Phật, nhưng là Phật tử nhiệt tâm đến mức cuồng tín. Họ làm ra vẻ chí thú làm ăn, nhưng khi gặp cơ hội là khởi loạn nữa, – Hai Rồng nói: Ngoài ra, các báo cáo khác của Pháp cho rằng: liên quân Việt – Miên hợp tác khá chặt chẽ, đôi bên tự do đi lại như một nước. Quân khởi loạn Cao Miên bất cứ lúc nào cũng có thể kéo hằng trăm người, trang bị súng đạn, gươm giáo, có khi họ cưỡi ngựa…Vì vậy, cuối tháng 5 năm 1887. Pháp quyết định tiêu diệt căn cứ An Định. Một cuộc hành quân qui mô bắt đầu từ 13 đến 29 / 5/ 1887, do một sĩ quan Pháp cưỡi voi chỉ huy, tấn công vào làng An Định, đốt phá chùa chiềng, nhà cửa, tàn phá ruộng rẫy. Kết quả cuộc hành quân đã bắt được 1. 990 người làng An Định đều là dân tứ xứ từ Sài Gòn, Gia Định và Lục tỉnh tới ở. Từ đó làng An Định bị giải tán, sát nhập vào làng Ba Chúc. Năm 1890, Đức Bổn Sư Ngô Lợi qua đời tại Núi Két, vùng Thất Sơn.
Cậu Hai Bảnh nói:
-Việc nầy, tôi có nghe cha kể lại rằng: Giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương được Đức Bổn Sư Ngô Lợi liên kết với người Cao Miên thống nhứt chiến tuyến chống thực dân Pháp. Đó là một sáng kiến độc đáo, đi sát với hoàn cảnh thực tiễn tại miền Tây Nam Bộ cùng với phong trào Cần Vương. Cụ Phan Bội Châu đã đánh giá đúng mức phong trào Cần Vương của Miền Nam; vì vậy vào năm 1903, Cụ Phan đích thân đã vào tận Thất Sơn quan sát.
Hai Rồng đưa ra nhận xét:
-Nếu đem so sánh hai tổ chức kháng chiến của Cố Quản Trần Văn Thành và Đức Bổn Sư Ngô Lợi, tôi thấy hai vị lãnh tụ nầy áp dụng chiến thuật khác nhau: Cố Quản Trần Văn Thành lập chiến khu cố thủ, từ đó làm bàn đạp phóng ra các cuộc hành quân để mở rộng chiến khu như vết dầu loang. Còn Đức Bổn Sư có tầm nhìn chiến lược là liên kết với kháng chiến Cao Miên thống nhứt chiến tuyến, cùng nhau chống kẻ thù chung. Sau nầy, tôi đã nghiệm ra rằng: đó nguyên tắc thỏa hiệp với kháng chiến Cao Miên để thống nhứt chiến tuyến, tạo điều kiện thuận lợi, hướng vào mục đích chung là tiêu diệt quân Pháp! Đây là một bài học lịch sử mà Đức Bổn Sư Ngô Lợi đã thực hiện từ cuối thế 19, đáng cho chúng ta rút kinh nghiệm để giải quyết những rắc rối dọc theo biên giới Việt – Miên.
-Bây giờ tôi hiểu ý định của chú Hai, – Năm Dần nói- nhưng có một điều tôi thật sự chưa hiểu, lý do tại sao Thạch Sum có tinh thần bài Việt cao độ như vậy?
Câu Hai Bảnh nói:
-Một phần vùng đất nầy do ông bà của tôi khẩn hoang lập từ đầu thế kỷ 20. Tôi mở mắt chào đời ở đây và có nghiên cứu nhiều tài liệu lịch sử về sự hình thành vùng biên giới phía Tây Nam. Tiện đây, tôi xin tóm tắt một vài chi tiết quan trọng trong lịch sử cận đại như sau: ”Ngày 01 tháng 6 năm 1862 (năm Nhâm Tuất). Trên soái hạm DUPERRÉ, Chánh sứ Phan Thanh Giản nghị hội với Bonard. Sau cuộc thương lượng gay go với quân cướp nước thất bại, ông hội ý với Phó sứ Lâm Duy Hiệp và cuối cùng Chánh sứ Phan Thanh Giản bất đắc dĩ phải đặt bút ký HÒA ƯỚC NHÂM TUẤT, nhường 3 tỉnh miền Đông cho Pháp: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường. Tại Cao Miên, vua Norodom nhận sự bảo hộ của Pháp để bảo vệ ngai vàng vào ngày 11 tháng 8 năm 1863, đã khiến một số hoàng thân, quốc thích bất mãn, rút vào rừng núi kháng chiến. Đến năm 1867, Pháp chiếm luôn ba tỉnh Miền Tây: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên và buộc Triều đình Huế ký Hiệp ước Giáp Tuất 1874, nhượng hẳn 6 tỉnh miền Nam cho Pháp làm thuộc địa. Pháp thành lập thêm 2 tỉnh Tây Ninh và Đồng Tháp năm 1867. Do sự thương lượng giữa cố vấn Pháp bảo hộ vua Norodom và đại diện chánh quyền Thực dân Pháp tại miền Nam, một công ước về biên giới giữa Nam Kỳ và Miên được ký vào ngày 15 tháng 7 năm 1873, cụ thể hóa bằng những cột mốc biên giới. Các vùng đất dọc theo bờ biển đặt dưới quyền cai trị của Mạc Thiên Tứ từ giữa thế kỷ thứ 18 bị thu hẹp lại. Các thành phố Kampot và Kompong Som được giao lại cho Miên làm hải cảng, bù lại đảo Phú Quốc được sát nhập vào Nam Kỳ.”
Năm Dần nói:
-Như vậy, vấn đề biên giới đã ổn định rồi. Nhưng, tại sao người Miên vẫn còn giữ tâm lý bài Việt làm gì?
Hai Rồng nói:
-Theo tôi nghĩ cội rễ của sự hận thù chủng tộc Việt – Miên là do vấn đề kinh tế mà ra. Đồng bằng sông Cửu Long trở thành khu vực trù phú và giàu có. Trong khi đó, khu vực chung quanh Biển Hồ vẫn còn nghèo xơ xác. Nhìn vào cộng đồng người Việt tại Cao Miên nhờ vào sự cần cù, siêng năng, chăm chỉ làm ăn nên có mức sống và trình độ văn hóa cao hơn dân bản xứ. Sự kiện nầy làm dân Miên ganh tỵ. Nếu như, người dân Việt và dân Miên có mức sống ngang nhau thì tâm lý bài Việt đã không bùng nổ và các vụ người Miên bất thần nổi dậy Cáp Duồn tại các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Cần Thơ… đã không xảy ra.
-Tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm nầy của chú Hai, – cậu Hai Bảnh nói- Thôi, buổi họp xin tạm ngưng, để chú Hai về nghỉ ngơi sớm, vất vả cả ngày rồi!
Vừa ra khỏi nhà cậu Hai Bảnh, Tư Long vỗ vai Hai Rồng, thân mật nói:
-Tôi mời chú Hai lại đằng nhà sàn uống trà. Nói thiệt, tôi có chuyện nầy muốn hỏi riêng chú Hai!
Hai Rồng hiểu ý, quay sang Bền đang đi bên cạnh, nói:
-Bền à, con đi xuống ghe trước, đừng chờ tía! Chút nữa tía về!
oOo
Trên căn nhà sàn vắng vẻ, cả hai ngồi đối ẩm. Hai Rồng hỏi:
-Anh Tư có chuyện gì cứ nói thẳng, đừng khách sáo nghe!
-Chuyện là như vầy, – Tư Long ngập ngừng, nói- Chú Hai biết gia cảnh của cậu Hai Bảnh rồi đó, chỉ có một cây một trái mà lại là con gái. Ông bà Bảnh nhờ tôi hỏi ý chú Hai là muốn nhận cháu Bền làm dưỡng tử. Sau khi giải quyết vấn đề biên giới, gia đình sẽ đưa cháu Bền về Sài Gòn chung sống. Cậu Hai Bảnh hứa sẽ cho cháu Bền học hành tới nơi, tới chốn để sau nầy giúp dân, giúp nước theo ý nguyện của cháu. Chú Hai nghĩ sao, xin cho biết ý kiến?
-Việc nầy không tùy thuộc ở tôi mà tùy cháu Bền, – Hai Rồng nói- Ông bà Bảnh quả có con mắt biết nhìn người, cháu Bền là một người rất coi trọng tình nghĩa, hoài bảo lớn. Nếu được ông bà Bảnh thương tình nhận cháu làm dưỡng tử, tôi cũng yên lòng. Nhưng tôi e rằng, nó sống trong cảnh nhà cao cửa rộng như một cái lồng son chật chội, không dễ gì giữ được một con đại bàng. Cháu Bền, theo tôi hiểu, nó không tham danh, hám lợi, cháu đã quyết chí đi theo con đường của tôi, xã thân vì đại cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Cháu Bền tuy còn trẻ, nhưng có thái độ và mẫu mực của một trượng phu quân tử: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.
Tư Long nói:
-Nếu chú Hai cho phép, tôi hỏi ý cháu Bền xem sao.
Hai Rồng nói:
-Anh Tư hỏi đột ngột quá, làm nó khó trả lời! Phải cần có thời gian cho nó suy nghĩ. Vì vậy, sau khi giải quyết vấn đề biên giới với Thạch Sum, tôi chèo ghe trở lại cù lao Ông Chưởng một mình để cháu Bền ở lại gia trang cậu Hai Bảnh với anh Tư. Cứ coi như là thời gian thử thách ý chí của nó. Biết đâu cháu sẽ đổi ý định!
-Như vậy thì hay quá! – Tư Long mừng rỡ, nói- Chú Hai ngồi đây uống nước trà, tôi xuống ghe gặp cháu Bền trước! Hỏi ý cháu xem sao cái đã!
Tư Long vừa bước ra khỏi ngưỡng cửa gặp Sáu Trí, cập nách chai rượu Martel, dẫn theo Mười Dần lơn tơn đi tới. Sáu Trí hỏi:
-Tối hù rồi, đi đâu vậy, cha nội!
Tư Long nói:
-Tôi đi xuống ghe, gặp cháu Bền hỏi chút chuyện mà! Còn hai chú đi tìm tôi có việc gì không?
Sáu Trí nói:
-Cậu Hai Bảnh tặng cho anh em tụi mình một chai rượu Tây, nhậu chơi cho đở buồn. Sao, có gì làm mồi không, anh Tư?
-Còn mấy con khô sặc và khô cá lóc treo trên dàn bếp! Tự túc nhóm lửa, nướng khô làm mồi nhậu, một chút nữa tui trở lại! – Tư Long nói.
oOo
Đằng sau chiếc ghe cà dom, giờ nầy còn ánh lửa chập chờn. Tư Long đứng trên bờ rạch, hỏi:
-Đang làm gì đó hả, Bền?
-Dạ, con đang nhúm lửa nấu cháo khuya cho tía! Ông Tư xuống đây nói chuyện chơi!
-Được, ông Tư xuống liền!
Bền đang thò tay xuống rạch, múc nước cho vào cái nồi đồng vo gạo, xong rồi đặt lên cái cà ràng. Tư Long giúp chất thêm củi tràm vào cái cà ràng. Những thanh củi dần dần đỏ hồng lên, phát ra những tiếng nổ lách tách. Bền lấy cái ống tre, thổi một hơi dài vô mấy thanh củi tràm đang cháy, ngọn lửa đỏ bùng lên, tỏa sáng ôm lấy đáy nồi đồng…
Bền nói:
-Để con nướng mấy khúc khô lươn cho ông Tư nhậu nghen!
-Còn rượu đế không, Bền? – Tư Long hỏi.
-Dạ, còn chừng một xị! Ông Tư nhậu đở nghen!
Bền vói tay lên mui lấy mấy khúc lươn ướp sả ớt đang hong khô trên dàn bếp, rồi lấy một thanh tre ghim mấy khúc kho lươn vào nhau, đem nướng. Mùi khô lươn bốc lên thơm phức làm Tư Long thèm nhểu nước miếng, hỏi:
-Xị rượu cất ở đâu vậy, Bền?
-Ông Tư thò tay vô khoang, xị rượu con để trên vách, cạnh chỗ nằm của tía!
Tư Long nghiêng đầu vô cửa khoang, vói tay lấy xị rượu. Bền lấy ngay xâu khô lươn còn bốc khói đưa tới trước mặt. Tư Long xé một miếng khô lươn cho vào miệng nhai trệu trạo cho có lệ, xong đưa xị rượu lên môi, ực một cái, nhắm mắt lại để tận hưởng chất men nồng. Tư Long hỏi:
-Bền à, ông Tư có chuyện nầy hỏi cháu! Mong cháu trả lời thành thật với lòng minh nghen, Bền!
Bền hỏi:
-Chuyện gì có vẻ quan trọng quá vậy, ông Tư?
Tư Long hỏi:
-Ông bà Bá hộ Bảnh muốn nhận cháu làm dưỡng tử, cháu nghĩ sao? Ưng hay không? Nói cho ông Tư biết coi!
Bền hỏi lại ngay:
-Đối với một con người bình thường, khi đã thọ ơn ai thì cái ơn gì lớn nhứt mà suốt đời họ không thể trả nỗi?
Tư Long đáp:
-Ơn cứu tử, phải không Bền?
-Chính xác! -Bền nói- Ông Tư biết rồi, con còn mạng sống trên cõi đời là nhờ tía Hai Rồng, đó là cái ơn cứu tử con luôn ghi tâm, khắc cốt. Nay, con vì ham giàu sang, phú quý mà bỏ tía, đi làm con nuôi một ông bá hộ giàu có. Con sẽ trở thành con người vô ơn bạc nghĩa trái với đạo làm người. Thử hỏi, một thanh niên đã có bản chất tồi tệ như vậy, ông bà Bá hộ Bảnh nhận làm dưỡng tử để làm gì, phải không ông Tư?
Tư Long nghe thằng Bền hỏi, cứng họng bèn vỗ đùi một cái đét, nói:
-Đúng! Đúng lắm!…Thiệt cha rồng, con rồng quả không sai!
Bền khều Tư Long, nói nhỏ:
-Ông Tư, cho con nhậu thử một miếng coi!
Tư Long mỉm cười, khuyên:
-Cháu còn trẻ, không nên tập uống rượu! Rượu chè be bét chỉ làm hư người, ích lợi gì, cháu!
Bền nói:
-Con gần 18 tuổi đầu rồi, đâu còn trẻ con nữa. Con nghe các kiện tướng trong làng nhậu nói: Nam vô tửu, như kỳ vô phong, bộ ông Tư quên rồi sao?.
Tư Long bất đắc dĩ nói:
-Thôi được, cho cháu uống thử một hớp, cho biết cay đắng mùi đời. Chỉ một hớp thôi nghen!
Bền cầm xị rượu đưa lên miệng, tu một hơi. Rượu vừa nồng vừa cay, trôi qua cổ họng, xuống dạ dày, rồi thấm vô máu làm cả người của nó nóng bừng lên, máu dội ngược lên đầu, mấy sợi gân máu căng lên khiến Bền choáng váng, ngồi bệt xuống ghe thở dốc.
-Uống rượu như vậy, không phải cách, – Tư Long nói- Phải uống từ từ, từng hớp một, rượu đế mà, chớ đâu phải nước lạnh!
Nước trong nồi cháo bắt đầu sôi ùng ục, hơi nước bốc lên đẩy nhẹ cái nắp nồi tưng lên, nước cơm màu trắng đục như sửa, sủi bọt trào ra miệng nồi, nhỏ từng giọt trên than hồng, phát ra những tiếng xèo…xèo như miếng thịt nướng tươm mở trên lửa than. Tư Long vói tay bớt lửa.
Bền nhìn dòng nước chảy, rồi trầm ngâm, nói:
-Lạ quá, sao con có cảm giác là tía và con chia tay tại bến nước nầy, không biết bao giờ gặp lại nữa. Hai thanh đoản kiếm là hai vật bất ly thân của tía, mà tại sao tía tặng lại cho một thanh, gọi là vật kỷ niệm?
Tư Long an ủi:
-Cháu biết không, mây bay ở trên trời, bèo dạt trên sóng nước, hợp nhau lại để rồi tan. Con người cũng vậy, họ gặp nhau ở một khoảng đời nào đó rồi chia tay, mỗi người một hướng đi. Sanh ly, tử biệt là chuyện thường tình của người thế gian. Vậy, cháu đừng bận tâm làm gì.
Bền thắp ngọn đèn bão móc trên cây sào tre. Ánh đèn dầu leo lét, hắt hiu hất cái bóng của Bền lướt chập chờn trên sóng nước. Tiếng cú kêu đêm từ mấy lùm cây bên kia con rạch, nghe buồn man mác.
Bền nói:
-Buồn quá ông Tư ơi! Cho con xin một hớp rượu nữa.
Tư Long nói:
-Được, còn một ít rượu trong chai. Ông cháu mình cưa đôi, rồi đi ngủ là vừa.
Bền cầm chai rượu, nói:
-Nam vô tửu như kỳ vô phong! Vô ông Tư!
Ực xong một hớp rượu còn lại trong chai, Bền lật đật chui vào trong khoang nghe, chun vào nóp, đánh một giấc cho tới sáng bét..
CHƯƠNG MƯỜI HAI
ĐỒNG THÁP MƯỜI THỜI KHẨN HOANG
Trong thời gian ngắn ngủi còn lại, Hai Rồng rất bận rộn, ban ngày lo đôn đốc công việc, chỉ điểm võ thuật cho anh em lực điền, tối đến còn lo sinh hoạt với họ. Hai Rồng hướng dẫn tỷ mỉ từng bước kế hoạch đột kích sào huyệt Thạch Sum trên một cái sa bàn, được đấp bằng đất sét do đích thân Hai Rồng tự làm lấy, trông giống như địa thế thật được thu nhỏ lại, để cho từng bộ phận nghiên cứu và học tập kỹ lưỡng.
Còn chú Tư Long lo kiểm tra tất cả dụng cụ, phục vụ cho kế hoạch nầy như xăng dầu, xuồng ba lá, chông tre vót nhọn… đã đầy đủ, duy chỉ còn thiếu 30 mũi giáo để tra vào đầu côn tầm vông, làm thành cây giáo dài, một loại vũ khí thô sơ, ngọn giáo tầm vông của đoàn nghĩa binh Nguyễn Trung Trực, Trương Công Định, Đức Bổn Sư Ngô Lợi… đã đi vào lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của đồng bào vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và nó đã thành biểu tượng tinh thần đấu tranh bất khuất và kiên cường của cả dân tộc ta từ ngàn xưa, vẫn còn tồn tại cho đến mãi ngày hôm nay. Vì vậy, Tư Long nói với Hai Rồng:
-“Chúng ta còn khoảng 3 tuần lễ nữa là khởi sự thi hành kế hoạch, tôi muốn nhờ cháu Bền đi với tôi xuống lò rèn của anh Bảy Búa ở ấp Lò Gạch trên kinh Bảy Thước, rèn cho vài chục mũi giáo, chú Hai nghĩ sao?”
-“Được quá đi chớ!” Hai Rồng hỏi. “Bao giờ anh Tư đi xuống đó?”
-“Sau bữa cơm trưa thì lên đường cho kịp con nước.” Tư Long nói.
-“Bao giờ anh Tư và thằng Bền trở về?” Hai Rồng hỏi.
-“Chậm lắm là sáng mai! Tôi sẽ trả tiền gắp đôi, để họ tập trung rèn đủ số lượng cho lẹ.”
-“Thôi được, để tôi biểu thằng Bền chuẩn bị đi với anh Tư nghe!”
o O o
Cơm nước xong, cả hai ông cháu xuống ghe tam bản theo con nước ròng, chèo xuống ấp Lò Gạch nằm trên con kinh Bảy Thước. Thằng Bền sức trai khỏe mạnh, vun mái chèo ào ào, khoảng xế chiều gần tới nơi. Từ phía xa, Bền đã nghe tiếng búa đập những thỏi sắt trên đe nghe chan chát. Cái lò rèn cha truyền con nối của Bảy Búa hoạt động trên kinh Bảy Thước từ mười mấy năm nay, khá phát đạt. Cha Búa, con Đe gộp lại thành cái tên hiệu lò rèn “Búa Đe” nỗi tiếng vùng Mộc Hóa vào thời đó. Hầu hết các dụng cụ nhà nông như: phảng, dao mác, lưỡi liềm… đều do lò rèn nầy sản xuất.
Ghe vừa cập bến, Bền cắm sào bên cạnh cây cầu dừa, rồi theo Tư Long bước lên trên khu lò rèn. Bền thấy 5 anh thợ rèn còn trẻ, dang những tấm lưng trần nhễ nhại mồ hôi, lấm lem bụi than đang vung búa tạ, đập những thỏi sắt được nung đỏ rực trên 5 cái đe, tiếng búa nện chan chát nghe đinh tai. Họ chỉ dừng tay khi miếng sắt nguội dần rồi dùng kềm gắp bỏ xuống lò nung, lúc nào cũng đỏ rực than hồng. Người quạt lò nung miếng sắt cho đến khi đỏ rực lên, giao lại cho người thợ rèn và công việc được lập lại liên tục cho đến thỏi sắt thành hình nông cụ.
Tư Long hỏi một thợ rèn, đang uống nước bên cái lu mái dầm:
-“Chú Bảy Búa có ở nhà không vậy, cháu?”
Anh thợ rèn lễ phép, nói:
-“Dạ có, ổng đang ngồi uống nước trà đằng kia, vừa rà soát lại mấy cái nông cụ mới làm xong.”
-“Cám ơn cháu!” Tư Long nói.
Bảy Búa ngồi bên cạnh cái bàn gỗ, đang ngắm nghía kiểm tra kỹ lưỡng một lô sản phẩm mới ra lò, trước khi giao cho khách hàng. Nhìn thấy Tư Long đang đi tới, mừng rỡ, hỏi:
-“Bữa nay, rồng đến nhà tôm, chắc có chuyện gì phải không, cha nội?”
Tư Long gật đầu, nói:
-“Tôi định nhờ chú rèn gắp rút 30 mũi giáo trong vòng 3 ngày, được không đó, cha nội?”
-“Rèn dao làm chi nhiều vậy cha?”
Tư Long nói:
-“Không phải rèn dao mà là rèn giáo cha nội ơi!”
Bảy Búa nói:
-“Nếu anh Tư cần gấp, tui có thể giao cho anh 30 cây dao có sẵn ở trong kho.”
Tư Long nói:
-“Giáo chớ không phải dao! Bộ chú điếc hả?”
Nghe tiếng ồn ào, Hai Đe lật đật bỏ cây búa xuống, chạy tới nói:
-“Xin lổi chú Tư nghen! Dạo nầy, tía con bị lãng tai dữ lắm! Chú thông cảm. Tía con theo nghề tổ truyền nầy gần mấy chục năm. Suốt ngày làm việc trong tiếng búa đập sắt trên đe chan chát như thế nầy, màng nhỉ nào chịu cho thấu. Con đây rồi cũng chịu chung số phận như vậy thôi.”
-“À, bây giờ chú Tư mới hiểu,” Tư Long nói. “Chú mới tới cái lò rèn nầy chưa tới nửa giờ mà tai đã nghe ù ù rồi.”
Hai Đe hỏi:
-“Chú Tư định nhờ tía con rèn cái gì vậy?”
Bảy Búa nói:
-“Chú Tư muốn nhờ tía rèn 30 con dao. Trong kho có đủ rồi, cứ lấy ra giao cho chú Tư mầy trước, rồi rèn 30 con dao khác, giao cho khách hàng sau cũng được mà.”
Hai Đe hỏi:
-“Có phải vậy không, chú Tư?”
Tư Long cười, nói lớn cho Bảy Búa nghe luôn:
-“Chú cần tía con rèn gắp 30 mũi giáo, chớ không phải dao.”
-“À ra thì như vậy, giáo chớ không phải dao nghe, tía!” cậu Hai Đe hỏi. “Bộ chú Tư tính đi kháng chiến thiệt hả? Cho con đi theo đánh Tây với, con nói thiệt đó!”
Tư Long nói:
-“Chú cần 30 cây giáo để trang bị cho mấy cậu lực điền để họ tự đảm trách việc bảo vệ đất đai, mồ mả ông bà tại vùng biên giới Việt – Miên trước đã. Còn việc đi kháng chiến chống giặc Pháp, phải chờ Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ phất cờ khởi nghĩa thì chú sẽ dẫn cháu qua cù lao Ông Chưởng tham gia nghĩa binh.”
-“Việc nầy, con có nghe mấy anh em tá điền của ông Bá hộ Bảnh ở bên ấp Bầu Biển nói. Họ còn khoe với con là sau khi giải quyết vụ tranh chấp vùng biên giới với đảng cướp Thạch Sum. Ông bà Bảnh sẽ chia hết đất ruộng của mình cho tá điền tự làm chủ lấy phần đất của mình,” Hai Đe nghi ngờ, hỏi. “Mà chuyện nầy có thiệt không hả, chú Tư?”
-“Không có lửa làm sao có khói hả, cháu?” Tư Long nói. “Chuyện là như vậy, thiệt đó!”
-“Vùng đồng bằng sông Cửu Long nầy, ông Bá hộ Bảnh là một vị đại điền chủ nhơn đức chỉ có một, chớ không có hai!” Hai Đe giọng khâm phục nói, rồi hỏi tiếp. “Chú Tư cần 30 mũi giáo nầy có gắp lắm không?”
-“Trong vòng 3 ngày, nhắm xong không, cháu?”
-“Tụi cháu sẽ cố gắng rèn cho đủ số càng sớm càng tốt. Khi nào xong, cháu sẽ bơi xuồng ra vàm kinh Cái Cơ giao cho chú Tư, được không chú?”
-“Được như vậy, tốt quá!” Tư Long lấy tiền trong túi áo giao cho Hai Đe, nói. “Chú Tư đặt tiền cọc 50 đồng trước cho cháu!”
-“Chú Tư đưa tiền cho cháu nhiều quá vậy? Cháu chỉ nhận 30 đồng thôi!”
-“Ậy, sao khách sáo quá vậy? Cứ nhận đi cháu, số tiền còn lại gọi là chút quà thưởng cho anh em thợ rèn giúp chú,” Tư Long nói. “Thôi, bây giờ chú Tư phải chèo ghe về nhà cho kịp con nước lớn!”
-“Ê, cha nội! Anh em lâu ngày mới có dịp gặp nhau. Anh phải ở lại nhậu với vợ chồng tui một chầu rượu. Uống không say, không về nghen cha!” Bảy Búa bất bình, nói. “Anh mà không ở lại với nhậu với tui tối nay, dứt khoát tui không nhận rèn 30 mũi giáo hay dao gì đó cho anh đâu!”
Tư Long cảm động, nói:
-“Ừ, nhậu thì nhậu, sợ gì ai chớ!”
-“Thôi, bây giờ tui đưa anh lên nhà trên giới thiệu tía của tui với anh, rồi tụi mình nhậu lai rai vài sợi trước cái đã.”
Tư Long gọi Bền đang đứng nói chuyện với Hai Đe:
-“Bền à, tối nay mình ở lại nhà bác Bảy Búa chơi một đêm. Sáng mai, mình trở về nhà nghen, cháu!”
-“Dạ, sáng mai về nhà cũng được mà, có sao đâu, ông Tư!” Bền nói đùa. “Để cháu ở dưới nầy học nghề rèn với anh Hai Đe.”
Hai Đe nghe Bền nói, cũng ngạc nhiên, hỏi:
-“Bộ cậu em cũng muốn học nghề rèn thiệt hả?”
-“Biết thêm một nghề để mưu sinh cũng tốt chứ sao, anh Hai!” Bền nói. “Nói đùa với anh thôi! Lúc trước, Bền có nghe tía bàn chuyện với chú Ba Hổ là chiến khu cần có một “công binh xưởng” gì đó, để sản xuất vũ khí như giáo mác, mã tấu để đánh Tây.”
-“Thì cái lò rèn “Búa Đe” cũng giống như một cái công binh xưởng được thu nhỏ lại; thay vì, sản xuất vũ khí, tụi nầy sản xuất nông cụ cho bà con nông dân làm mùa,” Hai Đe nói. “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách! Nếu một ngày nào đó, tổ chức kháng của tía cậu muốn mở một “công binh xưởng”, cần những thợ rèn có tay nghề cao, Bền báo cho tui biết, tụi nầy sẽ tình nguyện kéo hết qua bên đó giúp một tay.”
-“Tía Bền mà biết chuyện nầy, chắc tía mừng lắm!” Bền nói. “Đó là chuyện tương lai, còn chuyện trước mắt, anh chỉ cho Bền bí quyết, muốn rèn một cây mã tấu phải trải qua những giai đoạn gì?”
Hai Đe dẫn Bền đi vòng quanh khu vực lò rèn quan sát cách làm việc của mấy người thợ rèn, mấy người phụ trách thổi lò, những người mài, giũa nông cụ, rồi nói:
-“Trước hết, nghề rèn là một nghề lao động rất cực nhọc. Ngày nào chí những ngày nấy, người thợ rèn phải làm việc quần quật bên cạnh những lò than lúc nào cũng đỏ rực lửa, hai bàn tay lúc nào cũng nắm chặt cán búa nặng trên 5 kí lô, miệt mài dỡ lên, dập xuống liên tục những khối thép đỏ hồng.” Hai Đe sè hai bàn tay của mình cho Bền coi, rồi nói. “Hai bàn tay của người thợ rèn chuyên nghiệp nào cũng bự chè bè, đầy những cục chai sần, thô kệch như thế nầy. Nghề rèn còn gọi là nghề của bắp thịt, nếu không có sức làm không kham nỗi đâu. Có biết bao nhiêu người vào nghề chỉ mới vài name, đành phải bỏ nghề.”
-“Từ một cục sắt hoặc thép đến khi hoàn thành một nông cụ, nó sẽ qua những giai đoạn nào vậy, anh Hai Đe?” Bền hỏi.
Hai Đe thấy Bền có ý học hỏi, hỏi bèn tận tâm chỉ dẫn rành mạch:
-“Trước hết phải cho người đi dọ hỏi để mua sắt, thép vụn tại miền lục tỉnh, có khi lên tận Sài Gòn, Gia Định. Thông dụng nhứt là các nhíp xe hơi phế thải được khách hàng rất ưa chuộng vì độ bền của nó, rồi chở về lò rèn bằng mọi phương tiện như tàu đò, ghe xuồng, xe ba gác…Kế đến là giai đoạn phân loại tốt xấu để tính độ bền của vật dụng. Sau đó, muốn rèn thành một nông cụ theo yêu cầu của khách hàng, phải trải qua nhiều giai đoạn: tạo dáng, nung đỏ, phá vóc, đàn nguội, trui và giai đoạn cuối cùng là mài sắc. Nguy hiểm nhứt của nghề là khi về già, ai nấy cũng bị bịnh về thính giác: nhẹ thì lãng tai, nặng thì điếc. Do sáng kiến của tôi, dùng rễ cây bần phơi khô, chuốt nhỏ bằng một lóng tay, nhét vào lỗ tai, làm giảm âm thanh của búa đe chan chát suốt ngày, cũng đở lắm.”
-“Thu nhập của mấy anh thợ rèn “xóm bắp thịt” nầy có đủ sống không, anh Hai Đe?”
-“Trước đây, ấp Lò Gạch có tới 4 lò rèn truyền thống. Bây giờ, không còn rộn rịp như xưa nữa, chỉ còn lò rèn “Ba Đe” là còn hoạt động, vì đó là nghề của ông cha truyền lại, còn 3 lò kia đã đóng cửa từ lâu rồi. Tôi dám nói, không nghề lao động tay chưn nào nặng nhọc như nghề rèn. Họ làm quần quật từ sáng tới chiều là tay chưn họ rã rời, ngày hôm sau dỡ búa không muốn nỗi, nên đa số phải bỏ nghề rèn, đầu quân sang mấy lò gạch ở tuốt xóm trên.”
Bền nói:
-“Hèn chi, lúc chèo ghe trên kinh Bảy Thước, Bền để ý nhìn dọc theo hai bờ kinh chỉ thấy nhà cửa của đồng bào lụp xụp với cấu trúc đơn giản: hầu hết nhà chỉ có một gian chính với một chái, chỉ cần một ít gỗ tre để làm sườn, còn mái che và hai bên vách dựng bằng lá dừa nước hay ván dầu.”
Hai Đe nói:
-“Nhận xét của cậu rất đúng, xóm lò rèn nghèo như vậy. Nhưng, còn xóm “lò gạch” thì biểu hiện sự ăn nên làm ra của mấy ông chủ làm gạch. Nhà cửa họ rất khang trang, cất theo kiểu hình chữ “Đinh” được xây cất bằng gạch, mái lợp ngói âm dương, cửa bằng kính, có cổng sắt.”
Bền không hiểu, hỏi:
-“Nhà cất theo hình chữ “Đinh” hình dáng của nó ra làm sao?”
Hai Đe nói:
-“Đó là một căn nhà rất rộng, gồm một căn nằm ngang và một căn nằm xuôi liền vách với nhau, tức là cây đòn dông nhà trên và đòn dông nhà dưới nằm thẳng góc, nhà thường có dãy hàng ba phía trước, nên nắng không rọi tới, mưa không tạt vào. Có nhiều chủ lò gạch cất nhà năm gian, khi họ có con cái đổ đạt làm quan trong chánh quyền hoặc có cơ sở làm ăn ở Sài Gòn.”
Bền nói như nhắc nhở:
-“Trời sắp hoàng hôn rồi, bao giờ họ mới dừng tay?”
-“À, Bền nhắc tôi mới nhớ!” Hai Đe gọi mấy anh thợ rèn ngừng tay và đến trước mặt mình, nói. “Bữa nay, lò rèn của mình nhận công việc của chú Tư Long rèn 30 mũi giáo với tiền công là 30 đồng và phải giao hàng trong vòng 3 ngày với tiền thưởng trước 20 đồng. Và đây, 20 đồng tôi đưa trước cho mấy anh chia nhau xài.”
Một người hỏi:
-“Bao giờ mình bắt đầu vậy, anh Hai?”
-“Sáng ngày mai, mình bắt đầu,” Hai Đe hỏi. “Sao, anh em có kham nổi không, nói cho tôi biết.”
-“Dư sức qua cầu mà! Anh Hai yên chí đi!”
Hai Đe nói:
-“Thôi, bây giờ mấy anh về nghỉ sớm! Sáng mai, chúng ta bắt đầu công việc nghe!”
Khi Hai Đe dẫn Bền lên nhà trên, mọi người đã ngồi đông đủ trên cái bèn tròn giữa nhà, chén thù, chén tạc thật vui vẻ. Tư Long giới thiệu Bền với mọi người. Ông Năm Liểng – ông nội của Hai Đe – tuy đã ngoài 80 tuổi với râu ba chòm bạc trắng, nhưng rất còn tráng kiện, da mặt hồng hào. Ông nắm tay Bền thân mật, nói:
-“Hồi nãy giờ, chú Tư Long có nói nhiều về cháu Bền. Nước nhà rất cần những thanh niên yêu nước nhiệt tình như cháu thì đất ta lo gì không quét sạch quân cướp nước ra khỏi bờ cõi! Thôi, ngồi xuống đi cháu, ngồi bên cạnh ông nè!”
Bảy Búa nói với con:
-“Hai Đe à, xuống dưới chái nhà bếp, hỏi má mầy nấu nướng xong chưa? Tía đói bụng rồi đó nghen!”
Hai Đe vừa mới đứng dậy, chưa kịp đi xuống bếp đã thấy mẹ bưng cái nồi cơm nấu bằng gạo “nàng hương” thơm phức để giữa cái bàn tròn, khiêm nhượng nói:
-“Lâu lắm rồi mới thấy anh Tư Long ghé nhà chơi mà không có món ngon vật lạ gì để đãi khách, chỉ có cây nhà lá vườn! Tía tui cũng muốn đi thăm ông bà Bảnh mà cả nhà ai cũng bận, chẳng có ai đưa đi.”
Bảy Búa hỏi vợ:
-“Bữa nay, bà đãi anh Tư Long món gì vậy, má Hai Đe?”
-“Đơn giản thôi,” thím Bảy ra thực đơn. “Cá lóc kho tộ, canh chua cá lóc, gỏi khô cá bông trộn rau, dưa leo và xoài sống đầu mùa.”
Thím Bảy nói xong, quày quả đi xuống bếp, dọn mâm đồ ăn lên bàn, mời mọi người cầm đũa, vừa ăn nhậu lai rai, vừa nói chuyện thân mật. Bền nhìn thấy khoanh cá lóc, đường kính bự bằng cãi dĩa bàn nhỏ, nằm gọn trong tộ, ngạc nhiên, nói:
-“Con cá lóc nầy bự tổ chảng à nghen, ông Tư!”
-“Cá lóc bự cỡ đó mà nhằm nhò gì cháu. Ở vùng nầy, dân tát đìa bắt được nhiều con cá lóc nặng tới 6, 7 kí lô, chiều dài gần nửa thước là chuyện thường,” ông Năm Liễng nói. “Hồi mười mấy năm về trước, qua theo ông nội của thằng Bảnh vào khẩn hoang lập ấp vùng nê địa hoang vu nầy, qua bắt được nhiều con cá bông có sọc xanh, sọc đỏ gọi là “cá bông gấm” có râu, sống hằng chục năm trong mấy vạt lung đìa, chưa có người đặt chân tới bao giờ. Loại cá bông nầy hung dữ lắm, có người không biết lội bừa xuống đìa bị nó rượt, táp mất của quý trở thành thái giám suốt đời.”
Bền nói:
-“Cháu thấy cá lóc và cá bông trông giống như nhau, làm sao phân biệt được hả, ông Năm?”
-“Trông giống vậy mà không phải vậy đâu,” ông Năm Liễng giải thích. “Con cá lóc, nói chung là loại cá đồng như cá rô, cá trê…hễ trời mưa lớn là có trứng. Con cá bông lại khác, khoảng tháng 6 âm lịch mới mang trứng, nó theo mấy lạch nước vào mấy miệng lung đìa quầng ổ để đẻ. Cá bông là một loại cá rất hung dữ, nhứt là khi bảo vệ đàn cá ròng ròng, nó hay tấn công người rất táo tợn. Cá bông đẻ trứng trong tháng 6 đến tháng 10 thì cá ra sông, đó cũng là mùa “săn cá bông” của đồng bào miệt Đồng Tháp Mười.”
Bảy Búa nói:
-“Tía tôi, tuổi đời trên 80 mà vẫn còn thích đi săn cá bông lắm. Có ngày ổng bắt được cả chục con, ăn không hết thì làm khô.”
Ông Năm Liễng nói:
-“Mỗi người có cái thú riêng của họ, có người thích “gác cu”, có người thích đờn ca, xướng hát hoặc chơi cờ tướng…Còn qua chỉ thích săn cá bông, thú lắm!”
Bền hỏi:
-“Ông săn cá bông bằng cách nào?”
-“Cái thú nhứt là dùng chĩa đâm. Cách nầy nó tập cho mình cái tánh kiên nhẫn, bình tĩnh, và kỷ thuật yên lặng rình con mồi,” ông Năm Liễng nói. “Con cá bông ngoi lên mặt nước ngớp lấy hơi, cứ cách 5, 10 phút một lần, thường thì nó lựa bóng râm của cây cối ven sông hoặc trên kinh rạch. Có ngày ông thủ cây chĩa, ngồi thu mình trong tum, hoặc trên mấy cháng cây nhô ra bờ sông, kiếm được chục con cá bông như chơi.”
Bền hỏi:
-“Như dùng chĩa đâm cá bông, chắc phải có bí quyết, phải không ông?”
-“Nghề nào cũng có bí quyết do kinh nghiệm mà có, nên họ thường dấu nghề riêng để làm ăn một mình,” ông nói. “Thôi, để qua chỉ cho cháu bí quyết, nhớ là khi con cá bông trừng cái đầu lên mặt nước ngớp, chớ vội đâm là không đúng lúc, vì đầu và vẩy của nó cứng lắm. Phải đợi nó khi ngớp xong, lặn trở đầu xuống thì phóng cây chĩa xuống, mũi chĩa xuyên dưới lớp vẫy cá, cứ mỗi mũi phóng xuống là dính một trự, thấy ham lắm!”
-“Tía tui tuy già mà còn gân lắm, tay chưa run mói là lạ; có lẽ, nhờ hồi trẻ luyện “võ búa” nên cánh tay còn cứng lắm. Tụi thanh niên phải còn bái ổng là vua săn cá bông vùng nầy đó!” Bảy Búa nói. “Ngày mai, vợ chồng tui sẽ biếu anh chục con khô cá bông về nhậu chơi. Khô cá bông mà nhậu với nước trà cũng bắt lắm.”
-“Đây là lần đầu tiên, con nghe chú Bảy nói cá khô nướng mà nhậu với nước trà đó!” Bền thắc mắc, nói. “Sao con thấy mấy tây kiệt xuất trong làng nhậu thì khô nướng phải đi với đế mới bắt chớ!”
-“Đành rằng là như vậy, muốn cạn ly rượu đế phải có gì cay như ớt, chua như cóc, ổi, xoài hay mặn như khô cá sặc, cá lóc, cá khoai, lươn đưa cay mới đúng điệu. Nhưng, uống trà với khô là cái thú tiêu giao của người miền Tây Nam Bộ vô vùng Đồng Tháp Mười từ thời khẩn hoang. Quê của qua ở một khúc sông Tiền, chảy qua làng Mỹ Thạnh ở Cao Lãnh. Hồi mấy chục năm về trước, cha mẹ của qua nghèo rớt mồng tơi, không có một cục đất chọi chim, nên qua đành phải bỏ xứ theo ông nội của thằng Bá hộ Bảnh chèo chống vô vùng nầy khai phá đất hoang vô chủ, mạnh ai nấy phát hoang. Thế rồi, ông nội Bá hộ Bảnh xuất tiền cho nông dân vay hoặc khi túng thiếu làm vốn canh tác với lãi xuất cao. Gặp những năm mùa màng thất bát vì lũ lụt, chim trời, chuột đồng phá phách nên nợ nần chồng chất, không trả nỗi, phải thế chấp đất đai, rồi bán lại cho ông ta với giá rẽ mạt. Nếu ông già của thằng Bảnh còn sống đến giờ nầy cũng trạc tuổi của qua. Hồi đó, chính qua là người chèo ghe suốt đêm, đưa má thằng Bảnh ra nhà bảo sanh ở chợ Thủ Thừa đẻ nó chớ ai. Nhưng, càng lớn lên tánh tình của nó quá quắc, tham lam, bủn xỉn giống hệt ông nội của nó, nên qua mới bỏ qua làng nầy, phụ rèn với ông ngoại thằng Bảy Búa. Ổng thấy qua chí thú làm ăn nên mới gả con gái cho qua, mấy năm sau thì chị thằng Bảy Búa ra đời,” ông Năm Liễng nói. “Qua ghiền uống nước trà với cá khô là do tía vợ. Mỗi khi nhàn rổi, ổng có sở thích không giống ai là thích ngồi một mình rung đùi, nhâm nhi lai rai trà nóng với khô cá lóc nướng. Những dân tứ xứ lưu lạc vùng Đồng Tháp Mười từ hồi khẩn hoang có gì ăn cái nấy, họ tự chế biến những món ăn ngon độc đáo từ con tôm, con cá, con lươn mà cái thú uống nước trà nóng với khô cá đồng nướng là dư vị của di dân Đồng Tháp Mười từ thuở đó.”
Tư Long tò mò hỏi:
-“Bác Năm có mấy người con?”
-“Chỉ có hai con, một gái với một trai. Chị thằng Bảy Búa đã lấy chồng dưới miệt Cà Mau, Bảy Búa chỉ là biệt danh của người trong vùng nầy đặt cho nó, riết rồi chết tên luôn,” ông Năm Liễng hỏi đùa. “Chú Tư biết tại sao, nó có hỗn danh “Bảy Búa” không?”
-“Dạ không!” Tư Long nói.
-“Cây búa của người thợ rèn chuyên nghiệp, nặng tối đa khoảng 5 kí lô là cùng. Một ngày dỡ lên đập xuống cả mấy trăm lần, riết rồi ai cũng oải, có người không kham nỗi phải bỏ nghề. Thợ rèn vùng nầy, chỉ có thằng Ba nó xài búa tạ nặng tới 7 kí lô, nên thiên hạ gọi đùa là Bảy Búa là “búa bảy kí lô”, mấy cái đe ngoài lò rèn là của tía vợ qua truyền lại tới đời thằng Hai Đe là ba đời theo nghề rèn. Có cái đe cũ đã 100 năm rồi,” bỗng ông Năm Liễng bất ngờ, hỏi. “Qua có nghe thằng Hai Bảnh định trả hết đất đai của mình cho tá điền tự làm chủ lấy, mà chuyện nầy có thật hay xạo vậy, chú Tư?”
Tư Long gật đầu xác nhận, nói:
-“Dạ, chuyện nầy thiệt đúng như vậy! Sau khi giải quyết xong vụ biên giới phía Tây Nam với Thạch Sum, cậu Hai Bảnh sẽ dọn về Sài Gòn sống. Sáu Trí sẽ lo việc vẽ họa đồ, phân chia đất đai cho bà tá điền, còn tôi sẽ ở lại trông coi nhà cửa ở kinh Cái Cơ, để thỉnh thoảng cậu Hai Bảnh sẽ về ở chơi, thăm bà con.”
-“Thiệt tình mà nói, qua không ngờ thằng Hai Bảnh biết ăn năn hối cải, sớm giác ngộ sớm như vậy là một điều đáng mừng cho bà con tá điền, mà cũng tốt cho chính bản thân và gia đình của nó nữa. Luật đời nhân quả, gieo hột gì ra trái đó. Cái gia sản kếch sù của Bá hộ Bảnh thừa hưởng hiện nay là do xương máu, mồ hôi, nước mắt của bà con tá điền tạo nên cho gia đình nó hưởng. Hai Bảnh không trả cho họ kiếp nầy, phải trả kiếp sau thôi.”
Hai Đe hỏi:
-“Ông nội nói gì con chưa hiểu cho lắm! Nếu ông Bảnh trả hết đất đai cho tá điền lúc ổng còn hiện diện trong cõi nhân sinh nầy thì sao?”
-“Chỉ gia giảm đi một phần nào “nghiệp chướng” của tổ tiên và bản thân nó gây nên mà thôi!” ông Năm Liễng giải thích. “Nói thí dụ, Hai Bảnh gặp một tai nạn gì đó, thay vì chết thảm khốc, nhưng chỉ bị thương và rồi sẽ tai qua nạn khỏi!”
-“À, bây giờ thì cháu đã hiểu!” Hai Đe nói.
Bảy Búa nói:
-“Như gia đình mình có làm điều gì ác đức với ai đâu. Bỗng dưng, em trai thằng Hai Đe vắng số, bị trời đánh chết trong lúc mưa dầm mà còn nán lại ở ngoài đồng lùa trâu. “Thiên lôi” lấy mạng của tôi một đứa con, “Thủy thần” trả lại tôi một đứa trai khác. Tía còn nhớ trận lụt dữ dội năm Bính Thìn tại vùng Đồng Tháp Mười vào tháng 9 năm 1916 không? Nước lụt mênh mông, người chết không đất chôn, phải chờ nước rút mới có đất chôn. Nhiều quan tài chôn cạn, bị nước cuốn trôi lềnh bềnh trên mặt nước thấy dễ sợ. Sau những cơn mưa dầm kéo dài lê thê từ trung tuần tháng 7 ở bên Miên, mực nước sông Mekong dâng cao chưa từng thấy, rồi đổ vào vùng đồng bằng sông Cửu Long để thoát ra biển Đông. Vì vậy, các tỉnh nằm trong khu tứ giác Châu Đốc – Cần Thơ và Hồng Ngự – Cao Lãnh chịu ảnh hưởng nặng nề nhứt. Trong khi đó, bên miệt Hồng Ngự nhờ có hai con rạch lớn là rạch Sở Thượng và rạch Sở Hạ dẫn nước lụt đổ dồn về những vùng đất trũng Đồng Tháp Mười và Thủ Thừa mới lãnh đủ,” Bảy Búa hớp một ngụm nước trà, hồi tưởng lại chuyện xưa, rồi nói. “Tối hôm đó, ngoài trời mưa lâm râm lạnh lẽo. Gia đình quay quần trong chiếc ghe tam bản, tía đang nhâm nhi mấy con cá sặc nướng với nước trà nóng. Tôi bỗng nghe tiếng con nít khóc, mới đốt đuốc, mở cánh cửa khoang ra ngoài coi. Thì ra, trên giề lục bình, có một thằng bé trai mới sanh chừng vài tháng, nằm khóc trong một cái thúng, ướt như chuột lột, từ đâu trôi tấp vào ghe của mình. Má thằng Hai Đe mới bồng nó vô trong ghe hơ lửa, lấy mền quấn cho nó ấm. Tôi đâu biết gốc gác, tía má nó ở đâu mà giao lại. Cuối cùng, phải nhận nó làm con nuôi và đặt cho cái tên Nguyễn văn Bồng, có nghĩa trôi nổi bềnh bồng trong mùa nước nổi.”
Ông Năm Liễng buộc miệng, khen:
-“Thằng cháu nội ngang hông của qua thông minh, hiếu thảo đáo để. Nhưng, nó nhứt định không theo nghề rèn truyền tử, lưu tôn của gia đình qua.”
Tư Long hỏi:
-“Bây giờ cháu Bồng đang ở đâu, làm nghề gì vậy, chú Năm?”
-“Cháu làm thầy giáo một trường tiểu học ở Tân An,” ông Năm Liễng, nói. “Tụi trẻ bây giờ sống có lý tưởng lắm, đặt việc nước trước việc nhà. Cháu quan niệm, bất cứ giai cấp thống trị nào cũng áp dụng chánh sách “ngu dân dễ trị”; vì vậy, cháu chọn nghề “bán cháo phổi” để nâng cao dân trí. Chuyện trước mắt là phải cố quyết nạn mù chữ cho dân nghèo tại địa phương trước đã! Thôi, để bọn trẻ làm theo lý tưởng của chúng nó, ép nó theo nghề rèn làm gì chớ!”
Thấy trời đã khuya, Tư Long xin cáo từ gia đình ông Năm Liễng, cùng với Bền xuống chiếc ghe tam bản ngủ qua đêm, chờ con nước lớn sáng mai sẽ nhổ sào rời bến. Ông Năm Liễng thấy vậy, nói:
-“Má thằng Hai Đe mau xuống bếp, lấy vài con khô cá bông làm quà biếu chú Tư mang về nhà nhậu chơi, nghe con.”
*
Cũng ngay đêm hôm đó. Một chuyện lạ xảy vào lúc nửa đêm về sáng, Bá hộ Bảnh nửa đêm nằm mơ thấy ác mộng ghê gớm, vùng vẫy la hét: “Cứu tôi với! Cứu tôi với!…” làm cả nhà giựt mình thức giấc. Bà Bảnh phải lay chồng thức dậy, hỏi:
-“Ông chiêm bao thấy chuyện gì xảy ra mà kêu cứu ầm cả lên, làm tui hết hồn, vậy ông?”
Bá hộ Bảnh nói:
“Tui thấy bị cọp vồ! Con cọp nầy to lớn dị thường làm tui sợ đến khiếp đảm luôn. May nhờ có cháu Bền cứu mạng, dùng cây giáo đâm nó chết!”
Bà Bảnh cười đùa, nói:
-“Đây là vùng Đồng Tháp Mười, thời nầy làm gì có cọp mà ông lo! Chuyện chiêm mộng mị mà! Thôi, ngủ tiếp đi ông!”
Bá hộ Bảnh giọng lo lắng, nói:
-“Tôi thiệt không biết, cơn ác mộng nầy báo trước điềm gì đây! Sao tôi cũng hơi lo lo đó, má con Thu Hương!”
Bà Bá hộ trấn an chồng, nói:
-“Từ khi bước chân vô gia đình nầy làm vợ của ông, tôi nghe kẻ ăn người làm than phiền về tánh tình của ông, giống hệt ông nội của ông trước kia đối với tá điền.”
-“Họ nói ông nội của tôi đối với tá điền hồi trước ra sao?” Bá hộ Bảnh hỏi.
-“Chuyện nầy tôi không muốn lập lại, có hay ho gì đâu? Ông phải tự suy nghĩ lấy. Dòng họ nhà mình mấy đời nay ăn ở thiếu phúc đức, nhờ con Thu Hương mà ông sớm giác ngộ, nếu ông có gặp nạn tai gì sẽ có quới nhơn giúp đở. Cơn ác mộng đó là điềm báo trước cho ông biết: “tiền hung hậu kiết”. Không có gì đáng lo!”…
CHƯƠNG MƯỜI BA
THẦN HỔ THIÊN CẨM SƠN
Đúng ba ngày sau, Hai Đe đã rèn xong 30 mũi giáo theo yêu cầu của Tư Long. Sáng sớm ngày thứ tư, Hai Đe bơi xuồng ra vàm kinh Cái Cơ giao hàng. Lúc xuồng vượt qua ấp Bầu Biển một đoạn khá xa, Hai Đe thấy một người đàn ông trung niên đang chèo chiếc ghe tam bản gọi lại, hỏi đường:
-“Chú em ơi! Sắp tới nhà ông Bá hộ Bảnh chưa vậy?”
-“Dạ, sắp tới rồi chú,” Hai Đe nói. “Tôi cũng đang trên đường đi tới đó, chú chèo ghe theo tôi nghe!”
-“Vậy thì may quá! Chú em bơi xuồng chầm chậm, qua mới theo kịp nghe!”
Họ tới vàm kinh Cái Cơ đã nghe tiếng kẻng vanh lên là lúc mọi người dừng tay tập luyện để dùng cơm trưa. Hai Đe tắp xuồng vào cây cầu ván cắm sào, rồi vác cái bao đựng 30 mũi giáo lên bờ. Người đàn ông cũng nối gót theo lên. Ông ta hơi bở ngở nhìn cơ ngơi đồ sộ của Bá hộ Bảnh, hỏi:
-“Có phải đây là nhà của ông Bảnh thiệt không, chú em?”
-“Dạ, thiệt mà! Chú cứ đi theo tôi vô nhà,” Hai Đe chận một anh lực điền đang đi tới, hỏi. “Chú Tư Long có ở nhà không vậy, anh?”
-“Dạ có, hai anh đi theo tui ra ngoài khu nhà bếp, mọi người đang ăn cơm trưa.”
Tư Long đang ngồi trên mâm chiếu dùng cơm trưa với cậu Hai Bảnh, Sáu Trí, Hai Rồng và Mười Dần. Thấy Hai Đe tới giao hàng, Tư Long lật đật đứng dậy, hỏi:
-“Cháu ăn cơm trưa? Mời cháu ngồi xuống dùng cơm trưa với mọi người cho vui,” Tư Long nhìn người khách lạ, hỏi. “Còn ai đây? Sẵn dịp, mời chú em ngồi xuống dùng cơm gia đình luôn, người nhà không mà, đừng ngại gì hết!”
Hai Đe nói:
-“Cháu gặp người nầy trên đường đi, chú hỏi đường tới nhà ông Bảnh. Sẵn dịp, cháu dẫn tới đây luôn.”
Cậu Hai Bảnh nghe nói, đứng dậy, nắm tay người khách lạ, kéo xuống ngồi bên cạnh mình, thân mật hỏi:
-“Chú em là ai, ở đâu tới? Muốn gặp tôi có chuyện gì quan trọng không?”
Người khách lạ tự giới thiệu:
-“Dạ, tôi là Lý văn Phong, trước đây gia đình tôi ở Xóm Kinh Hương Biện Leo, nằm trên kinh Tri Tôn. Mươi năm trước, ông Bảnh qua đêm tại xóm nầy để sáng mai leo núi Cô Tô, bắn hạ “ông Một” trừ hại cho dân làng. Không biết ông còn nhớ không? Bây giờ gia đình tôi di dời về quê nội ở ấp Vồ Đầu thuộc núi Cấm, xã An Hảo, quận Tịnh Biên.”
Cậu Hai Bảnh nói:
-“À, tôi nhớ rồi! Hôm nay, chú em đến đây thăm tôi hay có chuyện gì nhờ tôi giúp, phải không?”
-“Dạ phải, chuyện là như vầy,” cậu Phong nói. “Đa số dân quận Tịnh Biên sống bằng nghề rừng, trồng rẫy và đặc biệt là khai thác cây thuốc nam, kho dược liệu thiên nhiên vô tận, có vô số dược liệu quí giá như: Hà Thủ Ô, Đỗ Trọng, Sa Sâm…dùng để chửa trị cho bà con vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Nếu có dịp đi ngang qua thị trấn Nhà Bàng, quận Tịnh Biên, ông sẽ thấy họ bày bán hàng trăm loại dược thảo thông dụng. Ngoài ven đường, thuốc phơi ngổn ngang. Nhưng, cách đây khoảng hai tháng, trên núi Cấm xuất hiện một cặp “thần Hổ” to lớn dị thường và vô cùng hung dữ, nó thường hay xuống làng cỗng người và trâu bò lên núi ăn thịt. Có mấy người lên núi Cấm hái thuốc Nam mất tích, không thấy họ trở về. Quan chủ tỉnh Châu Đốc có cử mấy tay thiện xạ lên núi Cấm, tìm cách bắn hạ hai con thần Hổ nầy cũng mất tích luôn. Riết rồi, không một ai dám bén mảng lên Núi Cấm nữa. Nên tôi đại diện dân làng xuống đây, khẩn cầu ông ra tay thiện xạ, bắn hạ hai con cọp dữ nầy, như ông đã từng bắn gục “ông Một” ở núi Cô Tô trước đây.”
-“Tôi biết núi Cấm cao tới 716 thước, và chiều dài khoảng 7.000 thước nằm giữa quận Tịnh biên và Tri Tôn. Hồi còn trai tráng, tôi có qua lại săn bắn trên núi Cấm nhiều lần. Núi Cấm có năm chỏm núi cao nhô lên được gọi là “vồ” như: Vồ Đầu cao 584 thước(vồ đầu tiên lên núi qua ngã chợ Thum Chưn), Vồ Bồ Hong cao 716 thước, Vồ Thiên Tuế cao 514 thước, Vồ Ông Bướm cao 480 thước và Vồ Bà cao 579 thước, vì nới đây có Miễu thờ Bà Chúa Xứ.” Cậu Hai Bảnh hỏi. “Hai con Thần Hổ kích thước bự cở bao lớn và thường xuất hiện ở “vồ” nào?”
Cậu Phong thưa:
-“Theo như những người thấy nó xuống núi, cõng trâu bò bự bằng nó, tha lên núi một cách nhẹ nhàng, bề dài của nó đoán chừng 5, 6 thước dư. Hình như, cặp thần hổ nầy xuất hiện khắp nơi trên núi Cấm. Trong đêm tối vắng lặng, người ta nghe tiếng hổ gầm “a-oum” trên núi Cấm vang xa hằng cây số, khi chỗ nầy, khi nơi khác, không biết đích xác nó ở “vồ” nào.”
-“Đây có lẽ giống cọp tôi đã bắn hạ ở núi Cô Tô hồi trước. Giống cọp nầy có nguồn gốc ở phía Nam Ấn Độ có tên khoa học là Panthera Tigris Corbetti. Do điều kiện sanh sống, chúng đi lần xuống vùng rừng núi ở bán đảo Đông Dương: Việt – Miên – Lào, chiều dài của nó trung bình từ 5 tới 6 thước là cùng, bản chất loài hổ nầy rất hung dữ mà tài đánh hơi của nó rất nhạy bén nên rất khó săn được chúng. Hiện tại, tôi và anh em đang bận tìm cách đối phó với bọn cướp Thạch Sum trong vài tuần sắp tới, chưa biết kết quả thắng bại như thế nào? Vì vậy, tôi chưa hứa trước được điều gì với chú em,” bỗng Hai Bảnh hỏi. “Tại sao chú em không xuống Cần Thơ, nhờ ông Cao giúp đở? Ông Cao là nhà vô địch thiện xạ tại vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, không ai sánh kịp, kể cả tôi nữa.”
Cậu Phong nói:
-“Dân làng có cử người khác xuống Cần Thơ tiếp xúc với ông Cao. Nhưng, ông Cao đã tuyên bố giải nghệ, thề không cầm tới súng đi săn nữa!”
Năm Dần xen vô, nói:
-“Hay là cậu Hai để tui đi lên Châu Đốc thử thời vận được không? Biết đâu phước dân làng, may cho thợ săn “chó táp phải ruồi” thì sao?”
Hai Bảnh lắc đầu, nói:
-“Anh chỉ có kinh nghiệm tác chiến, chưa có kinh nghiệm đi săn ác thú bằng tôi đâu. Lỡ có chuyện xảy ra, làm sao tôi ăn nói với chị Năm đây? Vả lại, anh xa quê hương trên 10 năm trời, phải để anh ở nhà hủ hỉ với gia đình chớ! Tôi đã chọn người theo tôi săn cọp dữ rồi.”
Cậu Phong mừng rỡ, nói:
-“Như vậy, ông chịu giúp dân làng chúng tôi rồi, phải không ông?
-“Nếu giải quyết êm đẹp vụ biên giới với Thạch Sum, tôi nhứt quyết sẽ đi Châu Đốc, giúp đồng bào Tịnh Biên săn cọp dữ trừ hại cho bá tánh,” Hai Bảnh nói. “Tôi có người bà con ở xóm Hương Tuần Xáng trên kinh Tri Tôn. Khi nào tôi tới đó, sẽ cho người báo chú em biết tới đón tôi.”
Cậu Phong đứng dậy, chưa kịp chào từ giã mọi người. Tư Long chận lại, nói:
-“Chú em phải dùng cơm trưa cho no bụng, rồi lên đường cũng chưa muộn mà,” quay sang Hai Đe, Tư Long nói. “Phải ăn cơm rồi mới được về nghe, đồ ăn còn ê hề trên mâm. Mời mọi người tiếp tục cầm đũa đi chớ, cho khách tự nhiên!”
Riêng cậu Hai Bảnh trong lòng buâng khuâng nghĩ tới cơn ác mộng hôm trước, tự hỏi: “Điềm chiêm bao linh ứng như vậy sao ta?” Hai Bảnh cực chẳng đã ăn uống qua loa để cầm chưn khách. Xong bữa cơm, mọi người tiễn khách ra bờ rạch Long Khốt. Cậu Hai Bảnh nói với Tư Long:
-“Chút nữa chú Tư vô nhà, gặp vợ chồng tôi bàn chút chuyện nghe!”
Tư Long gật đầu, ôm mấy chục mũi giáo đưa cho Bền để tra vào đầu gậy tầm vông, rồi quày quả vô nhà trên. Vợ chồng Hai Bảnh đang ngồi trên bộ ghế tràng kỷ chờ. Tư Long hỏi:
-“Cậu và mợ Hai có chuyện gì cứ chỉ bảo?”
Bà Bảnh lên tiếng trước:
-“Không giấu gì anh Tư. Cách đây 4 hôm, ông Bảnh nằm chiêm bao thấy bị một con cọp bự lắm vồ. Ổng kêu cứu ầm cả lên, nghe phát sợ! Tôi mới vừa nghe ổng nói, có người dân ở Tịnh Biên xuống đây nhờ ổng săn cọp dữ giúp đồng bào. Không lẽ, cơn ác mộng linh ứng lẹ như vậy sao nè chời?”
-“Bà nầy, nói có đầu mà thiếu khúc đuôi,” Hai Bảnh nói. “Trong lúc thập tử nhứt sanh, cháu Bền nhào đúng lúc, dùng giáo đâm chết “thần hổ” cứu mạng.”
-“Bây giờ cậu Hai tính sao? Mình có thể nhờ người khác, giúp giải quyết chuyện nầy được mà,” Tư Long nói. “Mười Dần cũng là tay thiện xạ trong quân đội viễn chinh Pháp trước đây ở Châu Phi.”
Hai Bảnh lắc đầu, nói.
-“Người lính cầm súng đánh trận, khác với người cầm súng đi săn, nhứt là săn cọp dữ. Mình chỉ bắn nó một phát, viên đạn ta khỏi nòng là nó chết hay mình chết. Nhiều con cọp bị trúng đạn, nhưng vẫn còn sức phóng tới, móc họng người thợ săn cùng chết với nó.”
-“Bây giờ cậu Hai tính sao?” Tư Long hỏi.
Bà Bảnh lên tiếng:
-“Cơn ác mộng đã báo cho ổng biết trước: “Tiền hung hậu kiết”! Ông sẽ được quới nhơn giúp đở, không có gì phải sợ!”
-“Có phải cô nói cậu Bền?” Tư Long hỏi.
-“Đúng y chang,” bà Bảnh ngập ngừng, nói. “Tôi chỉ e chú Hai Rồng không cho cháu Bền đi theo giúp ông Bảnh một tay. Tôi thấy cũng hơi lo.”
Tư Long nói:
-“Để sau vụ đột kích sào huyệt Thạch Sum, giải quyết êm đẹp vụ biên giới Việt – Miên, tôi hứa sẽ nói chú Hai Rồng để cậu Bền ở lại, theo giúp cậu Hai một tay. Việc nghĩa, trừ ác thú giúp đồng bào, chắc chú Hai Rồng không từ chối. Cái khó là không biết cháu Bền có chịu ở lại giúp cậu Hai không thôi!”
Hai Bảnh nói;
-“Anh Tư nói nghe cũng có lý đó, hả má con Thu Hương!”
Ba Bảnh nói:
-“Ông đã hứa thì phải giữ lời! Đối đế, mình phải nhờ anh Mười Dần đi với ông mới được.”
o O o
Hai Đe bơi xuồng về đến nhà, trời cũng chạng vạng. Ở nhà đang chuẩn bị dùng bữa cơm chiều. Vừa thấy mặt Hai Đe, ông Năm Liễng hỏi ngay:
-“Sao, cháu có gặp thằng Hai Bảnh không?”
Hai Đe nói:
-Dạ gặp, ổng mời con dùng cơm trưa, ngồi chung mâm với ổng nữa đó!”
-“Cháu nhận xét thằng Bảnh là người như thế nào?” ông Năm Liễng hỏi.
-“Rất khác xa những gì ông nội nhận xét về ông ta trước đây! Ông Bảnh rất bình dân, giản dị, đối xử bình đẳng với mọi người,” Hai Đe nói. “Nghe nói, sau khi giải quyết vụ biên giới, ông Bảnh sẽ lên núi Cấm diệt trừ cặp thần hổ, giúp dân mấy xã ở Tịnh Biên. Cuộc đi săn hổ nầy rất nguy hiểm, chú Phong dân ở Tịnh Biên nói, cặp hổ nầy ăn thịt rất người lên núi Cấm, tìm hái thuốc Nam.”
-“Ông nội chờ cái ngày nầy đã mấy chục năm, để trở lại vàm kinh Cái Cơ gặp thằng Bảnh,” ông Năm Liễng vuốt chồm râu bạc gật gù, nói. “Sáng ngày mai, con nhờ đứa nào chèo ghe đưa nội tới đó thăm nó.”
Hai Đe nói:
-“Thôi khỏi, để con chèo ghe đưa ông nội đi.”
Sáng sớm cả hai ông cháu lên đường. Khoảng xế trưa, Hai Đe chèo ghe đưa ông nội tới nhà ông Bảnh. Hai ông cháu lững thững đi vô nhà, bất ngờ gặp Tư Long, ông Năm Liễng hỏi:
-“Có vợ chồng cậu Hai Bảnh ở nhà không, chú Tư?”
Tư Long sốt sắng, nói:
-“Dạ có, để tôi đưa ông Năm vô nhà gặp cậu Hai.”
-“Thôi, ông nội vô nhà thăm ông bà Bảnh để con ở ngoài nầy,” Hai Đe quay qua hỏi Tư Long. “Cậu Bền có ở đây không, chú Tư?”
-“Có, cháu đang dạy võ cho mấy lực điền ở trên sân phơi lúa. Cháu ra đó sẽ gặp nó.”
Bà Bảnh đang ngồi uống nước trà, lắng nghe cậu Hai Bảnh ngồi kế bên đọc sách cho nghe. Thấy một ông già lạ mặt, đi với Tư Long bước vô nhà, Hai Bảnh lật đật bỏ sách xuống bàn, đứng dậy gật đầu chào khách, rồi hỏi:
-“Xin lổi, ông tìm gặp ai ở đây?”
Ông Năm Liễng cười, biết thằng Bảnh không nhận ra mình, hỏi:
-“Tôi muốn tìm thăm ông Bá hộ Bảnh, không biết ổng có ở nhà không ta?”
Hai Bảnh chưng hửng, nói:
-“Tôi là Hai Bảnh đây! Xin lổi ông là ai, sao tôi không biết vậy cà?”
Ông Năm Liễng không nói, không rằng, lặng lẽ tới trước bàn thờ tổ tiên đặt giữa nhà, đốt ba nén nhang cắm lên lư hương, rồi chấp tay xá di ảnh cha mẹ của Hai Bảnh. Còn Hai Bảnh cũng bối rối, hỏi nhỏ Tư Long:
-“Ông già nầy là ai vậy?”
-“Cậu Hai không nhớ thiệt sao?” Tư Long nói. “Ông là Năm Liễng, bạn vong niên của tía cậu ngày xưa, nhớ chưa?”
Vừa nghe đến tên Năm Liễng, Hai Bảnh mừng quá hét lên: “Chú Năm!” rồi chạy tới ôm chằm lấy Năm Liễng, nghẹn ngào nói:
-“Chú Năm bỏ đi đâu mất tiêu mấy chục năm trời! Cha con lúc nào cũng nhắc tới chú Năm luôn và dặn con sau nầy phải tìm chú Năm cho bằng được để tạ lổi!”
Ông Năm Liễng nói nửa đùa, nửa thiệt:
-“Sao, bây giờ cháu muốn qua gọi là ông Bá hộ Bảnh, cậu Hai Bảnh hay gọi bằng “thằng Bảnh” như ngày xưa?”
Hai Bảnh cười, nói:
-“Thôi mà chú Năm, cứ gọi cháu là “thằng Bảnh” như ngày xưa, mà cháu cảm thấy dễ chịu hơn.”
Ông Năm ôm choàng qua vai Hai Bảnh, long lanh hai giọt nước mắt vì cảm động, nói:
-“Chú đã hứa với lòng mình là bao giờ cháu thay đổi tánh tình, ăn ở nhân hậu, không cần cháu đi tìm, chú Năm cũng tự động trở về đây thăm cháu mà.”
Hai Bảnh giới thiệu chú Năm với vợ:
-“Đây là chú Năm bạn chí cốt của cha hồi trai trẻ đó!”
Bà Bảnh chấp tay xá chú Năm, rồi nói:
-“Con có nghe chồng con nhắc chú Năm hoài, không biết chú ở đâu mà tìm.”
Ông Năm Liễng nói:
-“Hồi mấy chục năm trước. Sau khi rời khỏi nơi đây, chú làm nghề thợ rèn cho tía vợ ở xóm Lò Gạch, nhà cũng không xa đây lắm, nên chú biết rất rõ sanh hoạt của gia đình cháu. Chú Năm rất mừng thấy cháu Bảnh trả hết đất đai cho tá điền. Cháu đã dành cho họ một con đường sống ấm no, hạnh phúc; đồng thời, cháu cũng đã mở một con đường sống cho gia đình cháu và bản thân cháu được sống an vui. Chú Năm chúc mừng vợ chồng cháu!”
Bà Bảnh lo âu, nói:
-“An vui thì cháu chưa thấy, chỉ thấy trong lòng cháu rất lo lắng.”
-“Cháu lo lắng về chuyện gì?” Năm Liễng hỏi. “Có phải chuyện cháu Bảnh định lên Thiển Cẩm Sơn săn cọp dữ, phải không?”
-“Dạ, đúng đó chú Năm!” bà Bảnh nói. “Cách đây 5 đêm, ông Bảnh nằm chiêm bao thấy bị một con cọp vồ, may mà có cháu Bền cứu ổng thoát chết! Đây có phải là điềm: “tiền hung, hậu kiết” không, chú Năm?”
Ông Năm Liễng nói:
-“Bảnh à, ngồi xuống ghế trường kỷ đối diện với chú Năm, để chú đoán hung kiết cát tường như thế nào?”
Ông Năm Liễng nhìn chăm chú, quan sát sắc diện trên khuôn của Hai Bảnh hồi lâu, rồi phán:
-“Khi bàn về vận mạng con người, ông Trần Đoàn quan niệm rằng: “Thiên nhân tương dữ” tức “Trời” và “người” có sự liên quan mật thiết với nhau. Có nghĩa là “Ở hiền sẽ gặp lành”. Ảnh hưởng sâu đậm triết lý nầy, ông Trần Đoàn minh xác rằng: “Tướng do tâm sinh, tướng tùy tâm diệt”. Phải có cái “tâm” tốt mới có thể chuyển đổi được “tướng” cách. Tể Tướng Bùi Độ đời nhà Đường là người tinh thông tướng học đã nói: “Thân mình ta không dài rộng, diện mạo ta không khôi ngô mà tại sao ta làm đến Nguyên Soái, Tể Tướng? Đó là nhờ ta có một “tâm” hêát lòng vì dân, vì nước.” Thế mới biết, muốn phân biệt: phú quí, bần tiện thì không chỉ căn cứ vào diện mạo, mà còn phải căn cứ vào cái tâm nữa,” ông Năm Liễng kết luận. “Chú thấy cháu Bảnh đã sớm giác ngộ, mọi tai nạn sẽ giảm bớt, rồi qua đi! Chú Năm thấy cháu Bền là người có phúc tướng. Nhớ dẫn cháu Bền theo trợ giúp thì hay lắm!”
-“Cháu còn giữ một kỷ vật của cha con lúc còn sanh tiền,” Hai Bảnh hỏi. “Chú Năm muốn xem không? Để cháu đi lấy cho chú coi!”
Hai Bảnh mở cái tủ thờ lấy ra cái nóp được cuốn lại, giữ kỹ cẩn thận mấy chục năm rồi, nên trông còn nguyên vẹn. Kỷ vật còn đó, nhưng người bạn vong niên đâu còn. Ông Năm Liễng ngậm ngùi, nói:
-“Chú biết, cái nóp đôi nầy dành cho hai người nằm chung là do cô Lựu, con gái đầu lòng của một người tá điền, đan lấy cho cha cháu. Tháp Mười là quê hương của giống bàng nổi tiếng nhứt. Đích thân người con gái ấy, giã bàng suốt mấy đêm liền để chằm nóp cho cha cháu mang theo trên ghe ngủ qua đêm. Cha con hồi nhỏ rất ham vui, mỗi khi đoàn hát bội từ Sài Gòn về trình diễn ở Chợ Thủ là ảnh rũ cô Lựu lén trốn nhà, mang theo cái nóp nầy xuống ghe. Chú chèo ghe đưa họ ra tuốt ra chợ Thủ xem hát bội. Khi vãng hát là hai người trở xuống ghe, lật đật chui vào cái nóp đôi nầy để tránh muỗi bay túa ra như vãi trấu.”
-“Cha cháu quí cái nóp nầy,” Hai Bảnh ngậm ngùi, nói. “Vào những ngày cuối đời, cha cháu bị lao phổi nặng, lại thêm tâm bệnh trầm uất không biết tâm sự cùng ai, cha cháu nhắc đến chú Năm luôn. Bỗng vào một đêm mưa giông, nước mưa rơi ào ào trên mái ngói, theo máng xối chảy vào mấy cái lu mái dầm hòa với gió lốc thổi từng cơn; thỉnh thoảng, tiếng sấm động vang rền, làm nửa đêm má cháu thức giấc, rón rén đi vào buồng thăm cha. Má không thấy cha đâu, mọi người phát hoảng, tìm khắp nhà cũng không thấy. Cháu mặc áo mưa, đốt cây đèn bão chạy xuống bờ kinh; hình như, linh tính báo cho cháu biết việc chẳng lành, cháu nhảy đại xuống nước, trèo lên ghe, quơ cây đèn bão nhìn vào trong khoang. Cháu rụng rời tay chưn, nhìn thấy cha nằm bất động trong chính cái nóp nầy đây. Cháu báo động cho mọi người biết, khiêng cha vô nhà; có lẽ, cha qua đời trước khi trời đổ cơn mưa, áo quần cha mặc đều khô quánh.”
Má cháu làm theo lời trối của cha là muốn được hỏa thiêu, tro tàn hài cốt rải xuống dòng Long Khốt. Chú Năm Liễng nói:
-“Đó không phải là tro tàn hài cốt của cha cháu, mà là tro than mà thôi.”
Hai Bảnh ngạc nhiên như người từ hành tinh khác rơi xuống, hỏi:
-“Vậy còn tro tàn hài cốt của cha cháu hiện bây giờ ở đâu, ai giữ tro tàn hài cốt của cha cháu để làm gì?”
-“Chú Năm giữ và đưa tới một nơi theo sự yêu cầu của cha cháu trước khi qua đời,” ông Năm Liễng lấy trong túi áo một lá thơ đã cũ, tờ giấy trắng đã trở thành màu vàng, đưa cho Hai Bảnh, nói. “Cháu hãy đọc lá thơ nầy, rồi sẽ rõ câu chuyện tình bi thảm của cha cháu.”
Hai Bảnh mở lá thơ ra xem, đúng là nét chữ của cha mình. Nội dung bức thơ, Hai Bảnh đọc lớn cho vợ nghe:
Đồng Tháp Mười, ngày 12 tháng 6 năm 1914.
Chú Năm Liễng thân mến,
Tôi biết không còn sống được bao lâu với căn bịnh lao phổi ngặt nghèo nầy. Chú hãy xem đây là lời trối của người sắp từ giã dương trần. Sau khi thân xác tôi được hỏa táng, tôi xin chú giữ lấy nắm tro tàn hài cốt của tôi, cho vào một cái thẩu bằng đất nung rồi nhờ chú đích thân trao cho cô Lựu và nói với Lựu rằng: cho tới giờ phút nầy tôi vẫn một lòng, một dạ sắc son thương Lựu. Xin Lựu hãy cầu nguyện cho linh hồn tôi sớm được siêu thoát. Xin đa tạ.
Ký tên
Nguyễn văn Sang
Hai Bảnh sững sốt, hỏi:
-“Như vậy, cha cháu vẫn giữ liên lạc với chú, phải không? Lúc hỏa thiêu thi hài cha, chú Năm đứng ở đâu mà cháu không phát hiện được?”
-“Chú giữ liên lạc với cha cháu qua thằng Tý chèo ghe hầu, nó làm trung gian! Lúc hỏa thiêu, chú đứng trà trộn trong nhóm đạo tỳ, đúng gần giàn hỏa trên bãi đất trống. Chú Năm cho tiền mấy người coi đốt giàn hỏa, đợi tới khi ngọn lửa tàn, họ cho chú bốc tro tàn hài cốt của cha cháu, rồi đánh tráo cái thẩu hài cốt giả cho má cháu mà không ai biết,” ông Năm Liễng nói. “Nhờ vậy, chú phát hiện được một điều rất huyền diệu là nhục thân của cha cháu đều biến thành tro, chỉ trừ trái tim kết tinh thành một khối than, đen tuyền óng ánh như đá hoa cương.”
Hai Bảnh nóng ruột, hỏi dồn dập:
-“Cháu biết, chú Năm giao cái thẩu hài cốt đó cho dì Lựu là làm theo lời trối của cha cháu. Nhưng, người đó giữ hài cốt của cha cháu để làm gì? Hiện giờ, người đó còn sống hay đã chết? Cháu muốn xin lại cái thẩu tro cốt của cha cháu được không?”
Ông Năm Liễng lắc đầu, nói:
-“Đã muộn rồi, cháu! Câu chuyện vài dòng lắm, để chú Năm kể hết ngọn nguồn câu chuyện tình bi thảm của ảnh, cho vợ chồng cháu biết,” ông Năm Liễng hồi tưởng lại câu chuyện mấy chục năm về trước, rồi bắt đầu kể: “Ngay sau khi quyền phân phối đất đai chuyển từ triều đình Huế sang tay cho Thống đốc Nam Kỳ Nicolai, ông ta ban hành nhiều văn kiện mở cửa cho giới tư bản thực dân Pháp và tay sai đắc lực bản xứ đua nhau xin cấp quyền trưng khẩn đất ruộng miền Nam. Nghị định ban hành ngày 18 tháng 8 năm 1896 đã bãi bỏ giới hạn tối đa 100 mẫu. Sử gia J. Borie viết về tình trạng chiếm hữu đất đai và cho tá canh tại Việt Nam như sau: “Nhờ sự dễ dãi nầy mà người ta đua nhau xin đất. Những nhà báo, nhà thầu, bác sỹ đã xin được những thửa ruộng diện tích lên đến 1.000 đến 2.000, đôi khi lên đến 3.000 mẫu tây.” Một vài nhân vật điển hình thời đó, phải kể đến: Tên Tổng đốc Đỗ Hữu Phương, một người lập công lớn với Pháp tại Nam Kỳ, một con đường ở Chợ Lớn mang tên ông ta là đường “Tổng Đốc Phương” đã được phép trưng khẩn miễn phí 2.223 mẫu tây đất tại các làng Hỏa Lựu, Hòa Hưng, Vĩnh Hòa Hưng thuộc tỉnh Rạch Giá. Một ông Hội đồng tại Bạc Liêu tên Trần Trinh Bạch, nổi tiếng đã dựng nên cơ nghiệp lớn lao nhứt tại miền Nam với trên 20.000 mẫu tây đất ruộng “chó chạy cong đuôi”, “có bay thẳng cánh” mà không hết ranh đất của ông ta.
Hai Bảnh nói:
-“Theo chỗ cháu được biết: Vào năm 1896, lúc đó cháu được 11 tuổi đời, đất đai của ông nội tạo được gần 8.000 mẫu tây, nhưng đất canh tác khoảng 15%, còn lại là rừng đước, tràm… Tuy sản nghiệp không bằng một gốc ông Trần Trinh Trạch, nhưng cũng có hạng, được mọi người gọi là đại điền chủ bá hộ Nguyễn Danh Phận nức tiếng ở vùng nầy.”
Ông Năm Liễng nói:
-“Chính vì vậy, ông nội cháu muốn cha cháu cưới vợ phải “môn đăng hộ đối”. Chính bức tường rêu phong cũ kỹ, quan niệm hẹp hòi nầy đã ngăn cách mối tình của cha cháu với cô Lựu, con gái lớn ông Muôn, tá điền của ông nội cháu. Ông bà Phận hăm dọa, ép buộc cha con cô Lựu phải trả đất và dọn đi nơi khác để cha cháu yên tâm cưới vợ. Mẹ cháu là con gái út của ông Hội đồng Ẩn ở Mỹ Tho. Cuộc hôn nhân cưỡng ép không hạnh phúc nầy, làm cha cháu mang tâm bịnh trầm uất, thể chất suy kiệt dần, đưa đến bịnh lao phổi ngày càng trầm trọng.”
-“Cha cháu có biết họ dọn về phương trời nào không?” Hai Bảnh hỏi.
-“Tôn trọng lời hứa với cô Lựu, chú chỉ cho cha cháu biết đại khái là cô Lựu buồn duyên tủi phận, nương bóng từ bi, nguyện suốt đời ở độc thân làm công quả cho chùa, nhưng không xuống tóc làm ni cô. Sở dĩ, chú Năm biết rõ vì làng của họ giáp ranh với làng của chú Năm ở Cao Lãnh.”
Hai Bảnh hỏi:
-“Sau nầy, cháu muốn nhờ chú Năm dẫn đi gặp dì Lựu, xin lại tro cốt của cha về thờ phượng, được không chú Năm?”
Ông Năm Liễng thở dài, nói:
-“Muộn quá rồi cháu! Bốn năm sau đó, cô Lựu bị bạo bịnh qua đời. Trong lúc hấp hối, cô Lựu xin sư cô đặt cái thẩu tro cốt của cha cháu vào trong quan tài, theo cô xuống đáy mồ. Sống không đồng tịch đồng sàn, đến khi chết mới được đồng quan đồng quách. Thôi, quên đi cháu để cho cha con và dì Lựu được yên giấc ngàn thu, vĩnh viễn nằm bên nhau.”
Hai Bảnh ôm chú Năm nghẹn ngào, nói:
-“Cháu xin vâng lời chú Năm!”
Ông Năm Liễng nói:
-“Cha con là một người nhân từ, phúc hậu. Khi đi thâu lúa ruộng, gặp những năm mất mùa thất bát, nhiều gia đình tá điền con đông, làm gì có đủ gạo ăn. Cha con chẳng những không thu lúa ruộng mà còn bảo chú Năm lén xúc lúa trong mấy cái lẫm, chở đến tận nhà họ cứu đói,” ông Năm Liễng giọng buồn bã, nói. “Có một lần, không may bị cháu bắt gặp, nặng lời với chú, còn mét với ông nội là chú Năm đi ăn cắp lúa bán; vì thế, chú Năm buồn tình bỏ đi.”
-“Cha cháu có nói với nội, chú Năm chỉ làm theo lời yêu của cha, mà nội không chịu tin,” Hai Bảnh hối hận, nói. “Cháu thành thật xin lổi, dẫu muộng màng, mong chú Năm xá tội cho cháu.”
-“Cái ngày thằng Tý chèo chiếc ghe hầu chở quan tài của cha cháu đến nơi thiêu xác, ghe xuồng của tá điền chèo nối đuôi hàng cây số tiễn đưa cha cháu. Họ không quên ơn nghĩa của cha cháu, giúp đở họ trong cơn hoạn nạn. ” ông Năm Liễng nói. “Chú rất mừng, thấy cháu Bảnh đã sớm giác ngộ, đi theo con đường của cha cháu đối với tá điền năm xưa.”
o O o
Thời gian thấm thoát trôi qua thật nhanh, chỉ còn mười ngày nữa là tới ngày ra quân. Ai nấy đều hăng hái tập luyện nước rút theo sự chỉ dẫn của chú Hai Rồng, Bền và Thu Hương. Những chàng lực điền trước đây chỉ biết sử dụng cái cuốc, cái xẻng, cái chĩa để mưu sinh, bây giờ họ còn biết sử dụng những nông cụ làm vũ khí tự vệ. Mấy bà, mấy cô cũng biết tự vệ bằng những đòn thế Nhu đạo, tuy nhẹ nhàng nhưng cũng không kém phần ác liệt, khiến mấy đấng ông chồng có máu bạo lực chừa cái thói hung hăng đánh vợ mỗi khi say xỉn. Tuy chưa phải là võ sĩ, nhưng bọn cướp Thạch Sum muốn đánh bại họ, không phải là chuyện dễ dàng.
Trong lúc Bền đang đánh dấu những yếu điểm trên hình nộm bằng rơm, để hướng dẫn mấy anh lực điền dùng giáo đâm thực tập hoặc dùng sức mạnh của quả đấm vào những yếu huyệt nầy, cũng có thể hạ được địch thủ. Bền nói:
-“Theo chú Ba tôi hướng dẫn, trên cơ thể người ta có khoảng 130 huyệt. Nhưng, chỉ có 43 yếu điểm ở 28 vị trí ở phía trước và phía sau cơ thể . Phía trước có Thái dương huyệt, Cự khuyết, Thần khuyết, Thiện Trung…”
Bền đang cao hứng thao thao bất tuyệt; bất chợt nghe có tiếng vỗ tay ở đằng sau lưng, Bền quay đầu nhìn lại xem ai. Thì ra, Ba Hổ đứng bên cạnh tía Sáu Trí và bác Mười Dần. Bền chạy lại ôm cổ chú Ba Hổ, mừng rỡ, nói:
-“Chú Ba tới hồi nào vậy? Khỏe không chú? Tía con nhắc tới chú luôn!”
-“Chú Ba khỏe mới tới đây, tiếp tay với anh Hai lo trừ khử bọn cướp Thạch Sum,” Ba Hổ rất phấn khởi, nói. “Tiện đây, chú Ba cũng báo một tin mừng chiến thắng cho mọi cùng biết là nghĩa binh PGHH và anh em dư đảng của bối “Ba Cụm” đã cải tà qui chánh, phối hợp lại dưới sự chỉ huy của chú Ba và Huỳnh Thanh Long, áp dụng chiến thuật của ông Giáo Hoài là dùng “hỏa công” đánh đắm một tàu sắt của giặc Pháp tại địa phận xã Tấn Mỹ, giáp ranh xã Mỹ Luông thuộc quận Chợ Mới, Long Xuyên, vớt được một số súng trường và đạn dược khá quan trọng (xác chiếc tàu sắt dài khoảng 20 thước, rộng 3 thước được chánh quyền tỉnh An Giang trục lên vào ngày 9-3-2006 chỉ còn lại thân tàu, phần cabin đã mất). Đại Tá CLUZET, Tư Lệnh Quân Đội Viễn Chinh Pháp tại miền Tây, ra lịnh cho tên Đại úy Nogret điều động ba đại đội lính Lê Dương đang mở cuộc càng quét qui mô dọc theo hai bên bờ sông Tiền. Nghĩa binh tạm thời tản mát vào dân chúng quanh vùng. Luật sư Mai Văn Dậu – Đổng lý Văn phòng của Đức Thầy – bảo chú Ba phải xuống đây tiếp tay với tía con lo vụ bảo vệ biên giới phía Tây Nam Bộ chống bọn cướp Thạch Sum.”
Hai Rồng cả mừng, hỏi:
-“Chú Ba kể sơ kế hoạch tấn công chiếc tàu sắt của Pháp như thế nào?”
-“Trước hết, phải nói nhóm thủy khấu bối “Ba Cụm”, tài lặn hụp của họ quả vô song,” Ba Hổ nói. “Lúc đó vào khoảng 10 giờ tối, họ giả dạng dân chài lưới đón tàu Pháp từ vàm sông Cần Thơ chạy lên. Họ lặn xuống nước, thả những tấm lưới cá để khóa chân vịt, làm tàu giảm tốc độ. Nghĩa binh phục kích hai bên bờ sông Tiền, ngồi xuồng ba lá bơi ào ra, dùng bom xăng tự chế ném lên tàu. Bị tấn công bất ngờ, bọn lính Tây trở tay không kịp, chỉ lo chửa cháy nhưng vô hiệu. Khoảng hơn nửa giờ sau, tàu phát nổ và chìm xuống nước.”
-“Đức Thầy thường nhắc nhở anh em mình :”Dụng nhân như dụng mộc”, gỗ tốt xấu đều hữu dụng, nếu ta biết dùng nó đúng chỗ,” Hai Rồng hỏi. “Chú Ba nhận xét sao về Huỳnh Thanh Long và dư đảng “Bối Ba Cụm?”
-“Sau khi từ giã anh Hai tại chợ Thủ Thừa, tôi thay anh bảo tiêu đoàn ghe thương hồ từ lục tỉnh lên Sài Gòn. Khi đoàn ghe đến sông Nhà Bè, bọn “bối” bất ngờ xuất hiện. Thủ lãnh là Huỳnh Thanh Long vừa mới cuộn mình phóng lên chiếc ghe do tôi dẫn đầu, tôi liền búng ra mũi châm thần tốc vào ngay “Trầm Long Huyệt” gần huyệt “Đại chùy” phía sau gáy, dưới mỏm gai đốt sống lưng thứ ba, Huỳnh Thanh Long trúng mũi châm, huyệt mạch bế tắc, rơi xuống nước chìm lỉm, tên bộ hạ thân tín cầm mã tấu phóng lên ghe. Tôi nhanh chóng xoay người, ra đòn “Hổ vi cước”, dùng gót chân phải đá tạt vào cằm với năm thành công lực, chỉ làm cho đối thủ bị thương, hắn trúng đòn rơi tỏm xuống sông, kè Huỳnh Thanh Long lội vào bờ. Tôi nói vói theo: “Tôi sẽ cắm sào tại đây chờ các anh trong vòng bốn ngày! Nếu anh muốn cứu mạng Huỳnh Thanh Long hãy đến đây gặp tôi,” Ba Hổ nói. “Những ai bị trúng châm vào huyệt nầy trong vòng ba ngày, máu huyết đảo lộn, thất khiếu ra máu và đến ngày thứ tư các mạch máu sẽ vỡ ra rồi chết; vì vậy, nửa đêm về sáng rạng ngày thứ ba, Huỳnh Thanh Long cho người chèo ghe đến tìm tôi, đưa vào sào huyệt trong khu rừng sác ngập mặn Cần Giờ, cách bến đò Thôn Tam Hiệp khoảng 2 cây số. Tôi ra điều kiện: Một là Huỳnh Thanh Long phải cải tà quy chánh, theo tôi về chiến khu miền Tây giúp kháng chiến chống Pháp. Hai là giải tán bối Ba Cụm. Thế là họ đồng ý, sau đó có 10 người tình nguyện theo Huỳnh Thanh Long và tôi về cù lao Ông Chưởng lập công chuộc tội.”
Hai Rồng gật đầu, nói:
-“Miền Tây Nam Bộ sông rạch chằn chịt, tàu tuần của Tây xuất phát từ căn cứ hải quân ở vàm sông Cần Thơ chạy suốt ngày đêm. Muốn triệt hạ các tàu sắt của Tây, chúng ta phải có một đội thủy binh tinh nhuệ. Việc nầy mình phải nhờ đến họ huấn luyện nghĩa binh có tài bơi lặn thật giỏi như họ, chú Ba nghĩ sao?”
-“Tôi cũng có ý nghĩ như anh Hai. Nhưng, phải đợi một thời gian thử thách về lòng trung thành của họ đối với Quốc gia và Dân tộc trước đã.” Ba Hổ nói.
Hai Rồng nói.
-“Chú Ba về nói lại với Luật sư Dậu, việc bảo vệ biên giới phía Tây Nam chống với đảng cướp Thạch Sum, anh Hai đủ sức lo liệu. Chú Ba phải trở về cù lao Ông Chưởng ngay để cùng với nghĩa binh lo xây dựng và củng cố căn cứ địa kháng chiến PGHH. Khoảng hạ tuần tháng 4 là anh Hai sẽ gặp chú ở đó!”
Mười Dần nói:
-“Nếu chú Hai cho phép, tôi cũng tình nguyện theo chú về cù lao Ông Chưởng, góp một bàn tay huấn luyện tác xạ cho nghĩa binh PGHH, xét vốn gây lời, đánh những trận nhỏ trước, khi nào có cướp được nhiều vũ khí của địch, ta sẽ đánh những trận lớn hơn. Theo đà nầy, chúng ta sẽ phát triển lực lượng nghĩa binh PGHH từ cấp tiểu đội, trung đội, tiểu đoàn…Chú Hai đồng ý với tôi không?”
Hai Rồng vui mừng, nói:
-“Được như vậy thì hay quá! Tôi hoàn toàn đồng ý với anh Mười!”
Bền nói đùa:
-“Còn con nữa chi? Tía đi đâu cho con theo với! Cha con mình sát cánh đánh giặc Pháp, sống chết có nhau mà tía!”
CHƯƠNG MƯỜI BỐN
LONG HỔ TRANH HÙNG
Hôm đó nhằm ngày thứ bảy 13 tháng 4 năm 1940 là ngày quyết định đột kích sào huyệt của Thạch Sum vào lúc nửa đêm về sáng, vì sáng mai là ngày Lễ hội Choi – Chnam – Thmey truyền thống của dân tộc Miên, mang đậm nét văn hóa Phật Giáo Tiểu Thừa đầy màu sắc tính ngưỡng như tụng kinh cầu phước, dâng cơm cho các sư sãi, chúc mừng năm mới. Khắp nơi trong nước, địa phương nào cũng có tổ chức những buổi trình diễn văn nghệ như hát ayay, múa lâm thol, hát dù kê giống như hát bộ của Việt Nam, đặc biệt dân Miên ăn nhậu xả láng vào ba ngày lễ hội đầu năm.
Xế chiều ngày hôm đó, Hai Rồng, Tư Long và Bền lo kiểm soát tất cả các phương tiện di chuyển, xăng được cho vô chai, chông được bó thành từng bó… tất cả được chuyển xuống xuồng trước. Mấy anh lực điền lo mài giũa vũ khí, riêng Năm Dần lo lau chùi, thông nòng khẩu mousqueton của cậu Hai Bảnh. Tới 3 giờ chiều, Chín Dậu và toán “hỏa đầu vụ” lo dọn cơm nước ra mâm, cho tất cả anh em ăn uống thiệt no để lấy sức.
Đúng 6 giờ chiều, Hai Rồng cho anh em lực điền tập hợp trên sân phơi lúa với vũ khí trên tay, mỗi người nhận được một đòn bánh tét và một khúc vải trắng quấn trên cổ để dễ nhận ra nhau trong lúc hỗn chiến. Sau đó, Hai Rồng cho mọi người lần lượt xuống xuồng ba lá, cứ ba người một chiếc thay phiên nhau chống sào. Hai Rồng, Tư Long và Bền mở đường, Năm Dần và Tư Kê đoạn hậu theo như kế hoạch. Họ bơi xuồng theo đội hình hàng dọc trên con kinh Cái Cơ. Lúc đoàn xuồng sắp sửa rẽ vào cái lạch nước, Hai Rồng thấy vợ chồng anh Ba Đế đứng dưới bóng cây ô môi, vẫy tay chào. Anh Ba Đế hăng hái, hét lớn:
“Chúc anh Hai Rồng và các anh em mau chiến thắng trở dìa. Đánh cho chúng một trận không còn manh giáp, cho tụi nó biết người Việt Nam mình không phải dễ ăn hiếp!”
Hai Rồng vẫy tay chào lại. Khi đoàn xuồng di chuyển vào cái lạch nước, họ dùng sào tre chống, xuồng lướt ào ào trong bóng tối. Con trăng lưỡi liềm mùng 7, tỏa ra ánh sáng nhợt nhạt trải rộng trên cánh đồng lầy bao la, vắng tanh đến rợn người. Gần nửa đêm, họ vượt qua cánh đồng lầy và đến con rạch nhỏ chảy dọc theo bờ tường đất. Họ hành động nhanh chóng theo sự phân công theo kế hoạch.
Sau khi giấu xuồng vào trong đám lau sậy, Bền và Tư Kê mỗi người mang túi vải đựng mấy chai xăng trên lưng, dẫn hai mươi anh lực điền tay cầm giáo, tay ôm mấy bó chông tách khỏi đoàn, len lỏi trong đám lau sậy dọc theo bờ sông để cài chông, mũi nhọn hướng chếch ra ngoài. Năm Dần trèo lên cây trên bờ sông, ngồi thu mình trong tàng lá rậm rạp, mũi súng gác lên cháng hai, chĩa thẳng vào cổng doanh trại mở toang hoác. Còn Hai Rồng, Tư Long và mười lực điền còn lại, mỗi người mang hai chai xăng, cho vào túi vải đeo trên lưng và một con dao quắm đeo bên hông, bò áp sát gần bờ tường đất, nằm dàn hàng ngang, im lặng chờ đợi…
Ánh lửa trại từ bên trong hừng lên đỏ rực, khói cuồn cuộn bốc lên, mang theo mùi thịt nướng thơm phức. Tiếng nhạc ngũ âm dồn dập, náo nhiệt và hỗn độn thường xảy ra trong những ngày lễ hội của đồng bào Miên như lễ Oromkho (Lễ đưa nước), lễ Ok Om Bok (lễ cúng trăng), lễ Đôn Ta (lễ cúng Ông bà)…Thời gian chầm chậm trôi qua trong sự nôn nóng của mọi người. Quá nửa đêm về sáng, những tiếng ồn ào bên trong có phần giảm đi, nhưng chưa hoàn toàn dứt hẵn. Mọi người nhìn nhau tự hỏi: “Cuộc liên hoan của họ tới bao giờ mới chấm dứt, để chúng ta ra tay?”
Hai Rồng có vẻ sốt ruột, kề tai Tư Long, nói nhỏ:
-“Anh Tư ở lại với anh em, để tôi vào bên trong doanh trại, xem động tĩnh ra sao nghe!”
Nói xong, Hai Rồng tháo túi vải trên lưng, đưa Tư Long giữ rồi bò sát tới bờ tường đất, cẫn thận nhìn quanh không thấy một bóng người nào. Hai Rồng rướn người lên, quăng mình qua bờ tường đất, rơi nhẹ nhàng không gây tiếng động, lẹ làng trườn mình dưới dãy nhà sàn, núp sau mấy cái cột gỗ nhìn ra ngoài sân gạch quan sát. Phía trước dãy nhà sàn của Thạch Sum là một sân khấu lộ thiên, bọn nam nữ diễn viên trong bộ y phục cổ truyền màu sắc rực rỡ, đang diễn một lớp tuồng “dù kê” trước đám khán giả gật gù, gật gưỡng, nằm ngồi la liệt trên sân bên mấy chai rượu cạn lán, vất bừa bãi chung quanh. Hai Rồng đảo mắt nhìn quanh, nhưng không thấy bóng dáng Thạch Sum đâu cả. Đống lửa trại giữa sân gạch vẫn còn cháy đỏ rực, lác đác vài tên cướp vận “xà rông” mình trần, chai rượu cập nách, bước chân quờ quạng, cố lắc lư cái mông, uốn éo thân mình, bàn tay đảo qua, đảo lại, nhún nhảy trong vũ điệu “lâm thol” theo tiếng trống bập bùng. Có tên chưa nhảy múa giáp vòng đã lăn kềnh trên mặt đất, nôn mửa lênh láng.
Thấy thời cơ thuận tiện đã đến, Hai Rồng bò trở lui, phóng mình qua bờ tường đất, nhảy ra bên ngoài. Tư Long nóng ruột, hỏi:
-“Bên trong đó ra sao rồi, chú Hai?”
-“Chúng ta chuẩn bị nhảy vô mục tiêu! Chúng nó thằng nào, thằng nấy say khướt, ngất ngư con tàu hết rồi,” Hai Rồng, nói. “Anh Tư đeo cái túi vải trên lưng dùm tôi, rồi chúng ta nhảy vào bên trong từng người một.”
Hai Rồng đu người lên bờ tường đất trước, ngồi chàng hảng theo kiểu chân trong, chân ngoài, kéo từng người một lên, rồi thả họ xuống bên trong. Tư Long là người lên sau cùng. Họ chia ra làm hai toán, mỗi toán 5 người phụ trách phóng hỏa một dãy nhà sàn. Hai Rồng và Tư Long phụ trách đốt dãy nhà sàn chính giữa cho Thạch Sum chạy ra. Những chai xăng được mở nút, nhét giẻ vào làm thành bom xăng, rồi họ tự động phân tán, chạy nương theo bờ tường đất lặng lẽ như những bóng ma, tiến đến mục tiêu đã chỉ định.
Khoảng 15 phút sau, mọi người nhìn thấy dãy nhà sàn của Thạch Sum phát hỏa trước, kế đến là hai dãy nhà sàn phát hỏa. Những mái nhà lợp bằng lá cây thốt lốt, gặp gió bốc cháy dữ dội, sáng rực cả một gốc trời. Sau đó, Hai Rồng dẫn các các anh em chạy ra án ngữ trước cổng trại, không cho tên nào chạy thoát. Cảnh hỗn loạn bắt đầu diễn ra ngoài sự ước đoán của Hai Rồng, tiếng người chạy rầm rập trên căn nhà sàn, tiếng trẻ con la khóc, tiếng đàn bà gào thét, tiếng ông già, bà lão kêu cứu thất thanh:
-“Bờ lưng chây! Bờ lưng chây! Bờ lưng chây… Choi! Choi! Choi…” (lửa cháy! Lửa cháy! Lửa cháy… Cứu! Cứu! Cứu…
Mấy mươi tên cướp bị ma men nhập, ngửi thấy mùi khói khét lẹt, tiếng gào thét kêu cứu thất thanh, cố gắng đứng dậy, cũng chỉ đi được vài bước loạng choạng, rồi ngã lăn đùng trên mặt đất, nằm bất động. Anh em lực điền nhốn nháo cả lên, không biết giải quyết thế nào, hối hả tìm Hai Rồng, hỏi:
-“Bây giờ tính sao đây, chú Hai?”
Hai Rồng thét to cho mọi người nghe:
-“Hãy lo cứu đàn bà, trẻ con, ông già, bà lão ra khỏi biển lửa trước đã! Đừng chần chờ gì nữa!”
Và mọi người chỉ chờ có vậy, tất cả lực điền hăng hái chạy xông vào các dãy nhà sàn đang bốc cháy để lo cứu người. Đám con hát “dù kê” cũng cởi hết xiêm y, áo mão, tiếp tay với họ, di tản mọi người ra bờ sông. Cái bản chất của người dân Nam Bộ là như thế đó: chân chất, hiền hòa. Lòng thù hận đã phải nhường bước trước lòng nhân đạo và họ quên hết nhiệm vụ là tới đây để tiêu diệt kẻ thù.
Bền và Tư Kê cùng toán cài chông ngoài bờ sông làm xong nhiệm vụ, nằm phục kích bên ngoài chờ động tĩnh. Khi thấy bên trong trại phát hỏa, lập tức phóng hỏa đốt cầu tàu, rồi dẫn tất cả chạy vào bên trong trại trợ chiến. Bền sững sốt thấy các chiến sĩ của mình, tay bồng tay bế trẻ con, người thì cõng ông già, bà lão trên lưng, tập trung ra giữa sân, lần lượt được chuyển ra bờ sông. Bền thấy tía đang chỉ huy cuộc di tản, liền chạy tới hỏi cho ra lẽ:
-“Tía à, họ đánh đấm kiểu gì, kỳ cục vậy, tía!”
Hai Rồng nói:
-“Ngày mai là ngày Lễ hội truyền thống của đồng bào Miên; có lẽ, một số về quê quán đoàn tụ với gia đình. Số còn ở lại giữ doanh trại thì gia đình đến đoàn tụ cùng vui với họ. Khi các dãy nhà bốc cháy, tía mới phát hiện thân nhân của họ đông như thế. Họ là những kẻ vô tội, chúng ta không thể nhẫn tâm thấy họ chết thiêu trong lửa đỏ.”
-“Số anh em của con, có ai bị đổ máu không, tía?”
-“Có đánh đấm nhau đâu mà có đổ máu. Bọn cướp say như chết đang nằm bất động ở trên sân. Con nói với anh em dùng khăn quàng cổ trói tất cả bọn chúng lại, rồi lôi họ ra bờ sông cho tía!”
-“Còn Thạch Sum ở đâu?”
-“Tía không thấy!” Hai Rồng nói. “Chắc Thạch Sum đang trên đường trở về doanh trại cũng không chừng!”
Sau khi tất cả mọi người được di tản ra ngoài bờ sông, bên trong trại chỉ còn là một biển lửa cháy đỏ trời. Hai Rồng, Tư Long và Bền điểm danh lại số anh em lực điền hiện diện trên bờ sông, chỉ còn thiếu có Tư Kê. Bền thất sắc nói:
-“Con nghĩ, chắc thằng Tư Kê gặp nạn ở bên trong, để con chạy trở vô trong tìm nó nghe, tía!”
Nói xong, Bền chạy xông vào trong biển lửa tìm cứu bạn; thời may, thấy Tư Kê đang té nằm sóng sượt trên sân gạch mà hai tay vẫn còn ôm chặt cứng một vật gì đó, được quấn kín lại trong một cái mền. Trong cái biển lửa khói mù mịt, nóng hừng hực tưởng chừng gần lột da. Bền dìu Tư Kê đứng dậy, ôm xốc nách bạn, chạy ra bờ sông. Mọi người xúm nhau chạy tới đở Tư Kê nằm xuống đất, mặt mày lem luốt, một mảng tóc bị cháy xém. Tư Kê tháo cái mền đang ôm trong lòng cho mọi người xem, đó là thằng bé mủm mỉm đang mở cặp mắt tròn xoe, nhìn Tư Kê mỉm cười. Thì ra, Tư Kê liều mạng cứu đứa bé đang nằm trong nôi, vừa lúc chạy xuống cầu thang bị hụt chưn, ngã xuống sân gạch bị lọi chưn, nhưng tay vẫn ôm chặt thằng bé, cố lết ra bờ sông, may mà có Bền chạy trở vô cứu bạn kịp lúc. Bền bế đứa bé, đi tìm mẹ nó giao lại. Một bà mẹ trẻ nhìn thấy con mừng quá, kêu rú lên:
-“Orkun chran! Okun chran!” (Cám ơn)
Hai Rồng ước tính tình hình không sai, dân Miên sống dọc bên kia bờ sông, thấy trại của Thạch Sum nửa đêm phát hỏa, biết có biến, họ đốt đuốc sáng rực, chạy rần rần trên bờ, gõ chiêng trống, la hét ầm ỹ vang động một gốc trời. Họ vác dao mác, gậy gộc, cuốc xẻng xuống ghe, xuồng bơi qua sông tiếp cứu. Bền chỉ huy anh em lực điền đứng dàn hàng ngang trên bờ sông, chận họ lại. Họ thấy cầu tàu đã phát hỏa, bèn nhảy ùm xuống nước, lội vào bờ bị vướng phải chông cài, đau đớn, giẫy giụa trong đám cỏ lác.
Sau khi dự dạ tiệc liên hoan, đón giao thừa với các quan chức tại Svay Riêng, Thạch Sum liền cùng với thủ hạ xuống chiếc ghe ngo, chèo trở về doanh trại. Trên đường về còn cách trại vài cây số, Thạch Sum thấy khói lửa bốc lên ngùn ngụt, cháy sáng rực một gốc trời. Đoán chừng doanh trại đã xảy ra chuyện gì bất trắc, hắn đôn đốc thủ hạ chèo nhanh tay hơn, chiếc ghe ngo tăng tốc, rẽ nước lướt tới. Vừa thấy chiếc ghe ngo của Thạch Sum xuất hiện trên sông, dân Miên đứng trên bờ lên tinh thần, vỗ tay reo mừng vang dội:
-“Krap – tul Sana! Krap – tul Sana!” (Hoan hô Nguyên soái!)
o O o
Hai Rồng biết Thạch Sum đã trở về, bình tĩnh đứng trên bờ sông chờ đợi trận “long tranh, hổ đấu”. Bền đứng bên cạnh tía, còn tất cả anh em lực điền đứng dàn trận phía sau lưng, chờ động thủ. Riêng Năm Dần ngồi trên cháng cây, cho đạn lên nòng súng… Thạch Sum thấy cầu tàu bị đốt cháy, ra lệnh cho thủ hạ chèo ghe ngo xấn bừa vô đám lau sậy. Hắn chụp lấy cây sào tre ở trên ghe, phóng xuống nước, kéo cong cây sào lại, rồi nương theo sức bật của cây sào, phóng người bay lên bờ sông một cách ngoạn mục. Đám thủ hạ lấy ván lót sàn ghe, quăng xuống đám cỏ lát rồi chạy lên bờ nên không bị vướng chông. Thạch Sum nhìn thấy doanh trại bị đốt cháy thành bình địa, còn đám thuộc hạ bị trói ngô lại nằm, ngồi la liệt dưới đất. Hắn điên tiết lên, gầm thét như hổ dữ bị trúng thương, đôi mắt hắn long lên đỏ ngầu, nhìn mọi người như muốn ăn tươi nuốt sống.
Bền vói tay ra sau lưng, rút thanh đoản kiếm ra, nhanh như cắc phóng tới, chém tạt một đường gươm từ ngực phải xuống, quét một đường ngang bụng rồi vuốt lưỡi kiếm lên ngược lên nhanh như ánh chớp. Một mảnh vải hình tam giác, tách rời khỏi cái áo chẽn của Thạch Sum đang mặc, từ từ rơi xuống đất. Thạch Sum xé toạc cái áo, quăng xuống đất, ngửa mặt lên trời cười ha hả, rồi vận nội công, các cơ bắp toàn thân nổi lên cuồn cuộn. Và bộ ngực trần vừa bị Bền chém ba nhát, không để lại một vết trầy trụa. Bền và anh em lực điền đều thất kinh.
Bỗng Hai Rồng khoát tay, ra lệnh:
-“Tất cả mọi người hãy lui ra, để tôi đấu với Thạch Sum.”
Hai Rồng bình tĩnh bước tới, đối diện với Thach Sum, đồng thời cởi phăng cái áo bà ba quăng xuống đất, tháo thanh đoản kiếm trên lưng đưa cho Bền. Thạch Sum nhìn Hai Rồng một cách ngạo mạn, cởi cái xà rông đưa cho thuộc hạ, chỉ còn mặc cái quần đùi. Cả hai lấy bờ sông làm sân đấu trước một biển lửa cháy sáng rực để tranh hùng. Hai Rồng vận nội công, những khớp xương chuyển động nghe răn rắt, bắp thịt ở vai và lưng gồ lên như lưng gấu. Tuy nhiên, so về thể lực, Thạch Sum mang vóc dáng của một lực sĩ. Nhưng, ở Hai Rồng là một sự kết hợp kỳ diệu về sức mạnh tiềm tàng của một mãnh hổ và tinh thần giao đấu khôn ngoan đầy mưu lược, với phương pháp chiến đấu dầy dạn kinh nghiệm, tùy cơ ứng biến, linh động chiến đấu để đối phó với mọi tình huống và những mánh lới gian trá của địch thủ mạnh hơn mình về sức mạnh và võ nghệ cao cường hơn mình.
Đứng trước một địch thủ vô cùng lợi hại như Thạch Sum, Hai Rồng vẫn bình tĩnh bước vào trận đấu với thái độ ung dung và thận trọng. Hai Rồng thay đổi đấu pháp sở trường là tấn công ồ ạt vào những yếu huyệt đề nhanh chóng loại địch thủ. Hai Rồng áp dụng lối di chuyển thân pháp linh động, vờn quanh địch thủ như mèo vờn chuột, đôi chân thoăn thoắt lúc tiến, thoái nhịp nhàng lấy tĩnh chế động. Ngược lại, Thạch Sum nôn nóng, mất bình tĩnh muốn hạ ngay địch thủ cho hả cơn giận dữ.
Bỗng Thạch Sum gầm lên, phóng tới trước mặt địch thủ, ra đòn “thần xà cước”, năm đầu ngón chân chụm lại, đá chọt mũi chân vào yết hầu của Hai Rồng, đây là một thế đá hạ địch thủ nhanh chóng, dùng ngón chân trỏ, gát tréo lên ngón chân cái, mổ tới như rắn hổ mổ vào yết hầu, ngực. Nếu trúng phải ngọn cước nầy là bị loại ra khỏi vòng chiến ngay lập tức. Hai Rồng nhanh chóng xuống “trảo mã tấn”, chân trái trụ vững chắc, nhích chân phải tới trước rùn người xuống, nghiêng mình qua phải, dùng cánh tay phối hợp với vai vừa đở, vừa hất tung bàn chân của Thạch Sum lên, tung quả đấm móc từ dưới lên bắp đùi của địch thủ làm Thạch Sum rút chân về, lùi lại. Hai Rồng bám sát theo, phóng người lên bay tới, ra đòn “phi tiêu cước”, đánh gối phải vào cằm địch thủ. Thạch Sum không thèm tránh né, dùng đầu chận ngọn “phi tiêu cước”. Một tiếng “bốp” khô khan vang lên, Hai Rồng cảm thấy đầu gối ê ẩm như chạm phải vào một khối đá. Hai Rồng bồi tiếp theo đòn “bạt phong trữu” dùng chỏ đánh tạt từ ngoài vào mặt của Thạch Sum và nhảy vọt ra ngoài đứng thủ thế. Cái chết của võ sư Lý đã để lại cho Hai Rồng một kinh nghiệm là không thể coi thường cái “thiết đầu” của Thạch Sum.
Thạch Sum phản công, phóng tới nhanh như con báo đen, tung đòn “giáng quyền” từ trên đấm xuống đỉnh đầu của địch thủ. Hai Rồng dùng bàn tay phải đẩy tạt quả đấm của địch thủ sang một bên và ngã người xuống phóng ra ngọn “thiết tiêu cước” dùng mũi chân đá móc ngược vào “cữu vĩ huyệt” giữa ngực địch thủ. Thạch Sum dùng cạnh bàn tay phải vừa đở đòn, vừa chém mạnh vào ống quyển của đối thủ. Hai Rồng bị trúng đòn, mất đà ngã xuống đất, lăn mấy vòng rồi đứng bật dậy. Thạch Sum không bỏ lở cơ hội, bay người lên xoay hông, phóng ngọn “đảo sơn cước”, đá vòng từ ngoài vào thượng bộ địch thủ bằng cạnh trong bàn chân phải. Hai Rồng ngồi thụp xuống thật nhanh né đòn, hai tay che kín rồi đầu, rồi ra đòn “nghịch tảo cước” đá phản đòn, xoay người theo chiều kim đồng hồ, đá bằng gót chân phải vào mặt phía sau chân trái của địch thủ, hất tung Thạch Sum lên, ngã bổ nhào.
Đây là lần đầu tiên trong đời võ sĩ, Thạch Sum gặp phải tay “kỳ phùng địch thủ”, nhưng vẫn lăn xả vào tấn công địch thủ như con cọp điên. Hai Rồng lui về thế thủ tránh né đòn để giữ sức, chờ thời cơ tung đòn quyết định. Và sau một giờ quần thảo ác liệt, Thạch Sum điên tiết lên, mắt đổ hào quang, mồ hôi tuôn ra như tắm và bắt đầu thắm mệt, nhưng vẫn quyết liệt tấn công, dồn Hai Rồng về phía chân tường đất để dứt điểm. Thạch Sum vận toàn lực, phóng người lên tung cước, đá thẳng bằng gót chân phải bay tới cổ địch thủ thế mạnh như vũ bão. Hai Rồng vẫn bình tĩnh, không tránh né, vận nội công, dùng lòng bàn tay úp xuống làm nắm đấm, ra đòn “trực quyền” đấm thẳng vào lòng bàn chân của địch thủ, làm Thạch Sum bị đẩy văng ra phía sau, bàn chân đau buốt, còn Hai Rồng bị ngã tựa lưng vào bờ tường. Bất ngờ, Hai Rồng phóng người lên, dùng hai chân đạp vào bờ tường lấy trớn, bay người lên. Thạch Sum chỉ thấy cái bóng của địch thủ bay vút lên như cánh chim đại bàng chụp xuống. Thạch Sum bàng hoàng, ngơ ngác chỉ còn đủ thời giờ vận nội công, bế các huyệt đạo. Hai Rồng xoay người, dồn cả sức mạnh vào chân phải, phóng ra ngọn “đoạt mệnh truy hồn cước”, đá móc gót vòng thật dữ dội và vô cùng chính xác vào cổ của địch thủ, chỉ nghe Thạch Sum kêu “hự” một tiếng thật to, cả thân người của Thạch Sum văng bắn lên, rồi rơi bịt xuống lăn mấy vòng trước cổng doanh trại.
Trong cuộc đời của Hai Rồng đã trải qua biết bao nhiêu trận đấu và chưa có cao thủ nào chịu nỗi cú đá bạt sơn “đoạt mệnh truy hồn cước”, chỉ trừ có Thạch Sum là không hề hấn gì, nhờ có phép gồng mình đồng da sắt. Hắn đưa hai chân ra phía sau rồi búng đôi chân ra phía trước, đứng bật dậy như cái lò xo. Nhưng, Thạch Sum chưa kịp hoàn hồn thì thấy bóng đen của địch thủ hình như từ trong biển lửa lao vút về phía hắn như con hổ vồ mồi, Thạch Sum chóa mắt, chỉ kịp nhìn thấy ngón tay trỏ và ngón giữa của địch thủ căng ra hình chữ V như hai cái móc sắt. Hai Rồng sử dụng chiêu “long tu song chỉ” (hai sợi râu rồng) chọc thẳng vào đôi mắt địch thủ. Thạch Sum hoãng hốt, chỉ còn kịp dùng cạnh bàn tay phải án ngữ trước sóng mũi, chận ngọn “long tu song chỉ” của địch thủ. Nhưng, đó chỉ là hư chiêu, Hai Rồng lập tức biến thế thành “long tu nhất chỉ” bằng cách co ngón tay giữa vào lòng bàn tay, rồi xoay nhẹ nắm tay về bên trái, ngón trỏ lướt nhẹ trên mu bàn tay của địch thủ, xỉa thẳng vào hốc mắt phải của hắn. Thạch Sum cảm thấy hốc mắt phải đau nhói, nhắm mắt chờ Hai Rồng hạ độc thủ…Nhưng bất ngờ, Hai Rồng sử dụng “cầm nã thủ”, nắm lấy cổ tay phải của Thạch Sum đưa lên cao. Miệng hô to:
-“Sana, kôch chơnia! Sana, kôch chơnia! Sana, kôch chơnia!” ( Nguyên soái là kẻ chiến thắng).
Tất cả đồng Miên có mặt theo dõi trận thư hùng đều vỗ tay cuồng nhiệt, hoan hô kẻ chiến thắng là người hùng của họ. Còn Bền thất vọng ra mặt, nói với Tư Long:
-“Trận đấu nầy, tía con đã bị Thạch Sum đánh bại! Nó sẽ giết tía con đó, ông Tư,” Bền nhìn chung quanh, nói tiếp. “Ông Tư và mấy anh em cõng vài tên cướp bị trói làm con tin, rút lui ra chỗ dấu xuồng, trở về làng trước đi.”
Tư Long hỏi:
-“Còn cháu thì sao?”
-“Con nhứt định ở lại chiến đấu bên cạnh tía con! Sống chết có nhau cho tròn đạo nghĩa,” Bền nhìn Tư Long giục. “Thôi, ông và anh em rút lui theo kế hoạch đi!”
Bền nói xong, rút hai thanh đoản kiếm, hăm hở xông lên phía trước, giải thoát cho tía. Nhưng, Tư Long đã nhanh tay chận lại, nói:
-“Khoan đã, cháu nhìn xem họ kìa!”
Thạch Sum đang thân mật bắt tay Hai Rồng, đổi thù thành bạn. Cả hai đều là anh hùng, hảo hán của một thời ly loạn nên tôn trọng và kính phục lẫn nhau. Thạch Sum vô cùng ngưỡng mộ thái độ hào hùng, quân tử của địch thủ Hai Rồng, chẳng những nhường phần chiến thắng cho mình, để bảo vệ danh dự cho Sana Thạch Sum trước mặt đồng bào Miên và đám thủ hạ. Hai Rồng đã dùng một chiêu thật đơn giãn “Long tu song chỉ” để đánh bại Thạch Sum, đệ nhất cao thủ xứ Chùa Tháp lúc bấy giờ. Nếu như ngón tay trỏ của Hai Rồng xỉa thẳng vào hốc mắt phải của Thạch Sum thì cục diện tại vùng biên giới Việt – Miên sẽ thay đổi theo một chiều hướng khác, bất lợi cho cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp sau nầy. Ngồi trên cháng cây trên bờ sông, Năm Dần nín thở theo dõi trận đấu cho đến khi kết thúc, ngón tay không rời cò súng, sẵn sàng nhả đạn…Sau đó, họ cỡi trói cho bọn cướp, mọi người cùng tiếp tay đưa những người vướng phải chông gài dưới bờ sông lên bờ, băng bó vết thương. Rồi xếp thành hai hàng dài, chuyền nước sông lên, dập tắt ngọn lửa dù đã cháy gần tàn.
Sau khi ngọn lửa được dập tắt, bỗng có một người đàn ông, đầu quấn chiếc khăn rằn rất Việt Nam, râu ria lồm xồm, đeo một con dao phay ngang lưng, hắn kề tai Thạch Sum nói nhỏ; hình như, họ trao đổi với nhau một chuyện gì đó và Thạch Sum mĩm cười, gật đầu. Ông ta tự giới thiệu bằng tiếng Việt thật rành rọt:
-“Quê tôi ở Sóc Trăng, người Việt gốc Tiều, còn vợ tôi là người Tiều lai Miên. Ở đây là quê vợ nên tôi biết nói tiếng Việt một ít.”
-“Ông cho biết quí danh?” Hai Rồng hỏi.
-“À, tôi tên Tăng Hùng,” ông ta nói. “Sana Thạch Sum muốn mời tất cả quý bạn ở lại dùng bữa tiệc lễ đón mừng năm mới Choi – Chnam – Thmay của dân tộc Cao Miên cùng với chúng tôi tại đây. Chúng tôi đã chuẩn bị món ăn quốc túy của đồng bào Miên đó là món “bê nướng lửa than”, định sáng mai sẽ bày tiệc mừng, chúc thọ Sana Thạch Sum. Không biết các anh đồng ý không?”
Hai Rồng vui vẻ bắt tay Thạch Sum gật đầu, đồng ý ngay. Tăng Hùng cho người đóng hai cái giá hình chữ X xuống đất và nhóm lửa, rồi cho người chèo ghe qua bên sông, chở một con bê thui vừa mới mọc sừng non đã được cạo lông sạch, họ dùng một cọc gỗ vót nhọn xõ xuyên dọc theo mình con bê, để gát trên hai cái giá bằng gỗ hình chữ X, quay đều trên lửa hồng và vài vò rượu “chu êm” làm bằng nước thốt nốt ngọt ngào được ngâm ủ lên men có màu đục đục, mang hương vị chua chua, ngọt ngọt như một thứ rượu nhẹ, uống nhiều thì có thể say. Để có loại rượu độc đáo nầy để dành cho Thạch Sum đãi khách quí, người Miên phải lên tận vùng núi cao tìm một số dược thảo có tên “tà pu phờ lơn” hoặc “săng ke phờ lơn”, đem về thái mỏng, phơi khô rồi cho vào “cà om” bằng đất nung. Sau đó, họ đổ nước thốt nốt vào ủ. Bọt từ đáy “cà om” sủi tăm lên liên tục, khoảng một tuần sau, nước sẽ trong lại, có màu trắng đục là có thể uống được. Còn món ăn “bê nướng lửa than” cũng là món ăn truyền thống của dân Miên, có nguồn gốc từ thời xưa dành cho giai cấp trưởng giả quý tộc. Sức nóng của than hồng làm cho da bê căng ra, thịt săn cứng lại. Muốn ăn, thực khách chỉ việc dùng dao bén lụi vào mình con bê, rạch ngang một đường, thịt bê sẽ lòi ra và thịt sẽ tái dần với sức nóng của than hồng, thịt bê được cắt ra và xắt mỏng ăn với đủ loại rau sống. Bữa tiệc hóa giải hận thù Việt – Miên kéo dài tới khi gần sáng thì mọi người chia tay nhau. Tư Long hứa sẽ nói cậu Hai bảnh sẽ chở vật liệu và người sang cất lại doanh trại cho Thạch Sum.
Sau trận “Long tranh, hổ đấu” đó, hòa bình đã vãn hồi suốt dãy biên giới Việt – Miên từ rạch Sở Hạ, rạch Cái Cái, hố Cái Bát, kinh Cái Cơ…cho đến tận làng Thái Bình Trung, thôn Bình Hiệp. Bọn thổ phỉ người Miên không còn vượt biên giới vào các làng mạc dọc biên giới để cướp phá như xưa nữa. Và nếu như, con mắt bên phải của Thạch Sum bị Hai Rồng chọc thủng thì cục diện tại vùng biên giới sẽ thay đổi theo một chiều hướng khác, hoàn toàn bất lợi cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp do Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ khởi xướng sau nầy. Vì đối với đồng bào Miên sống dọc biên Việt – Miên rất sùng bái Thạch Sum, nhất định họ sẽ vì Thạch Sum trả thù khốc liệt và cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam sẽ bùng nổ.
Trời vừa hừng sáng, vợ chồng Hai Bảnh, Thu Hương, và thân nhân các anh em lực điền tụ tập trên bờ kinh Cái Cơ, nóng ruột chờ con em họ trở về. Và trong ánh bình binh rực rỡ, mọi người vỗ tay reo hò mừng rỡ khi thấy Hài Rồng đứng trước mũi xuồng vừa xuất hiện trên sông, vẫy tay chào mọi người. Nối đuôi theo sau là đoàn xuồng của anh em lực điền, Hai Rồng đã hoàn thành nhiệm vụ của dân làng giao phó và đem mọi người trở về an toàn với chiến thắng vẽ vang. Riêng Tư Long, giờ đây mới biết lý do tại sao Hai Rồng phải hành động như vậy, càng kính phục tài trí song toàn của Hai Rồng. Xuồng vừa cập bến, mọi người lần lượt bước lên bờ. Hai Rồng vội vàng từ giã mọi người để trở lại cù lao Ông Chưởng cùng với Bền. Nhưng, Tư Long cản lại, nói:
-“Dân làng yêu cầu chú Hai và Bền ở lại dùng bữa cơm thân mật với họ trước khi chia tay; vả lại, cậu Hai bảnh cũng có một chút chuyện nhờ chú Hai giúp đở, rồi hãy lên đường cũng chưa muộn mà.”
-“Thôi, vậy cũng được!” Hai Rồng nói. “Tôi cũng có vài đề nghị với cậu Hai Bảnh trước khi tôi và cháu Bền từ giã nơi nầy. Thôi, chúng ta vô nhà nói chuyện.”
Cậu Hai Bảnh cả mừng, nói:
-“Chuyện là như vầy: Hồi tuần trước có một người ở quận Tịnh Biên xuống đây gặp tôi, nhờ tôi lên núi Ông Cấm túc Thiên Cẩm Sơn bắn hạ hai con cọp dữ, ăn thịt rất người lên núi hái thuốc. Dân làng dưới chân núi sợ quá, gọi kiêng là “Thần hổ Thiên Cẩm Sơn” và tôi đã nhận lời rồi. Việc tôi muốn nhờ chú Hai là để cháu Bền cùng đi với tôi lên Châu Đốc, leo núi Ông Cấm săn hổ dữ,” cậu Hai Bảnh hỏi. “Chú Hai nghĩ sao, có được không?”
Hai Rồng nói:
-“Việc nầy, tôi hỏi ý kiến của Bền trước đã, nếu cháu muốn ở lại giúp cậu Hai. Tôi nghĩ, việc giúp dân làng giết cọp dữ trừ hại cho bá tánh, chắc Bền không từ chối.”
Tư Long lật đật đi ra ngoài, gọi:
-“Cháu Bền ơi! Vô trong nhà có việc cần hỏi cháu!”
Bền đang thao thao bất tuyệt kể lại trận đột kích vào sào huyệt Thạch Sum đêm qua cho mọi người đang xúm xít lắng nghe. Bỗng nghe chú Tư Long gọi, vội vàng chạy tới, hỏi:
-“Chú Tư gọi cháu, có việc gì chỉ bảo không?”
-“Vô nhà đi, rồi nói chuyện!” Tư Long nói.
Bền ngồi sà xuống bên cạnh tía, hỏi:
-“Chừng nào mình lên đường vậy, tía?”
-“Cậu Hai Bảnh muốn con ở lại đây một thời gian ngắn, để cùng đi lên Châu Đốc, giúp cậu Hai trừ cọp dữ ở núi Cấm,” Hai Rồng nói. “Việc nầy, tía để con quyết định. Muốn đi với tía hay ở lại giúp cậu Hai là do con tự quyết định.”
Bền suy nghĩ giây lát, nói:
-“Con đồng ý ở lại giúp ông Bảnh với điều kiện.”
-“Điều kiện gì, con?” Hai Rồng hỏi.
-“Sau khi giúp ông Hai trừ được cọp dữ, con trở lại đây, chờ tía tới đón con nghe, được không tía?”
-“Tía hứa sẽ tới đây, đón con đi với tía!” Hai Rồng nói. “Giúp nước, giúp dân đều là bổn phận của tía con mình. Giúp cậu Hai Bảnh giết thú dữ trừ hại cho dân làng dưới chân núi Cấm là một chuyện rất đáng làm.”
-“Chừng nào tía lên đường?” Bền hỏi.
-“Sau bữa cơm trưa, tía sẽ lên đường về cù lao Ông Chưởng,” Hai Rồng quay sang cậu Hai Bảnh nói. “Mặc dầu Thạch Sum đã chứng tỏ lòng thành đã đưa tiễn chúng tôi tới tận dòng sông biên giới. Nhưng, cậu Hai nhắc nhở mấy anh em phải luôn luôn đề cao cảnh giác, nhất là đêm nay và những ngày sắp tới, đề phòng Thạch Sum có thể cho bộ hạ tới đánh úp!”
Tư Long nói:
-“Chú Hai yên tâm, tôi sẽ làm theo lời dặn dò của chú Hai.”
-“À quên, đừng có liên hoan, nhậu nhẹt say sưa trong lúc nầy. Còn một việc rất quan trọng nữa, cậu Hai Bảnh nên mua ván gỗ chở tới sào huyệt Thạch Sum, giúp họ xây dựng lại nhà cửa đã cháy rụi, để thắt chặt tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt – Miên.”
Hai Bảnh cười, nói:
-“Việc nầy tôi đã nghĩ tới rồi, tôi sẽ mua ván gỗ tại mấy trại cưa ở Mộc Hóa, họ sẽ chở thẳng tới doanh trại của Thạch Sum. Chú Hai yên tâm!”
-“Được như vậy thì hay lắm!” Hai Rồng nói.
Sau bữa cơm trưa tập thể tại khu nhà ăn tập thể. Hai Rồng bắt tay từ giã mọi người. Hai Rồng ôm Bền vào lòng, nói:
-“Tía tạm gởi con tại đây giúp cậu Hai Bảnh một thời gian, chưa biết là bao lâu. Một ngày nào đó, tía sẽ trở lại đây đón con. Nhưng, nếu một mai tía có hy sinh cho đất nước, con phải sống cho nên thân nghe, Bền!”
Bền rưng rưng nước mắt, nói:
-“Xa tía, con nhớ lắm!”
Hai Rồng nói:
-“Đại trượng phu đổ máu, chớ không đổ lệ! Đừng khóc con! Hãy nhớ, phải sống cho nên thân là tía vui lòng rồi.!”
Sáu Trí nói:
-“Hẹn gặp lại anh Hai tại cù lao Ông Chưởng một ngày không xa!”
Hai Rồng vẫy tay chào từ giã mọi người, bước xuống ghe tam bản, nhổ sào chèo ra giữa dòng. Nhìn chiếc ghe theo dòng nước từ từ trôi xa, Bền bỗng dưng đổi ý, vùng chạy theo, nói:
-“Tía ơi, cho con đi theo với tía! Con không chịu ở lại đây đâu!”
Hai Rồng ngoảnh mặt lên bờ, nhìn Bền lần sau cùng, khoát tay, nói:
-“Trở lại đi con, đừng có chạy theo bịn rịn nữa!”
Biết không thể nào lay chuyển được quyết định sắt đá của người tía nuôi kính mến. Bền thét to:
-“Tía ráng bảo trọng nghe, tía!”
Chiếc ghe từ từ trôi xa, chỉ còn là một chấm đen di động lung linh trên rạch Long Khốt. Thằng Bền quyến luyến, nó trèo lên tuốt ngọn dừa trên bờ rạch, dõi mắt nhìn theo cho đến khi chiếc ghe tam bản mất hút sau mấy rặng trâm bầu…
CHƯƠNG MƯỜI LĂM
NHỮNG HIỆN TƯỢNG HUYỀN BÍ
MIỆT VƯỜN
Cảnh chia ly nào cũng buồn cho kẻ ở người đi. Thấy Bền quyến luyến không nở rời xa người tía nuôi Hai Rồng, đã làm mọi đứng trên bờ rạch Long Khốt rất cảm động. Cậu Hai Bảnh hối hận, nói:
-“Nếu biết trước tình cảm tía con họ sâu đậm như vầy, chắc tôi không giữ cháu Bền lại làm gì; vả lại, chú Hai cũng cần có cháu Bền bên cạnh giúp đở lúc gặp hiểm nguy!”
-“Tôi thấy cháu Bền là một thanh niên rất trọng tình nghĩa hiếm có trên đời,” Tư Long nói. “Trong trận long tranh hổ đấu với Thạch Sum hồi đêm hôm, cháu Bền lầm tưởng chú Hai Rồng bị Thạch Sum đánh bại, nên cháu bảo tôi cùng với mọi người tìm cách chạy về làng trước, còn cháu Bền quyết ở lại chiến đấu với Thạch Sum cùng sống chết với tía!”
Thằng Tư Kê vọt miệng, nói:
-“Nếu anh Bền không xông vào trong biển lửa cứu con, chắc con cũng chết thiêu rồi. Anh Bền gan cùng mình, phải không tía?”
Chín Dậu nhìn con, nói:
-“Trên bước đường đời sau nầy, tía cũng mong mầy có một người bạn tốt như cháu Bền, tía cũng an tâm.”
-“Một chút nữa, tía và gia đình bác Năm chèo ghe về nhà trước đi nghen,” Tư Kê nói. “Con muốn ở lại đây chơi với anh Bền vài ngày, khi nào ảnh đi với ông Hai lên Châu Đốc săn cọp dữ, con mới trở về nhà, được không tía?”
-“Tao thì sao cũng được, mầy hỏi con Ngọ, coi nó chịu không? Chớ đừng hỏi tao làm gì!”
-“Con sao cũng được mà, tía!” Ngọ nhìn Tư Kê, nói. “Vài ngày nữa, Ngọ bơi xuồng ra đây đón anh Tư về, chịu không?”
-“Tính như vậy, mắc công Ngọ lắm,” Tư Kê quay sang tía, nói. “Thôi, tía để chiếc xuồng ba lá lại đây cho con, bao giờ con muốn về sẽ bơi xuồng về. Chút nữa, tía chịu khó quá giang bác Mười về nhà trước, nghe tía.”
-“Ừa, mầy tính như vậy cũng gọn. Ở nhà còn chiếc ghe tam bản, tao muốn đi đâu, chèo ghe đi một mình cũng đặng,” Chín Dậu nói. “Mầy chạy ù đến gốc cây dừa, gọi cháu Bền xuống đi. Tội nghiệp! Cháu Bền nặng tình, nặng nghĩa với chú Hai Rồng quá! Mầy ở lại đây chới nó vài ngày cho có bạn cũng tốt!”
Tư Kê nghe tía nói, bèn chạy bay đến gốc cây dừa, gọi vói lên:
-“Anh Bền ơi! Tuột xuống đi! Chú Hai đi rồi, bộ tính ôm cây dừa ở miết trên đó sao, bạn hiền?”
Bền nghe Tư Kê gọi, liền tuột từ từ xuống đất, nói:
-“Tía tao bôn ba việc nước, cần có tao bên cạnh giúp đở. Có thằng tướng dở như tao, cũng đở cho ông tướng hay, đúng không?”
-“Thôi mà, sớm muộn gì chú Hai cũng về đây đón anh, lo gì chớ!” Tư Kê an ủi, nói. “Tui ở đây, chơi với anh vài ngày cho có bạn, khi nào anh lên đường đi Thất Sơn với ông Hai Bảnh thì tui trở về nhà, được không?”
Bền choàng vai qua Tư Kê, cảm động, nói:
-“Có mầy bên cạnh trò chuyện cũng đỡ buồn! Tao cũng muốn tìm hiểu thêm về vùng đất Đồng Tháp Mười “địa linh nhân kiệt” nầy. Tía tao có nói rằng, nơi đây mà lập chiến khu chống giặc Pháp xâm lược, sẽ vững như bàn thạch, có thể trường kỳ kháng chiến với giặc Pháp. Hồi đó, ông Võ Duy Dương nguyên là phú hào, bỏ cả sự nghiệp ra tuyển mộ được một ngàn quân nghĩa dõng, tổ chức thành các đơn vị du kích, lấy Đồng Tháp Mười làm căn cứ chống thực dân Pháp. Khi hay tin ông khởi nghĩa, vua Tự Đức phong cho ông chức Lãnh Binh, nên ông còn có tên gọi là Lãnh Binh Dương.”
Tư Kê nói:
-“Thôi, tụi mình trở về nhà ông Hai! Tui chắc ông Hai cũng cần gặp anh để bàn chuyện lên Thất Sơn săn hổ đó!”
-“Ừ, tụi mình trở về là vừa!”
Vừa gặp cậu Hai Bảnh, Bền nôn nóng, hỏi ngay:
-“Bao giờ mình lên đường vậy, thưa ông Hai?”
Cậu Hai Bảnh vỗ vai Bền, thân mật nói:
-“Bây giờ, tôi xem mọi ở đây như anh em một nhà, gia đình thân tộc của tôi. Cháu Bền hãy gọi tôi bằng bác Hai là được rồi.”
Tư Long nhìn Bền, nói:
-“Phải đó đa! Mấy người ở đây, ai cũng lớn tuổi hơn chú Hai Rồng, trừ chú Sáu Trí. Vì vậy, tôi cũng muốn cháu Bền gọi cậu Hai, tôi, anh Chín Dậu, anh Mười Dần bằng bác và gọi Sáu Trí bằng chú Sáu cho có vẻ thân mật nghe! Có lúc, cháu kêu tôi bằng chú, có khi gọi tôi bằng ông Tư, nghe sao chẳng giống ai, phải không?”
Cậu Hai Bảnh nói:
-“Việc lên Thất Sơn, còn phải chờ bác gái cháu, coi ngày nào là “kiết nhật” mới cho bác cháu mình xuất hành. Chớ không phải muốn đi lúc nào là đi được đâu, cháu.”
Bền giọng ngạc nhiên, hỏi đùa:
-“Bộ đi đánh giặc cũng phải coi ngày nữa sao, bác Hai?”
Cậu Hai Bảnh phì cười, nói:
-“Đánh giặc khác với đi săn chớ, cháu!”
Mọi người đang đứng trên sân trò chuyện vui vẻ thì một anh lực điền đại diện anh em tới xin phép cho họ rút lui. Cậu Hai Bảnh nói:
-“Cậu nói với họ, chịu khó chờ tôi một chút xíu nghe!”
Tư Long nói:
-“Cậu Hai giữ họ lại có chuyện gì không? Ai nấy cũng nóng lòng muốn trở về nhà, lo vụ mùa sắp tới cho kịp thời vụ.”
-“Tôi biết!” cậu Hai Bảnh nói, rồi quay sang Sáu Trí, hỏi. “Sổ sách thu lúa ruộng hồi năm ngoái, chú Sáu còn giữ đủ không?”
Sáu Trí nói:
-“Dạ, danh sách thu góp lúa ruộng hồi năm ngoái, tôi còn giữ đầy đủ cả.”
Câu Hai Bảnh quay sang Tư Long, hỏi:
-“Gạo thóc trong mấy cái lẫm lúa còn đầy đủ không, chú Tư?”
Tư Long thưa:
-“Lúa thóc trong kho còn đầy đủ cả, chờ báo cho mấy chành lúa ở Mộc Hóa và Thủ Thừa sẵn sàng đem ghe chài tới chở.”
Cậu Hai Bảnh nói:
-“Chú Tư và chú Sáu nói với những anh em tá điền là bắt đầu từ ngày mai, tới đây để nhận lại số lúa mà đã đóng lúa ruộng cho tôi hồi năm ngoái nghe! Trả hết cho họ, số lúa còn tồn kho, tôi nhờ chú Tư cho chở hết ra mấy chành lúa, xây thành gạo hết để chuẩn bị cứu đói cho đồng bào nghèo quanh vùng trong mùa nước nổi sắp tới! Năm nay là năm Canh Thìn, mùa nước nổi chắc sẽ dữ tợn lắm!”
Quyết định đột ngột của cậu Hai Bảnh làm ai nay đều cảm động đến sững sờ. Bền và Tư Kê vui mừng, nói:
-“Để tụi con chạy ù vô sân phơi lúa, báo tin vui cho mọi người biết!”
Tiếng reo hò, vui mừng vui quá vui của những người tá điền như vỡ chợ, làm cho mợ Hai Bảnh và Thu Hương từ trong nhà chạy ra xem chuyện gì. Cả hai đều tá hỏa trước quyết định nhân đạo quá đột ngột của cậu Hai Bảnh. Thu Hương hớn hở chạy bay ra ngoài bến nước bá cổ cha, nói:
-“Má và con hoan nghinh quyết định của ba!”
Cậu Hai Bảnh vuốt tóc con gái cưng, nói:
-“Mình đã làm ơn cho họ, phải làm ơn cho trót chớ, đúng không con gái?”
Thu Hương nói:
-“Má nhờ ba nói với mấy chú, nán lại đây đêm nay, ở chơi với gia đình mình rồi sáng mai hãy về nhà. Má đã chuẩn bị làm đồ nhậu, đãi mấy chú một chầu rồi.”
Cậu Hai Bảnh nhìn mọi người, nói:
-“Thôi, mấy chú chịu khó chìu bà vợ tôi một phen đi; vả lại, tôi cũng có một vài công việc quan trọng, muốn bàn bạc với mấy anh em, trước khi khi lên đường đi Châu Đốc. Mấy chú tính sao?”
Mười Dần nhìn vợ cười toe toét, nói:
-“Ăn thì được, còn nhậu thì tôi không dám phạm “gia uy” đâu, mấy cha!”
-“Thôi mà, tía con Ngọ! Nhắc chuyện cũ hoài, mắc cỡ thấy mẹ! Từ khi ông trở về nhà, tôi sửa lại gia uy rồi, ông muốn nhậu bao nhiêu thì nhậu, miễn là đừng bỏ mẹ con tui nữa là được rồi!” thím Mười quay sang bảo con gái. “Thôi, má con mình vô nhà, tiếp tay với mợ Hai lo bữa cơm chiều đãi mọi người.”
Cậu Hai Bảnh nói:
-“Trước khi đi, chú Hai Rồng có dặn anh em mình phải đề cao cảnh giác, sợ bọn Thạch Sum có thể trở mặt, đánh úp, mình sẽ trở tay không kịp!”
Tư Long nói:
-“Sau bữa cơm chiều, tôi mời mấy anh xuống căn nhà sàn của tôi, nhậu theo kiểu truyền thống thời khẩn hoang lập điền vùng Đồng Tháp Mười, khô cá mà nhậu với nước trà cũng bắt lắm. Tôi có cả chục con khô cá bông của ông Năm Liễng biếu, ngon hết sẩy, nghe mấy cha!”
Bền nói:
-“Con sống trên ghe quen rồi, để anh em tụi con xuống ghe ngủ nghe, bác Tư.”
Tư Long nói:
-“Tối nay, trời sẽ mưa giông đó! Mưa đầu mùa mà!”
Tư Kê vọt miệng, nói:
-“Trời đang nắng chang chang như vầy, mà mưa thế nào được hả, bác Tư?”
Tư Long chỉ mấy con chuồn chuồn đang bay là là trên mặt nước, dọc theo mấy bụi phi lau, nói:
-“Đây là kinh nghiệm của bác Tư, đoán thời tiết mưa nắng ở miệt vườn rất đơn giãn: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa / Bay cao thì nắng, bay vừa thì hanh”. Tối nay, trời không mưa là bác Tư chịu thua tụi bây!”
-“Con không tin,” Tư Kê nói. “Nếu tối nay trời mưa, con dỡ chà dưới rạch, đãi bác Tư một chầu cá nướng. Còn trời không mưa, bác Tư chịu thua con cái gì đây?”
Tư Long gật đầu, nói:
-“Nếu tối nay, trời không mưa, tao tặng cho con Ngọ một cặp heo quắn, chịu không?”
Tư Kê giọng chắc ăn như bắp, nói:
-“Con chịu liền!”
Cậu Hai Bảnh nói:
-“Thôi mời các anh em trở vô sân phơi lúa, để anh em tá điền chào từ giã!”
***
Sau bữa cơm tối, mọi người ngồi quây quần trên bộ tràng kỷ, bàn về chuyến đi lên núi Thất Sơn của cậu Hai Bảnh. Người lo lắng nhứt vẫn là mợ Hai, bà nói:
-“Tôi thấy chuyến đi nầy “lành ít, dữ nhiều”. Nhưng, tôi tin có số mạng “ở hiền, gặp lành”, ông nhà tôi đã ngộ ra được điều nầy, tôi rất mừng; có thể ông nhà tôi sẽ gặp may mắn “tiền hung hậu kiết”. Hy vọng là như vậy!”
Mười Dần đề nghị, nói:
-“Chuyến nầy để tôi đi thay cậu Hai được mà. Tôi nói không phải khoe tài, huấn luyện viên tác xạ là nghề của tôi trong quân đội viễn chinh Pháp ở Phi Châu.”
Cậu Hai Bảnh nói:
-“Tôi biết anh Mười có thể thay tôi làm chuyện nầy giúp đồng bào. Nhưng, tôi đã hứa với họ là nhứt định tôi phải giữ lời!”
Mười Dần nói:
-“Như vậy, tôi có thể đi theo cậu Hai, giúp một tay được không? Có ba người vẫn hơn, đúng không?”
-“Được như vậy, quý hóa lắm! Có anh Mười đi theo ổng, tôi cũng bớt lo,” mợ Hai Bảnh nhìn chồng, hỏi. “Ông nghĩ sao về đề nghị của anh Mười Dần?”
-“Anh Mười xa quê hương cả chục năm trời, phải để anh ở nhà hủ hỉ với chị Mười chớ bà,” cậu Hai Bảnh quay sang thím Mười, hỏi. “Tôi nói như vậy có đúng không, chị Mười?”
Vợ Mười Dần nói:
-“Chuyện nhỏ mà cậu Hai! Vợ chồng tui già rồi! Ổng bỏ hai mẹ con tui đi biền biệt hơn 10 năm trời, còn chưa ăn thua gì!”
-“Như vậy, chị Mười đồng ý rồi, đúng không?” cậu Hai Bảnh nhìn vợ, hỏi. “Còn má con Thu Hương cho biết ngày nào là “kiết nhật” để tui lên đường hả, bà?”
Mợ Hai Bảnh nói:
-“Tôi đã coi lịch rồi, phải chờ đến ngày chủ nhựt 28 tháng 4 – nhằm ngày 21 tháng 3 âm lịch – là “kiết nhựt” ông có thể lên đường được rồi đó!”
Cậu hai Bảnh nói:
-“Như vậy, anh em tụi mình còn thong thả non nửa tháng nữa. Anh Mười về nhà nghỉ ngơi. Bao giờ lên đường, tôi sẽ cho cháu Tư Kê về báo tin cho anh biết.”
Mười Dần nói:
-“Xong việc của đồng bào Thất Sơn nhờ cậy. Nếu cậu Hai đưa hết gia đình về Sài Gòn. Cậu Hai có thể cho tôi xin khẩu súng trường mousqueton được không?”
Cậu Hai Bảnh nói:
-“Khẩu súng trường nầy, tôi có giấy chứng nhận của viên quan ba Pháp, phụ tá Chủ Tỉnh Long Xuyên ký tặng. Nó chỉ hợp pháp với tôi, nhưng nó sẽ không hợp pháp đối với anh Mười.”
Mười Dần nói:
-“Không hề gì đâu, vì tôi sẽ mang khẩu súng nầy về cù lao Ông Chưởng, gia nhập nghĩa quân Phật Giáo Hòa Hảo, kháng chiến chống thực dân Pháp; vì vậy, khẩu súng trường nầy hợp pháp hay không hợp pháp đâu thành vấn đề!”
Cậu Hai Bảnh nói:
-“Được lắm! Hạ xong hai con hổ dữ ở Thất Sơn, tôi sẽ tặng khẩu súng nầy cho anh,” cậu Hai Bảnh hỏi. “Còn chị Mười, có đồng ý cho anh Mười gia nhập kháng chiến quân PGHH hay không hả, chị Mười?”
Vợ Mười Dần hãnh diện, nói:
-“Kháng chiến chống thực dân Pháp, giành độc lập cho quê hương xứ sở là nghĩa vụ của mọi người Việt Nam yêu nước. Chồng đâu, vợ đó, giặc đến nhà đàn bà cũng ra trận. Tui sẽ sát cánh với anh Mười xung phong ra tuyền tuyến, sống chết có nhau cho tròn tình nghĩa vợ chồng!”
Ngọ hỏi:
-“Còn con thì sao, hả tía má!”
-“Con gái lớn có chồng thì phải theo chồng, theo tía má làm gì chớ! Má coi thằng Tư Kê, nó chịu đèn mầy rồi đó!” thím Mười nhìn Tư Kê, hỏi. “Sao Tư Kê, có muốn cưới con gái của dì Năm hay không? Nói cho tao biết coi!”
Tư Kê mắc cỡ, nói:
-“Chuyện lớn như vậy mà tía má còn phải hỏi! Con chịu liền!”
Chín Dậu vui mừng, nói:
-“Được kết làm sui gia với anh chị Mười thì còn gì bằng. Nhưng mà, thằng Tư Kê còn con nít trân. Chờ hai năm nữa cho nó ngoài 18 tuổi, tui sẽ cho người đến giạm hỏi cháu Ngọ cho nó, sao anh chị chịu không?”
Mười Dần nói:
-“Tôi với bạn là anh em kết nghĩa, từng sống chết có nhau, sao cũng được mà; miễn sao, vợ chồng nó hạnh phúc là được rồi!”
Cậu Hai Bảnh nhìn Sáu Trí nói:
-“Chú Sáu nhớ cắt vài mẫu đất dành cho gia đình anh Chín Dậu ở gần đây, để cho hai ông bạn già Tư Long và anh Chín Dậu sớm hôm hủ hỉ có nhau.”
Sáu Trí nói:
-“Cậu Hai an tâm, việc nầy để tôi lo. Sau mùa nước nổi, tôi sẽ hoàn tất việc phân ranh đất, rồi liên lạc với sở Trường Tiền Tân An, cử người tới chứng thực và cấp bằng khoáng đất cho mấy anh em tá điền. Xong việc, tôi sẽ gặp anh Hai Rồng, anh chị Mười và cháu Bền ở cù lao Ông Chưởng.”
Tư Long hỏi:
-“Cậu Hai cần dặn dò anh em điều gì nữa không? Nếu không, tôi sẽ dẫn anh em xuống căn nhà sàn của tôi đàm đạo.”
Cậu Hai Bảnh nói:
-“Mấy anh em xuống đó trước đi; chút nữa, có thể tôi xuống đó gặp mấy anh em nói chuyện chơi.”
Bền thưa với Tư Long:
-“Con xin phép dẫn Tư Kê xuống ghe ngủ qua đêm với con! Hẹn gặp bác Tư sáng mai! Tụi con sẽ giúp bác Tư phân phát lúa gạo cho bà con tá điền!”
***
Ngồi trong khoang ghe cà dom, trong lòng Tư Kê vẫn không an tâm, hỏi Bền:
-“Liệu tối nay, Thạch Sum có dẫn đám bộ hạ đánh úp dân làng để trả thù không, anh Bền?”
-“Khó mà đoán trước được ý định của Thạch Sum. Hay nhứt là mình phải đề cao cảnh giác, sẵn sàng đánh trả cuộc tấn công bất ngờ của họ. Tối nay, tao sẽ đi tuần suốt đêm,” Bền hỏi. “Mầy có dám đi với tao không, Tư Kê?”
-“Đi thì đi, sợ gì mà không dám chớ!” Tư Kê nói. “Tui sẽ bơi xuồng đưa anh đi!”
-“Để tao thắp nhang đèn trên bàn thờ của Đức Trần Hưng Đạo và tía má tao cái đã, rồi anh em mình nói chuyện tiếp,” Bền nói. “À quên, để tao đốt vỏ bưởi, cỏ khô un muỗi, rồi còn bắt nồi cháo khuya. Sau khi đi tuần về, phải có cái gì ăn cho ấm lòng.”
Tư Kê hỏi:
-“Hai cái ảnh bán thân trên cái tran thờ bên tay phải là tía má của anh, phải không?”
-“Đúng, đó là hình của tía má tao,” Bền gật đầu, nói: “Còn cái thẩu bằng đất nung để trên tran thờ là tro cốt! Sau mùa nước nổi, tao sẽ thực hiện lời trối trăn của tía má lúc còn sanh tiền, là được rãi tro cốt trên sóng nước Đông Hồ.”
Tư Kê hỏi:
-“Còn cái tran thờ bên trái, anh thờ hình tượng ông tướng nào, tay cầm gươm thiêng, đứng trước mũi chiến thuyền chỉ huy ba quân tướng sĩ, cờ xí rợp trời xông pha chiến trận, trông ông có vẻ oai phong lẫm liệt quá chừng chừng vậy, anh Bền?”
-“Bức hình nầy là một trong những vị đại anh hùng dân tộc, tên húy của ông là Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn là Đệ Nhất Danh Tướng đời nhà Trần.”
-“Ai vẽ tấm hình rất có hồn vậy, anh Bền?”
-“Tía Hai Rồng vẽ đó!” Bền hãnh diện, nói. “Ngoài võ nghệ cao cường, làu thông kinh sử, tía tao còn là một họa sĩ có tài.”
Tư Kê chưa hết thắc mắc, hỏi tiếp:
-“Còn ông tướng nào “mặt đỏ” mà người Việt Nam mình thờ ở trong nhà là ông tướng nào vậy, anh Bền?”
-“Ông tướng này là tướng của bọn Tàu Phù, tên ông ta là Quan Vân Trường đời Tam Quốc.”
Tư Kê bất mãn, nói:
-“Ông Quan Vân Trường là một viên tướng Tàu, người Tàu họ thờ phượng ông là phải rồi. Còn người Việt Nam mình, mắc mớ gì mà phải thờ ông tướng Tàu, sao kỳ cục vậy ta?”
-“Tao hoàn toàn đồng ý với mầy! Rất mong người Việt Nam mình ý thức được điều nầy, làm như vậy là vô ơn đối Tổ Tiên. Trong một ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ kể từ nhà Hán, Tấn, Lương, Tùy, Đường, Tống…thời đại nào, dân tộc Việt Nam mình cũng có những anh hùng xuất hiện cứu quốc như hai bà Trưng, bà Triệu, Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục, Mai Hắc Đế…cho đến năm 939, Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán, chấm dứt một ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ, mở đầu kỷ nguyên độc lập và tự chủ cho dân tộc Việt Nam mình.”
-“Từ hồi cha sanh, mẹ đẻ cho đến bây giờ, tui có tới trường học đâu mà biết lịch sử đấu tranh oai hùng của dân tộc Việt Nam! Tui không mù chữ là nhờ dì Út dạy cho hồi còn nhỏ,” Tư Kê hỏi tiếp. “Vị đệ nhứt danh tướng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn xuất hiện vào thời điểm nào, trong lịch sử giữ nước của tổ tiên mình vậy, anh Bền?”
-“Hưng Đạo Vương là tước vị của Hoàng thân Trần Quốc Tuấn, một danh tướng kiệt xuất đời nhà Trần, có chiến tích lẫy lừng và hiển hách so với các vị anh hùng dân tộc xuất chúng khác trong lịch sử như Tướng Lý Thường Kiệt, vua Lê Thái Tổ, Đại đế Quang Trung Nguyễn Huệ…” Bền kể tiếp. “Hốt Tất Liệt, cháu nội của Thành Cát Tư Hản dốc toàn lực trong chiến dịch dài ngót 10 năm từ 1268 đến 1279 để chinh phục Trung Hoa. Trong trận hải chiến cuối cùng vào năm 1279 tại vịnh Quảng Đông, Hốt Tất Liệt đánh bại nhà Nam Tống. Thừa tướng Lục Tú Phu phải cõng vua Tàu nhảy xuống biển cùng tuẩn tiết. Từ đó, Hốt Tất Liệt cai trị toàn cõi Trung Hoa để lập ra nhà Nguyên. Hốt Tất Liệt ba lần xua quân Nguyên Mông xâm phạm bờ cõi nước vào năm 1257, 1284 và lần cuối vào năm 1287. Vua Trần Thái Tông thân chinh, rồi đến vua Trần Nhân Tông phong cho Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm Tiết Chế thống lãnh toàn thể lực lượng quân ta chống giặc và Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn với tài điều binh khiển tướng, oanh liệt đánh bại quân Nguyên Mông sau ba lần xâm lược nước ta, đều bị quân ta quét sạch ra khỏi bờ cõi.”
Tư Kê hỏi:
-“So về tài điều binh khiển tướng và đức độ giữa Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và ông tướng “mặt đỏ” Quan Vân Trường như thế nào?”
-“Theo tía tao đánh giá: Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là Tướng “Chiến lược” hội đủ 8 đức tín của bậc làm tướng như: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Nhẫn, Trung, Dũng. Còn Quan Vân Trường chỉ là tướng “chiến thuật” như thiên lôi sai đâu đánh đó, thừa dũng cảm, nhưng chính bản chất kiêu căng, khinh bạc và kém khả năng chính trị của Quan Vân Trường đã làm thất thủ Kinh Châu.”
-“Anh Bền trí nhớ tốt thiệt,” Tư Kê vẫn còn thắc mắc, hỏi. “Thế thì tại sao, người Việt Nam mình không lập bàn thờ phượng những vị anh hùng dân tộc Việt Nam mình như Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ở trong nhà, mà lại đi thờ một ông tướng Tàu “mặt đỏ” là tại làm sao?”
-“Mầy hỏi tao, tao biết hỏi ai đây? Tao có nghe tía bàn bạc với vài vị trưởng thượng, những nhà trí thức yêu nước chuẩn bị phát động phong trào trở về cội nguồn “Chủ nghĩa Dân tộc” với khẩu hiệu: “Người Việt Nam phải thờ phượng những anh hùng dân tộc Việt Nam” để tạo khí thế sôi nỗi, hun đúc tinh thần yêu nước để chống thực Pháp. Ngoài ra, những cuộc biểu tình, xuống đường của mọi tầng lớp quần chúng chống kẻ thù xâm lược, để tránh việc bắt bớ, đàn áp của chánh quyền cai trị, mọi người phải mặc áo có vẽ hình những vị anh hùng dân tộc như Ngô Quyền, Hai Bà Trưng, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Tướng Lý Thường Kiệt, Vua Quang Trung Nguyễn Huệ…” Bền nói. “Tía tao tiên đoán, rồi đây sẽ có hàng hàng lớp lớp thanh niên, sinh viên, học sinh sẽ mặc những cái áo có vẽ hình những vị anh hùng dân tộc, rầm rộ xuống đường, thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh, đoàn kết chống ngoại xâm. Đây là đòn “tâm lý chiến” giáng xuống đầu bọn xâm lược nước ngoài và bọn Việt Gian làm chúng sẽ chùn bước. Tía tao nói đúng: Lịch sử còn, khí phách dân tộc còn. Nước Việt Nam sẽ vĩnh viễn còn.”
Bền mở cái rương bằng tre đan, lấy ra một cái áo thun lá, trải ra trên sàn gỗ, nói:
-“Đây là cái áo thun lá, tía dùng sơn dầu vẽ lên mặt trước hình Tướng Lý Thường Kiệt cỡi trên lưng chiến mã, giẵm lên đầu bọn giặc Tàu. Mặt phía sau có viết 4 câu thơ của ngài: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư / Tiệt nhiên định phận tại thiên thư / Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm / Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
-“Chú Hai Rồng có hoa tay vẽ thiệt nghen!” Tư Kê khen, nói. “Anh còn cái nào nữa không? Cho tui xin một cái!”
-“Tao chỉ có một cái áo duy nhứt nầy thôi! Tao để dành mặc nó, cùng đồng bào xuống đường biểu dương khí thế!” Bền nói. “Nồi cháo sắp chín rồi, tao nướng vài con cá sặc để ăn với cháo. Hồi nãy, ăn cơm ở nhà trên với mấy chú bác, tao ăn không mạnh miệng nên bây giờ vẫn còn đói.”
***
Trong lúc hai anh em ngồi bên ngọn đèn dầu trong khoang ghe ăn cháo; đột nhiên Tư Kê hỏi: -“Đông Hồ ở đâu vậy, anh Bền?”
-“Đông Hồ là hồ ở phía đông Hà Tiên. Theo con kinh Vĩnh Tế ăn thông với sông Giang Thành, chảy vào Đông Hồ trước, sau đó mới đổ ra biển Hà Tiên. Mỗi năm vào đầu mùa mưa, nước phèn trên đồng ruộng đổ xuống kinh Vĩnh Tế, làm cho nước sông Giang Thành khi đục khi trong. Mặt hồ nước trong xanh, sóng yên gió lặng giữa bốn bề sông nước, núi non rất hữu tình, cảnh vật lại yên tỉnh. Hồi nhỏ, tao thường bơi xuồng trên mặt hồ câu cá chẻm, cá hô.”
-“Cái hồ nầy lớn không, anh Bền?”
-“Bề dài khoảng 3 km, rộng 2 km. Phía hữu ngạn có núi Ngũ Hổ, phía tả ngạn là dãy núi Tô Châu. Nhà tao ở ấp Mương Khai nằm bên dòng sông Giang Thành, khúc sông đổ vào Đông Hồ. Anh em của tao đều mở mắt chào đời nơi làng nầy.”
-“Ủa, anh còn một người anh nữa sao? Anh ruột của anh bây giờ ở đâu?”
-“Anh Hai của tao đã chết rồi,” Bền giọng buồn buồn, nói. “Dân cư sống chung quanh Đông Hồ từ ấp Mương Khai, xóm Láng Tranh, ấp Ngã Tư, xã Thuận Yên… đều sống về nghề hạ bạc, lặn lội giữa biển khơi đầy gian lao và nguy hiểm, đem mạng sống đổi lấy miếng cơm manh áo để lo cha mẹ, vợ con mà cuộc sống của họ tùy theo con nước và đánh bắt cá theo mùa, nên cuộc đời của người đi biển cũng ba chìm bảy nổi như con nước thủy triều. Nhưng, những thanh niên sống chung quanh Đông Hồ ai cũng có say mê tiếng gọi của biển cả. Gia đình của tao cũng không ngoại lệ, anh Hai lúc đó mới có 17 tuổi, cũng khoái lao vào nghề đi biển, thử thách với sóng gió biển để kiếm tiền giúp đở gia đình. Quanh năm suốt tháng sống lênh đênh ngoài cửa biển Rạch Giá, theo ngư dân đánh bắt cá biển. Sau khi được chủ tàu thanh toán tiền nong hoặc khi trời giông bão thì anh Hai tao mở trở vô đất liền, thăm gia đình được vài ngày.”
Tư Kê đoán:
-“Có lẽ anh Hai chết vì bão biển phải không? Tui nghe nói, những người theo nghề đi biển đa số bị tử nạn vì bảo biển hoặc bị hải tặc giết người, cướp hải sản, phải không, anh Bền?”
-“Đúng như vậy,” nhưng Bền lắc đầu, nói. “Anh tao chết vì bị loài rắn biển cực độc cắn phải. Khi đưa về tới đất liền thì ảnh bị trào đờm chết.”
-“Loài rắn biển ghê thiệt hả!” Tư Kê nói.
Bền nói:
-“Vì cái chết đột ngột của anh Hai, nên tía má tao quyết định rời làng quê, sống lênh đênh trên ghe thương hồ vì không muốn tao theo nghề đi biển như những thanh niên trong vùng.”
Tư Kê nhìn Bền nói một câu chí tình:
-“Anh Bền bây giờ một thân một mình, mồ côi cha mẹ. Còn tui cũng chỉ có một mình, không anh em. Tui muốn kết nghĩa huynh đệ với anh!”
-“Được lắm!” Bền hỏi. “Bạn mấy tuổi?”
Tư Kê nói:
-“Tui tuổi Giáp Tý, sinh năm 1924 đúng 17 tuổi ta, còn anh?”
-“Tao tuổi Quí Hợi, sinh năm 1923, đúng 18 tuổi ta. Như vậy, tao làm anh của bạn,” Bền nói. “Tao phục tánh tình nhân hậu của mầy lắm, Tư Kê!”
Tư Kê nói:
-“Còn tui cũng phục cái tánh dũng cảm của anh, dám liều mình xông vô biển lửa để cứu bạn. Không có anh, chắc tui đã bị chết thiêu với thằng bé con rồi.”
Bền vỗ vai Tư Kê thân mật, nói:
-“Bây giờ tụi mình là anh em với nhau, tao không có gì quý giá để tặng mầy cả; ngoại trừ chiếc nghe cà dom nầy. Tao muốn tặng lại cho mầy để làm kế sinh nhai. Đời sống của dân thương hồ, gạo chợ nước sông cũng vui lắm! Sau mỗi mùa lúa, vợ chồng mầy xuống ghe, chuyên chở hàng hóa, trái cây đi xuống miệt Hậu Giang buôn bán kiếm lời, dành tiền lo cho con cái sau nầy.”
Tư Kê cảm động, hỏi:
-“Anh cho tui chiếc ghe nầy, còn anh ăn ở đâu, ngủ ở đâu?”
-“Mầy khờ quá,” Bền nói. “Chuyến lên núi Thất Sơn săn cọp dữ, có thể kéo dài đôi ba tháng chớ không nhanh chóng như mầy tưởng đâu. Khi tao trở lại đây, chờ cho qua mùa nước nổi. Tao sẽ đêm tro cốt của tía má tao về quê nhà, rãi xuống Đông Hồ. Sau đó, tao tìm về căn cứ địa của nghĩa quân PGHH ở cù lao Ông Chưởng, gặp tía Hai Rồng và mọi người ở đó.”
-“Anh Bền nè, tui nghe người ta nói trên dãy núi Thất Sơn thú dữ và quỷ ma nhiều lắm. Anh đi lên đó với bác Hai Bảnh lành ít dữ nhiều, đáng sợ lắm! Em có vật hộ mệnh nầy, muốn tặng lại cho anh, nhờ trời Phật che chở cho anh!” không đợi Bền trả lời, Tư Kê tháo sợi dây ngũ sắc đang đeo trên cổ, đưa cho bền, nói. “Đây là cái nanh heo rừng, có khắc tượng Phật hai mặt linh thiêng lắm!”
Bền cảm động, nhưng lắc đầu, nói:
-“Cám ơn Tư Kê, lòng tao quang minh chánh đại, không sợ ma quỷ hay tà thần. Mầy hãy giữ lấy vật hộ mệnh nầy mà đeo!”
Tư Kê bất ngờ hỏi:
-“Anh tin có ma quỉ không, anh Bền?”
-“Cách đây 7, 8 năm gì đó, tao sống với tía má trôi nổi theo chiếc ghe thương hồ. Tao còn nhớ, xế chiều hôm đó, sau khi tan chợ Cần Thơ, tía má tao chèo ghe băng qua sông Hậu Giang, vô rạch Cái Vồn, lên Phú Hữu để ra sông Tiền Giang cho gần. Khoảng nữa đêm hôm đó, khi chèo ghe qua khỏi địa phận quân Ba Càng, trời bỗng dưng mưa giông lớn lắm, mưa tối trời tối đất, tao lại bị lên cơn sốt cao mê man. Hai bên con rạch Cái Vồn là đồng không mông quạnh, chẳng có nhà ai để xin tá túc qua đêm. Bỗng tía má tao thấy một ánh đèn nhà ai cháy leo lét xa xa, tía tao mừng quá, chèo ghe riết tới để xin gia chủ cho ngủ nhờ một đêm,” Bền nói. “Nghe tía má nói lại, lúc chèo ghe đến nơi, thấy một ngôi chùa khang trang, có một vị hòa thượng với râu ba chồm, dóc dáng tiên phong đạo cốt, mời cả gia đình lên chùa uống nước trà cho ấm lòng. Vì mệt và lạnh nên mọi người ngủ thiếp cho đến bình minh. Lúc giựt mình thức dậy, cả nhà mới mới biết là đang nằm ngủ trên một bãi tha ma hoang vắng. Còn ngôi chùa đêm qua biến đi đâu mất tiêu.”
“Hỏi thiệt nghen,” Tư Kê hỏi. “Lúc đó, anh có sợ không?”
-“Tao có biết gì đâu mà sợ! Còn tía rất vui mừng vì thấy tao hết lên cơn sốt một cách kỳ lạ. Má tao nấu một mâm cơm chay, bày giữa trời tạ ơn trời Phật.” Bền nói tiếp. “Lần thứ hai, chính mắt tao thấy một “con tinh cái” mặt toàn bộ trắng toát chạy phất phới trên bờ sông, trong một đêm trăng sáng mới ghê chớ!”
-“Anh thấy con tinh cái ở đâu vậy, anh Bền?” Tư Kê hỏi.
Bền nói:
-“Sau khi xuống hàng và lên hàng xong tại chợ Cái Cui vào buổi chiều, má tao mua được một số tôm lóng để sáng ra chợ Cần Thơ bán kiếm lời. Khoảng 2 giờ sáng, gặp con nước lớn, tía má tao nhổ sào, chèo ghe ra chợ Cần Thơ. Lúc chèo ghe tới vàm Cái Đôi vào khoảng 4 gời sáng, má tao thấy một người đàn bà mặt toàn đồ trắng, đứng trên bờ, kêu giựt ngược: “Có tôm cá gì bán không? Tấp xuồng vô đây tôi mua hết!” Tía tao bèn quay mũi ghe, tấp vô bờ. Người đàn bà đó mua hết số tôm và trả tiền sòng phẳng.”
-“Người đàn bà đó mua tôm, trả tiền có gì là lạ đâu, anh Bền?”
-“Có tao mới nói chớ!” Bền kể tiếp. “Lúc đến chợ Cần Thơ, má tao mua được một số hàng bông, định chở đến chợ khác bán. Khi má tao móc túi lấy tiền trả cho người ta, chỉ thấy toàn là giấy vàng bạc, thế mới kinh!”
Tía tao ức lắm, tưởng bị gạt, bèn chèo ghe trở lại chỗ cũ tìm người đàn bà đó hỏi cho ra lẽ thì gặp một người thợ mộc của trại cưa, chuyên đóng ghe xuồng gần đó, hỏi tía tao:
-“Anh chị muốn tìm ai ở đây vậy?” tía tao chưa kịp trả lời, người đó nói ngay. “Có phải đến tìm người đàn bà mua tôm hồi tối hôm qua không?”
Tía tao ngạc nhiên, hỏi:
-“Sao mà anh biết hay vậy?”
-“Biết chớ sao không?” anh ta nói. “Hồi tờ mờ sáng nay, khi đi ngang qua gò mả gần bờ sông, tôi thấy toàn đầu tôm vất bừa bãi chung quanh đó.”
-“Mớ tôm nầy là của tôi bán cho người đàn bà đó khoảng 3, 4 giờ sáng,” má tao nói. “Người đàn bà đó trả tiền sòng phẳng lắm. Nhưng, sáng nay tại chợ Cần Thơ, tôi mới biết toàn là giấy vàng bạc, chớ không phải tiền thiệt.”
Anh ta nói:
-“Anh và chị gặp phải con tinh cái vàm Cái Đôi rồi!”
Tía ngạc ngiên, hỏi:
-“Con tinh cái xuất hiện ở vàm Cái Đôi từ hồi nào vậy?
-“Cách đây 3, 4 năm gì đó,” anh ta nói. “Lúc đó vào khoảng 6 giờ chiều, sau khi dọn dẹp đồ nghề, tôi xuống sông Hậu Giang tắm giặt; bất ngờ, thấy một thây ma đàn bà trôi tấp vào chưn cầu. Mấy anh em thợ mộc hoãng quá, vội kéo thây người đàn bà đó lên bờ, rồi đi báo cáo cho chánh quyền ở bên kia sông Cần Thơ. Nhưng qua đến chiều ngày hôm sau mà không thấy ai đến điều tra gì cả. Xác chết bắt đầu bốc mùi; vì vậy, sẵn có ván trong trại xuồng, chúng tôi đóng cho chị một cổ quan tài, rồi đi chôn tại bãi đất hoang gần vàm Cái Đôi làm phước.”
-“Người đàn bà nầy chắc chết oan, chết ức nhằm giờ linh không đi đầu thai được, nên vương vấn trần gian, hiện hình lên quậy phá người trần gian,” má tao nói. “Mấy anh làm ơn thì làm ơn cho trót đi, nên lập trai đàn, rước sư về tụng kinh cầu nguyện cho linh hồn người đàn nầy sớm siêu thoát.”
Người thợ mộc, nói:
-“Bà con trong xóm và mấy trại đóng ghe xuồng gần đây, cũng đã nghĩ đến vấn đế nầy rồi!”
-“Vậy thì tốt lắm!” má tao nói.
Bền nhìn Tư Kê hỏi lại:
-“Còn mầy có thấy ma, quỷ bao giờ chưa?”
Tư Kê nói:
-“Chẳng những tui gặp ma mà còn bị ma nó giấu, cho ăn đất sét đầy miệng nữa kìa!”
-“Thiệt vậy sao, Tư Kê?” Bền nói. “Tao không tin đâu! Ở xứ tao có người bị ma giấu, tâm trí đờ đẫn, khi thì tỉnh, khi thì điên, nói năng lảm nhảm, đâu có tỉnh queo như mầy vậy đâu!”
-“Thôi được, để tui kể anh nghe, anh tin hay không tùy anh,” Tư Kê nói. “Cách đây 4 năm, nhơn một chuyến về thăm quê ngoại ở Ấp Bình Lý, nằm trên con Rạch Sở Hạ vào mùa mưa dầm tháng 6. Gia đình cậu Sáu Nhiễu có hai người con trai là anh Tiền và Trung rủ tui đi soi ếch. Ở cái làng quê nầy, hễ vào mùa mưa dầm và mùa nước nỗi là thời điểm săn bắt cá, lươn, rắn, ếch…làm cái bến nước Rạch Sở Hạ chộn rộn hẵn lên. Mấy cậu lực điền ở tuổi anh và tui chuẩn bị cho mùa săn ếch, họ lặn lội thâu để soi ếch về làm món nhậu khoái khẩu lắm. Tui khoái nhứt là ếch xào lăng với lá cách, lá lốt, nước cốt dừa, đậu phọng làm món ăn nhậu miệt vườn đã lắm. Tui còn nhớ buổi chiều hôm đó, mưa bay lất phất, sương xuống khá lạnh. Mấy anh em vội vã ăn cơm chiều xong là lo chuẩn bị đồ nghề bỏ lên xuồng ba lá trước.”
Bền ngắt lời, hỏi:
-“Tao cũng là dân soi ếch có hạng ở Đông Hồ. Mầy nói thử coi, đồ nghề soi ếch gồm có những thứ gì? Mầy nói dóc, tao biết liền!”
Tư Kê nói tiếp:
-“Vào mùa mưa dầm hay mùa nước nổi, những cánh đồng ruộng bị ngập nước nên chuột cống nhum, rắn hổ đất không thể ở trong hang mà phải trèo lên cây hoặc các gò đất để làm hang, ổ. Khi đêm xuống, chúng rời hang trú ẩn bò ra ngoài săn mồi; vì vậy, nơi nào có ếch nhái là phải coi chừng, lẩn quẩn đâu đó có rắn hổ đang kiếm mồi. Dân săn ếch chuyên nghiệp miệt Rạch Sở Hạ thường phải mang theo cây chỉa ba có ngạnh dùng để săn chuột, hoặc rắn mới chắc ăn, và cây chỉa soi dùng để đâm ếch, một cây đèn bão, mỗi người mang theo khoảng chục bó đuốc bện bằng lá dừa nước và dây gai dùng để buộc hoặc xỏ xâu ếch.”
-“Ừ, mầy nói đúng đó! Tao tin, rồi sao nữa, kể tiếp đi bạn!”
-“Cánh đồng ruộng mênh mông nằm giữa Rạch Sở Hạ và Rạch Cái Cái có rất nhiều “gò” như: Gò Khao, Gò Gòn, Gò Chùa Nhỏ, Gò Tre, Gò Út Tâu…Tụi tui thường bơi xuồng ra gò gần nhà nhứt là Gò Khao, chỉ cần một đêm soi ếch tại Gò Khao là kiếm được trên dưới hai chục con ếch bự tổ chảng. Khi tụi tui chèo ghe đến Gò Khao thì trời tối mịt mưa vẫn còn bay lất phất, sương xuống dầy đặc, thời điểm nầy là mùa “ếch bắt cặp”, kêu rền trời nghe bắt ham. Tới Gò Khao, anh Tiền thắp cây đèn bão cho mọi người đốt đuốc, xong rồi ảnh móc cây đèn bão lên cây sào tre, cắm xuống đất sình bên cạnh chiếc xuồng ba lá, dặn tụi tui: “Khi nào tụi mầy muốn trở về, nhìn ánh đèn nầy để đánh hướng mà về!” Sau đó, mọi người tay cầm đuốc, tay cầm chĩa phân tán đi mỗi người mỗi ngã soi ếch.”
Bền hỏi:
-“Diện tích Gò Khao có rộng lớn lắm không?”
-“Trước đây chỉ là một mô đất nỗi lên giữa đồng ruộng, lâu ngày được phù sa bồi đấp sau mỗi mùa lũ lụt, mô đất đó trở thành gò cao hơn mặt đất ruộng khoảng dưới một thước, rộng cả trăm thước, xâm xấp nước nêm cỏ lát, lau sậy, chưn bầu…thi nhau mọc cao quá đầu người. Gò còn là tụ tập của chim trời như gà nước, le le, chuột, trăn rắn và đặc biệt là ếch; vì vậy, gò là còn kho thức ăn trời cho của dân làng,” Tư Kê nói. “Hễ nghe tiếng ếch kêu hướng nào là tui vạch cỏ lát, đi tới hướng đó, gặp ếch là cầm đuốc quơ qua, quơ lại trước mặt nó, mắt ếch rất bắt ánh đuốc, nó chỉ ngồi yên một chỗ, cứ phóng chĩa đâm, nếu đâm hụt, ếch sẽ phóng vào bụi hoặc nhảy bõm xuống nước. Chưa đầy một tiếng đồng hồ, tui soi được 4, 5 con ếch bà thiệt bự và cảm thấy lành lạnh nên muốn trở về xuồng, chờ mấy người anh. Vừa lúc ấy, tui thấy một ánh đuốc lúc ẩn lúc hiện phía xa xa, đinh ninh là của anh Tiền hoặc anh Trung nên tôi đi tới, rủ hai anh cùng về. Nhưng mà, tui càng đi tới thì ánh đuốc càng đi xa. Lúc đó, tui mới thực sự cảm thấy sờ sợ ma, bỗng tui nghe tiếng chưn ai đó lội xì xọp trong đám lau sậy, nhìn quanh thì không thấy ai, rồi tiếng chưn của nhiều người, rồi tiếng con nít khóc, tiếng đàn bà ru con lanh lãnh nghe lạnh cả xương sống.”
-“Chắc là mậy gặp ma thiệt rồi!” Bền nói.
-“Gặp ma thiệt rồi chớ còn gì nữa,” Tư Kê nói. “Lúc đó tui sợ quá té đái trong quần, quăng đuốc, cả xâu ếch, chạy thụt mạng về phía trước, nghe có tiếng chưn người chạy thình thịch rượt theo ở phía sau, tui cắm đầu, cắm cổ chạy bừa trong đám lau sậy cho đến khi ngã xuống vũng lầy, mệt xỉu.”
Bền ngắt lời, nóng ruột hỏi:
-“Rồi có ai cứu mầy không?”
Tư Kê nói:
-“Khi tui tỉnh dậy thì thấy mình đang chứng kiến một buỗi lễ hội gì đó, tưng bừng náo nhiệt lắm; hình như là đám cưới nhà ai đó thì phải, tui mừng quýnh lên tưỡng đã thoát nạn rồi. Bỗng có một người đàn bà bỏ tóc xỏa, gương mặt trắng bệt, cái nhìn của bà ta lạnh lẽo, xa xôi, trên tay bà bưng một dĩa xôi nếp. Tui còn nhìn thấy còn bốc lên nghi ngút. Bà ta nói: “Cậu ăn xong dĩa xôi nếp cho no lòng, tôi sẽ đưa cậu về nhà.”
Đang đói bụng mà gặp dĩa xôi, chẳng khác nào buồn ngủ mà gặp chiếu manh. Ăn xong dĩa xôi, mí mắt nặng trĩu như đeo đá, tui ngã lưng xuống đất ngủ một giấc không còn biết trời trăng mây nước gì hết, tui mê mang cho đến khi nghe văng vẳng bên tai có tiếng chó sủa, mở mắt ra thì thấy tía, bác Sáu cùng hai anh và mấy người lối xóm đứng xung quanh. Tui mừng quá, muốn nói mà nói không được, miệng tui bị vật gì trám đầy miệng. Tui nghe chú Mười Út nói:
-“Anh Chín đở thằng Tư ngồi dậy, bồng nó xuống xuồng để tui chửa bịnh tà cho nó liền, không thôi sẽ bị chết vì ngộp thở đó.”
Tía bế xốc tui ngồi dậy, tui nhìn thấy lờ mờ cậu Mười Út lấy ngón tay vẽ bùa ngoằn ngoèo trên ván xuồng thì bao nhiêu đất sét trong miệng tui ọc ra hết một lượt, tui ú ớ hỏi:
-“Đây là đâu vậy, tía?”
Tui chỉ nghe loáng thoáng tiếng cậu Mười Út nói:
-“Thôi, tụi mình bơi xuồng đưa nó về nhà liền bây giờ để tui chửa bịnh tà cho nó, thằng Tư kê bị ma giấu rồi đó! May là mình cứu nó kịp lúc!”
Bền hỏi:
-“Sao bác Chín biết chỗ mầy bị ma giấu mà kiếm trúng phóc vậy, Tư Kê?”
-“Tui đâu có biết gì đâu!” Tư Kê nói. “Anh hỏi tía tui coi!”
Vừa lúc đó, chú Chín Dậu đẩy cánh cửa khoang qua một bên, mang mùng mền vô trong khoang ghe, nói:
-“Cô Thu Hương nhờ tao đem mùng mền xuống đây cho tụi bây ngủ.”
Bền hỏi:
-“Bác Chín đói bụng không? Có nồi cháo trắng, kho sặc nướng để con dọn ra cho chú ăn nghen!”
-“Ừ được đa, tao cũng đang đói bụng đây nè!”
Tư Kê nói:
-“Để con dọn thêm chén muỗng cho tía.”
Cả ba người ngồi quay quần bên nồi cháo trắng, vừa ăn vừa nói chuyện. Bền hỏi:
-“Thằng Tư Kê nói mấy năm về trước, nó bị ma giấu. Hiện tượng huyền bí bị ma giấu có thiệt không hả, bác Chín?”
Chín Dậu nói:
-“Người dân miệt vườn vùng đồng bằng sông Cửu Long, bản chất thiệt thà, đời sống giản dị lắm. Trong những lúc trà dư tửu hậu, họ thường kể cho nhau nghe những chuyện “ma cỏ miền quê” mà mức độ rùng rợn của câu chuyện tùy theo óc tưởng tượng phong phú của mỗi người. Miệt vườn về đêm, bóng tối âm u, vắng lặng trùm phủ lên tàng cây, ngọn cỏ. Bà con nông dân mình tin rằng đó là thời điểm sinh hoạt của người cõi âm ẩn hiện trên những con đường mòn băng qua mấy thửa ruộng, bãi tha ma hoang vắng, trên cây da cổ thụ, bụi rậm…và dĩ nhiên có người cả tin rằng có ma qủy, nhưng cũng có người quả quyết rằng, trên đời làm gì có ma quỷ, đó chỉ là chuyện mê tín huyễn hoặc, dùng để hù dọa những người nhẹ dạ mà thôi.”
Bền hỏi:
-“Còn bác Chín tin có ma hay không?”
Chín Dậu nói:
-“Theo bác, ma quỷ là chuyện hoàn toàn có thật, phần lớn những oan hồn uổng tử không được cúng kiến, hoặc chết bờ chết buị, chết trôi chết nổi. Những hiện tượng bị quỷ ám, hoặc hiện hình bắt cóc trẻcon đem giấu vào bụi rậm rồi cho ăn đất sét đầy miệng như thằng Tư Kê con của bác đây. Hồi còn trẻ, chính mắt tao thấy con quỷ đu đưa trên cái võng, ru con trên cây da sà ở Gò Khao.”
Tư Kê nói:
-“Trời đất! Sao tía không nói cho con biết, để con ở nhà cho chắc ăn.”
-“Tao tưởng chuyện nầy đã mấy chục năm qua rồi, linh hồn người chết đã đi đầu thai, không ngờ họ còn vương vấn trên cõi hồng trần nầy,” Chín Dậu hồi tưởng lại chuyện xảy ra mấy chục năm về trước, rồi kể. “Hồi đó, bác làm phu bốc vác ở Quận Hồng Ngự, đó là một cái quận nhỏ, không có sở Bưu Điện, nhà thương gì cả. Nhưng mà nhà cửa khá đông đúc, xây cất bằng vật liệu sơ sài, nghề buôn bán trên sông ở đây rất phát đạt, ghe thương hồ tụ tập về đây rất đông vui, vì đây là vàm hai con rạch lớn là rạch Sở Thượng và rạch Sở Hạ đem nước sông Cửu Long vào vùng đất trũng Đồng Tháp Mười ngay từ đầu mùa nước nỗi. Ở quận Hồng Ngự được một thời gian, bác để dành dụm được một số tiền, hùn hạp với vài người bạn chí thân mua một chiếc tàu đò chở khách từ Hồng Ngự đi Tân Châu. Quận Tân Châu ngành thương mãi rất phồn thịnh và phát đạt hơn quận Hồng Ngự nhiều. Có xe đò, xe ngựa từ Tân Châu đi lên tỉnh Châu Đốc suốt ngày. Tàu đò từ Hồng Ngự muốn đi Tân Châu đều phải ghé lại bến đò ở Ấp Long Bình, trên đầu cù lao Long Khánh để cho khách xuống và rước khách lên tàu đi qua Tân Châu. Một hôm, lúc tàu đò ghé cù lao Long Khánh, bác tình cờ gặp má thằng Tư Kê quê ở Ấp Bình Lý, rồi theo bả về rạch Sở Hạ chung sống với nhau.”
Bền hỏi:
-“Con muốn biết cây da sà có quỉ hiện hình ở đâu vậy, bác Chín?”
Chín Dậu nói:
-“Lúc bác mới lập gia đình với má thằng Tư Kê thì đã có cây da sà ở Gò Khao rồi. Bác nghe ông ngoại thằng Tư Kê kể lại rằng: Có một năm nào đó, hình như là năm Bính Thìn 1916ù thì phải, vùng nầy xảy ra một trận lụt lớn chưa từng thấy. Nước lũ từ Đồng Tháp Mười tràn về dâng ngập lụt miền đồng bằng sông Cửu Long, từ Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ đường xá, ruộng đồng đều ngập trong biển nước mênh mông. Riêng tại khu tam giác giới hạn bởi rạch Sở Hạ lên tới phum Damrei Slap (giáp ranh giới Việt – Miên) rồi xuống rạch Cái Cái, Tân Thạnh đều bị ngập lụt, nước dâng lên thấy chóng mặt, hơn cả thước một ngày. Có một gia đình đàng trai từ Sóc Sa Rai thuộc ấp Bình Phú chèo ghe băng đồng nước nổi, xuống Gò Út Tâu rước dâu. Trên đường trở về đến địa phận giữa Gò Gòn và Gò Chùa Nhỏ gặp phải con trốt xoáy, sóng đồng thành sóng biển nổi cao lên cở 2, 3 từng lầu nhận chìm hết đoàn ghe xuống nước, không còn một người nào sống sót.”
-“Tội nghiệp họ quá hả, bác Tư,” Bền chậc lưỡi, hỏi. “Sau trận lụt đó, có vớt được xác người nào không?”
Chín Dậu nói:
-“Chỉ có một xác gần thối rữa của người đàn bà bụng mang dạ chửa, nhờ cái áo của bà vướng phải bụi tre gai nên không trôi đi mất xác, dân trong làng mới đóng một cái áo quan chôn bà ta tại chỗ đó. Về sau, nơi nầy nỗi lên thành gò, chính là Gò Khao bây giờ.”
-“Còn cây da sà ở Gò Khao?” Bền hỏi.
-“Một thời gian sau, có một cây da mọc lên tự nhiên ở ngay tại Gò Khao vì có ai trồng cây da bao giờ đâu. Cây da lớn nhanh như thổi, cành lá sum xuê che phủ cả một vùng nên dân trong vùng gọi là “cây da sà”. Nghe người ta đồn rằng, vào những đêm trăng thanh, gió mát, có bóng quỷ hiện hình, đưa võng kẻo kẹt, ru con lanh lãnh trên cây da sà. Từ đó, không một ai dám bén mãng đến cây da sà ban ngày lẫn ban đêm, có người còn thấy một bóng quỷ hiện hình đi loanh quanh dưới gốc cây da sà nữa. Cho tới một ngày, có một người chăn vịt đồng xa, lùa vịt bầy cả trăm con từ vùng khác tới cánh đồng nầy để cho vịt ăn lúa sót sau mùa gặt. Ban đêm, anh ta cho lùa bầy vịt ngủ chung quanh gốc da sà.”
Tư Kê nóng ruột, ngắt lời tía, hỏi:
-“Người chăn vịt đồng xa, có bị con quỷ trên cây da sà vật hay không vậy, tía?”
-“Nếu không có bà vợ của anh ta tới vùng nầy kiếm chồng, chắc không một ai hay biết gì cả.” Chín Dậu nói. “Người vợ thuật lại rằng, cách đây 3, 4 đêm gì đó, bà nằm chiêm bao thấy chồng báo mộng, cho biết: anh ta đã có vợ khác ở Gò Khao và người đàn bà nầy có sanh cho anh một đứa con gái nữa. Vì thế, cả làng sinh nghi đưa bà đến chỗ cây sà ở Gò Khao tìm chồng.”
-“Bà vợ có gặp được chồng không vậy, tía?” Tư Kê hỏi.
Chín Dậu nói:
-“Khi tới cây da sà, mọi người chạy đi tìm, sục sạo búa sua mà không thấy anh ta đâu cả. Cuối cùng, tao ngước mắt nhìn lên, thấy xác chết anh ta bị rễ phụ cây dây sà quấn mấy vòng chung quanh cổ, treo tòng ten cách mặt đất ít nhứt 4 thước, mắt trợn trừng, lưỡi thè dài thườn thượt thấy mà ghê! Một câu hỏi đặt ra, anh ta tự tử hay bị ai đó treo cổ? Đây là hiện tượng kỳ bí không thể giải thích được, làm thế nào anh ta tự treo cổ tử cách mặt đất trên 4 thước? Vậy thì ai giết anh ta? Gò Khao là một vùng đất bị quỉ ám, chẳng ai dám léo hánh tới đó mà giết anh ta. Cũng giống hiện tượng một đứa trẻ mới lên mười mà bị ma giấu trên tuốt ngọn dừa cao 9, 10 thước, người ta phải leo lên cây dừa lấy dây buộc ngang eo ếch thả nó xuống. Cái chết của người chăn vịt đồng xa là một trong những hiện tượng huyền bí miệt vườn, không ai có thể giải thích được.”
-“Ai đốn cây da sà vậy, tía?” Tư Kê hỏi.
-“Thiên lôi mới dám đốn cây da sà, chớ ai dám vô đó đốn. Có mấy tay lực điền không tin dị đoan, tình nguyện đem búa rìu vô đốn, đều bị trào máu họng hết!” Chín Dậu nói. “Thế rồi một đêm, trời mưa giông thiệt lớn, sấm sét nổi dậy đùng đùng, một lằn sét dài sáng rực từ trên trời giáng xuống cây da sà, một tiếng nổ kinh thiên động địa liền làm rung chuyển hai bên bờ rạch Sở Hạ. Sáng hôm sau, người ta thấy cây da sà bị sét đánh tét làm đôi, nhựa cây có màu đỏ như máu. Dân trong làng mới dám đem búa rìu ra triệt hạ nó, đào xới bật gốc vì sợ nó đâm chồi sống lại.”
Bền hỏi:
-“Làm sao bác biết Tư Kê bị ma giấu ở đó mà tìm trúng phóc vậy, bác Chín?”
-“Chuyện là như vầy,” Chín Dậu nói. “Thằng Tiền và Trung chờ hoài không thấy thằng Tư Kê trở về, biết xảy ra chuyện chẳng lành, tụi nó tức tốc bơi xuồng về nhà báo động cho mọi người biết. Cả nhà mới tá hỏa, báo động cho bà con lối xóm, chống xuồng đổ xô ra Gò Khao tìm kiếm, cậu Mười Ut dẫn theo mấy con có mực. Bà con miệt vườn thiệt có lòng, họ đốt đuốc bằng lá dừa, đèn bão. Tới Gò Khao là họ nhảy xuống ruộng nước ngang lưng, dàn hàng ngang lên bờ, lùng sục khắp lùm bụi nhưng không thấy, mọi người chán nản, hồi hộp lẫn lo âu. Bất thình lình nghe tiếng cậu Mười Út mừng rỡ la lên: “Thằng Tư Kê nó ngồi trong bụi nầy đây nè tụi bây ơi!” Chỗ thằng Tư Kê bị ma giấu là chỗ đất trũng, dấu vết của gốc cây da sà bị bứng gốc hồi xưa kia. Tụi bây thấy có ghê không?”
Bền thắc mắc, hỏi:
-“Cậu Mười Út vẽ bùa gì làm cho Tư Kệ ói hết đất sét trong miệng của nó ra vậy, bác Chín?”
-“Nói ra, sợ tụi bây cũng không tin,” Chín Dậu nói. “Bùa hốc xương!”
Tư Kê hỏi:
-“Ai dạy cậu Mười Út lá bùa độc chiêu nầy vậy, tía?”
Chín Kê nói:
-“Sự phụ của cậu Mười Út, em họ của má mầy, là con “chim gõ kiến” đó!”
Bền nghe Chín Dậu nói, ôm bụng cười bò lăn, nói:
-“Chuyện hi hữu à nghen, bác Chín! Lần đầu tiên con chim gõ kiến biết vẽ bùa đó!”
-“Tao biết, nói ra tụi bây cũng không tin. Nhưng, sự thiệt là nó như vậy!” Chín Dậu mới kể. “Hồi còn trẻ, cậu Mười Út nghe người ta nói là chim gõ kiến có bùa. Cậu không tin, nhưng quyết chí phải tìm ra sự thiệt. Cậu Mười Út kiên nhẫn lặn lội từ khu vườn nầy tới khu vườn khác, hễ cứ tiếng chim gõ vào bộng cây nào là cậu đi tới. Cuối cùng, cậu tìm thấy cái ổ của một con chim gõ kiến, khoét trong một cái bộng cây dừa cao nghều nghệu. Chờ lúc cho con chim gõ kiến rời tổ, bay đi kiếm mồi. Cậu bèn leo lên cây dừa, dùng một khúc gỗ bịt kín miệng ổ lại rồi tuột xuống đất, kiếm một bụi rậm nào gần đó, ngồi rình. Quả thiệt như vậy, khi con chim gõ kiến bay về, nó thấy cái ổ bị đóng kín cửa, liền bay sà xuống đất, dùng chưn vẽ bùa dưới gốc cây dừa, xong là nó xóa liền lập tức, chính mắt cậu Mười Út thấy khúc gỗ trên thân cây dừa văng bắn ra ngoài, rơi xuống đất.”
Bền hỏi:
-“Bây giờ thì con tin! Nhưng, làm sao câu Mười Út lấy được lá bùa của con chim gõ kiến chớ?”
-“Ngày hôm sau cậu trở lại cũng làm y như vậy, rồi dùng đất sét nhão, đấp chung quanh gốc cây dừa. Chờ cho con chim gõ kiến dùng chưn vẽ bùa trên lớp đất sét nhão vừa xong, nó chưa kịp xóa là cậu từ trong bụi nhào ra, đuổi nó bay đi. Chờ cho lớp đất vừa khô, cậu cắt lấy miếng đất sét có lá bùa chim gõ kiến đem về nhà nghiên cứu thành công. Từ đó về sau, cậu Mười Út dùng lá bùa nầy cứu rất nhiều người bị hóc xương gà, xương cá….” Chín Dậu kể tiếp. “Liên tiếp mấy ngày sau đó, thằng Tư Kê ngơ ngơ, ngẫn ngẫn như người mất hồn, nói năng lảm nhảm, tâm trí đờ đẫn, càng ngày càng mê muội, rõ ràng nó mắc bịnh tà ma. Nó làm những chuyện kỳ dị mà người bình thường không làm được như nó, nhứt là vào ban đêm nó vặn vẹo tay chưn nhiều kiểu rất khác thường, nói chuyện thì thầm với một ai đó trong lúc ngủ mê. Cậu Mười Út thấy vậy, mới đeo vào cổ nó một cái nanh heo rừng, có khắc tượng Phật hai mặt do một người Miên tặng, để đền ơn cậu Mười Út đã cứu cháu của ông ta bị hóc xương gà tưởng chết. Thiệt là linh nghiệm, ngay ngày hôm sau, Tư Kê trở lại con người bình thường, ma quỷ lánh xa nó. Sau khi cậu Mười Út qua đời, bùa chim gõ kiến trị “hóc xương” cũng thất truyền!”
Chín Dậu nói:
-“Thôi, tao đi lên trên nhà anh Tư Long nghen, kẻo các anh em chờ tao trên đó! Tụi con ngủ ngon!”
Thấy Tư Kê ngáp dài muốn trẹo xương hàm, Bền nói:
-“Để tao dọn dẹp chén đũa ra đằng sau lái, mai rửa. Mầy lo giăng mùng ngủ sớm, khuya còn đi tuần tiểu với tao nữa đó!”
Quá nữa đêm về sáng. Chiếc ghe cà dom uể oải lắc lư vì con rạch Long Khốt cựa mình bởi những cơn sóng dạt và những cơn gió thổi ào ạt, lay xào xạt từng tàu lá chuối, tàu dừa xác xơ. Bỗng tiếng sấm động lưng trời làm Bền thức giấc. Bền chống cái phên cửa lên, gió thổi tạt vào trong khoang ghe lạnh ngắt làm Tư Kê nằm cuộn tròn trong cái mền, co ro ở một góc khoang. Những tia chớp vẽ những ngoằn ngoèo sáng rực trên bầu đen sẫm và rồi cơn mưa đầu mùa tuôn nước mưa xối xả, những giọt mưa nặng hột, rơi rào rào trên mui ghe như có ai đó ném những hòn sỏi lên đó. Bền lay Tư Kê thức dậy, nói:
-“Dậy đi Tư Kê, mưa đầu mùa mau tạnh lắm, chuẩn bị đi tuần với tao!”
Tư Kê lấy tay dụi mắt, nói láp dáp:
-“Mưa thiệt rồi sao, anh Bền?”
-“Mưa thiệt chớ sao không thiệt!”
Tư Kê gãi đầu, gãi tai, nói:
-“Như vậy, ngày mai tui phải đi dỡ chà dưới mé rạch, đãi bác Tư Long một chầu cá nướng rồi!”
-“Chuyện nhỏ, tao phụ với mầy đi dỡ chà,” nai nịt thanh đoản kiếm trên lưng vừa xong, cơn mưa rào cũng tạnh dần, chỉ còn bay lất phất, Bền hối. “Dậy đi rửa mặt lẹ lên, rồi xuống xuồng đi tuần với tao.”
Cả hai anh em băng mình qua căn nhà sàn của Tư Long, xuống một chiếc xuồng ba lá, âm thầm bơi về hướng cái lạch nước, rồi bơi rẽ vô. Tư Kê hì hục chống xuồng, lướt ào ào trong đêm tối. Bền ngồi trước mũi xuồng quan sát, nghe ngóng động tỉnh. Bỗng Bền khoát tay ra hiệu cho Tư Kê dừng tay lại. Tư Kê ngạc nhiên, hỏi:
-“Chuyện gì vậy, anh Bền!”
-“Hình như có tiếng người lội băng cánh đồng, hướng về phía tụi mình thì phải?”
Tư Kê bỏ cây sào xuống, rồi lắng tai nghe, rồi mặt biến sắc, ú ớ nói:
-“Đúng rồi, có tiếng chưn người lội băng đồng, nhiều người lắm chớ không phải một, hai người đâu! Làm sao bây giờ đây anh Bền?”
Bền bình tỉnh, nói:
-“Mầy chống xuồng về nhà ngay bây giờ, càng nhanh càng tốt! Báo cho bác Tư Long và chú Sáu Trí biết là Thạch Sum và bộ hạ đang trên đường tiến về kinh Cái Cơ. Yêu cầu khẩn cấp báo động cho toàn thể dân làng biết để chuẩn bị nghinh chiến.”
-“Còn anh thì sao?” Tư Kê hỏi.
-“Đừng có lo cho tao!” Bền giục. “Thôi, chống xuồng trở về lẹ đi, tao tự lo liệu được mà.”
-“Thôi được, anh ráng bảo trọng nghe! Tui đi đây!”
Tư Kê dùng hết sức lực, chống xuồng lướt ào ào trên cái lạch nước, hướng về kinh Cái Cơ nhanh như gió cuốn. Xuồng vừa tấp vào căn nhà sàn, Tư Kê vội vã phóng lên nhà trên, gặp ngay Tư Long và Sáu Trí vừa thở hào hễn, vừa nói:
-“Thạch Sum và đồng bọn đang trên đường tiến về đây, định làm cỏ làng mình.”
-“Chúng có bao nhiêu người?” Sáu Trí hỏi. “Còn thằng Bền đâu?”
-“Dạ, con không biết chính xác, nhưng chắc đông lắm. Còn anh Bền ở lại đánh chận đầu chúng nó.”
Tư Long nghe nói, liền xô ghế đứng dậy, ra ngoài sàn nước lấy dùi, đánh vào cái mõ bằng gỗ treo tòn ten dưới mái nhà. Do sáng kiến của Sáu Trí, toàn vùng kinh Cái Cơ tổ chức được mạn lưới phòng thủ làng mạc bằng tiếng mõ báo động khẩn cấp, chống giặc cướp từ bên kia biên giới tràn sang. Sau hồi mõ của Tư Long gióng lên, được dân làng đáp ứng ngay lập tức, cả xóm rồi cả làng khua mõ dậy trời, các anh lực điền nghe tiếng mõ đều chạy ra vị trí chiến đấu chờ bọn cướp…còn cậu Hai Bảnh, Mười Dân cầm súng mousqueton chạy ra ụ đất trên bờ kinh, đạn đã lên nòng chờ đợi bọn cướp xuất hiện…
CHƯƠNG MƯỜI SÁU
NHỮNG NGƯỜI BẠN CHÂN QUÊ
Thấy trời sắp sửa rạng đông, không thấy Bền trở về làm mọi người nóng lòng chờ đợi. Tư Kê thấp tha thấp thỏm, muốn chống xuồng trở lại cái lạch nuước, xem hư thực như thế nào. Tư Kê nói:
– ” Con đi nghe tía! “
Chín Dậu ngạc nhiên, hỏi:
– ” Mầy tính đi đâu giờ nầy? “
– ” Con muốn chống xuồng trở lại chỗ cũ, coi chuyện gì đã xảy ra, ” Tư Kê nói. ” Bây giờ trời sáng rồi, không thấy anh Bền trở về mà cũng không thấy bọn cướp xuất hiện. Không lẽ, một mình anh Bền đánh tan hết bọn cướp? Có thể anh bị thương nặng không trở về đây được? “
Noi xong, không đợi tía trả lời, Tư Kê đứng dậy, chạy bay ra bờ kinh Cái Cơ, nhảy xuống xuồng, bơi nhanh chóng trở lại cái lạch nước, rồi dùng sào chống vô trong sâu. Bỗng Tư Kê thấy xa xa, một đàn trâu khoảng 9,10 con đang lội trên đồng cỏ lát mênh mông, thấy cả Bền đang ngồi trên lưng trâu đầu đàn, dùng roi lùa đàn trâu về làng. Tư Kê mừng quá, gọi:
– ” Ê, anh Bền! Tư Kê đây nè! “
Bền cũng mừng lắm, nói:
– ” Chống xuồng tắp vô đám cỏ lát, tránh đừờng cho đàn trâu đi! “
– ” Bầy trâu nầy của ai đây? ” Tư Kê hỏi.
– ” Bầy trâu nầy của Thạch Sum trả lại cho dân làng mình, chớ của ai vô đây! ” Bền nói. ” Thôi, về nhà đi! Tao sẽ kể cho mà nghe! “
” Thôi, anh trở về bình an là mừng rồi, ” Tư Kê nói. ” Lên xuồng lẹ di! Tui đưa anh về nhà. Thấy anh, mọi người chắc sẽ mừng lắm! “
Quả thật, mọi người thấy Bền đang lùa bầy trâu từ đằng xa, vừa mừng rỡ vừa ngạc nhiên, không biết bầy trâu nầy của ai đây? ” Sau khi lùa hết bầy trâu lên bờ kinh Cái Cơ. Tư Long hỏi ngay:
– ” Bầy trâu nầy của ai mà cháu lùa về đây? “
– ” Bầy trâu nầy của Thạch Sum trả lại cho dân làng mình đó! Hồi hôm, khi nghe tiếng lội nước rần rần trên cánh đồng, cháu tưởng là bọn cướp Thạch Sum kéo đến đánh úp làng mình, nên cháu cho Tư Kê chống xuồng về làng trước, báo động cho bà con chuẩn bị đối phó. Không dè, bầy trâu nầy là của Thạch Sum trả lại cho dân làng, tên lùa trâu thấy con bất ngờ xuất hiện, nó hoãng hồn, xổ ra một tràng tiếng Miên, con không hiểu gì ráo trọi. Sau đó, nó đoán biết con là người trong làng, nên giao bầy trâu nầy lại cho con lùa về. “
Cậu Hai Bảnh hỏi:
– ” Anh Tư có biết ai trong làng mình, bị cướp trâu không? “
– ” Tôi thiệt không nhớ rõ lắm! ” Tư Long đề nghị. ” Tôi giấu bầy trâu sau mấy bụi tre gai, rồi hỏi mấy người tá điền thì biết ngay chớ gì. “
” Ừ, anh Tư nói nghe cũng phải đó! ” cậu Hai Bảnh nói. ” Suýt chút nữa tôi quên. Anh Tư nhớ đánh mõ, giải tỏa lệnh báo đông khẩn cấp đi, để họ còn đến đây nhận lại lúa thóc chớ! “
– ” Tôi biết, dân làng mình bị bọn cướp Thạch Sum bắt đi nhiều lắm! Một bầy trâu chỉ có mười con làm sao trả họ cho đủ, ” Chín Dậu đề nghị. ” Theo tôi, mình giữ đàn trâu nầy tại đây, để cho mấy chú lực điền thay phiên nhau chăn giữ. Nhà nào có nhu cầu cày bừa cho kịp thời vụ trước, họ đến mượn trâu về cày bừa, xong dẫn trâu tới đây trả cho người khác mượn. “
– ” Ý kiến của anh Chín tốt lắm! Làm như vậy là công bằng nhứt! ” cậu Hai Bảnh nói. ” Vài hôm nữa, chú Tư nhớ ra mấy trại cưa ở Mộc Hóa, mua một số ván gỗ rồi nhờ họ đóng bè chở vô trại của Thạch Sum để dân làng cất lại nhà cửa cho ho ởï. Mình phải làm như vậy để đáp lại lòng thành của Thạch Sum và giữ gìn hòa khí lâu dài. “
Tư Long cười, nói:
– ” Cậu Hai không nhắc, tôi cũng quên mất! “
Sau khi nghe ba hồi mõ do Tư Long gióng lên, giải tỏa lệnh báo động, khoảng hơn một giờ sau đó, bà con tá điền trên đất của cậu Hai Bảnh lần lượt chèo ghe đến đông vui như một ngày hội, mọi người phấn chấn trong lòng. Sáu Trí là người chịu trách nhiệm sổ sách và gọi người đến nhận lãnh, Tư Long coi việc xuất kho. Bền và Tư Kê phụ giúp nâng bao lúa lên vai cho người nhận vác xuống nghe. Công việc nhân đạo nầy kéo dài đến ba ngay mới hoàn tất, ai nấy đều nhẹ hẫng trong lòng. Ai về nhà nấy, lo tất bật cho vụ mùa sắp tới, để kịp thu hoạch trước mùa nước nổi năm nay. Gia đình Mười Dần và Chín Dậu cũng xin kiếu từ trở về nhà.
Thấy hai anh em Bền và Tư Kê đứng xớ rớ trên bến rạch, Tư Long làm bộ nhắc khéo, nói:
– ” Tư Kê nè, sao dạo nầy tao thèm cá he vàng nướng lửa than quá nghe mậy! “
– ” Thôi được rồi, bác Tư ơi! Mai mốt đợi con nước ròng, con và anh Bền sẽ đi dỡ chà bắt cá nghen! ” Tư Kê nói.
– ” Dọc theo con rạch Long Khốt nầy, tao có thấy đám chà nào đâu mà mầy đòi dỡ chà? Nói chơi với mầy vậy thôi, muốn ăn cá he vàng, tao đón xuồng giăng câu, muốn mua bao nhiêu mà không có, ” Tư Long cười, nói. ” Tao có mua một cặp heo quắn rồi, nhốt gần khu nhà bếp. Lát nữa, con Ngọ bắt nó về nhà nuôi. “
– ” Thiệt, không ai hiểu con bằng bác Tư à nghen! Hoan hô bác Tư! ” Tư Kê khoái chí, nói. ” Cặp heo nầy, con và Ngọ sẽ cùng nuôi nó lớn lên rồi làm thịt, đãi bà con lối xóm vào ngày lễ cưới của con và Ngọ được không, bác Tư? “
– ” Ngày mầy cưới vợ, nhớ mời tao uống vài ly ruợu mừng với nghen, Tư Kê. “
Bền khều Tư Kê, nói:
– ” Con Ngọ dẫn cặp heo quắn đi sau bác Chín và tía má vợ của mầy, đang đi tới kia kìa, Tư Kê! Sao không chạy tới giúp con Ngọ một tay đi, thằng quỉ! “
– ” Ừ hén, tui quên! ” Tư Kê nói.
Thấy Tư Kê chạy ù tới, Ngọ liền khoe:
– ” Bác Tư tặng hai đứa mình cặp heo quắn nầy cho tui nuôi. Khi nào cặp heo nầy lớn là tụi mình ngả thịt, làm đám cưới nghen, chịu hôn? “
– ” Chịu liền, còn phải hỏi nữa! ” Tư Kê nói.
Ngọ nói:
– ” À quên, bác Hai Bảnh có tặng cho tía má tụi mình vài chục giạ lúa, đã vô bao rồi, không biết làm sao chở về nhà đây? “
– ” Chuyện nhỏ! Để tui mượn cái ghe cà dom của anh Bền, chở lúa thóc về cho tía má được mà. “
– ” Nhắm được hôn đó? “
– ” Được chớ sao không! Chuyện nhỏ thôi mà! “
– ” Ừa, anh chạy đi hỏi anh Bền thử coi! ” Ngọ nói. ” Bây giờ, Ngọ đi với tía má về nhà trước nghen! “
– ” Ngọ đưa sợi dây cho tui dắt hai con heo quắn xuống ghe cho! “
Mọi người đang chào từ giã nhau, bỗng thấy cậu Hai Bảnh, tay cầm chai rượu đi nhanh tới, nói:
– ” Bộ hai cha quên lấy chai rượu ” cognac ” nầy về nhậu rồi sao? “
– ” Chút xíu nữa tui quên, ” Mười Dần quay sang vợ, làm bộ hỏi. ” Cho tui nhận chai rượu tây nầy được không, má con Ngọ? “
Chị Mười cười, nói:
– ” Cậu Hai cho thì nhận đi! Ông mà thấy rượu như lân thấy pháo, còn ở đó mà làm bộ, làm tịch hoài vậy, cha nội! “
Mười Dần tay cầm chai rượu, nói:
– ” Bây giờ tụi tui trở về sắp xếp công việc nhà vài ngày. Bao giờ cậu Hai lên đường, nhớ nói với thằng Tư Kê báo cho tui biết. “
Sau khi mọi người xuống ghe, Tư Kê nhìn Bền ấp úng, hỏi:
– ” Tui có chút chuyện muốn nhờ anh giúp, không biết anh có ưng không? “
Nhìn thái độ ấp a, ấp úng của Tư Kê, Bền nỗi sùng, nói:
– ” Có chuyện gì, cứ nói đại ra đi! Tao không giúp mầy đuợc, tao chết liền! “
– ” Thiệt hén! ” Tư Kê nói. ” Anh cho tui mượn chiếc ghe cà dom, chở vài bao lúa cho tía tui và tía má Ngọ, được không? “
– ” Tưởng chuyện gì khó, chẳng những tao sẽ giúp mầy vác mấy bao lúa xuống ghe, chở về tới tận nhà, rồi vác lên đổ vô bồ lúa của tía mầy và bác Mười Dần được không? ” Bền trách. ” Tao với mầy bây giờ là anh em với nhau, có chuyện gì nhờ tao giúp, cứ nói thẳng ra cho tao biết! Tao mà bó tay không giúp mầy được, tao chết liền! “
– ” Để tui với anh nói cho bác Tư Long biết, khoảng xế chiều ngày mai tụi mình mới trở về nhà, vì mình còn phải dỡ chà bắt cá, ” Tư Kê nói. ” Bộ anh quên rồi hả? Đêm qua, trời đổ cơn mưa đầu mùa! Tui thua cuộc, còn thiếu bác Tư Long một chầu cá he vàng nướng. “
– ” À, mầy nhắc tao mới nhớ! ” Bền hỏi. ” Bác Tư Long còn khoái khẩu loại cá gì, ngoài cá he vàng? “
– ” Khoái khẩu nhứt là cá he vàng nướng mở hành, ăn cơm hoặc nhậu với xoài sống bằm, trộn với nước mắm đường. Mùa nầy là mùa cá mè vinh, cá he vàng, còn kiếm vài trái xoài đầu mùa mới khó đó, ” Tư Kê nói. ” Thôi, bây giờ mình lên nhà, thưa với bác Tư, cho tụi mình lãnh phần lúa của hai ông già tía. Con nước sắp đứng chựng rồi, ăn cơm trưa xong, gặp con nước ròng chảy ra, tụi mình nhổ sào là vừa. Anh nghĩ sao, anh Bền? “
– ” Ừa, thôi, tụi mình lên căn nhà sàn hỏi bác Tư liền đi. ” Bền nói.
Tư Long đang vo gạo trong cái nồi đồng, thấy hai anh em Bền và Tư Kê lơn tơn bước lên cầu thang, liền hỏi:
– ” Hai đứa tụi bây ăn cơm nước gì chưa? Nếu chưa, ở lại đây chờ ăn cơm với bác Tư.”
Bền nói:
– ” Con cho thằng Tư Kê mượn chiếc ghe cà dom chở mấy bao lúa của bác Chín và bác Mười Dần, bác Tư cho nó lãnh nghe! “
Tư Long trố mắt nhìn Tư Kê, nói:
– ” Một mình mầy làm sao chở nỗi mấy chục giạ lúa hả, Tư Kê? “
– ” Bác Tư an tâm, ” Bền nói. ” Tư Kê phụ chèo ghe với con mà, không hề gì đâu, bác Tư đừng có lo làm chi cho mệt! “
– ” Chừng nào hai đứa trở lại đây? ” Tư Long hỏi.
Tư Kê thưa:
– ” Xế chiều ngày mai tụi con sẽ về tới đây, bác Tư yên chí! “
– ” Tao thì sao cũng được! Nhưng, cậu Hai Bảnh dặn tao để cho thằng Bền nghỉ ngơi cho khỏe, còn có sức lội suối, leo núi, trèo đèo. Săn hổ dữ chuyến nầy ở Bảy Núi không phải dễ ăn đâu, ai cũng đang lo đây. ” Tư Long nói. ” Lúa của ông già tía mầy và Mười Dần còn để trong lẫm. Phần chú Chín 7 bao, còn phần gia đình chú Mười là 9 bao, vị chi là 16 bao, vác lúa xuống ghe rồi trở lên đây dùng cơm trưa với bác Tư nghen, tụi bây! “
– ” Sao phần lúa của tía con ít hơn của tía vợ vậy, bác Tư? ” Tư Kê hỏi đùa. ” Như vậy là một bên trọng, một bên khinh, không được đâu à nghen! “
– ” Gia đình mầy chỉ có hai người, còn gia đình tía vợ có tới ba người. Chú Sáu Trí chia như vậy là công bằng rồi, ” Tư Long hăm. ” Thôi được, tao sẽ cho tía con Ngọ biết để ảnh tính sổ với mầy. “
Tư Kê nghe vậy, hoãng quá, nói:
– ” Con nói giỡn chơi thôi mà, bác Tư! Làm gì dữ vậy nè chời! “
Tư Long cười, nói:
– ” Thôi, hai đứa bây vác lúa xuống nghe lẹ đi, rồi lên đây ăn cơm, tao chờ! “
Sau khi Bền và Tư Kê đi xuống tới lẫm lúa. Tư Kê hỏi Bền:
– ” Chiếc ghe cà dom có chở hết 16 bao lúa không, anh Bền? “
– ” Mầy đùng có lo, ” Bền nói. ” Sức chứa của từ 3, đến 4 tấn chưa chắc đã khẳm! “
Tư Long bắt nồi gạo mới vừa vo xong lên cái ca ràng, rồi bắt đầu nóm lửa. Khi nồi cơm mới vừa chín tới là thấy Bền và Tư Kê trở lên nhà rồi. Tư Long nói:
– ” Đói bụng rồi phải không? Thôi, ăn cơm xong rồi đi vác tiếp. “
Tư Kê nói:
– ” Dạ, 16 bao lúa chỉ xanh, tụi con chất xuống ghe xong rồi, bác Tư! “
Tư Long tưởng mình ghe lộn, nên hỏi lại:
– ” Lúc tụi bây đi, tao cũng mới vo nồi gạo, nồi cơm mới vừa chín tới mà tụi bây bốc vác hết 16 bao lúa xuống ghe rồi, mỗi bao nặng gần một tạ chớ đâu có nhẹ! Nếu có đói bụng, tao dọn cơm cho ăn, rồi đi vác lúa xuống ghe tiếp! Đừng có nói ba xạo với tao nghen, mấy con! “
– ” Hổng tin bác Tư xuống ghe đếm lại coi, có đủ 16 bao lúa không? “
Tư Long quay sang hỏi Bền:
– ” Thằng Tư Kê nói vậy, có thiệt không, Bền? “
– ” Dạ, thiệt như vậy đó, bác Tư! ” Bền nói. ” Tụi con vác 6 chuyến là xong hết rồi, mỗi chuyến con vác trên lưng hai bao, còn Tư Kê vác 4 bao; như vậy là đủ 16 bao rồi đó, bác Tư! “
Tư Kê nói:
– ” Anh Bền khỏe như trâu, ảnh vác hai bao lúa trên lưng, đi te te xuống bến nước một cách nhẹ nhàng. Còn con chỉ vác có một bao mà mệt gần le lưỡi. “
– ” Ừ, bây giờ thì tao tin rồi, ” Tư Long nói. ” Thôi, tao dọn cơm cho tui bây ăn, rồi nhổ sào cho kịp con nước ròng! “
*
Nhờ thuận con nước, gần khoảng hai giờ chèo ghe là tới nhà của Chín Dậu bên nầy rạch Long Khốt, cuối ranh đất của bá hộ Bảnh, gần ấp Bầu Biển. Còn gia đình của Mười Dần nằm bên kia rạch Long Khốt, mướn đất ruộng của ông điền chủ khác.
Chín Dậu về đến nhà, nằm đu đưa trên võng vừa mới chộp mắt, bỗng nghe tiếng Tư Kê gọi giựt ngược, bèn vươn vai đứng dậy đi ra bến rạch. Ngạc nhiên thấy Bền và Tư Kê chở lúa về nhà, Chín Dậu hỏi:
– ” Mấy bao lúa nầy của ai mà mầy chở về đây, giao cho ai vậy, Tư Kê? “
Tư Kê nói:
– ” Phần lúa của ông Hai Bảnh trả lại cho tía con mình là bảy bao, còn chín bao lúa kia là phần của gia đình tía vợ của con. “
Chín Dậu mừng lắm, nói:
– ” Bảy bao lúa chỉ xanh, xay thành gạo cũng được trên 300 kí gạo, ăn hết mùa lúa nầy cho tới cuối năm cũng chưa chắc hết! “
Tư Kê nói:
– ” Để con với anh Bền vác lúa lên nhà, đổ vô bồ xong, tụi con còn phải chở 9 bao lúa còn lại, giao cho bác Mười Dần, nghe tía! “
– ” Ừ, để tía giúp hai đứa bây một tay! Bác cám ơn cháu Bền nhiều nghe! “
– ” Chuyện nhỏ, ơn nghĩa gì đâu, bác Chín! ” Bền nói.
Trút lúa vô trong bồ xong, Chín Dậu dặn con:
– ” Sẵn dịp gặp ông già vợ mầy, nói tía mời ổng qua nhà mình nhậu với tao một chầu tối nay, tao đãi món lươn um rau ngổ với nước cốt dừa. Tía bảo đảm ngon hết sẩy! Nhậu không say, không về nhà! “
Tư Kê ngạc nhiên hỏi:
– ” Tía mới về nhà, chưn ướt, chưn ráo! Lươn ở đâu mà tía bắt lẹ vậy? “
– ” Thằng Ba Móm, bạn của mầy ở bên kia rạch, thấy tao mới vừa về, nó bơi xuồng qua cho tao hai con lươn vàng lườm, bự bằng bắp tay, mập ú! Tối nay, tía đãi anh sui và mời cháu Bền ở lại dùng một bữa cơm đạm bạc với bác, ” Chín Dậu hỏi. ” À, chừng nào tụi con trở lại nhà cậu Hai Bảnh? “
Tư Kê nói:
– ” Ngày mai, con và anh Bền còn dỡ miệng chà lu dưới mé rạch, bắt mớ cá he vàng đãi bác Tư Long, xong rồi mới chèo ghe trở về nhà ông Hai Bảnh. “
– ” Thôi, tụi bây chèo ghe qua nhà anh Mười Dần lẹ đi, xế chiều rồi đó! ” Chín Dậu nói. ” Nhắc ông già vợ mầy, nhớ mang chai rượu tay ” cỏ lát ” gì đó, cho tao thưởng thức với nghe, tao muốn uống thử coi rượu tây, có ngon hơn thứ rượu nếp Đồng Tháp Mười hay không thôi? “
– ” Thôi được rồi, con đi nghe tía! Chiều tụi con trở về với bác Mười! Tía chuẩn bị làm đồ nhậu đi nghen! “
*
Ngọ đang ngồi trên cây cầu dừa dưới mé rạch, giặt quấn áo, nhìn thấy Tư Kê đứng chèo ghe trước mũi. Ngọ đứng dậy, vẫy tay, gọi lớn:
– ” Anh Tư Kê ơi! Ngọ đây nè! “
Vừa thấy mặt Tư Kê tấp ghe gần bờ, Ngọ nói:
– ” Con nước ròng rồi, coi chừng ghe mắc cạn đó! Chiều rồi, còn chèo ghe đi đâu vậy? “
Tư Kê nói:
– ” Tui nhờ anh Bền đi với tui, chở mấy bao lúa của ông Hai biếu cho tía má đây nè, chớ đi đâu mà hỏi. “
– ” Vậy ha! ” Ngọ vui mừng, nói. ” Để Ngọ kêu tía xuống phụ giúp hai anh, vác mấy bao lúa lên trên nhà nghen. “
Nghe tiếng ai nói chuyện ồn ào trên dưới rạch, Mười Dần lật đật đi ra ngoài, coi chuyện gì. Thấy Tư Kê và Bền đứng trên ghe cà dom, Mười Dần ngạc nhiên, hỏi:
– ” Ủa, chiều rồi, hai cháu chèo ghe tới nhà bác Mười chắc có chuyện gì quan trọng, phải không? “
Ngọ vọt miệng, nói:
– ” Mấy ảnh chở dùm mấy bao lúa của ông Hai Bảnh biếu gia đìnnh mình đó! “
– ” Vậy sao! ” Mười Dần nói. ” Hai cháu chèo ghe từ trưa tới giờ chắc mệt đừ rồi, để bác xuống dưới ghe, bốc vác mấy bao lúa lên bờ. “
Bền nói:
– ” Thôi, bác Mười đứng trên bờ, để cháu vác mấy bao lúa lên bờ cho bác Mười. “
Nói xong, Bền nhảy xuống nước, kê vai cho Tư Kê đặt bao lúa trên vai, vác lên bơ,ø để cho Mười Dần vác tiếp vô nhà, rồi còn giúp trút lúa vô bồ. Mười Dần cảm động lắm, nói với vợ:
– ” Cậu Hai Bảnh thiệt tử tế hết sức, mình đâu phải là tá điền của ổng, bồ lúa nhà mình sắp trống trơn rồi, ổng tiếp tế cho vợ chồng mình thiệt kịp lúc hả, bà! “
Vợ Mười Dần hỏi:
– ” Hai cháu ăn uống gì chưa, để bác gái dọn cơm cho cả nhà ăn luôn cho vui. Con Ngọ nó nấu canh chua cá linh với bần chín, bông so đũa, me chua và cá trê vàng kho tộ ngon lắm! “
Tư Kê thưa:
– ” Dạ khỏi đi má, tía con mời tía qua nhà con nhậu. Tía con nói, có làm món lươn um nước cốt dừa với rau ngổ, đãi tía Mười tối nay rồi. “
Vợ Mười Dần nghe thằng rể tương lai, chưa chi gọi mình bằng má, nghe cũng vui vui. Bà mắng yêu:
– ” Tao có gả con Ngọ cho mầy hồi nào đâu, mà gọi tao bằng má vậy hả, Tư Kê? “
Tư Kê nói:
– ” Trước sau gì con cũng là con rể của tía má mà, ” Tư Kê cười nịnh, nói. ” Con ra đằng sau bếp thăm Ngọ một chút nghe má! “
– ” Mầy mới xa con Ngọ hồi sáng, bây giờ mầy muốn gặp nó nữa hả? ” Mười Dần nói. “Coi bộ hai đứa bây khắng khít dữ a! “
Vợ Mười Dần nói đùa:
– ” Ừa, gặp nó nói chuyện đàng hoàng thì tao không cấm, mầy mà bốc hốt ẩu là biết tay nó nghe, con! “
Bền kiếu từ mọi người trở xuống ghe chờ. Tư Kê đưa Bền ra tới bến rạch, rồi quày quả trở vô nhà gặp Ngọ. Thấy Ngọ đang lui cui, chuẩn bị dọn cơm canh ra mâm, Tư Kê hỏi:
– ” Ủa, dọn cơm ai ăn mà nhiều chén đũa quá vậy, Ngọ? “
– ” Con ai vô đây nữa, ” Ngọ hỏi. ” Bộ anh và Bền không ở lại dùng cơm với gia đình Ngọ sao? “
– ” Tía tui mời tía Ngọ nhậu tối nay mà, bộ Ngọ không biết sao? ” Tư Kê hỏi. ” Cặp heo quắn, Ngọ nhốt nó ở đâu vậy? “
– ” Ở ngoài chuồng heo, bên cạnh ao cá vồ đó! “
– ” Ngọ dẫn tui ra ngoài chuồng heo, ngắm nó một chút xíu được không? “
– ” Làm gì mà không được, ” Ngọ nói. ” Để Ngọ dẫn anh ra ngoài đó! “
Tư Kê nhìn cặp heo quắn, nói:
– ” Ráng mau ăn chóng lớn, đặng tao còn cưới vợ nghen tụi bây! “
Ngọ hỏi:
– ” Nói bá xàm, bá láp gì đó, cha nội! “
Tư Kê cười hề hề, nói:
– ” Tui nói nó mau ăn chóng lớn đặng tui còn cưới vợ, chớ có nói chi đâu, ” Tư Kê nhìn dáo dác, không thấy ai hết bèn cười nham nhở, nói. ” Ngọ cho tui hun một cái, nhe Ngọ. Cám treo để heo nhịn đói, chết tui nè chời! “
Nói xong, Tư Kê nhào tới ôm Ngọ chặt cứng, kê miệng vào gò má đỏ hây hây của Ngọ hun một cái chụt. Bị tấn công bất ngờ, Ngọ vùng vẫy kịch liệt, vừa lấy hai bàn tay đẩy cái bản mặt nóng muốn bốc khói của Tư Kê ra, vừa nói:
– ” Mau buông ra không? Tui la làng bây giờ đó! “
– ” Làng xã đóng cửa đi nhậu hết rồi, ” Tư Kê khoái chí, cười hì hì, nói. ” Hun đã quá chời! Cho hun thêm một cái nữa, tui mới chịu buông! “
Ngọ tức quá, hỏi gằn:
– ” Có chịu buông ra không thì nói! “
– ” Không buông! Ngu sao buông! “
Ngọ tức mình hét:
– ” Tui nói một lần chót, buông tui ra không? “
Tư Kê đùa dai, chọc quê Ngọ, nói:
– ” Không buông! Ngu sao buông chớ! “
Ngọ liền xoay người ra đòn hông, quăng Tư Kê vô chuồng heo, té chổng gọng trên đống cứt heo. Tư Kê ngồi bật dậy, ngơ ngác, hỏi:
– ” Chiêu nầy là chiêu gì độc quá nè chời! “
Ngọ vừa phủi tay, vừa nói:
– ” Sư phụ Thu Hương nói chiêu nầy dùng để trị mấy thằng cha dê xồm đó, biết chưa hả, cha nội! “
Ngọ nói xong, ngoe nguẩy đi vô nhà mét má, còn Tư Kê lồm cồm đứng dậy, tiu nghỉu như gà mắc mưa, bẽn lẽn đi te te vô nhà, định chuồn thẳng xuống ghe. Mười Dần thấy quần áo thằng rể dính đầy cứt heo, bốc mùi thúi rùm nên ngạc nhiên, hỏi:
– ” Mầy đi đâu mà quấn áo lấm lem, dính đầy cứt heo vậy, Tư Kê? “
– ” Dạ, con té nhằm đóng cứt heo, ” Tư Kê mắc cỡ, nói. ” Thôi, con xuống rạch tắm giặt, rồi chờ tía xuống ghe sau nghen! “
Mười Dần nói:
– ” Thôi khỏi chờ, về nói với tía, chút nữa tao bơi xuồng qua sau nghen, con! “
Tư Kê chạy một mạch ra bờ rạch, rồi co giò nhảy ùm xuống nước, lột quần áo tắm giặt, làm thằng Bền cũng chưng hửng, hỏi:
– ” Sao không trở về mà tắm giặt tại đây vậy, Tư Kê? “
Tư Kê mặc nguyên bộ đồ ướt vô, nắm cây sào tre leo lên ghe, Bền mở nắp rương, lấy bộ quần áo khô đưa cho Tư Kê, nói:
– ” Lấy bộ quần áo khô của tao mặc tạm đi, rồi chèo ghe về nhà. Trời chiều rồi đó! “
Tư Kê vừa chèo ghe, vừa càm ràm:
– ” Bữa nay, tui gặp xui tận mạng à nghen, anh Bền! “
Bền hỏi:
– ” Xảy ra chuyện gì kể tao nghe coi? “
Tư Kê bực mình, trả lời cộc lốc:
– ” Tui bị gà mái đá, văng vô chuồng heo! “
– ” Mầy muốn nói con Ngọ, nó đá mầy văng vô chuồng heo, phải không? ” Bền hỏi tiếp. ” Mầy làm sao để nó quăng mầy vô chuồng heo vậy, Tư Kê? “
Tư Kê phân bua:
– ” Ngọ bị tui ôm bất ngờ, mới hun nó được một cái, phê quá! Chưa kịp hun thêm cái nữa là bị nó quăng tui vô chuồng heo, té nghe một cái ạch, nhằm đống cứt heo thúi rùm, nhục thấy mẹ! “
Bền cười chọc quê, nói:
– ” Đáng đời! Nó không đá mầy giập dái là phước cho mầy rồi đó, thằng khỉ! “
– ” Hổng dám đâu! Nó mà đá vô háng tui là nó bị què chưn đó! “
– ” Xạo hoài, cha ơi! “
– ” Tui không biết nó dùng chiêu gì, khi nó xoay người lại, dỡ tui hổng chưn, làm tui mất thăng bằng, rồi nó quăng tui vô chuồng heo một cái ào, ” Tư Kê còn hậm hực, nói. ” Cái chiêu mà Ngọ chơi tui, gọi là chiêu chuyên trị mấy thằng dê xồm! “
Bền hỏi:
– ” Mầy biết ai là sư phụ của con Ngọ không? “
– ” Chị Thu Hương, con gái của ông Hai Bảnh chớ ai! ” Tư Kê hỏi. ” Anh có chiêu nào chuyên vặt lông gà mái tơ không, anh Bền! Làm ơn dạy cho tui chiêu đó đi, sự phụ! “
Bền nói:
– ” Tao nghe mấy thằng cha có vợ nói là phái nữ có huyệt ” tê ” độc lắm! Mầy điểm trúng phóc chỗ đó là con Ngọ nằm xụi lơ, hết chống cự với mầy! “
– ” Cái huyệt đó được đa! ” Tư Kê khoái quá, hỏi. ” Mà cái huyệt ” tê ” của phái nữ đó nằm chỗ nào vậy, cha nội? “
– ” Tao biết, chết liền! “
Tư Kê nói:
– ” Nói trớt huớt mà cũng nói! “
*
Sau khi Bền và Tư Kê nhổ sào, Mười Dần vội vã ăn uống qua loa mấy miếng để dằn bụng, rồi xách chai rượu tây đi xuống xuồng. Má Ngọ hỏi:
– ” Ông với anh Chín Dậu nhậu hết chai rượu nầy, có biết đường bơi xuồng về nhà không đó, cha? “
– ” Trể lắm là sáng mai tui sẽ bơi xuồng về trình diện bà! “
Vợ Mười Dần nói:
– ” Chớ không phải uống hết chai rượu nầy, rồi đi luôn 10 năm nữa, mới xách đít về nhà, phải không? “
Mười Dần cười vả lả, nói:
– ” Tui bị Tây bắt đi lính, chuyện rủi ro thôi mà! ” Mười Dần nói. ” Thôi, tui đi qua nhà anh sui nhậu nghe, má con Ngọ! “
– ” Nhậu lỡ say mèm thì ngủ luôn ở bên đó, sáng mai hãy bơi xuồng về nhà nghen! Say rượu mà bơi xuồng về nhà một mình, rủi ro xuồng lật là dễ đi chầu hà bá lắm đó! “
– ” Tui biết rồi mà, bà đừng có lo! “
Tư Kê và Bền về tới nhà, khoảng nửa giờ sau là Mười Dần cũng vừa bơi xuồng tới nơi. Chín Dậu ngồi trong nhà nhìn ra, thấy ông bạn hiền tay cập nách chai rượu Tây, lơn tơn đi lên. Chín Dậu mừng lắm, gọi con:
– ” Tía vợ mầy tới rồi đó, Tư Kê! Dọn chén đũa lên cái chõng tre, lẹ lên! “
– ” Dạ, có ngay! ” Tư Kê đáp.
Hai sui gia gặp nhau tay bắt mặt mừng, Chín Dậu nói:
– ” Không có chị Mười đi với anh, tối nay anh em tụi mình nhậu thả cửa nghe, anh Mười! Sáng mai tui hộ tống về tận nhà. Bảo đảm chị Mười không dám đục anh phù mõ đâu! “
Mười Dần cười, nói:
– ” Thôi mà, nói móc họng tao hoài vậy, bạn hiền! Hồi đó khác, bây giờ khác, bả mà quờ quạng là chết với tao! “
– ” Có thì nói, không có thì thôi nghe, cha nội! ” Chín Dậu nói. ” Thôi, mời anh ngồi lên chiếu đi, anh ” lỳ một lam ” , còn tôi làm một ly lấy trớn cái đã. “
Mười Dần khui chai rượu ” cognac ” rót ra ly ” xây chừng ” , mời Chín Dậu:
– ” Đâu chú mày làm thử một ly rượu ” cỏ nhát ” của Tây coi, có ngon bằng rượu đế của ta không? “
Chín Dậu cầm ly rượu nốc cạn một hơi, khà một hơi dài, lim dim đôi mắt tận hưởng men cay của rượu Tây. Mười Dần hỏi:
– ” Sao, chú mầy thấy rượu ” cỏ nhát ” của Tây, uống có đã không? “
Chín Dậu lắc đầu, nói:
– ” Rượu ” cỏ nhát ” của Tây uống lạt lẽo quá, không đậm đà bằng rượu ” cỏ lát ” Đồng Tháp Mười. Thôi, rượu ” cỏ nhát ” của Tây để cho anh uống, tui uống rượu ” cỏ lát ” Đồng Tháp Mười quê hương của tui. Anh Mười có nghe mấy tay bợm nhậu nói: ” Ta về ta uống rượu ta / Dù ngon dù dở, rượu nhà vẫn hơn “ , rượu ta là nước mắt quê hương mà, anh Mười! “
– ” Ừ, chú mầy chê không uống thì để tao! ” Mười Dần nói.
Chín Dậu gọi con:
– ” Tư Kê, xách chai rượu ” cỏ lát ” Đồng Tháp Mười ra đây cho tía coi! “
– ” Dạ, có ngay! ” Tư Kê lật đật xách chai rượu để ở trên mâm, rồi hỏi. ” Tía cần gì nữa không? “
– ” Được, khi nào cần tía gọi! “
– ” Thôi, con ra nhà bếp ăn cơm với anh Bền nghe, tía! “
Mười Dần lắc đầu, nói:
– ” Không được, hai anh em tụi con phải ra đây, ngồi ăn chung mâm với hai bác cho vui nghe chưa. “
Tư Kê nói:
– ” Tụi con đâu biết nhậu, ở nhà bếp tụi con ăn thoải mái hơn! “
Chín Dậu nói:
– ” Tư Kê nó nói phải đó đa! Tụi nhỏ muốn ăn uống thoải mái, thằng Tư Kê là tổ phá mồi đó! ” Chín Dậu nói. ” Mời anh sui cầm đũa, dùng thử món lươn um nước cốt dừa với rau ngổ, coi có vừa miệng không? “
Mười Dần lấy đũa gắp một miếng lươn um, bỏ vào miệng nhai nhóp nhép, gật gù, nói:
– ” Món lươn um nầy ngon đáo để! Chú nấu ăn, ngon thiệt nghen! “
Sau khi đốt khói un muỗi phía trước và phía nhà sau xong, Tư Kê dọn mâm cơm lên cái chõng tre rồi mời Bền cầm đũa. Bền gấp một miếng thịt lươn bỏ vào miệng nhai, khen:
– ” Cái món lươn um nước dừa với rau ngổ ngon độc, ăn đã thiệt nghe, Tư Kê! “
– ” Đây là món lươn um, nấu theo bí quyết gia truyền của bà ngoại truyền lại cho tía của tui, ăn vào mát gan, bổ thận, ” Tư Kê nói. ” Hỏi thiệt nghe, tía tui còn một chai rượu nếp than, hạ thổ 100 ngày rồi! Nếu anh muốn nhâm nhi chơi, tui đi lấy để tụi mình chén, nghen! “
Bền lắc đầu, nói:
– ” Bây giờ để tao ăn no bụng rồi, tao muốn xuống dưới ghe trước, đốt đèn nhang trên hai cái tran thờ rồi đi ngủ sớm. “
– ” Thôi, vậy cũng được! Tối nay, tui ngủ trên nầy, hầu rượu cho tía sai vặt, ” Tư Kê nói. ” Sáng mai, chờ con nước ròng sát, tụi mình sẽ dỡ chà bắt cá nghen! “
Bền nói:
– ” Tao thấy cái đống chà của mầy dưới mé rạch rồi, chỉ bằng cái bụm tay, mất nửa giờ là dỡ miệng chà nầy xong! “
– ” Ậy, đây là ” chà lu ” , tuy nhỏ như vậy mà sau mỗi 2 hoặc 3 tháng, tui dỡ chà một lần, bắt cá nhiều lắm đó; có khi cả thùng thiếc chớ không ít đâu! Dỡ chà trên rạch Long Khốt là lối kiếm sống, làm chơi ăn thiệt kiểu truyền thống của dân cư Đồng Tháp Mười mà anh. “
Bền nói:
– ” Lần đầu tiên tao nghe mầy nói ” chà lu ” , mà chà lu nó ra làm sao? “
Tư Kê nói:
– ” Anh biết, con rạch Long Khốt đâu có rộng lớn như dòng sông Vàm Cỏ Tây, dân vùng nầy không thể chất những đống chà lớn, vì sợ cản trở ghe thuyền lưu thông; vì vậy, họ mới nghĩ ra cách dùng ” chà lu ” , ” chà hũ ” û, ” chà cần xé ” . Cái đống chà mà anh thấy dười mé rạch là loại ” chà lu ” , đó cái lu mái dầm lớn dùng để chứa nước mưa bị lỗ rò, tía tui xin được của người bạn, đem về chôn dưới mé rạch, rồi thả những nhánh cây bần, mù u, bình bát, bẹ dừa nước để tạo bóng mát cho cá trú ngụ. Mỗi buổi chiều, chờ cho con nước vừa đứng chựng là tía tui vắt cơm nguội với tấm cám để làm mồi nhử cho cá vô ăn. “
– ” À, thì ra là như vậy! ” Bền nói. ” Tao sống trôi nổi theo nghe thương hồ, xuôi ngược trên sông Mekong, hết sông Tiền, rồi qua sông Hậu, tao thấy dân cư thường sống tập trung theo các làng dài, uốn theo khúc quanh của các dòng sông như những làng ven sông ở Long Xuyên, Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh… phương tiện di chuyển của họ trên các dòng sông, kinh, rạch… là ghe thuyền, tàu bè. Chất chà cũng là kỹ thuật khai thác thủy sản tương đối ít tốn công sức so với việc đào mương, đào ao nuôi cá. Bà con nông dân thường chất chà những nơi sông sâu nước chảy, bờ bị nước xoáy lở hoặc ngã ba sông, đầu vàm, nơi nước vận lại cho cá ẩn mình và săn mồi. Diện tích của đám chà trung bình 42 thước vuông, thường thì cách bờ 5 hoặc 6 thước và bề dài khoảng 7, 8 thước. Thời gian dỡ chà phải đợi từ 3 tháng trở lên và sau mỗi lần dở chà là phải thay chà mới, cá tôm mới vô ở. Nhưng, ở Đông Hồ, bà con ở xóm Láng Tranh và ấp Mương Khai sống dọc theo bờ hồ và đầu vàm sông Giang Thành, họ chất những miệng chà, cái nào cái nấy lớn gắp đôi, những miệng chà dọc theo bờ sông Mekong. “
– ” Chất chà lớn như vậy, làm sao dỡ chà bắt cá được chớ? ” Tư Kê hỏi.
Bền nói:
– ” Tao nghe ông bà kể lại, chợ Rạch Giá được xây cất hoàn chỉnh vào năm 1916 và trở thành một cảng biển quan trọng; nhờ vậy, nghề đánh bắt hải sản phất lên rất mạnh, nhiều ghe tàu đánh cá mạnh dạn ra khơi, lênh đênh ngoài biển đánh bắt cá vài ngày mới quay về đất liền với một số lượng hải sản rất lớn để phân phối đi lục tỉnh. Ngoài cửa biển Rạch Giá, ngư phủ chuyên nghiệp thưởng sử dụng kỷ thuật đánh bắt hải sản tùy theo mùa cá như: cá cơm, cá thu, cá bạc má, cá trích, cá ngừ, cá nục, cá chim…cửa biển Rạch Giá cũng như các vùng cửa sông Mekong, người ta thường ” đóng đáy ” hoặc dùng ” mành cơm ” , ” lưới đăng ” , ” lưới bén ” , ” câu kiếu ” . Còn ở Đông Hồ, chất chà cũng là cách đánh bắt cá truyền thống tương đối nhẹ nhàngï, dành cho đàn bà hoặc người có tuổi không còn đủ sức ra khơi, có thể khai thác thủy sản ngay tại bãi sông gần nhà. “
Tư Kê hỏi:
– ” Thả chà với diện tích quá lớn như vậy, không sợ sóng gió cuốn trôi hết sao, anh Bền? “
– ” Thường người ta dùng những cây tràm, đước, tầm vông chịu nước, cắm xuống đáy sông, tạo thành khung hình vuông hoặc hình chữ nhựt trước, sau đó dùng những cây nhỏ hơn cắm cách nhau vài ba thước đều hết 3 cạnh, giống như đóng cái cũi chó. Để tránh bị nước chảy xiết cuốn trôi, người ta dùng tre tầm vông dài 6, 7 thước đặt nằm ngang trên mặt nước, buộc thả lỏng với những cột trụ để nó nổi lên, xuống theo con nước ròng, nước lớn. Tiếp theo đó, chất bên trong những gốc cây khá lớn xuống trước, rồi chất tiếp những nhánh cây bần, mù u, cây giá, cây cà xăng, cây mắm…. Khi chất đám chà xong, chủ chà thường thả lục bình để tao bóng mát cho cá tôm đến trú ngụ. Lục bình luôn luôn được giữ lại bên trong nhờ những thanh tầm vông thả nằm ngang, lên xuống theo con nước. “
Tư Kê ngắt lời, hỏi:
– ” Miệng chà lớn như vậy, mỗi lần dỡ một miệng chà, chắc phải có nhiều người phụ giúp lắm, phải không? “
Bền nói:
– ” Theo kinh nghiệm muốn dỡ một miệng chà, phải để ít nhứt 3 tháng vào thời điểm con nước ròng sát. Ở Đông Hồ, chủ chà nào hô dỡ một miệng chà là những người lớn và đám trẻ con tụ tập tới phụ giúp, vui lắm! Chờ khi con nước ròng sát, họ chia làm hai toán: toán bên trong lo kéo những nhánh chà, chuyền tay nhau quăng lên bờ. Sau đó, toán bên ngoài bắt đầu ” rạng lưới ” , cái lưới được buộc chặt trên hai đầu cái cọc tre cao khoảng 5 thước, đáy lưới có luồn sợi dây xích sắt để lưới luôn luôn bám sát đáy. Lưới được hai người ” thợ chà ” thu hẹp dần dần và kéo sát vào mép bờ sông. Tôm càng, cá he vàng, cá mè vinh, cá rô biển… nổi lờ đờ trên mặt nước đục ngầu. Mấy anh em thợ chà thi nhau bắt cá tôm, bỏ vô trong mấy cái thùng thiết, thau, chậu. Nhưng, những con cá bự như cá ngát, cá bóng tượng, cá chẽm rất khỏe, chui rúc xuống bùn sâu, không chịu nổi lên mặt nước liền như những con cá nhỏ; vì vậy, người thợ chà phải lặn xuống để mò chụp bắt. Cái ” miệng chà ” sau khi được vét sạch cá, chủ chà phải lo kiếm những vật liêu mới để làm miệng chà khác, cá mới chịu chui vô ở nhiều. “
– ” Anh Bền có nhiều kinh nghiệm dỡ chà quá nghen, ” Tư Kê hỏi. ” Dỡ chà so với tát đìa, cái nào dễ ăn và bắt được nhiều cá tôm hơn? “
– ” Theo kinh nghiệm của tao, mỗi lần dỡ một miệng chà cở trung bình như tao vừa kể thường bắt được ít nhứt 150 ký cá tôm. Tát một cái đìa bằng diện tích cái miệng chà cũng chưa bắt dược nhiều cá hơn một lần dỡ chà. Cái nghề hạ bạc còn gọi là nghề ” xuống bến ” ở quê mình, ngư dân đã nghĩ ra nhiều kiểu đánh bắt thủy sản khác nhau, đơn giãn nhứt là đi xúc cá, tôm tép ven bờ sông, bờ biển, đăng đó trên sông rạch, đi chài lưới, kéo lưới một, lưới đôi, lưới ven bờ sông rạch, còn đánh bắt cá dưới sông rạch thì đi bằng ghe cào. Làm ăn hợp đồng qui mô thì ” đóng đáy ” và nghề lưới dọc theo bờ biển Rạch Giá, lưới có rất nhiều kiểu như: lưới bén, lưới vét, lưới quay, lưới chuồn… ” Bền nói. ” Anh tao lúc còn sống thường nói rằng, làm nghề đóng đáy rất vất vả và cực khổ nhứt, nó đòi hỏi người theo nghề phải có sức khỏe dẻo dai và thường gặp nguy hiểm, lắm khi trời mưa bão liên miên nên chuyện sập hàng đáy thường vẫn xảy ra, họ phải bơi lội lênh đênh trên biển suốt đêm, chờ chủ tàu đưa tàu ra cứu họ. Dọc theo bờ biển Rạch Giá từ xóm Vĩnh Thanh vượt qua vịnh Rạch Giá, nơi con sông Cái Lớn đổ ra biển, rồi từ đó xuống tới xóm Kinh Vĩnh Phong, chiều dài khoảng 30 cây số có nhiều miệng đáy lắm. “
Hai anh em đang chuyện trò tâm đắc, Tư Kê nghe tía gọi:
– ” Tư Kê, đem chai rượu ” cỏ lát ” ngâm ” tam xà đởm ” ra đây cho tía. Lẹ lên! “
– ” Dạ, có ngay! ” Tư Kê quay sang Bền, nói. ” Anh ngồi đây chờ tui một chút nghe, tui trở xuống liền bây giờ! “
– ” Thôi, mầy ở trên nầy hầu rượu cho tía đãi ông già vợ của mầy đi! ” Bền ngáp dài, nói. ” Tao đi xuống ghe ngủ trước nghe, Tư Kê. “
– ” Ừa, vậy cũng được! Sáng mai tụi mình gặp nhau dỡ chà nghen! “
Tư Kê đi tới cái khạp đựng gạo ở gốc bếp, lấy chai rượu có ngâm mấy cái mật rắn, chạy ra ngoài đưa cho tía, rồi hỏi:
– ” Tía cần thêm mồi nhậu không, tía? “
– ” Thôi, khỏi đi con! Tía với anh Mười nhậu nhiều, chớ ăn bao nhiêu! ” Chín Dậu hỏi. ” Còn cháu Bền đâu rồi, Tư Kê? “
– ” Anh mới đi xuống ghe ngủ rồi tía! “
– ” Tía mừng thấy hai đứa bây kết bạn thân với nhau, ” Chín Dậu nhìn ông bạn già, nói. ” Mầy có thấy tao với tía vợ mầy kết bạn cả chục năm rồi mà tình bạn trước sau như một không thay đổi, phải vậy không, anh Mười? “
– ” Đây là lời nói chân tình của anh Mười, phát xuất từ tận đáy lòng chớ không phải rượu nói đâu nghe! ” Mười Dần cầm chai rượu ” cỏ nhác ” rót ra ba cái ly ” xây chừng ” rồi giọng cảm động, nói. ” Sẵn đây, anh Mười muôn vàn cám ơn chú với cháu Tư Kê đã hết lòng giúp đở hai má con của con Ngọ được no cơm áo ấm trong suốt 10 năm trời đằng đẵng. Thôi, mời mọi người uống cạn ly rượu nầy, để mừng hai anh em mình sẽ kết thành sui gia với nhau. Thằng Tư Kê trước sau gì cũng sẽ là thằng rễ quí của gia đình anh! “
Tư Kê nghe ông già vợ tương lai nói vậy, khoái quá, nói:
– ” Mời hai tía uống cạn ly rượu nầy với con! Vô một trăm phần trăm… “
*****
Trở xuống ghe, thắp nhang đèn trên trang thờ Đức Trần Hưng Đạo và tía má xong, Bền chong ngọn đèn dầu mù u, rồi lấy quyển vở của Năm Hậu ra nghiên cứu những chiêu thức hiểm hóc bí truyền, tuyệt kỹ vô song, đường roi danh bất hư truyền của đất Thuận Truyền và rồi Bền cảm thấy nhớ quá người bạn diễn chân quê… Bền vói tay lấy cây roi máng trên vách, bước ra đằng sau lái, rồi leo lên mui ghe, thi triễn những đường roi cho nhuần nhuyễn. Dưới ánh trăng rằm, bước chân tiến thoái thoăn thoắt trên mui ghe nhẹ nhàng, cánh tay múa ngọn roi nhanh từ chậm đến nhanh dần, phối hợp các chiêu thức công thủ xuất sắc, ngọn roi biến hóa khôn lường, phát ra tiếng gió vun vút mà chiếc ghe hơi chòng chành, chao ghiêng một chút đã nói tinh thần khổ luyện của Bền càng ngày càng tiến bộ vượt bực.
Trời về đêm tĩnh mịch, vầng trăng rằm tròn vành vạnh, treo lơ lững chênh vênh trên những ngọn cau già ven sông, tỏa sáng giữa bầu trời mênh mông lộng gió, lấp lánh muôn vì tinh tú trong những dãy ngân hà xa xăm. Aùnh trăng nhuộm vàng cả con rạch Long Khốt, một thứ ánh sáng dịu dàng, bàng bạc lung linh trên mặt nước. Một vài cánh vạc ăn đêm lạc loài, vội vã sải cánh băng ngang qua vầng trăng sáng, đẹp như cánh hạc bay trong trăng. Bền đứng chống ngọn roi trên mui ghe, hít thở những hơi dài thật sâu, một cảm giác thư thái tràn ngập tâm hồn bởi gió đồng nội mang theo hương phù sa thoang thoảng làm ngây ngất lòng người. Sau một ngày khuân vác những bao lúa nặng nề, chèo chống cật lực để giúp đở hai gia đình của Tư Kê, rồi sau giờ luyện tập võ công khiến Bền thấm mệt, chui vào trong khoang ghe ngủ thiếp đi lúc nào không hay…
Rạng đông, con nước ròng sát đã đứng chựng sắp trở mình chảy vô. Những con chim bìm bịp ẩn mình trong mấy bụi ô rô ven sông bắt đầu kêu vang lên rộn rã. Bền thức dậy, bỗng nghe có tiếng mái chèo khua nước rộn ràng, hướng về phía bến nước. Bền ngồi bật dậy, đẩy cánh khoang ghe sang một bên, nhìn thấy một thiếu nữ, đội chiếc lá sùm sụp nên nhìn không biết là ai. Nhìn thấy Bền, nàng lên tiếng gọi:
– ” Anh Bền ơi! Có anh Tư Kê ở dưới ghe cà dom với anh không? “
Bền thấy Ngọ, rất ngạc nhiên, hỏi:
– ” Ủa, Ngọ tới tìm Tư Kê sớm vậy? Có chuyện gì không, cô Ngọ? “
Ngọ cười vui vẻ, nói:
– ” Má kêu em chèo ghe qua đây, rước tíavề nhà! Má sợ tía còn say xỉn, bơi xuồng về nhà một mình, nguy hiểm lắm đó! “
Vừa lúc đó, Tư Kê xách cái thùng thiếc đi xuống bến rạch, chuẩn bị dỡ chà. Thấy Ngọ, Tư Kê mừng quá nói:
– ” Ủa, Ngọ chèo ghe qua tìm tui sớm quá vậy cà? Bộ nhớ tui lắm hả chời? “
– ” Còn lâu, đừng có ham! Ngọ chèo ghe đây là để rước tía về, chớ không phải để gặp bộ mặt dê xồm của anh đâu! ” Ngọ hỏi. ” Tía của Ngọ đâu rồi anh, Tư Kê? “
– ” Tía còn đang ngủ! ” Tư Kê nói.
Bền thấy Tư Kê hối:
– ” Con nước sắp lớn rồi đó! Dỡ chà lẹ lên đi, Tư Kê. “
– ” Ngọ ngồi trên ghe chờ chút nghe, ” Tư Kê nhìn Bền, nói. ” Tui xuống liền bây giờ, đừng hối nữa, cha nội ơi! “
Cái miệng lu mái dầm dưới mé rạch, nước còn ngập lé đé. Hai anh em móc sình đấp chung quanh miệng lu mái dầm đừng cho nước tràn vô, rồi Bền nắm nhánh cây chà lớn nhứt kéo ra khỏi miệng lu mái dầm thì bất ngờ, một con rắn màu đen, lớn bằng ngón chưn cái, đang quấn trên nhánh cây chà, bị động nó phóng ra nhanh như mũi tên, mổ vào cánh tay phải của Bền rồi phóng xuống nước lặn mất, không ai kịp nhận diện nó là rắn lành hay rắn độc. Tư Kê hoãng hốt, lớn tiếng gọi tía:
– ” Tía ơi! Anh Bền bị rắn cắn rồi, tía ơi! “
Nghe Tư Kê gọi, Chín Dậu tông mùng, lật chạy xuống mé rạch, nhảy xổm xuống nước, nhanh trí bảo Ngọ:
– ” Con tháo cái quai nón lá đưa cho tía, lẹ lên! “
Chín Dậu lấy cái quai nón lá, buộc chặt phía trên cánh tay, đở Bền nằm dài trên cái ghe tam bam bản của Ngọ, rồi quan sát vết thương của Bền, rồi lắc đầu nói:
– ” Cháu Bền bị rắn độc cắn rồi đó! Vết cắn có hai vết ranh nanh cách nhau 5 ly và một số răng nhỏ là rắn độc rồi. Mầy nhờ cháu Ngọ đưa nó tới nhà bác Ba Tỵ liền ngay bây giờ, may ra còn cứu nó kịp! Để nó nằm yên, đừng cử động mạnh, sẽ làm nọc độc lan nhanh trong cơ thể là trời cứu! “
– ” Rắn độc nầy thuộc loại rắn gì vậy, tía? ” Tư Kê hỏi.
– ” Nếu tía không lầm, nó thuộc loại ” đẻn cườm ” hoặc rắn ” chàm ngoạp ” , một loại rắn sống dưới nước rất độc, không thua rắn hổ mang bành. ” Chín Dậu nói.
– ” Anh Tư Kê leo lên xuồng lẹ lên! Ngọ chèo lái, anh bơi đằng mũi tới nhà bác Ba Tỵ đi! ” Ngọ hỏi. ” Anh biết nhà bác Ba Tỵ ở đâu không? “
– ” Biết, cứ chèo ghe ra hướng chợ Mộc Hóa! “
Khoảng 15 phút sau đó, vết rắn cắn trên cánh tay có màu tím bầm, Bền cảm thấy toàn thân mệt mỏi, khó thở, chóng mặt nôn mửa rồi hôn mê… làm Tư Kê và Ngọ quýnh cả lên, gắng hết sức lực, vung mái chèo liên tục. Chiếc ghe tam bản cất mũi lên, lướt ào ào trên sóng nước như một cuộc chạy đua, đọ sức với thần chết để giành giựt mạng sống của Bền từng giây, từng phút…
CHƯƠNG MƯỜI BẢY
THẦN Y ĐỒNG THÁP MƯỜI
Ngọ thấy Bền tay chưn bắt đầu co giật như người bị kinh phong, đờm trào ra khóe miệng, tròng mắt trợn trừng. Ngọ sợ quá, thét lên:
– ” Gần tới nhà bác Ba Tỵ chưa, anh Tư Kê? “
Tư Kê nhìn thấy tàng cây vú sữa rậm rạp gie ra ngoài bờ rạch, mừng quá, nói:
– ” Đó, đó… nhà bác Ba Tỵ dưới tàng cây vú sữa đó. Ngọ chèo ghe tấp vô cây cầu dừa để tui cõng anh Bền lên bờ. “
Ngọ nghe nói, mừng lắm, vung mái chèo thiệt mạnh, rồi bẻ lái để cho chiếc ghe tam bản rướn lên đám lau sậy, ghếch mũi lên bờ rạch. Tư Kê vội vàng nhảy xuống nước, Ngọ phụ một tay đở Bền lên lưng Tư Kê cõng lên bờ. Nghe tiếng con phèn sủa rân trước nhà. Thằng Tẻo, cháu kêu bác Ba Tỵ bằng cậu đang làm cá, nấu cơm lật đật chạy ra sân đón khách. Thấy Tư Kê đang cõng người lạ trên lưng. Khỏi nói, thằng Tẻo đoán biết là người bị rắn độc cắn. Thằng Tẻo hỏi:
– ” Ai bị rắn độc cắn vậy, anh Tư Kê? “
– ” Ảnh tên Bền, anh em kết nghĩa với tao, vừa mới bị con đẻn cắn hồi sáng, trong lúc phụ tao dỡ cái chà lu dưới rạch, ” Tư Kê hỏi. ” Bác Ba Tỵ có ở nhà không, Tẻo? “
– ” Cậu Ba đã đi ra ngoài chòi dơi từ lúc trời chưa rạng đông. Chắc cậu cũng trên đường trở về nhà rồi đó! ” thằng Tẻo nhìn Bền rồi lắc đầu, nói. ” Mạng sống của anh Bền như chỉ mành treo chuông, nọc độc theo máu lan ra khắp lục phủ ngủ tạng. Chờ tới lúc cậu Ba về là tắt thở rồi, có trời mới cứu kịp! “
– ” Có cách nào cứu ảnh không, Tẻo! ” Tư Kê quýnh cả lên, hỏi. ” Chừng nào bác Ba Tỵ về nhà? “
– ” Làm sao tui biết được, có khi cậu Ba tắp vô chòi chăn vịt của người bạn ngoài ruộng, nhậu tới chiều tối mò mới về nhà hổng chừng, ” thằng Tẻo nói. ” Thôi, anh cõng anh Bền vô nhà, đặt ảnh nằm trên cái chõng tre, tui có cách kéo dài mạng sống của anh Bền trong một thời gian ngắn, để tui chạy ra ngoài chòi dơi kiếm cậu Ba nghen! “
Nói xong, thằng Tẻo chạy ù ra ngoài đụt vườn đằng sau nhà, hái một nắm dược thảo đủ loại, rồi bỏ vào cái cối đá giã nát, vắt lấy nước cốt, cậy hàm răng Bền đổ thuốc vào miệng, xác đấp lên vết thương của Bền, nói:
– ” Nhìn vết răng để lại trên cánh tay anh Bền, tui đoán là rắn ” chàm quạp ” cắn, nọc loại rắn dưới nước nầy, độc tương đương với rắn ” mái gầm ” ở trên cạn. Thuốc nầy chỉ công hiệu ngăn chận chất độc phát tán trong vài tiếng đồng hồ. Anh chị ở đây canh chừng anh Bền, tui chạy ra chòi dơi nói cho cậu Ba biết, ” thằng Tẻo nói. ” Chỉ có cậu Ba của tui mới cứu ảnh được. Thôi, tui đi đây! “
Cái chòi dơi của bác Ba Tỵ nằm chơi vơi gần khu rừng tràm, cách nhà gần hai cây số, đây là cái nghề tương đối mới của dân cư miệt Đồng Tháp và cũng là cái nghề tay trái của hai cậu cháu Ba Tỵ kiếm thêm thu nhập mới đủ sống, vì nghề thuốc chỉ giúp đồng bào nghèo quanh vùng Đồng Tháp, nhưng không nhận tiền thù lao bao giờ. Gần 30 năm qua, nhờ những bài thuốc gia truyền của ông bà tích lũy được qua những kinh nghiệm nhân gian có từ thời khẩn hoang truyền lại, bác ba Tỵ đã cứu sống hàng trăm người. Nhờ biệt tài trị rắn độc cắn, bác Ba Tỵ nỗi tiếng là ” Thần Y ” vùng Đồng Tháp Mười được đồng bào vô cùng thương mến. Dơi tụ tập càng đông thì muỗi càng giảm, dịch sốt rét cũng đở được phần nào.
Gọi là chòi dơi cũng được, nhưng đúng ra là cái chòi dụ dơi tụ tập về nơi nầy làm chỗ trú ngụ để lấy phân dơi. Cái chòi dơi của bác Ba Tỵ là cái độc nhứt trong vùng nầy, vì đây cũng sáng kiến làm ăn của bác Ba Tỵ học được từ một người bà con ở dưới tỉnh Bạc Liêu. Cái chòi dơi cách mặt đất khoảng 10 thước, hình chữ nhựt, dài 10 thước, ngang 6 thước, trụ trên 6 cây cột bằng thân cây cau già. Mái chòi phải lợp bằng lá thốt nốt mới đúng cách, dễ dụ được dơi bầy vô chòi làm chỗ nghỉ cánh, nhưng cũng có thể lợp bằng lá dừa nước cũng được, nhưng lá treo trong chòi phải là tàu lá thốt nốt cho dơi bám. Trên trần chòi, phải làm một cái sàn bằng thứ gỗ tốt còn gọi là giàn dơi bám phải chắc chắn, mới đủ sức giữ được gần 400 tàu lá thốt nốt và bầy dơi hàng ngàn con đeo bám vào đó. Ngoài ra, khoảng vài tháng là phải thay lá mới, nếu không thay được một lần thì thay từng đợt để tránh rận và chống bệnh cho bầy dơi. Chung quanh mấy cái cột trụ, bác Ba Tỵ còn trồng nhiều bụi sả thật rậm rạp để cho mấy con rắn lục, rắn hổ ngựa tránh xa cái chòi dơi.
Qui luật loài dơi rất tuân thủ đúng giờ giấc rất chính xác. Loài dơi là loài ăn đêm thường rời tổ kiếm mồi vào lúc mặt trời vừa tắt nắng và sau một đêm săn mồi là rũ nhau bay ào ạt về chòi trước lúc bình minh nghỉ cánh bay. Trong khoảng thời gian đàn dơi đi săn mồi, chòi dơi trống trơn. Còn bầy dơi ở chùa Dơi tức ở chùa Mã Tộc được xây cất cách đây hơn 3 thế kỷ, cách tỉnh Sóc Trăng chừng 2 cây số, phía sau vườn chùa nầy là nơi tụ tập loài dơi quạ đông tới mấy trăm ngàn con. Chúng treo mình tòn teng trên những nhánh cây cổ thụ suốt ngày từ 6 giờ sáng, chờ tới 6 giờ chiều là đàn dơi bay túa ra đi kiếm ăn suốt đêm cho tới gần 6 giờ sáng mới bay trở về chùa. Có một điều lạ là đàn dơi không bao giờ phá phách cây trái trong chùa, phân dơi cũng là một nguồn huê lợi đáng kể cho chùa.
Hàng ngày, bác Ba Tỵ phải có mặt tại chòi trước lúc bình minh và làm thiệt nhanh mấy công việc hàng ngày như lo quét dọn, gôm phân dơi lại thành đống rồi dùng xẻng xúc vô cái cần xé, vác vào cái chòi lá để ủ. Mỗi ngày cái chòi dơi cho bác Ba Tỵ từ nữa giạ cho đến một giạ. Sau đó, nếu thấy tàu lá thốt nốt nào cũ rách thì bác Ba Tỵ bắt thang lên thay liền. Những công việc nầy bác Ba Tỵ phải hoàn tất trước khi bầy dơi bay về tổ. Nếu chậm, bầy dơi về thấy động là bay vù đi hết vào trong khu rừng tràm.
Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, có hai loại trái cây rất hạp với phân dơi đó là dưa hấu và sầu riêng. Luống dưa hấu mà bón phân dơi, cho trái bự cở chục kí là chuyện thường, vỏ lại mỏng, ruột đỏ, nhiều nước, ngọt lịm. Giữa trưa trời nóng bức mà thưởng thức một miếng dưa hấu ở bến phà Mỹ Thuận hoặc Cần Thơ sẽ cảm thấy mát cả ruột gan. Dưa hấu trồng nhiều ở Vũng Liêm, xuống miệt Trà Vinh, Ba Động, Bến Đáy. Nhưng dưa hấu Cầu Ngang và Trà Bang nỗi tiếng khắp Nam Kỳ – Lục tỉnh là vì vùng đất cát pha rất thích hợp trồng dưa hấu. Hàng năm sau mùa lúa, đồng bào miệt vườn Vĩnh Long, Trà Vinh dành vài ba công đất trồng dưa hấu bán Tết. Bà con nông dân dọn sạch cỏ, lên thành luống thấp, chừa lối đi giữa hai luống để dễ bề gánh nước tưới dưa. Họ tìm đến nhà bác Ba Tỵ mua sạch hết phân dơi về bón mấy luống dưa hấu. Còn sầu riêng mà bón phân dơi ở miệt cù lao Tân Phong, cù lao An Binh hoặc Chợ Lách ở Vĩnh Long, cho sai trái gấp đôi, múi sầu riêng vàng mộng, cơm dầy, hột nhỏ và thơm ngọt hơn so bón với các loại phân hữu cơ khác như phân chuồng.
Bác Ba Tỵ vừa làm xong mấy công việc hàng ngày, nằm dài xuống bờ đê nghỉ mệt hơn nữa tiếng và thích thú ngắm đàn dơi bay ào ạt về chòi. Bác đang mơ màng thì nghe thằng Tẻo kêu chói tai:
– ” Cậu Ba ơi! Về nhà lẹ lên đi! Có người bị con chàm quạp cắn sắp chết tới nơi rồi! “
Bác Ba Tỵ nghe thằng Tẻo gọi, liền bật ngồi dậy như cái lò xo, quơ vội cái áo bà ba, khoát lên người, đón đầu thằng Tẻo, hỏi:
– ” Ai bị rắn cắn vậy, Tẻo “
– ” Anh Bền, con hay cháu gì đó của bác Tư Long ở ngoài vàm kinh Cái Cơ! ” Tẻo thở hổn hển, nói.
– ” Thôi, cậu biết rồi! ” bác Ba Tỵ hối. ” Đi theo cậu về nhà lẹ lên, cứu bệnh như cứu hỏa đó! “
Hai cậu cháu ba chưn, bốn cẳng vừa đi, vừa chạy, tới nhà là tông cửa vô liền. Bác Ba Tỵ thấy thằng Tư Kê ngồi bên cạnh bạn khóc mếu máo, liền đi tới cái chõng tre rờ trán của Bền, thấy đờm trào ra có pha lẫn máu, cổ quẹo sang một bên, lỗ chân lông đã rịn máu, mắt trợn trừng, miệng cứng đờ còn chỗ vết thương bị con chàm quạp cắn sưng tấy lên, chảy nước vàng, cánh tay bầm đen. Bác Ba Tỵ nói:
– ” Còn cứu kịp! Nếu trể chừng vài mươi phút nũa, chắc bác Ba cũng phải bó tay thôi, ” bác Ba Tỵ quang sang thằng Tẻo nói. ” Con đốt cây đèn dầu mù u đem lại đây cho cậu, lẹ lên! “
Bác Ba tới cái bàn thờ kê chính giữa gian nhà, lấy một lọ thuốc bằng sành và một cái lưỡi dao lam trở lại cái chõng tre, hơ cái lưỡi dao lam lên trên ngọn đèn cháy leo lét, dùng lưỡi lam mở rộng vết thương 2 phân, nặn máu độc, rồi rắc thuốc bột màu trắng ngà lên vết thương. Bác tháo cái quai nón buộc chặt trên vết thương của Bền cho máu lưu thông dễ dàng.
– ” Nguy hiểm giờ đã qua, nhưng hồi phục thì hơi chậm, ” bác Ba Tỵ nói. ” Các cháu ngồi đây coi chừng cháu Bền, bác ra ngoài vườn hái ít lá thuốc Nam nghe! “
Khoảng mươi phút sau, bác Ba trở vô nhà với một nắm lá thuốc đủ loại đưa cho thằng Tẻo, nói:
– ” Cháu rửa sạch, bỏ vào cái cối đá quết cho nhuyển, vắt lấy nước cốt vô cái chén rồi đem ra đưa đây cho cậu. “
– ” Dạ con biết rồi! ” Tẻo nói.
Tư Kê nóng ruột, hỏi:
– ” Anh Bền bị rắn chàm quạp cắn phải không, bác Ba? “
– ” Y chang là nó rồi, ” bác Ba nói. ” Theo kinh nghiệm của bác, loài rắn sống ở trên cây, độc nhứt là rắn lục. Loài rắn ở trên cạn độc nhứt là rắn mái gầm, rắn hổ mang bành, hổ đất. Loài rắn sống dưới sông rạch, chính là nó đây. “
– ” Làm sao bác Ba biết anh Bền bị rắn chàm quạp cắn? ” Tư Kê hỏi.
– ” Biết là do kinh nghiệm thôi, chớ khó gì đâu, ” bác Ba nói. ” Người bị con chàm quạp cắn, nếu thấy lỗ chân lông bị chảy máu, vì nọc độc loại nầy rất nóng là còn cứu kịp. Còn nếu thấy thất khiếu mà ra máu, chỉ có trời cứu vì nộc độc đã ngấm vào lục phủ ngũ tạng. Còn rắn mái gầm cắn thì tứ chi tê liệt, chóng mặt nôn mữa, quai hàm cứng đơ, mắt sụp mí, chỉ vài phút sau tim ngừng đập, ngưng thở và chết liền sau đó, còn rắn hổ mang thì kéo dài được vài ba giờ còn cứu chửa kịp thời. Nếu bị rắn lục cắn thì chỗ bị sưng tấy lên rất lẹ, nọc độc lan ra trong máu chậm hơn, sau 12 giờ nạn nhân mới bị trụy tim mạch, sưng thận rồi tử vong. “
Vừa lúc đó, thằng Tẻo bưng chén thuốc đưa cho bác Ba, thưa:
– ” Thuốc đây nè, cậu Ba! “
Bác Ba dùng chiếc đũa giống như cái đũa bếp nhỏ, cạy hàm răng Bền, rồi đổ thuốc vào miệng. Như là thuốc tiên, chỉ hai mươi phút sau là mọi người vui mừng thấy Bền mở đôi mắt ra nhìn mọi người. Bác Ba cười, nói:
– ” Mọi người an tâm ra về! Cháu Bền ở lại đây với bác vài ba ngày để bác cho thuốc và theo dõi bịnh tình. “
Tư Kê mừng lắm, nói:
– ” Con muốn ở lại với anh Bền vài ngày, được không bác Ba? “
– ” Được chớ sao không, láng giềng cả mà. ” bác Ba nói.
Tư Kê nhìn Ngọ nói:
– ” Ngọ bơi xuồng về nhà trước, nói cho tía tui biết. Còn tui ở lại đây với anh Bền vài ngày rồi sau nghen! “
– ” Như vậy cũng được! ” Ngọ khoanh tay, gật đầu chào bác Ba, nói. ” Thưa bác Ba, con về trước nghen. “
– ” Ờ, thôi cháu về trước! Cho bác Ba gởi lời hỏi thăm tía má con nghen! ” chờ cho Ngọ đi rồi, bác Ba Tỵ quay sang Tư Kê, nói. ” Con Ngọ đẹp người lại nết na, có một con vợ như vậy là cháu có phước lắm đó nghen! Ráng mà ăn ở đàng hoàng với nó đó! “
– ” Dạ, con biết rồi! ” Tư Kê nói.
Thằng Tẻo nhìn cậu Ba, nói:
– ” Con đi bắt nồi cháo cho anh Bền để ăn mau lấy lợi sức nghe, cậu! “
– ” Ở nhà còn gì ăn không? ” bác Ba hỏi.
– ” Còn xâu khô cá sặc treo trên dàn bếp, ” thằng Tẻo nói. ” Chút nữa, con đi tát cái mương đằng sau nhà, bắt ít con cá lóc, cá sặc, cá rô cho cậu đãi khách! “
Tư Kê vọt miệng, nói:
– ” Cho tao đi theo với mầy tát mương cho vui. “
– ” Ừa, anh muốn đi theo, phụ một tay với tui thì đi! “
Nói xong, thằng Tẻo đi ra sau nhà bếp vo gạo, bắt cái nồi trên cái cà ràng, rồi xách thùng thiếc ra thưa với cậu:
– ” Cậu nhớ coi chừng cái nồi cháo trắng dùm con nghen, ” rồi quay sang Tư Kê nói. ” Thôi, tụi mình đi tát mương! “
****
Sau khi thằng Tẻo và Tư Kê đi rồi, khoảng một giờ sau là Bền hé mắt ra nhìn chung quanh. Thấy bác Ba Tỵ ngồi trên cài chỏng tre đang bắt mạch cổ tay, Bền giựt mình, rút tay lại, hỏi:
– ” Đây là đâu vậy, bác? “
– ” Bộ cháu không nhớ gì hết hả? ” bác Ba cười, nói. ” Hồi sáng nầy, cháu với thằng Tư Kê tát miệng chà lu dưới mé rạch, bị con rắn chàm quạp cắn phải. May nhờ thằng Tư Kê và con Ngọ đưa cháu tới đây nhờ bác chửa kịp thời. Thiếu chút nữa, cháu mất mạng rồi. “
– ” À con nhớ ra rồi! Cám ơn bác cứu mạng! ” Bền nhìn quanh không thấy ai hết, hỏi. ” Tư Kê đâu rồi, bác? “
Bác Ba Tỵ nói:
– ” Nhà không còn gì để ăn, thằng Tẻo, cháu của bác, rũ thằng Tư Kê đi tát mương, kiếm cá đãi cháu đó! “
– ” Vậy sao! ” Bền cảm động, nói. ” Thiệt con làm phiền gia đình bác quá! Xin lổi bác thứ mấy để con gọi? “
– ” Gọi tôi là bác Ba được rồi! “
– ” Thú thiệt với bác Ba, vài ngày nữa con phải đi lên núi Thất Sơn, trợ giúp bác Hai Bảnh săn ác thú, trừ hại cho bà con ở trên đó. Liệu vài ngày nữa, cánh tay của con có thể cử động trở lại bình thường không, bác Ba? “
– ” Yên tâm đi cháu! Ngày mai, vết thương sẽ hết đau nhức, có thể cử động được, nước da trên cánh tay của cháu đã chuyển màu rồi đó! ” bác Ba nói. ” Nhưng mà, cháu phải ở lại đây đôi ba bữa nữa, để bác cho thuốc rồi hãy về nhà cũng không muộn. “
Bác Ba Tỵ nói:
– ” Chắc đói bụng rồi phải không? Thôi, để bác bưng tô cháo trắng, ăn với khô sặc nướng, còn uống thêm một liều thuốc nữa. “
– ” Dạ, con cám ơn, bác Ba! “
Vài phút sau, bác Ba bưng tô cháo còn nóng hổi và dĩa khô sặc nướng xé nhỏ, ngạc nhiên thấy Bền đã đứng dậy, cử động cánh tay ra đòn trực quyền làm bác Ba Tỵ ngạc nhiên, nói:
– ” Con nhà võ có khác, ” bác Ba hỏi. ” Còn đau nhức lắm không, cháu? “
– ” Dạ, còn đau lắm. Nhưng, con chịu được, không sao đâu, bác Ba! “
Bác Ba để tô cháo và khô lên cái bàn gỗ, đóng bằng gỗ tạp, nói:
– ” Cháu ăn đi kẻo nguội! Bác ra sau vườn hái ít lá thuốc Nam cho cháu uống tiếp. “
Bền đang ăn tô cháo, thấy Tư Kê và thằng Tẻo quần áo lấm lem, tay xách cái thùng thiếc đủ loại cá đồng. Thấy Bền đã tỉnh lại rồi, Tư Kê mừng quá, nói:
– ” Sao, khỏe rồi hả, cha nội! Hồi sáng nầy, anh làm tui sợ muốn té đái trong quần làm con Ngọ và tui chèo ghe mệt gần bức gân! “
– ” À, Ngọ đâu rồi, Tư Kê? ” Bền hỏi.
– ” Ngọ về báo tin cho tía biết là anh bình yên vô sự rồi, cho tía an tâm! ” Tư Kê nói.
Thằng Tẻo nói:
– ” Em nghe anh Tư Kê kể chuyện về anh và ông Hai Rồng đánh bọn cướp Thạch Sum, em khoái quá. Ngày nào anh còn ở lại đây dưỡng bệnh, tụi em sẽ làm những món ăn đặc biệt, cây nhà lá vườn cho anh ăn mau mạnh giỏi. “
Vừa lúc đó, bác Ba bước vô nhà, tay cầm nắm dược thảo, hỏi thằng Tẻo:
– ” Sao, mấy cháu tát mương, bắt được bao nhiêu cá để đãi cháu Bền đây hả? “
– ” Nhiều lắm cậu Ba ơi! ” thằng Tẻo khoe. ” Bốn con cá lóc bự tổ nái, một mớ cá kèo, cá rô. “
– ” Bộ không bắt được con cá trê nào hết hả, Tẻo? ” bác Ba nói. ” Mấy dây mướp rắn độ nầy vừa ăn lắm. Tụi cháu không nghe người ta nói sao: ” Mướp rắn nấu canh cá trê / Húp vô cái rột, khoái tê cả người. ” ; vả lại, mướp rắn ăn mát lắm, cháu Bền cần những thứ nầy vì nọc độc chàm quạp nóng lắm, mà không có thì thôi. Tụi cháu đi tắm giặt, còn lo làm cơm trưa, trưa trờ trưa trật rồi. “
– ” Cậu Ba bắt dùm con nồi cơm nghe! Con với anh Tư Kê ra sau vườn làm món cá lóc và cá rô nướng thùng thiếc với món cá kèo nướng ống tre cho cậu nhậu lai rai. ” thằng Tẻo nói. ” Tối nay, con rũ anh Tư Kê đi câu cá trê, con chỉ chiêu nầy cho anh Tư Kê có cá trê ăn mệt nghỉ! “
Bền thấy mọi người lo cho mình quá, cũng hơi ngại, nói:
– ” Thôi, ăn uống đơn giãn được rồi, nấu nướng cầu kỳ mắc công lắm! “
Thằng Tẻo cười toe toét, nói:
– ” Có gì đâu mắc công, mấy món ăn nầy, mỗi lần tụi em tát đìa là nướng cá ăn tại chỗ, vui lắm! “
– ” Mấy món ăn nầy, có từ thời khẩn hoang lập ấp. Nghề thuốc chuyên trị rắn độc cắn cũng là do kinh nghiệm của ông bà truyền lại. ” bác Ba nói. ” Thôi, cháu nằm nghỉ dưỡng sức đi, bác Ba đi giã thuốc cho cháu uống. “
Sau khi uống xong chén thuốc thứ hai, cơ thể của Bền nóng rần lên, rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
*
Trong lúc bác Ba Tỵ lo nấu nồi cơm, thằng Tẻo xách cây dao phay và chén muối sả ớt, còn Tư Kê xách thùng thiếc cá ra ngoài sau vườn, đi thẳng tới cái ụ rơm gần bụi tre tầm vong. Thằng Tẻo lựa một cây tre tầm vong vừa tầm, đốn ngã xuống. Nó chặt lấy lóng dưới gốc, rồi chẽ đôi ra để qua một bên, nói:
– ” Lóng dưới gốc lớn nhứt dùng để ốp cá kèo nướng. Nhờ anh Tư Kê chặt hai lóng kế tiếp chẽ nhỏ, vót nhọn hai đầu để xiên mấy con cá lóc, cá rô cắm dưới đất. Nhớ cách xa ụ rơm một chút nghen, sợ nó cháy lan ra. “
Tư Kê nói:
– ” Mỗi lần ăn cá nướng là chặt một cây tầm vong, uổng quá Tẻo! “
– ” Nhằm nhò gì một cây tầm vong, ” Tẻo nói. ” Cá kèo nướng ống tre, phải là tre còn tươi nướng cá mới ngon. Phần tre còn lại dùng vào việc khác, có bỏ đi đâu mà tiếc! “
Thằng Tẻo mang ống tre chẽ đôi xuống mương rửa sạch, xong đi hái một mớ rau râm, hành lá, vài trái chanh mới trở lại ụ rơm. Tẻo lót hết mớ rau râm, hành lá lên hai miếng tre, rồi sắp 20 con cá kèo lên sau cùng. ” Tư Kê không thấy thằng Tẻo rửa cá kèo, ngạc nhiên hỏi:
– ” Cá kèo là loại cá nhiều nhớt, sao không thấy Tẻo đi rửa cho sạch nhớt vậy ta? “
Thằng Tẻo cười, nói:
– ” Cá kèo mà rửa sạch nhớt, nướng sẽ khô khốc, ăn không ngon. Nặn nước cốt trái chanh lên mình đủ khử nhớt được rồi. Anh coi tui làm để học hỏi nè! “
Sau khi sắp hết lớp cá lên hai miếng tre, Tẻo cắt trái ba chanh ra làm đôi, vắt nước cốt lên mình cá, rồi rắc muối sả ớt sau cùng trước khi ốp hai miếng tre tầm vông lại. Tẻo dùng dây kẽm quấn chặt, rồi nói:
– ” Xong món cá kèo nướng ống tre rồi đó, cho cậu Ba nhậu đã luôn! “
Tẻo giúp Tư Kê xiên thanh tre vô họng mấy con cá lóc và cá rô, cắm ngược xuống đất, úp cái thùng thiếc lên. Tẻo dựng đứng ống tre bên cạnh thùng thiếc rồi phủ rơm khô chung quanh, châm lửa đốt, rơm khô bắt lửa rất nhanh cháy bùng lên. Cả hai chỉ việc canh lửa chờ cá chín tới. Trong lúc chờ đợi, Tư Kê thắc mắc hỏi:
– ” Hồi nãy, tao nghe mầy nói có nghề câu cá trê độc lắm hả, chỉ mánh cho tao coi, được không? “
– ” Đây là bí mật nhà nghề, chỉ có Tư Kê tui mới chỉ mánh thôi đó nghen! ” thằng Tẻo cười, nói. ” Cái mánh là phải có ” viên gạch mồi ” nhử cá trê bu lại. Chỉ có vậy thôi! “
– ” Mầy nói thiệt hay nói giỡn chơi vậy, Tẻo? ” Tư Kê ngạc nhiên, hỏi. ” Lần đầu tiên tao nghe nói dùng gạch để dụ cá trê à nghen, Tẻo! “
– ” Được rồi, anh không tin hả? Tối nay, tui sẽ làm bùa trên viên gạch để dụ bầy cá trê tới cho anh coi! “
– ” Có thì nói, không có thì thôi! Không ai ép mầy nói dóc đâu nghe Tẻo. “
– ” Thôi, tui không cải với anh nữa! Chờ chút đi sẽ biết! “
Tư Kê ngữi thấy mùi cá nướng thoát ta từ cái thùng thiếc thơm phức, bèn nói:
– ” Hình như mấy cá lóc nướng trong thùng thiếc chín rồi đó, Tẻo! “
– ” Cá chín rồi đó, hình như cái gì nữa, ” thằng Tẻo cười, nói. ” Anh mở cái thùng thiếc ra đi. Tui đi chặt tàu lá chuối, gói mấy con cá đem vô nhà nghen. “
Thằng Tẻo đặt tàu lá chuối dưới đất, nhìn những con cá lóc, cá trê chín đều, vẩy cá biến thành màu vàng ệch, còn bốc khói nghi ngút. Chờ cho cá nguội, Tẻo rút thanh tre xiên cá lên, sắp thứ tự trên tàu lá chuối. Tư Kê lấy thanh tre mỏng cao lớp vẩy cá khét ở bên ngoài, rồi cuộn tàu lá chuối lại. Còn cá kèo nướng ống tre, Tẻo để nguyên xi như vậy để đích thân cậu Ba tháo sợi dây kẻm, mở ống tre ra.
Khi cả hai bưng cá nướng vô nhà đã thấy bác Ba bày sẵn sàng trên bàn một nồi cơm, chén đũa, dĩa rau thơm, rau húng, tía tô, khế chua, chuối chát xắt lát, ớt hiểm xanh… và một chén nước mắm, chanh ớt. Thằng Tẻo cầm cái lóng tre tầm vông bị cháy xém, đưa cho cậu Ba, nói:
– ” Đây là cá kèo nướng ống tre, món ăn khoái khẩu của cậu. Đâu cậu Ba tháo dây kẽm buộc, mở ra xem có vừa ý không? “
Bác Ba Tỵ tháo sợi dây kẽm, tách đôi cái lóng tre tầm vông, thấy lớp cá kèo nằm sấp lớp, da cá đổi màu nâu mà thịt không khô cứng, mùi cá, mùi rau, mùi sả ớt thơm quá chừng thơm. Bác Ba khen:
– ” Cháu Tẻo canh lửa khéo lắm! Cá kèo vừa chín tới nên thịt cá không khét, không khô cứng. Thôi, mình ngồi vào bàn đi các cháu! “
Thằng Tư Kê nói:
– ” Để con đánh thức anh Bền dậy cùng ăn cho vui! “
– ” Đừng cháu để nó ngủ, thuốc đang ngấm đó. Tối nay, bác phải nấu một nồi nước xông, tẩy sạch mấy lỗ chưn lông của cháu Bền. Thôi, cứ để dành phần cho cháu Bền được rồi! “
– ” Liệu ngày mai, cánh tay của ảnh có thể hoạt động bình thường được chưa, bác Ba? “
Bác Ba lắc đầu, nói:
– ” Ngày mai cử động nhẹ thì được, đánh võ, múa quyền thì chưa đâu. Phải chờ tới sáng mốt thì may ra. Thôi, cầm đũa đi các cháu! “
Ăn cơm xong, bác Ba lấy cái lồng bàn bằng tre đan, đậy thức ăn dành cho Bền để tránh bu, kiến đậu. Còn Tư Kê giúp thằng Tẻo bưng chén dĩa ra sau sàn nước rửa sạch, úp lên cái sóng chén. Xong đâu đó, Tư Kê nói:
– ” Bây giờ mầy chỉ cho tao cách làm ” gạch bùa ” để dụ cá trê bầy coi, Tẻo. “
– ” Được, anh Tư phải kêu tui bằng sư phụ thì tui mới chỉ mánh. ” thằng Tẻo nói. ” Chọc anh chơi thôi, để tui chỉ cho anh cách làm gạch bùa: Trước hết, anh phải lấy một viên ngói hay cục gạch rồi nung cục gạch nầy cho thiệt nóng, lấy vài con mắm sặc quậy với nước cho sền sệt rưới lên cục gạch nóng. Làm như vậy 2, 3 lần cho viên gạch rút hết mùi mắm mới để nguội. Trước khi đi câu, lấy một sợi dây buộc viên gạch nầy lại, thả xuống nước, neo tại địa điểm câu cá. Mùi mắm xuống nước tỏa ra, dụ bầy cá trê bu tới, thấy mê luôn! “
– ” Dễ vậy sao? ” Tư Kê nói. ” Chút nữa mầy chỉ tao làm nghe! Mánh nầy coi bộ kiếm ăn được đó! “
Thằng Tẻo nói:
– ” Con rạch nầy, tui biết có một chỗ câu cá trê ngon lắm. Đồ nghề sẵn sàng rồi, chỉ còn thiếu cục gạch bùa. Trời chạng vạng, tui sẽ dẫn anh đi câu. “
Tới 4 giờ chiều. Bền tỉnh dậy, nhưng trong người còn bức rức rất khó chịu và khát nước. Bác Ba chuẩn bị nồi xông bằng đủ loại dược thảo. Bác biểu Tư Kê đở Bền ngồi dậy, cởi áo ra, rồi bê cái nồi nước xông đang sôi đặt trước mặt Bền. Tẻo lấy cái mềm trùm phủ đầu Bền. Bác Ba ngồi canh chừng…khoảng hơn nửa giờ sau, độ chừng nồi nước xông đã nguội, bác Ba tháo cái mền ra, thấy Bền tuôn mồ hôi ra như tắm. Bác Ba hỏi:
– ” Sao, cháu thấy trong người thế nào rồi? “
– ” Nhẹ hẳn cả người, bác Ba! ” Bền cười, nói. ” Cánh tay không còn đau nhức nữa. Nhưng, con thấy khát nước và đói lắm! “
Tư Kê rót một ly nước lạnh đưa cho Bền uống đã khát, cười vui vẻ, nói:
– ” Thôi, ngồi dậy tắm rửa, thay quần áo rồi đi ăn. Đồ ăn tui đã hâm nóng để sẵn ở trên bàn. “
Thằng Tẻo nói:
– ” Anh Bền mặc đở quần áo của cậu Ba nghe. Tui để sẵn trong nhà tắm gần sàn nước. “
Bền cảm động, nói:
– ” Cám ơn bác Ba và các bạn nghe! “
Ở miệt vườn, trời sụp tối lẹ lắm. Sau bửa cơm chiều quây quần bên nhau là trời sắp chạng vạng. Tư Kê và Tẻo lo dọn dẹp, rửa chén dĩa xong là chuẩn bị đồ nghề đi câu cá trê. Thằng Tẻo nói:
– ” Anh Bền ở nhà nói chuyện với cậu Ba, tụi tui đi câu cá trê. Ngày mai, tui đãi anh cá trê ba món: cá trê nướng, cá trê kho trách, cá trê nấu canh với mướp rắn nghen! “
Tư Kê cười, nói đùa:
– ” Chưa giàu đã lo ăn cướp! “
*
Sau khi Tư Kê và Tẻo rời nhà thì trời sụp tối. Bác Ba lo thắp hương trên cái bàn ông thiên trước sân và cái bàn thờ đặt giữa nhà, rồi bác xem xét vết thương trên cánh tay của Bền. Bác Ba gật đầu, nói:
– ” Vết bầm đã đổi màu, gần trở lại bình thường, nhưng còn hơi sưng. Ngày mai sẽ khỏi hẳn. “
– ” Bao giờ thì con trở lại nhà bác Hai Bảnh được? ” Bền nói. ” Vài ngày nữa, con sẽ theo bác Hai Bảnh đi lên Bảy Núi săn cọp dữ. Nghe nói, hai con cọp nầy ăn thịt nhiều người nên đã thành tinh, muốn bắn hạ nó không phải dễ, phải không bác Ba? “
– ” Ngày mốt là con có thể rời khỏi đây được rồi, ” bác Ba nói. ” Miệt Bảy Núi huyền bí sơn lam chướng khí, cọp beo, rắn độc nhiều lắm. Bác Ba tặng cháu một lọ thuốc gia truyền nầy để dành phòng thân. “
Bác Ba lấy trong túi áo bà ba một lọ thuốc bằng sành, lớn hơn ngón chân cái một chút, nắp đậy được khằn lại bằng sáp. Bác Ba đưa Bền, nói:
– ” Đây là thuốc bột gia truyền chuyên trị rắn độc cắn phải, cho dù bị rắn tối độc như mái gầm cũng chữa khỏi. Cháu nên bỏ vào túi áo để phòng thân hoặc cứu người. “
– ” Con cám ơn bác Ba! ” Bền cầm lọ thuốc trên tay, nói. ” Phải chi hồi đó, anh của con có được lọ thuốc nầy thì anh của con đâu có chết thảm! “
Bác Ba ngạc nhiên, hỏi:
– ” Anh của con bị rắn độc gì cắn, loài rắn ở đâu? Ở dưới nước hay ở trên cạn? “
– ” Dạ ở dưới biển, ” Bền nói. ” Anh con theo nghề biển, ngư phủ ngoài cửa biển Rạch Giá, trong lúc lặn hụp dưới biển thì bị một con rắn biển cắn, khi những bạn biển đưa anh vừa về tới bến cá thì tắt thở không cứu kịp! “
Bác Ba Tỵ nói:
– ” Đồng Tháp Mười là quê nội, còn quê ngoại của bác ở vùng miệt thứ, ấp Cái Su thuộc quận Kiên An nằm cặp sông Cái Lớn chạy thẳng ra vịnh Rạch Giá. Hồi còn trai trẻ, bác thường theo những người đi biển để học nghề; nhờ vậy, bác tiếp xúc với nhiều ngư phủ miệt ngoài vào biển trong miền Nam đánh bắt cá theo mùa. Họ phân loại rắn biển ra làm nhiều nhóm và kiêng cử không dám gọi tên như: ” Mộc Trụ Thần Xà ” là loại đẻn dài chừng 40 phân, mình hơi dẹp, lưng đen, bụng vàng, đuôi có 3 chấm chấm tròn, ” Bà Lạch ” là một loại đẻn, đầu có mồng, ít khi xuất hiện mặt biển, ” Ông Hèo ” là loại đẻn lớn dài tới 2, 3 thước, mình tròn bằng cổ tay, chớ không nhỏ, nọc của nó tối độc, ” Bát Bữu Công chúa ” là loại đẻn biển, đầu có mồng, thân có nhiều màu sắc. Đây là những loại rắn biển có nọc rất độc, ai bị nó cắn phải thì chết liền, không có cách gì cứu kịp. Nên người đi biển không ai dám xúc phạm mấy loại đẻn kể trên. “
– ” Còn con ” chàm quạp ” có phải là một đẻn biển không, bác Ba? ” Bền hỏi.
– ” Theo bác Ba, con chàm quạp là một ” đẻn sông ” có họ hàng với ” Mộc trụ thần xà ” , nhưng nọc độc của nó phát tán chậm hơn nên bác mới cứu cháu kịp thời! ” bác Ba Tỵ nói. ” Mãi lo nói chuyện với cháu, bác Ba quên thấp hương trên bàn thờ chư vị. “
Chờ cho bác Ba thắp nhang xong, Bền cũng xin đốt một cây nhang cắm trên lư hương. Bền hỏi:
– ” Những tấm bài vị sắp thứ tự trên bàn thờ gồm những vị nào vậy, bác Ba? “
Bác Ba Tỵ nói:
– ” Cái bài vị trên cùng là anh hùng Thiên Hộ Dương. Hai cái bài vị hàng dưới, bên phải là ông Tổ thầy rắn vùng Đồng Tháp Mười là Lê Huy Nhạc, bên trái là ông Năm Hơn học trò của Lê Huy Nhạc. Tía của bác Ba là đệ tử của ông Năm Hơn. Bác Ba đây thuộc về đời thứ tư. Con cháu của ông Năm Hơn, một vài người còn sanh sống tại Mộc Hóa. “
– ” Còn mấy cái bài vị hàng dưới cùng? ” Bền hỏi.
– ” Những cái bài vị hàng dưới cùng là của gia tộc: ông bà, tía má và vợ của bác Ba, ” bác Ba kể tiếp. ” Mấy chục năm về trước, vùng Đồng Tháp mười là cái nôi của nhiều loại rắn độc và hung dữ khét tiếng vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cách đây vào khoảng 80 năm, tại vùng Đồng Tháp một mãng xà vương cực kỳ hung dữ và to lớn. Ai đi vào vùng nầy, vô phước gặp nó là kể như rồi đời. “
Bền ngắt lời, hỏi:
– ” Có ai giết được con mãng xà vương nầy không bác Ba? “
Ba Ba Tỵ nói:
– ” Một hôm, ông Năm Hơn đi lạc vào vùng nầy, bỗng thấy một người nông dân cao lớn vạm vỡ, tay cầm khúc cây to đang rượt đuổi con mãng xà vương. Cuối cùng, ông nắm được cái đuôi của nó, ghì nó lại đập đầu cho tới chết mới buông. Năm Hơn vô cùng bái phục. Hỏi ra mới biết là thầy rắn Lê Huy Nhạc và xin làm đệ tử theo học nghề. Mấy năm sau đó, ông Năm Hơn là thầy thuốc rắn nỗi danh trong vùng, ông nhận tía của bác Ba làm học trò để truyền nghề trị rắn độc. “
– ” Còn ông tổ nghề rắn Lê Huy Nhạc thì sao, bác Ba? “
– ” Về sau, ông Lê Huy Nhạc hưởng ứng phong trào khởi nghĩa chống Thực dân Pháp của chí sĩ Thủ Khoa Huân vào năm 1861. Ông Thủ Khoa Huân đứng ra tổ chức nghĩa quân tung ra hoạt động khắp các tỉnh Mỹ Tho, Rạch Giá, Hà Tiên, Châu Đốc. Năm 1863, ông bị quân Pháp bao vây, ông chạy thoát tới Châu Đốc, nhưng bị chánh quyền địa phương bắt giữ lại rồi giao cho chánh phủ Pháp. Ông bị kết tội, đày đi Côn Đảo, rời đưa sang đảo Rê-u-nhông (Réunion) gì đó. Năm 1874, ông được Thực dân Pháp thả ra, rồi ông lại tiếp tục hoạt động cho đến tháng 4 năm 1875, ông lại bị quân Pháp bao vây và bị bắt. Lần nầy, chánh phủ Pháp chiêu dụ ông đầu hàng hợp tác. Song ông dứt khoát chọn cái chết cho tròn danh tiết của người sĩ phu miền Nam. Trước khi lên đoạn đầu đài tại chợ Phú Khiết, tỉnh Mỹ Tho. Ông Thủ Khoa Huân viết một bài thơ tuyệt mạng thật bi hùng. “
Bền xúc động mãnh liệt trước tấm gương yêu nước của tiền nhân, Bền hỏi:
– ” Bác Ba có nhớ bài thơ tuyệt mạng của chí sĩ Thủ Khoa Huân không? “
Bác Ba nói:
– ” Bác chỉ nhớ bản dịch của cụ Phan Bội Châu như sau: Ruổi dong vó ngựa trả thù chung / Binh bại cho nên mạng phải cùng / Tiết nghĩa vẫn lưu cùng vũ trụ / Hơn thua sá kể với anh hùng / Nổi sung mất vía quân Hồ-Lỗ / Quyết thác không hàng rạng núi sông / Tho thủy ngày rày pha máu đỏ / Đảo Rồng hiu hắt ngọn thu phong. ” Sau khi Thủ Khoa Huân chọn cái chết hy sinh vì Tổ Quốc, ông Lê Huy Nhạc lui về vùng Đồng Tháp Mười lập chiến khu, chiêu mộ nghĩa binh tiếp tục cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhưng được chẳng bao lâu, ông qua đời vì bạo bệnh trong sự thương tiếc của mọi người. “
Bền nói:
– ” Tía Hai Rồng thường nói với con, vùng đất Đồng Tháp Mười là vùng đất ” địa linh nhân kiệt ” . Anh hùng Thiên Hộ Dương với chiến khu Đồng Tháp Mười đã làm cho Thực dân Pháp khiếp vía, phải không bác Ba? “
Bác Ba Tỵ nói:
– ” Nếu nói rằng Đồng Tháp Mười là vùng đất ” Địa linh nhân kiệt ” cũng đúng thôi. Thuở xưa, vùng nầy là vùng đất trũng thấp như một lòng chảo, nước đọng quanh năm, hoang vắng cây tràm, đước, cỏ lác, lau, sậy, cây đế…mọc thành rừng, có nhiều bàu láng như: bàu sen, láng bông súng, lung năng, đồng lác…còn rắn ở Đồng Tháp Mười nhiều vô số. Một nơi mà ” Muỗi kêu như sáo thổi / Đĩa lội tợ bánh canh ” , có nhiều lung đìa vô số cá tôm như một ” tiểu Biển Hồ ” của Việt Nam. Ngược lại, đây là địa thế lý tưởng để lập chiến khu chống Thực dân Pháp. Thiên Hộ Dương là người tổ chức các nghĩa binh du kích, lấy Đồng Tháp Mười làm chiến khu chống Thực dân Pháp. “
Bền hỏi:
– ” Anh hùng Thiên Hộ Dương là người như thế nào hả, bác Ba? “
Bác Ba chưa kịp trả lời thì có tiếng chưn chạy huỳnh huỵch ngoài sân. Tư Kê xách cả một thùng thiếc cá trê chạy vào nhà, vừa thở hổn hển, vừa nói:
– ” Cái bùa gạch của thằng Tẻo linh thiệt nghe, bác Ba! ” Tư Kê để cái thùng thiếc xuống nền nhà, rồi chỉ cho bác Ba Tỵ, nói. ” Bác Ba coi nè, cá trê tụi con câu được gần đầy thùng đây nè! “
– ” Ủa, còn thằng Tẻo đâu rồi? ” bác Ba hỏi.
– ” Nó đi cất đồ nghề rồi, bác Ba! ” Tư Kê quay sang Bền, hỏi. ” Cánh tay anh hết hẳn đau nhức chưa, anh Bền? “
– ” Thuốc của bác Ba trong uống, ngoài thoa hay thiệt! Như là thuốc tiên, tao gần như hoàn toàn bình phục! “
Tư Kê hỏi:
– ” Ngày mai tụi con đi về được chưa, bác Ba? “
– ” Chưa được! ” bác Ba nói. ” Ngày mốt mới trở về nhà được. “
– ” Sao vậy, bác Ba? ” Tư Kê hỏi.
– ” Phải qua ngày mai mới chắc ăn! Bác chỉ sợ cháu Bền lở bị thuốc công phạt thì sao? ” bác Ba giải thích.
– ” Bác Ba nói phải đó, Tư Kê! ” Bền nói.
Thằng Tẻo cất đồ nghề gần cái bồ lúa xong, đi ra thưa với cậu Ba:
– ” Cháu đói bụng quá trời! Trong bếp còn gì ăn với cơm nguội không, cậu Ba? “
– ” Hết sạch trơn rồi! Chỉ còn có mấy con khô sặc nướng, ăn đở đi, cháu! ” bác Ba Tỵ nói.
Tư Kê đề nghị:
– ” Tại sao tụi mình không bắt lửa lên, nướng mấy con cá trê vàng hực vừa mới câu về, chấm với nước mắm gừng, ăn đã biết mấy, phải không Tẻo. “
Tẻo gãi đầu, nói:
– ” Phải đó đa, có vậy mà mình nghĩ cũng không ra! “
Bác Ba nói:
– ” Nói thì làm liền đi! Tẻo lo nhóm lửa trong cái cà ràng lẹ lên! Cậu cũng cần mồi khề khà vài ly rượu đế cho dễ ngủ đây. “
– ” Còn con tình nguyện đi làm cá trê! ” Tư Kê nói.
Khoảng một tiếng sau, mâm cơm dọn lên bàn với bốn con cá trê nướng vàng lườm. Mọi người quay quần chung quanh ngọn đèn mù u, ăn uống, cười nói vui vẻ. Tư Kê cũng nhấp môi vài chun rượu đế với bác Ba Tỵ cho có bạn nhậu thì đã say xỉn, gục đầu xuống bàn ngủ ngáy pho pho. Bác Ba biểu thằng Tẻo:
– ” Cháu đở thằng Tư Kê lên cái chõng của cháu. Tối nay, hai anh em chịu khó ngủ chật chung một cái chõng. Nhớ tấn mùng cho kỹ lưỡng nghe, cháu! “
Bây giờ, trên bàn chỉ còn lại hai người, bác Ba rót rượu ra ly uống, có vẻ trầm ngâm suy tư. Bác Ba, nói:
– ” Cháu buồn ngủ, lên cái chõng ngủ trước đi. Bác uống cạn xị rượu nầy mới đi ngủ. “
Bền nói:
– ” Hình như bác Ba có tâm sự gì buồn lắm, phải không bác? “
Bác Ba cười buồn, nói:
– ” Người đời thường nói: ” sanh nghề tử nghiệp ” , bác không chết mà bác gái đã chết thay cho bác. “
Bền hỏi:
– ” Sao kỳ vậy, bác Ba? Con thiệt không hiểu bác muốn nói gì! “
– ” Chuyện là như vầy, ” bác Ba kể. ” Cách đây gần 20 năm, có một người bị rắn độc cắn đưa đến nhờ bác Ba chữa trị. Bác dùng đủ thứ thuốc gia truyền mà không cứu nạn nhân được, bác bất lực bó tay nhìn bệnh nhân chết. “
Bền ngạc nhiên, hỏi:
– ” Con rắn đó là loại rắn gì mà ghê gớm quá vậy, bác Ba? “
Bác Ba nói:
– ” Theo như người trong nhà cho biết: Bụi tre trong vườn nhà họ về đêm có ai huýt gió, âm thanh nghe lãnh lót như ma huýt gió, nên họ sợ,ï quyết định nhờ một anh lực điền đốn bỏ bụi tre nầy đi. Trong lúc vác bó tre đi ra bờ rạch, bỗng dưng anh quăng bó tre nầy xuống đất một cái rầm, rồi ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự. Người nhà thấy một con bạch xà màu trắng, có một sọc đen trên lưng, đầu có mồng màu đỏ, bự bằng ngón chân cái, dài độ 5 phân tây. Nó sống trong một lóng tre, về đêm nó ló đầu ra khỏi lóng tre hút sương. Không may, anh lực điền vác bó tre lên vai, xoay đúng cái miệng lóng tre trên vai nên bị nó mổ trúng vai. Vết cắn càng gần cái đầu, nộc độc của nó phát tán càng nhanh chóng. Nọc độc của nó có thể giết chết một con trâu pháo chừng nửa giờ. “
Bền nói:
– ” Con bạch xà nầy ghê thiệt! “
– ” Đúng vậy! Loại bạch xà nầy có lẽ là vua của loài rắn độc, rất hiếm hoi. Ai vô phước gặp nó cắn phải thì không có loại thần dược nào cứu khỏi, ” bác Ba nói. ” Lúc đó, bác Ba nghe thiên hạ đồn rằng: Một ông lục tà (hòa thượng) người Miên là sãi cả chùa Rông – Ek ở miệt Bảy Núi tên Kim Nưng, chuyên trị rắn độc bằng bùa ngãi đầy màu sắc huyền bí. Người ta còn thêu dệt rằng, ông có khả năng độc bùa chú, trục con rắn độc cắn người về chùa trị tội. Thế mới ghê chớ! “
Bền hỏi:
– ” Lúc đó, bác có tin không? “
– ” Chỉ bán tín, bán nghi thôi! ” bác Ba nói. ” Nhưng, bác quyết định đi lên miệt Bảy Núi tìm sự thật để tìm danh sư trau dồi thêm tay nghề về giúp đồng bào. Lúc ra đi, bác Ba không biết là vợ bác đã cấn thai đứa con đầu lòng. Tìm ông lục tà Kim Nưng không khó, nhận thấy phương pháp điều trị những người bị rắn độc cắn của ông rất thực tế chớ không có gì huyền bí cả. Thần dược chữa rắn độc đều xuất xứ từ kho thuốc thiên nhiên Bảy Núi. Trong chùa lúc nào cũng có 4, 5 người nhờ ông Lục Tà truyền nghề. Sau khi trau đổi với nhau những kinh nghiệm sẵn có trong việc chữa trị cho nạn nhân bị rắn độc cắn, ông lục tà Kim Nưng mời bác ở lại chùa một thời gian để cùng nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm trị liệu. Có khi hai thầy trò đi lên núi để tìm dược thảo vài ba ngày mới về. Sau một năm, thầy trò chia tay, bác Ba trở lại quê nhà mới hay vợ bác đã qua đời vì sanh khó. Bác buồn lắm định bỏ nghề. Nhưng, bệnh nhân tới nhờ bác chữa trị càng ngày đông, nên bác Ba tìm nguồn vui trong công việc. Tính đến nay bác đã cứu sống hàng trăm mạng người và bác Ba trở thành khắc tinh của mọi loài rắn độc. “
Bền an ủi bác Ba, nói:
– ” Chắc dưới suối vàng bác Ba gái cũng hãnh diện về việc cứu nhân, độ thế của bác Ba. Đừng buồn nữa nghe bác Ba! “
– ” Bác cũng mong được như vậy, vong hồn vợ bác có linh thiêng, xin thông cảm và tha thứ cho bác Ba! “
CHƯƠNG MƯỜI TÁM
HUYỀN THOẠI THIÊN HỘ VÕ DUY DƯƠNG
Trời càng về khuya, ánh trăng tròn mười sáu tràn ngập ngoài sân. Ánh trăng len vào nhà qua mấy qua khung cửa sổ lung linh, chập chờn tỏa sáng căn nhà. Bác Ba Tỵ ngồi yên lặng trên cái ghế đẩu ộp ẹp như pho tượng, thỉnh thoảng nhấp môi từng ngụm trà nóng rồi thở dài; có lẽ, bác Ba đang hồi tưởng về quá khứ. Vườn khuya thật yên lặng làm ánh sáng trăng trở nên mơ hồ huyền bí đang ngự trị trong hồn bác Ba Tỵ, bác quấn điếu thuốc rê, châm lửa phì phà; thỉnh thoảng, nghe tiếng con chim quốc kêu “tù oa! tù oa! tù oa?” lạc loài từ ngoài bìa rừng buồn bã vọng về nghe thê thảm làm sao.
Bác Ba Tỵ nói:
– “Tội nghiệp con chim quốc lẻ loi chung tình nầy, nó sẽ đi lang thang kêu rỉ rả suốt năm canh để tìm người bạn tình.”
– “Tại sao bác Ba biết là tiếng chim quốc kêu?” Bền nói. “Nếu là chim quốc, nó phải kêu: “quốc! quốc! quốc?” mới đúng chớ, bác Ba!”
– “Trời sinh ra loài chim quốc để làm tấm gương soi cho những kẻ bạc tình, xem nhẹ nghĩa tào khang!”. Chim quốc là giống chim chung tình, suốt một đời chung thủy, gắn bó, sống chết có nhau. Nếu cặp uyên ương đó đủ đôi, đủ cặp thì nó kêu: “quốc! quốc! quốc?”, còn chẳng may, mất một con, con còn lại nó kêu lên: “tù oa! tù oa! tù oa?” tiếng kêu của nó buồn thê thảm lắm. Nó sẽ đi lang thang hết cánh đồng nầy, đến cánh đồng khác, khảng giọng gọi người tình cho chết khi kiệt sức rồi ngả ra chết. Dân gian gọi con vật đáng thương là con “quốc rục”. Hồi còn nhỏ, bác Ba có lần bắt được một con quốc đang ấp trứng. Chiều về, con quốc trống tha mồi về cho vợ. Nhưng, nó không thấy không thấy con quốc mái. Nó đậu trên trên miệng khạp khô nước cạnh cái chòi chăn vịt gần đó, nó cất tiếng kêu thảm thiết suốt mấy đêm liền: “tù oa! tù oa! tù oa?” tiếng kêu nghe thật não nuột, xót xa. Còn con mái, bác nhốt trong lồng không chịu ăn uống gì hết, cũng cất kêu “tù oa” nghe buồn đứt ruột. Vài ngày sao, bác mang con mái ra đồng, định trả lại chỗ cũ thì tìm thấy con quốc trống chết rủ trong cái khạp. Bác thật ân hận, đặt con mái nằm bên cạnh xác con trống. Nó không còn kêu nữa và nằm bên cạnh xác con trống chờ chết với theo bạn tình.”
Biết Bác Ba tự ví mình như chim quốc nên mang tâm sự buồn, Bền nói lãng sang chuyện khác, tò mò, hỏi:
– “Sáng mai bác ra chòi dơi, cho con theo giúp bác một tay, được không bác Ba?”
– “Ngày mai, bác ở nhà không ra chòi dơi,” bác Ba nói. “Sáng mai, chắc thế nào cũng có người đến thăm bác, nhờ giúp đỡ cho mà coi!”
– “Ai vậy bác?” Bền hỏi.
Bác Ba Tỵ nói:
– “Có gì đâu, mưa mà cháu!”
– “Mưa?” Bền ngạc nhiên, hỏi.” Cháu không tin đâu, ánh trăng còn tỏa sáng ngoài sân mà, bác ngó xem.”
– “Ậy, coi vậy mà đêm nay trời sẽ mưa vì vầng trăng tán đỏ, tròn to thì mưa giông phải lo dự phòng,” bác Ba Tỵ nói chắc như đinh đóng cột.” Ngược lại, khi nào cháu thấy vầng trăng quầng bạc sáng ngời thì điềm trời chớ lo; vả lại, hồi chiều, bác thấy bầy kiến cánh vỡ tổ bay ra, bão táp mưa sa cũng gần tới rồi đó. Hồi chiều hôm trước, bác còn thấy mặt trời lặn đỏ chân trời, đêm nay chắc chắn mười phần có mưa. Nếu cháu không tin, chờ coi bác Ba đoán có đúng hay không nghe?”
– “Những cơn vào buổi chiều, bầy dơi có ra rời chòi dơi, bay ra ngoài đi kiếm mồi không, Bác Ba?”
– “Trời mưa, thì khí trời trở lạnh, bầy dơi thường đậu xúm xít với nhau để truyền hơi ấm cho nhau để ngủ, còn mưa nửa đêm về sáng, bầy dơi sẽ bay về chòi dơi sớm; vì vậy, buổi sáng nầy, bác không ra dọn phân vì bị động bầy dơi sẽ bây túa đi, có khi không trở lại.”
– “Còn nữa, sao bác biết, sau cơn mưa sẽ có người tới thăm, ai vậy bác Ba?”
– “Trời mưa vào ban đêm, là từ thanh niên tới trẻ em trong làng nầy háo hức đi soi ếch để đổi món nhậu, ăn cá đồng hoài cũng chán. Thế nào, cũng có vài người bị rắn cắn cho mà coi. Cháu biết, vùng Đồng Tháp Mười là vùng đất trũng mênh mông, rừng tràm mọc xen kẽ những cánh đồng hoang vắng cỏ bàng, lác, sậy mọc tràn đồng, có những bàu, đìa, bưng trấp, lung sen bát ngát vươn lên trên những bãi sình lầy ngút ngàn. Nơi đây còn có nhiều giồng cát dài gần nửa cây số tạo thành những cụm gò nổi, trên gò có nhiều cây cổ thụ như cây trôm, gáo, sao, dầu, thau lau đứng sừng sững giữa rừng tràm thâm u bạt ngàn. Những vạt rừng bạt ngàn có hàng ngàn loài chim nước về làm tổ, sinh sôi nẩy nở như trích mồng đỏ, trích cồ, trích ré, cồng cộc, le le, gà nước, diệc mốc, diệt lửa, vạc, nhan điển, bìm bịp, nhiều nhứt vẫn là những đàn cò đủ loại như cò ngà, cò trâu, cò trắng, cò lửa? mà đây cũng là giang sơn của nhiều loại trăn, rắn độc như hổ mang bành, hổ đất, hổ mây, mái gầm, rùa, chuột, ếch, cua đinh. Đi soi ếch là dễ gặp phải rắn, vì ếch nhái là món ăn khoái hẩu của loại rắn đó cháu.”
– “À, cháu hiểu rồi.”
Bác ba Tỵ ngáp dài mấy cái, nói:
– “Thôi, bác Ba đi ngủ đây! Chúc cháu ngủ ngon!”
Bền ngủ thiếp đi lúc nào cũng không hay, cho đến khi nghe sấm động, nổ xé trời làm Bền giật mình thức giấc. Tiếng gió từ con rạch Long Khốt lồng lộng thổi lên từng cơn, khua những tàu lá chuối xào xạc, mấy bụi tre gai cọ vào nhau kêu kẻo kẹt, cái phên cửa bị gió dập từng chập. Những giọt mưa bắt đầu rơi lộp độp trên mái lá, chẳng mấy cơn mưa thật to dồn dập đổ tới. Bền chống cái phên cửa lên, nhìn ra ngoài sân, mưa giăng trắng xóa, nước mưa từ trên mái lá chảy ồ ồ xuống đất. Rừng khuya bỗng trở nên ồn ào, náo nhiệt bởi những tiếng kêu những ếch, nhái, ểnh ương ..vang đều lên khắp mọi nơi. Lũ ếch đã rời khỏi hang ra đón mưa và gọi bạn tình, chúng say sưa bắt cặp với nhau, đây là lúc dễ bắt nhứt. Trẻ em trong làng đã chuẩn bị sẵn những bó đuốc bằng lá dừa nước hoặc cây sậy khô đập dập bó chặt lại. Cả con đường làng bên kia con rạch bỗng sáng rực lên những ánh đuốc bập bùng di động, lặng lẽ phân tán đi khắp nơi, rồi biến mất trong bóng đêm, trong khi cơn mưa vẫn rơi đều nặng hạt.
Không hiểu tại sao, Bền cảm thấy trong người nóng ran, bức rức khó chịu, Bền cởi phăng quần áo chạy ào ra ngoài sân tắm mưa, những giọt mưa lạnh lẽo rơi xuống người làm Bền cảm hấy dễ chịu rồi quày trở vô nhà thì thấy bác Ba Tỵ đang ngồi trên bàn, bên cạnh tách trà còn bốc khói nghi ngút là chén thuốc nam. Bác Ba Tỵ nói:
– “Lau mình, mặc quần áo vô rồi uống chén thuốc nầy sẽ khỏe ngay.”
Bền lau mình, mặc quần áo vô, tới ngồi gần bác Ba Tỵ, hỏi:
– “Hồi nãy, lúc con thức giấc, thấy trong người có một luồng khí nóng ran, bức rức khó chịu lắm, có sao không, bác Ba?”
– “Không sao đâu cháu, vì nọc độc của con chàm quạp vốn nóng nên làm cháu khó chịu đó thôi. Uống xong chén thuốc nầy, luồng khí nóng trong người cháu sẽ từ từ biến mất,” bác Ba Tỵ nói.” Ngày mai, bác Ba biểu thằng Tẻo ra giàn mướp ngoài bìa rừng hái mấy trái mướp rắn, nấu canh với cá trê, ăn xong nồi canh mướp nầy, thân nhiệt của cháu sẽ trở lại bình thường.”
Bền cầm chén thuốc gia truyền, ực một hơi, nói:
– “Con cám ơn bác Ba đã cứu mạng con.”
Bác Ba Tỵ, vỗ vai Bền, thân mật, nói:
– “Ơn nghĩa gì cháu! Đối với ai, bác Ba cũng phải làm như vậy thôi mà!”
Ngoài trời, cơn mưa vẫn rơi đều đều trên mái lá; thỉnh thoảng, gió lùa vào trong căn nhà lá làm ngọn đèn dầu mù u lung linh chao qua, chao lại chực tắt. Bền vội vàng đứng dậy đi khép cánh cửa lại. Tách trà sen trên tay bác Ba vẫn còn bốc khói, hương trà quen thuộc làm bầu không khí ấm áp riêng tư, ấp ủ tâm hồn cô độc của bác Ba, bác thả hồn mình chìm đắm trong kỹ niệm xa xưa, nhứt là vào những đêm mưa như thế nầy.
Bền phá tan bầu không khí yên lặng, hỏi:
– “Con nghe tía Hai thường nói vùng Đồng Tháp Mười là vùng “địa linh nhân kiệt”, ngoài ngài Thiên Hộ Võ Duy Dương, còn có vị anh hùng nào nữa hay không, bác Ba?”
Bác Ba Tỵ uống một trà nóng, nói:
– “Tại vùng Đồng Tháp Mười nầy, ngoài vị anh hùng dân tộc là Thiên hộ Võ Duy Dương, còn có Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều, hai ông đã chọn Gò Tháp làm căn cứ địa của nghĩa quân yêu nước trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây là nơi xuất phát những trận đánh kinh hoàng làm cho quân Pháp kinh hoàng khiếp sợ.”
– “Tía cháu là người rất ngưỡng mộ lòng yêu nước ngài Thiên hộ Võ duy Dương. Bác Ba có biết tiểu sử về ngài không? Kể cho con nghe, được không?” Bền hỏi.
– “Theo truyền thuyết, ông Võ Duy Dương sinh năm 1827 tại thôn Cù Lâm, quận Tuy Viễn, trấn Bình Định. Tổ tiên của ngài Võ Hữu Man từ miền Bắc vào làng Nam Tượng lập nghiệp, tới Võ Duy Dương là đời thứ 6. Cha của Võ Duy Dương là Võ Hữu Đức. Thuở nhỏ Võ Duy Dương có thể chất cường tráng, thông minh và gởi võ nghệ. Nhà nghèo, ông phải đi chăn trâu. Về sau, có một vị quan địa phương thương tình nhận làm con nuôi. Tương truyền, trong một kỳ ti võ nghệ, ông cử được một lúc 5 trái linh, mỗi trái nặng 60 cân. Hai tay xách 2 trái, hai nách kẹp 2 trái, răng cắn 1 trái nên từ đó người ta gọi ông là “Ngũ Linh Dương”. Năm 1857, hưởng ứng chính sách đồn điền của triều Tự Đức, Võ Duy Dương vào Nam tìm đến đất Ba Giồng, ven Đồng Tháp Mười chiêu mộ dân chúng khẩn hoang lập ấp và trở thành một hào phú ở địa phương.”
Bền hỏi:
– “Nguyên nhân nào khiến ngài Võ Duy Dương lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp?”
Bác Ba Tỵ nói:
– “Sau khi Gia Định thất thủ. Tháng 4 năm 1861 Pháp đánh chiếm Mỹ Tho, Võ Duy Dương cùng Thủ Khoa Huân kéo lực hượng về Gia Định đánh Pháp. Thất trận ở Gia Định, ông vượt biển về kinh, bái yết vua Tự Đức hiến kế đuổi giặc. Ông được điều về Quảng Nam dẹp cuộc nổi dậy của người Thạch Bích và được phong làm Chánh Bát Phẩm Thiên Hộ. Một tháng sau, ông được sung vào phái bộ của Khâm Phái Quân Vụ Đỗ Thúc Tịnh vào Nam với nhiệm vụ chiêu mộ nghĩa dõng chống ngoại xâm. Ông đóng quân tại Bình Cách, liên kết với Trương Định ở Gò Công đánh phá các đồn Pháp ở Tân An, Chợ Lớn, về sau bị Huỳnh Công Tấn làm phản và hy sinh, Trần Xuân Hòa ở Thuộc Nhiêu và Đỗ Thúc Tịnh ỡ Mỹ Quí. Võ Duy Dương lãnh đạo nghĩa quân lấy trung tâm Đồng Tháp Mười là vùng đầm lầy, hiểm trở ở Nam Bộ làm tổng hành dinh. Ông cho Trần Trọng Khiêm xây dựng đại đồn ở Gò Tháp, trên 3 con đường ra ngoài có 3 đồn: Đồn Tiền, Đồn Tả và Đồn Hữu án ngữ. Đồn hình vuông, mỗi chiều dài khoảng 200 thước, cửa đồn vững chắc. Ngoài ra, còn nhiều đồn nhỏ đóng xung quanh bảo vệ căn cứ.”
– “Muốn đi vào các đồn nầy để tiếp tế cho nghĩa quân, dân chúng phải đi vào bằng cách nào vậy, Bác Ba?” Bền hỏi.
– “Hồi đó nơi nầy chưa có con kinh đào nào cả,” bác Ba Tỵ nói. “Vì vậy, dân chúng muốn tiếp tế cho nghĩa quân phải đi bằng đường mòn, chỉ có 3 con đường đi vào Đồng Tháp Mười: một con đường từ Gò Bắc Chiêng đi xuống phải qua Đồn Tả, một con đường từ rạch Cần Lố đi lên phải qua Đồn Hữu và một con đường khác từ Cái Nứa đi lại phải qua Đồn Tiền. Ba đồn nầy bảo vệ an ninh Tổng Hành Dinh của Thiên Hộ Dương. Đồn nào cũng có lũy đất bao chung quanh, cao gần 2 thước và bề dầy khoảng 1 thước rưỡi, có thiết trí nhiều lỗ châu mai. Mỗi đồn chứa từ 200 tới 300 nghĩa binh, 10 khẩu súng và 4, 5 chục thớt bắn đá và vài khẩu đại bác 12 ly. Ngoài ra, còn 5, 6 đồn nhỏ như đồn Gò Bắc Chiêng, đồn Aáp Lý?để có thể báo động từ xa, mỗi đồn có khoảng 150 nghĩa binh và có từ 15 tới 30 thớt súng bắn đá. Tổng cộng có tới 1.000 nghĩa binh.”
Bền ngạc nhiên, hỏi:
– “Sao bác Ba biết rành rọt đường đi nước bước để tiếp tế trong các đồn của Thiên Hộ Dương. Cháu có cảm tưởng bác Ba là nghĩa binh của ngài Thiên Hộ Dương, đúng không?”
– “Vũ khí, đạn dược thì có ghe, thuyền chở từ Hà Tiên, Rạch Giá vào. Còn thực phẩm do đồng bào địa phương quanh vùng Đồng Tháp tiếp tế. Con đường chuyên chở thận lợi nhứt đi từ Cần Lố vào Tháp để chở gạo nuôi nghĩa quân, nên còn có tên là “Đường Gạo” nuôi quân.” Bác Ba Tỵ nói tiếp. “Từ đây, nghĩa quân dùng chiến thuật du kích đánh Pháp trên cả vùng rộng lớn từ Hà Tiên, Rạch Giá đến Đồng Tháp, gây cho đối phương nhiều tổn thất. Nhưng, giữa lúc nghĩa quân quyết tâm quyết chiến thì triều đình Huế ký hiệp ước Nhâm Tuất ngày 5 tháng 6 năm 1962, nhượng ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho giặc Pháp cùng với Côn đảo và bồi thường cho giặc Pháp và Tây Ban Nha 4 triệu đồng bạc, trả làm 10 năm. Triều đình Huế buộc các tổ chức kháng chiến của nghĩa quân phải hạ khí giới, bãi binh.”
– “Ngài Võ Duy Dương có tuân lệnh triều đình Huế hay không, bác Ba?” Bền hỏi.
Bác Ba Tỵ nói:
– “Ngài Võ Duy Dương bất tuân thượng lệnh nên bị triều đình tước binh quyền và lùng bắt. Về sau, Nguyễn Hữu Huân rồi Trương Định lần lượt hy sinh. Võ Duy Dương cùng với nghĩa sĩ khác như Nguyễn Tấn Kiều (tức Đốc Binh Kiều, phó tướng). Trần Kỳ Phong, Thống Bình, Lãnh Binh Dương, Thương Chấn, Thống Đa, Quản Long, Quản Là?vẫn không nãn lòng, càng tổ chức đánh Pháp quyết liệt hơn. Nghĩa quân thường đánh phá các đồn, chợ ở phía Nam. Ngày 22 tháng 7 năm 1965, lực lượng nghĩa quân khoảng 100 người, chỉ có 56 khẩu súng, 2 khẩu đại bác đốt chợ Mỹ Trà. Kế đó, Thiên Hộ Dương tấn công Cái Bè, Mỹ Quí, đánh tan nhiều toán quân Lê dương Pháp.”
– “Cuộc kháng chiến của nghĩa quân kéo dài được bao lâu?” Bền hỏi.
– “Còn dân tộc ta nhất định không chịu ách đô hộ của ngoại bang, phất cờ khởi nghĩa chống xâm lăng khắp nơi và liên tiếp trong vòng 10 năm cuộc chiến đấu không lúc nào ngừng,” Bác ba Tỵ hồi tưởng lại chuyện xưa, kể tiếp. “Thủy sư Đô đốc Bạc Má (De La Grandiere) trở qua Nam Việt đặt kế hoạch tổng tấn công chiến khu Đồng Tháp Mười. Ngày 14 tháng 4 năm 1866, Đô đốc Bạc Má huy động một lực lượng lớn khoảng 1.000 quân Pháp có thủy quân phối hợp với quân bộ chiến do hai tên Việt gian Trần Bá Lộc và Huỳnh Công Tấn dẫn đường, cùng tàu chiến, đại bác chia làm ba mũi tiến công từ ba hướng: Gò Bắc Chiêng, Cần Lố và Cái Nứa, quyết triệt hạ Tổng hành dinh của Thiên Hộ Dương ở đồng Tháp Mười cho bằng được. Cánh quân của viên quan ba Bu-Bê (Boubé) tiến từ Cần Lố tấn công đồn Sa Tiền. Khoảng 150 nghĩa quân chống cự mãnh liệt làm quan hai Vi-nhi (Vigny) bị thương, nhưng cuối cùng nghĩa binh phải rút lui để bảo toàn lực lượng. Cánh quân của quan tư Đê-rơm (Dérôm) chiếm được đồn nhỏ trên đường từ Cái Nứa đến Đồn Tiền. Còn quan ba Galy Pasêbóc (Gally Passebosc) thì chiếm được Gò Bắc Chiêng do 120 nghĩa quân chống giữ với 15 thớt bắn đá. Phía bên pháp bị thương và chết không bao nhiêu. Như vậy, nội nhật 15 tháng 4, quân Pháp hầu như đã làm chủ tình hình, quyết tâm chọc thủng Đồn Tiền, Đồn Hữu, Đồn Tả buộc nghĩa binh phải rút về Tổng hành dinh ở trung tâm Đồng Tháp Mười.
Bác Ba Tỵ chợt hỏi Bền:
– “Quân Pháp muốn tấn công, tiêu diệt chiến khu Đồng Tháp Mười nhiều phen; sở dĩ, chúng còn do dự vì sợ ba vị đại tướng lợi hại nhất của ngài Thiên hộ Võ Duy Dương. Cháu biết ba vị đại tướng phò tá đắc lực cho ngài Thiên Hộ Dương là ai không?”
– “Là ai vậy, bác Ba?”
– “Rắn, đĩa và muỗi đã cản bước quân thù. Nhưng, rắn đâu phân biệt được ai là thù ai là bạn đâu, nghe nghĩa binh bị đóng quân trong vùng đầm lầy bị rắn độc cắn cắn chết cũng nhiều lắm; vì vậy, sau khi được thầy Năm Hơn đồng ý cho tía của bác Ba vào mật giúp nghĩa binh kháng chiến chống giặc Pháp. Ở trong chiến khu, tía của bác Ba phụ giúp cho thầy thuốc nam tên Bảy Ân, cả hai mới kết nghĩa anh em và trao đổi kinh nghiệm nghề thuốc rắn và thuốc nam lẫn nhau để giúp đở nghĩa binh. Về sau ông nầy là dưỡng phụ của bác Ba,” bác Ba Tỵ uống một ngụm trà cho thấm giọng, rồi kể tiếp. “Sau mùa nước nổi, cánh đồng Tháp Mười ngập nước ít nhứt 6 tháng, nhiều chỗ nước sâu gần một thước là chuyện thường. Bắt đầu tháng 4 là bắt đầu mùa nắng, nước đã rút hết để lại một bãi sình lầy bao la, không chỗ nào khô nước hẳn. Lính tây đi giày ống mà lội qua những bãi sình, len lõi trong những bụi lau sậy, cỏ lát, cỏ năng? không phải chuyện dễ dàng, lại còn phải đeo túi đạn vào cổ cho đạn khỏi bị ướt nữa mà bọn Tây sợ nhứt là muỗi mòng, khi bị động nó sẽ bay túa ra, bu đầy đầu cổ, chui vào lỗ mũi, lỗ tai làm bọn Tây không mở mắt được, vuốt mặt không kịp để thở.”
Thằng Bền bây giờ mới vỡ lẽ, nói:
– “Trong bùn thì có vô số đỉa trâu lội lềnh như bánh canh, mỗi khi hút no máu là mình nó phình lớn lên lớn lên bằng ngón chân cái, nó mà luồn vào giày ống, vào những chỗ sâu kín như kẹt háng nên bọn Tây sợ là phải lắm, đúng không bác?”
Bác ba Tỵ nói:
– “Đúng vậy, ngoài ra sức nóng của mặt trời gay gắt làm hơi nước bốc lên, nóng hừng hực cũng đáng sợ lắm, làm nhiều lính Tây bị khó thở lần lượt ngã bịnh vì kiệt sức, tinh thần mệt mỏi bải hoải, không chiến đấu được.”
– “Còn rắn thì sao hả, bác Ba?”
– “Đây là chuyện do cha nuôi Bảy Ân sau nầy kể lại cho cho bác,” Bác ba Tỵ nói. “Từ rạch Cần Lố muốn đi tới Đồn Hữu phải qua một cái “doi đất” nằm chắn ngang chia dòng sông Mekong làm hai nhánh: một nhánh chảy vô Rạch Miễu (Tháp Mười), nơi đó có một tiền đồn kiên cố gọi là”Doi Đồn”do hai tướng Huỳnh Lục và Huỳnh Thất trấn thủ, cầm chân quân Pháp không tiến vô được. Doi Đồn sầm uất, có một cây me cổ thụ hai người ôm không giáp. Hàng tuần có ba chuyến đò vận tải lương thực, vũ khí đạn dược từ Doi Đồn về Tổng hành dinh của ngài Thiên Hộ. Tại Giồng Cát hay Động Cát có cất một trạm gát để đoàn ghe vận tải nghỉ ngơi lấy sức. Bỗng một đêm kia, sau bữa cơm chiều, có một số nghĩa binh canh gát tại trạm và người vận tải lương thực ngủ qua một đêm tới sáng đều chết cả, không một người nào sống sót. Thiên Hộ đến quan sát tại Động Cát tìm thấy một cái hang rắn, miệng hang bằng một cái lu. Thiên Hộ tạm để yên vì có tin Doi Đồn bị quân binh Pháp tấn công. Dũng tướng Huỳnh Lục và Huỳnh Thất chỉ huy nghĩa binh chống trả mãnh liệt, nhưng vì hỏa lực kém buộc phải rút lui về Tổng hành dinh cố thủ. Quân Pháp đuổi nghĩa binh đến Động Cát thì trời bắt đầu chạng vạn, bèn hạ trại dưỡng quân, chuẩn bị tiến vào chiến khu vào sáng ngày mai. Không ngờ, trong đêm đó quân Pháp chết hơn chục mạng khiến tên chỉ huy là viên đội “Cuộc Si” (Courcy) hoảng sợ không dám tiến sâu vô nữa. Đồng bào địa phương đồn rằng Thiên Hộ nhờ đạo binh “rắn thần” đẩy lui giặc Pháp ra khỏi vùng Động Cát. Tin đồn làm giặc Pháp hoang mang lo sợ, rút luôn về Cao Lãnh. Quân ta tái chiếm Doi Đồn như cũ.”
Bền khoái chí vỗ tay, bật cười, nói:
– “Đáng đời cho giặc Pháp cướp nước ta!”
– “Còn nữa, chưa hết chuyện đâu,” bác Ba Tỵ kể tiếp. “Ít lâu sau, quân Pháp tấn công Doi Đồn, quân ta rút lui, quân Pháp đuổi theo đến Động Cát thì đóng binh ngủ qua đêm. Trong đêm ấy, nhiều tên đang ngủ bỗng lăn đùng ra chết như lần trước. Viên đội chỉ huy và bộ hạ phát giác ra miệng hang rắn bèn ra lệnh đổ dầu lửa vào trong hang đốt. Trong lúc khói lửa mịt mù, bỗng đâu giông gió nổi lên ào ào. Từ trong rừng, một con rắn hổ mây khổng lồ, bề tròn bằng miệng thúng phóng ra như giông, như gió quật ngã bọn lính Pháp làm giặc Pháp kinh hồn hoãng vía bỏ chạy tán loạn hàng ngũ, càn bừa trong lau sậy để thoát thân. Thiên Hộ ra lệnh cho nghĩa binh phản công toàn thắng, tịch thu nhiều chiến lợi phẩm và giết được viên đội chỉ huy. Thế là “rắn thần” đã giúp ngài Thiên Hộ ba lần đánh lui quân Pháp làm tăng uy tín của Nghĩa binh chiến đấu vì chánh nghĩa!”
Bền hỏi:
– “Theo như bác Ba nói, ngài Thiên Hộ Dương người gốc Bình Định, chắc võ nghệ của ngài phải cao cường lắm, phải không bác Ba?”
– “Đúng vậy đó cháu! Tục truyền rằng ngài Thiên Hộ có đường roi “song đôi” tuyệt kỷ rất tài tình. Diễn võ trường của ngài để huấn luyện nghĩa binh là một cái sân đất rộng, chung quanh là rừng tràm che kín chung quanh. Ngài thường tới đây biểu diễn võ nghệ dạy võ công cho nghĩa binh. Binh khí của ngài là cây roi bằng khúc mây rừng lớn hơn cườm tay, dài khoảng hai thước. Khi ngài múa lên, lúc đầu còn thấy bóng người, về sau chỉ nghe tiếng gió vù vù, cây roi bao bọc lấy thân người, tiếng gió phát ra từ đường roi vi vút ghê mình. Đường roi “yểm bách” vô cùng lợi hại: “Thượng thảo kỳ thân, hạ bảo kỳ mã”, có nghĩa khi nào bị quân địch vây khổn giữa vòng thì”trên giữ thân mình, dưới che được ngựa”. Trước khi chấm dứt cuộc biểu diễn, ngài đập cây roi xuống đất, ngài phi thân lên đứng cái gò cao gần 3 thước, một tay chống nạnh, một tay chống cây roi xuống gò đất oai nghi lẫm liệt làm mọi người vô cùng thán phục ngài một viên kiện tướng, kỳ tài trong thiên hạ.”
Bền hỏi:
– “Sau khi ba đồn Tiền, Tả, Hữu hệ thống phòng thủ thứ nhứt bị quân Pháp vây khổn, quân binh Pháp sẽ dừng lại ở đó hay không hay tiếp tục đánh thẳng vào Tổng hành dinh của ngài Thiên Hộ vậy, bác Ba?”
– “Hôm sau 16 tháng 4, đội quân của Dérôme tiến đến Đồn Tiền. Tên Việt Gian Huỳnh Công Tấn xin đi tiên phong, không đợi quân Pháp đi tới, vội vàng tấn công nhưng bị nghĩa binh đẩy lui, bỏ chạy. Đến ngày 17 tháng 4, Dêrôme mở cuộc tấn công Đồn Tiền, còn Gally thì tấn công Đồn Tả do đích thân Thiên Hộ chống giữ. Thế là, nghĩa binh bị quân Pháp bao vây ba mặt, chỉ còn mặt hậu, quân Pháp đã phục kích chận đường rút lui nghĩa binh về trung tâm Đồng Tháp Mười. Sau 10 ngày chiến đấu quyết liệt với vũ khí thô sơ chống lại hỏa lực hùng hậu của quân giặc. Cuối cùng, Thiên Hộ buộc phải rút quân khỏi Đồn Tả để bảo tồn lực lượng. Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều tình nguyện ở lại chặn địch và chống trả quyết liệt để Thiên Hộ có đủ thời gian rút quân. Trong trận đánh quyết liệt nầy, tía má của bác Ba đã hy sinh cùng với Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều.”
Bền xúc động, hỏi:
– “Lúc đó bác Ba ở đâu?”
– “Vào lúc dầu sôi lửa bỏng đó, bác Ba mới 2 tuổi. Mẹ phải đai bác Ba trên lưng vừa đánh giặc; không may, mẹ trúng đạn ngay ngực, viên đạn xuyên qua người đã để lại một vết xẹo ở cánh tay mặt của bác Ba, nhờ vậy bác mới sống sót. Bây giờ mỗi lần nhìn vết xẹo trên cánh tay phải là bác nhớ đến tía má.” bác Ba vẻ mặt hơi buồn, nói. “Trong cơn hấp hối, mẹ trao bác Ba cho tía và dặn phải rút đi theo cánh quân của ngài Thiên Hộ để bảo toàn lực lượng, chờ ngày phục quốc. Nhưng, tía không nở bỏ mặc vợ lúc sắp lìa đời bên cạnh chiến hào, tía mới giao con lại cho chú Bảy Ân nuôi dưỡng. Sau khi Thiên Hộ rút quân ra khỏi Đồn Tả theo kế hoạch, Đốc binh Kiều và số nghĩa binh tình nguyện ở lại tiếp tục chiến đấu ác liệt để cầm chưn địch cho tới ngày hôm sau, Đồn Tả và Đồn Tiền đều thất thủ. Khi quan ba Gally dẫn quân tiến vào đồn không còn một ai sống sót, tất cả đều hy sinh đền nợ nước. Quan ba Gally kính cẩn nghiêng mình chào kính phục những nghĩa binh anh hùng đã chiến đấu dũng cảm đến người cuối cùng, nằm xuống trong danh dự, thà chết không hàng địch. Trong đồn chỉ còn vài chục nóc gia, kho chứa lương thực và đạn dược, quân Pháp nổi lửa đốt sạch, cháy đến 2 ngày ngọn mới tắt. Tổng cộng trong trận Đồng Tháp Mười, quân Pháp thương vong trên 100 tên. Quân pháp tuy đại thắng nhưng quá mệt mỏi vì Thiên Hộ Dương phục kích nên vội vã rút lui không kịp thiêu hủy hết các đồn nghĩa binh còn lại. Ngày 22 tháng 4, một đoàn tàu chở quân Pháp về tỉnh Tân An dưỡng quân, một chiếc tàu bị nghĩa binh phục kích đánh chìm, làm 11 lính Pháp tử trận.”
Bền hỏi:
– “Sau trận đánh quyết định đó, ngài Thiên Hộ Dương còn tiếp tục chiến đấu hay không vậy, bác Ba?”
Bác ba Tỵ nói:
– “Sau khi quân Pháp rút đi rồi, mãi đến 20 ngày sau, tên tham biện Rây-na (Rheinart) và tên Việt gian Trần Bá Lộc đưa quân trở vào Đồng Tháp Mười để phá sạch, đốt sạch những gì còn lại trong các đồn ấy. Họ đổ muối vào các họng súng đại bác rồi đẩy xuống hầm hố ngập nước cho súng mau rĩ sét. Riêng Thiên Hộ Dương tiếp tục lãnh đạo nghĩa binh tiếp tục hoạt động, song không có kết quả, rồi mang bệnh mà chết trong sự tiếc thương của đồng bào. Thật sự, không ai biết chính xác ngài qua đời vào ngày nào, chỉ căn cứ vào vào câu ca dao sau đây:
Ai về Ngã Sáu, Ấp Trung
Tháng giêng ngày giỗ xin đừng ai quên
Bền hỏi:
– “Ngày giỗ của ngài Thiên Hộ vào tháng giêng, nhưng chính xác là mùng mấy? Cháu thiệt không hiểu.”
– “Sự tích là như vầy: Giữa đêm mùng 3 Tết, bà con trong xóm đội bánh tét đi biếu họ hàng. Khi họ đi ngang qua một nghĩa địa, trong ánh đuốc chập chờn giữa đêm trường hoang vắng, họ thấy một người, đầu bịt khăn be, mặc võ phục, đi giày ống như võ quan đàng cựu, ông đi từ ngôi mả nầy đến ngôi mả khác như hỏi thăm thuộc hạ, khi tới gần cái miếu hoang, rồi biến mất. Họ cho rằng, đó là anh linh của ngài Thiên Hộ hiện ra. Với lòng tôn kính vô biên người anh hùng vùng Đồng Tháp Mười hết lòng vì dân, vì nước chống ngoại xâm nên họ lấy ngày mồng 3 Tết là ngày giỗ của ngài,” Bác ba Tỵ nói tiếp.”Tuy nhiên, có một thuyết khác cho rằng: Sau khi rút quân ra khỏi Đại Đồn Gò Tháp, Thiên Hộ Dương đem quân phối hợp với người con của Trương Định là Trương Quyền và thủ lãnh người Cao Miên là Acha Xoa, tiếp tục đánh Pháp nhiều trận ở vùng biên giới giáp với Tây Ninh. Tháng 10 năm 1866, Võ Duy Dương dùng thuyền theo đường biển ra Bình Thuận liên lạc với nghĩa sĩ miền Trung. Nhưng, khi đến cửa biển Cần Giờ bị bọn cướp biển sát hại tại mũi Thị Khiết (Thuần Mẫu) thuộc vùng biển Cần Giờ, lúc đó ông mới 39 tuổi.”
Bền hỏi:
– “Sau khi ngày Thiên Hộ Dương qua đời, ông Bảy Ân và bác Ba sống ra sao?”
Bác ba Tỵ nói:
– “Vì không muốn nghề trị rắn độc bị thất truyền nên chú Bảy Ân đưa bác Ba về quê ngoại của bác Ba ở Kiên An, nhưng thân nhân của bác Ba không còn ở ấp Cái Su nữa, họ đã tản cư đi nơi nào không biết. Nhân một chuyến du hành về ấp Thới Mỹ, nơi dòng sông Trèm Trẹm gặp gỡ Kinh Xáng Chắc Băng thuộc quận Thới Bình. Chú Bảy Ân gặp dì Khanh góa phụ sống đơn chiết với đứa con gái tên Thủy, trạc tuổi bác Ba, rồi hai người gá nghĩa trăm năm với nhau. Về sau, chú Bảy Ân chẳng những trở thành Thần Y vùng U Minh Thượng chuyên trị rắn độc và là thầy thuốc Nam vang danh cả vùng U Minh Hạ, chú cứu sống không biết nhiêu mạng người ở vùng nầy; vì vậy, bác Ba xin từ giã dưỡng phụ trở về quê nội sinh sống ở đây, rồi lập gia đình tại vùng Đồng Tháp Mười, như cháu đã biết rồi đó!”
– “Còn thằng Tẻo?” Bền hỏi.
– “Còn cháu Tẻo là con trai út của chị Thủy, Tẻo bây giờ là truyền nhân của bác Ba. Tẻo nó sáng dạ lắm!” bác Ba Tỵ nói. “Cách đây 2 năm, chú Bảy Ân qua đời ở tuổi 96, bác Ba có về Kiên An thọ tang, Tẻo xin mẹ theo cậu Ba về Đồng Tháp Mười học nghề thuốc chuyên trị rắn độc cắn.”
– “Nếu không thằng Tẻo cứu cháu kịp thời để chờ bác Ba về, chắc cháu đã ngủm cù đeo rồi.” Bền nói. “Cháu có một điều tâm nguyện là sau khi giúp bác Hai Bảnh diệt trừ ác thú tại Thất Sơn. Nếu cháu còn có dịp trở lại Đồng Tháp Mười, nhờ bác Ba đưa cháu đi viếng miếu thờ ngài Thiên Hộ Dương.”
– “Chuyện nầy dễ thôi mà cháu!”bác Ba Tỵ nói.
****
Ngoài trời cơn mưa đã tạnh từ lâu, Bền cảm thấy trong người dễ chịu và buồn ngủ, ngáp dài mấy cái. Bác Ba thấy vậy, nói:
– “Thôi, bác Ba cũng đi ngủ đây, sáng mai sẽ có nhiều việc phải làm đó!”
Bền ngủ thiếp đi lúc nào cũng không hay cho tới khi có tiếng đập cánh cửa ầm ầm làm tất cả mọi người trong nhà thức giấc. Thằng Tẻo nhanh chóng thức dậy đầu tiên, chạy ra mở cửa thằng Nhản. Thằng Nhãn ở làng bên kia con rạch, cõng thằng Quít trên lưng chạy sòng sọc vào nhà, đở thằng Quít ngồi trên ghế. Thằng Tẻo thấy vậy, hỏi:
– “Xảy ra chuyện gì vậy, Nhản?” Không đợi bạn trả lời, Tẻo hỏi tiếp.”Chắc đi soi ếch bị rắn cắn rồi, phải không Nhản.”
– “Chắc là như vậy rồi,” Nhãn nói. “Tao với nó đang đi soi ếch gần cái đìa cạn, bỗng nghe nó hét lên một tiếng thiệt lớn, tao bèn chạy tới thấy nó nằm xỉu dưới đất, tao biết ngay thằng Quít bị rắn cắn, liền cõng nó xuống xuồng, đưa nó về đây, nhờ bác Ba chữa cứu nó.”
Tẻo nói:
– “Đâu để tao coi thằng Quít bị rắn cắn chỗ nào vậy,”
Ngay lúc đó thằng Quít mở mắt ra, nói:
– “Tao bị rắn cánh ở cườm tay mặt. Lúc tao vừa phóng chĩa xuống bụi cỏ lát để đâm một con ếch bà, bự tổ chảng; thình lình, một con rắn gì tao biết, từ dưới nước phóng lên mổ trúng chườm tay, tao sợ quá ngã xuống đất xỉu tại chỗ.”
Tẻo nhìn vết thương trên cườm tay thằng Quít, nói:
– “Không phải là rắn độc, có thể là rắn nước,” Tẻo cười, chọc quê. “Mầy nhát như thỏ đế mà cũng bày đặt đi soi ếch.”
Thằng Nhãn cũng cười toe tét, nói:
– “Nó sợ đến té đái chèm nhẹm trên lưng của tao, bốc mùi khai ngấy mà sao mầy biết nó bị rắn không nọc độc cắn?”
– “Người bị rắn độc mổ như rắn hổ chẳng hạn, thường để lại hai vết răn nanh, cách nhau độ một, hai phân tây để nhả nọc độc, thấy đễ biết lắm!” Tẻo nói. “Để tao đi lấy thuốc cho nó.”
Sau khi xức thuốc cho thằng Quít xong, Tẻo đưa cho thằng Quít một trái mù u nói:
– “Nếu ngày mai, vết thương bị rắn cắn còn đau nhức hay làm độc thì lấy thuốc đựng trong trái mù u nầy mà bôi vào vài ba lần sẽ khỏi.”
Thằng Quít hỏi đùa:
– “Còn thuốc uống đâu?”
– “Chỉ có rượu đế thôi!” Tẻo hỏi. “Mầy muốn uống không hả, thằng quỉ?”
– “Mầy nói tới rượu đế tao mới nhớ, còn chút xíu nữa tao quên,” Nhãn nói. “Tao có mồi nhậu để dưới xuồng, để tao chạy đi lấy, biếu bác Ba nhâm nhi giải sầu. Chờ tao một chút xíu nghen, Tẻo.”
Nhãn chạy ù xuống đang cắm sào dưới con rạch, lấy một xâu ếch bốn con bự tổ chảng nái, chạy trở lên đưa cho Tẻo, nói:
– “Tối nay, tao soi được chục con ếch bà tổ bà nái, tao biếu bác Ba với mầy 4 con.”
– “Bốn con ếch nầy làm món ếch xào lăng với nước đừa, ăn chắc đã lắm! Mầy chờ tao chút, tao cũng có vài con cá trê vàng cho mầy đây.” Tẻo nói. “Ếch đi, cá trê lại mới toại lòng nhau, phải không Nhãn?”.
Tẻo chạy xuống nhà bếp, lựa 6 con cá trê vàng bự nhứt, xỏ xâu rồi đêm lên nhà đưa cho Nhãn nói:
– “Tao tặng mầy và thằng Quít, mỗi đứa ba con cá trê.”
Quít hỏi:
– “Mấy con cá trê nầy làm món gì ăn đây, anh Tẻo?”
– “Mầy khờ quá đi, Quít! Cá trê nướng lửa than, chấm với nước mắm gừng hoặc cá trê kho tộ là ăn với cơm mệt nghỉ,”
Thấy trời sắp sửa rạng đông, Nhãn nói.
– “Thôi, tụi tao đi về nhà đây. Cho tao gởi lời thăm bác Ba nghen!”
CHƯƠNG MƯỜI CHÍN
NGƯỜI CHĂN VỊT ĐỒNG XA
Sau khi uống cạn chén thuốc của bác Ba, Bền chui vào mùng đánh một giấc tới sáng bét mới mở bừng mắt dậy, nhìn quanh chỉ thấy bác Ba đang ngồi trên bàn ăn, còn thằng Tư Kê và Tẻo biến đi đằng nào không biết. Thấy Bền thức dậy, bác Ba nói:
-“Thức dậy rồi hả? Đi rửa mặt, ngồi ăn sáng với bác Ba!”
-“Thằng Tư Kê, nó đi đâu rồi bác Ba?” Bền hỏi.
-“Thằng Tẻo dẫn Tư Kê đi vô miệt rừng tràm hồi hừng đông, kiếm chút rau cỏ rồi. Chắc chúng nó cũng sắp về tới nơi.”
Rửa mặt xong, Bền ngồi vào bàn ăn đã thấy một tô cháo trắng còn nóng hổi, bốc khói thơm phức và mấy cái hột vịt muối chẻ làm đôi, tròng đỏ vàng ươm tươm dầu, Bền nói:
-“Bác Ba chu đáo quá, cháu cám ơn bác!”
-“Cánh tay của cháu còn đau nhức không?” bác Ba Tỵ hỏi.
Bền làm vài động tác thông thường, vui mừng, nói:
-“Con không còn cảm thấy đau nhức chút nào cả, có thể múa côn, đánh quyền được rồi đó bác.”
-“Ngày mai, cháu có thể đi về nhà được rồi!” bác Ba Tỵ nói. “Ăn cháo xong, đi với bác ra ngoài lều chăn vịt của chú Năm gần khu rừng tràm, bác Ba thăm chú ấy một lát nghe!”
Bền vừa húp cháo nóng, hỏi:
-“Chú Năm là ai vậy, bác Ba?”
-“Chú Năm là bạn già tri kỷ của bác Ba. Lều chăn vịt của chú Năm, trước kia là phần đất vô chủ, chú ra công khẩn hoang. Chỗ chú Năm ở cách nhà bác Ba cả chục sào đất, nếu cuốc bộ một lát là tới nơi.” Bác Ba nói.
-“Cháo nóng ăn với hột vịt muối ngon quá xá nghen, bác Ba!” ăn xong tô cháo, Bền khen, rồi hỏi. “Bao giờ bác cháu mình đi thăm chú Năm hả, bác Ba?”
-“Đi liền bây giờ, vừa đi, vừa nói chuyện, kẻo chú Năm đi khỏi là bác cháu mình không gặp,” bác Ba nói. “Có cái xuồng ba lá của bác cắm sào bên cái lạch nước gần đây, mình chống sào đi sẽ nhanh hơn.”
-“Để cháu chống sào cho bác Ba,” Bền nói. “Cánh tay của cháu hết đau nhức rồi!”
-“Ừ vậy cũng được!” bác Ba nói. “Cái lều của chú Năm nằm bên phải cái lạch nước, ngoài ra không có cái lều nào khác. Ở vùng nầy, chỉ có chú Năm là người duy nhất sống về cái nghề chăn vịt đồng xa, mặc dầu cái nghề nầy sanh lợi khá lắm đó cháu.”
-“Sao vậy bác Ba?” Bền hỏi.
-“Cái nghề nầy sống giữa đồng không mông quạnh, chỉ bầu bạn với bầy vịt,” bác Ba Tỵ nói. “Vùng Đồng Tháp Mười nầy, rắn độc nhiều vô số, đi chăn vịt dễ bị rắn mổ lắm!”
Tới cái lạch nước, chờ cho bác Ba ngồi vững trên xuồng, Bền nhổ sào chống đi ào ào vô trong sâu, bác Ba nói:
-“Cái lạch nước nầy ăn thông với con rạch Long Khốt, rộng chưa tới 4 thước, tuy không sâu lắm mà tôm cá có rất nhiều; thỉnh thoảng, bác Ba với thằng Tẻo ra đây kéo lưới, tôm cá bắt ăn mấy ngày không hết!”
Gần một tiếng đồng hồ sau, cái lều chăn vịt của chú Năm hiện ra trước mặt nằm bên phải cái lạch nước. Bác Ba nói:
-“Cháu thấy cái chòi dơi cao nghệu gần khu rừng tràm không? Đó là chòi dơi của bác Ba đó! Coi vậy, từ đó tới cái lều chăn vịt của chú Năm, băng đường đồng cũng cả cây số.”
Chú Năm đang sửa cái chuồng vịt đằng sau nhà, nghe có tiếng chó sủa rân, lật đật bỏ mấy khúc tràm xuống nước, leo lên bờ, đi ra ngoài cửa đón khách. Thấy anh Ba Tỵ tới thăm, mừng lắm, hỏi:
-“Chà, ngọn gió nào đưa anh Ba tới lều chăn vịt, thăm tui sớm vậy cà?” chú Năm nhìn Bền, hỏi. “Cháu nầy là ai vậy, anh Ba?”
-“À, anh Ba quên nói với chú, đây là cháu Bền, dưỡng tử của chú Hai Rồng đó mà.”
-“Có phải anh Hai Rồng, người vừa đánh bại cao thủ Thạch Sum vừa qua không?” chú Năm hỏi.
-“Đúng như vậy đó!” bác Ba nói.
-“Thú thiệt với cháu Bền nghen, tôi rất ngưỡng mộ chú Hai Rồng, tiếc rằng chưa gặp mặt chú Hai,” chú Năm quay sang bác Ba, hỏi. “Sao, anh Ba biết cháu Bền mà dẫn tới đây thăm tui vậy?”
Bác Ba cười, nói:
-“Sáng hôm qua, thằng Tư Kê, con của anh Chín Dậu, rủ cháu Bền đi dỡ một miệng chà lu trên con rạch; rủi ro, cháu Bền bị con rắn chàm quạp mổ trúng cánh tay. Nhờ chở tới anh Ba kịp lúc nên cháu Bền thoát chết vì nọc độc của rắn chàm quạp. Nhơn tiện, anh Ba đưa cháu Bền tới đây thăm chú cho biết.”
Thấy người khách lạ hai con chó xoáy gầm gừ, muốn tấn công Bền. Chú Năm quát:
-“Vô nhà! Khách quen mà!” chú Năm nói. “Hai con chó xoáy giống Phú Quốc nầy trợ giúp chú Năm trong việc chăn vịt đồng xa đắc lực lắm! Thôi, mời anh Ba và cháu Bền vào nhà nói chuyện chơi!”
Hai con chó nghe chủ quát, cả hai rủ nhau chạy vô phía rừng tràm săn mồi.
***
Căn nhà của chú Năm gọi là lều hay chòi gì cũng được, vì nó đơn sơ rất dễ thương như con người mộc mạc của chú Năm. Trải qua hai mùa mưa nắng, lúc nào bác Ba cũng thấy chú Năm ở trần trùn trục, mặc mỗi cái quần đùi mà vẫn khỏe mạnh vào cái tuổi xấp xỉ lục tuần, dù cuộc đời lắm phong sương cùng bầy vịt chạy đồng xa.
Căn nhà vách và mái lợp bằng lá dừa nước, nền nhà bằng đất nện, nửa nằm trên bờ, nửa kia nằm trên cái lạch nước, sàn lợp ván dựng trên những cọc tràm, cọc đước. Trong căn nhà bày biện thật đơn giản, một cái chõng tre ọp ẹp trải chiếu bông, kê dưới cừa sổ vừa là chỗ ngủ, chỗ ăn và chỗ tiếp khách, một cây đờn cò treo trên vách lá, một cái kệ nhỏ với vài chai rượu rắn nguyên con ngâm thuốc và một chồng sách cũ đủ loại, có cả sách Tây và truyện Tàu.
Sàn nước sau nhà có kê một cái bàn gỗ tạp, vừa đủ chỗ kê hai cái cà ràng dùng để nấu nướng, dưới bàn chất củi đước, củi tràm, vỏ dừa.. Cái lạch nước được vét rộng ra, chuồng vịt hình chữ nhựt bằng tre tầm vông và cây tràm bện lại, nhô lên khỏi mặt nước chừng 2 thước, bề dài khoảng 30 thước có cánh cửa kéo lên, sập xuống để lùa vịt ra vô, còn bề ngang chừng 10 thước. Trong và ngoài vuông rào nầy, cỏ lát được dọn sạch để cái lạch nước chảy thông thương cho vịt tung tăng bơi lội thoải mái, chóng lớn và một chiếc xuồng ba lá dùng để lùa vịt, đang cắm sào bên cạnh cây cầu ván.
-“Giấc mơ của người vào vùng hoang sơ nầy, khẩn hoang lập ấp, tạo dựng nhà cửa, ruộng vườn, chớ không ai như chú Năm, bỏ vợ buôn bán một mình ở chợ Mộc Hóa, rồi chạy nơi khỉ ho cò gáy để chăn vịt chạy đồng,” bác Ba Tỵ trách chú Năm, rồi đề nghị. “Cậu Hai Bảnh đã tuyên bố sẽ trả đất cho tá điền làm chủ phần đất của mình. Chú cũng nên yêu cầu cấp cho vài mẫu ruộng để dưỡng già với thím Năm, chú nghĩ sao?”
-“Miếng đất nầy do tôi khẩn hoang đã thành khoảnh đủ để nuôi vịt chạy đồng xa, huê lợi cũng đủ nuôi sống cho cả gia đình, còn làm ruộng cày, bừa, cấy, gặt chưn lấm, tay bùn suốt ngày trên đồng ruộng, cực nhọc hơn nghề nuôi vịt nhiều,” chú Năm cười, nói đùa. “Còn anh Ba cũng chạy vô đây; vất vả với cái chòi dơi có hơn gì tui đâu, anh Ba?”
-“Hoàn cảnh của tui khác, chú khác! Nuôi dơi lấy phân là nghề phụ, làm thầy thuốc cứu người mới là nghề chánh. Nhờ trời ưu đãi, ban cho vùng Đồng Tháp nhiều tôm, cá, rùa, ếch… làm chơi ăn thiệt, cuộc sống cũng dễ dãi, đúng không?” bác Ba Tỵ quay sang Bền nói. “Cháu ở nhà nói chuyện với chú Năm, bác Ba chống xuồng vô thăm chòi dơi một chút. Khoảng một tiếng sau, bác Ba trở lại đây đón cháu nghe!”
-“Ngồi chưa nóng đít đã bỏ đi vậy, cha nội!” chú Năm nói.
Căn nhà chỉ còn lại hai người, một già một trẻ trao đổi vài kinh nghiệm sinh sống trong vùng đất trũng Đồng Tháp Mười. Bền hỏi:
-“Cháu nghe dân gian họ nói như vầy: “Muốn giàu đào ao nuôi cá, muốn khá làm chuồng nuôi heo, muốn nghèo nuôi gà, nuôi vịt” biết có đúng không, chú Năm?” Bền nói. “Cháu thấy cái nghề chăn vịt chạy đồng xa, giữa đồng không mông quạnh, sống cô độc một mình buồn thấy mồ.”
Chú Năm nghe Bền hỏi, cười ngất, nói:
-“Trước hết, làm nghề gì muốn giàu phải có thời mới được. Đào ao nuôi cá mà một bầy rái cá lọt vào quậy là sạt nghiệp. Còn nuôi vịt, chẳng may, gặp một luồng gió độc thổi qua, bầy vịt bị dịch chết như rạ, chỉ còn có nước đem chôn hết, nghèo là như vậy. Chớ nuôi vịt chạy đồng cũng là nghề khá giã không kém nuôi heo, nuôi cá đâu. Nuôi vịt cực hơn một chút, nhứt là nghề nuôi vịt chạy đồng xa. Gọi là nuôi “vịt chạy đồng” là nuôi thả vịt ăn rông trên các cánh đồng vừa mới gặt xong, để bầy vịt ăn hết lúa rụng dưới đất,” chú Năm nói. “Còn buồn thì không buồn đâu, mỗi tối chú chông ngọn đèn dầu đọc sách, nghiền ngẫm mấy bộ truyện tàu. Nhiều đêm, chú Năm bình luận với anh Ba về những nhân vật trong “Tam Quốc Chí” tới nửa khuya mà không chán.”
-“Làm sao biết lúc nào vịt ăn no hoặc đói hả, chú Năm?” Bền hỏi.
-“Dễ ợt! Sau khi lùa vịt về chuồng; nửa đêm, nó bỗng nỗi chứng kêu ầm lên, nhốn nháo cả chuồng, bắt vài con rờ thử cái bầu diều mà thấy lép xẹp là biết chúng đói ăn, phải cho chúng ăn lúa dự trữ ngay. Nuôi vịt thả đồng có hai loại: loại vịt thịt và vịt đẻ trứng. Vịt thịt nuôi khoảng 3, 4 tháng là mối lái tới mua hết cả bầy, còn vịt đẻ trứng mua ở các lò ấp về nuôi khoảng 6 hoặc 7 tháng thì đẻ trứng. Vịt trứng thường đẻ ban đêm, nhiều con đẻ rớt trên đồng, phải cho nó ăn no mới đẻ sai,” chú Năm nói. “Cái nghề nuôi vịt chạy đồng là cái nghề cha truyền con nối, lao đầu vào cái nghề nầy để mưu sinh cũng ba chìm bảy nổi, chín cái long đong.”
-“Quê chú Năm ở đâu vậy?” Bền hỏi.
-“Quê chú Năm ở Hà Tiên, tỉnh Rạch Giá. Từ nhỏ tới lớn chú sống với tía ở một làng chài trong xóm Bãi Dâu. Vì chú Năm mồ côi mẹ sớm, nên tía bỏ nghề đi biển, vì đi biển nguy hiểm lắm. Tía thường nói: “đời ngư phủ cũng như danh tướng mấy ai hứa sống đến bạc đầu”. Ngư dân phải đối mặt thường xuyên với giông bão, bọn cướp biển và cả rắn biển. Tía của chú quyết định bỏ nghề đi biển, sống trên đất liền, sinh nhai bằng nghề làm cá khô, làm nước mắm, ai mướn gì làm nấy để có tiền dành dụm cho chú Năm lên tỉnh Rạch Giá ăn học,” chú Năm hồi tưởng lại chuyện cũ, tiếp. “Dĩ nhiên, làm mướn rất vất vả mà không đủ sống. Thấy tía sống cực khổ quá, chú đành phải bỏ học trở về làng chài ở Bãi Dâu làm nghề “gõ đầu trẻ” một thời gian. Khi chú trưởng thành, tía nghe lời một người bạn ở Núi Sập, tỉnh Long Xuyên, khuyên về đó nuôi vịt thả đồng, làm chơi ăn thiệt, còn có cơ hội phất lên lại đỡ vất vả, không phải khuân vác nặng nhọc hay dầm mưa dãi nắng, bán lưng cho trời suốt ngày trên ruộng đồng. Gia tài của hai cha con là con chó xoáy Phú Quốc trôi giạt ở trên biển, tấp vô xóm Bãi Dâu, được tía cứu sống mang về nhà nuôi nấng và cây đờn cò, kỷ vật còn lại của tía, chú máng trên vách lá, cháu thấy đó.”
Bền nói:
-“Hồi đó, cháu có theo tía má tới vùng nầy mấy lần, khu vực chung quanh Núi Sập là đồng ruộng bát ngát. Núi thấp có nhiều con đường mòn đi lên núi và có nhiều cây cổ thụ. Dịp cháu đến, mới xong mùa gặt, mùi gốc rạ mới cắt còn thơm mùi lúa chín. Núi Sập như được đặt nằm giữa tấm đệm bằng rơm rạ bát ngát chạy thẳng tắp đến chân trời. Vào mùa nầy, cháu thấy những túp lều nho nhỏ nằm rải rác trên khắp cánh đồng và những bầy vịt đông cả vài trăm con đi lanh thang ăn lúa rụng. Bây giờ, cháu mới biết lý do tại sao, nghề nuôi vịt chạy đồng xa tại vùng nầy rất phát triển. Nhưng, tại sao chú phải di chuyển nghề nuôi vịt chạy đồng về vùng Đồng Tháp hiu quạnh, buồn tẻ như vầy?”
Chú Năm thở dài thườn thượt, nói:
-“Nhớ lại những ngày theo tía bắt đầu vô nghề chăn vịt đồng xa ở núi Sập, sướng đâu không thấy, vất vả trăm bề, cũng phơi sương, phơi nắng, dãi nắng dầm mưa bám theo bầy vịt cũng đuối lắm. Từ tờ mờ sáng, hai tía con ăn qua loa vài chén cơm nguội dưa mắm, uống vài tách trà nóng cho ấm lòng, vận cái quần xà lỏn, cái áo bà ba, mỗi người cầm cây sào tre vừa để chống xuồng, vừa để lùa vịt ra đồng. Vịt thường đi thành bầy, nhưng cũng có con giở chứng tách bầy, chạy tùm lum hoặc đi lạc, nhưng nhờ con chó xoáy Phú Quốc giúp rất đắc lực, lùa những con vịt kiếm ăn lang thang trở lại bầy. Chăn vịt lời thì lời khẳm, còn chẳng may một cơn gió độc thổi qua làm cả bầy vịt bị “trúng gió”, chết sắp lớp trong chuồng cũng trắng tay. Vì vậy, muốn nuôi gà, vịt làm giàu phải có thời mới phất lên được, không thì trắng tay.”
Bền nói:
-“Hồi đi theo ghe thương hồ, cháu thấy người ta thả vịt lội dọc theo bờ sông, kinh rạch để bầy vịt ăn rông. Có những con vịt lạc bầy, nhập bọn với bầy vịt gần đó của chủ khác, khiến hai bên cãi vã nhau dữ lắm, đôi khi ấu đả với nhau cũng chỉ vì mấy con vịt lạc bầy.”
-“Đúng vậy đó, muốn tránh cãi vã lôi thôi vì những con vịt lạc bầy, chú Năm phải điểm dấu sơn màu lên mình của mỗi con vịt, rất dễ nhận lại khi nó nhập bầy với bầy vịt của người khác,” chú Năm nhớ lại hình ảnh của tía hồi đó, nói. “Những ngày đầu vừa mới tới vùng nầy, tía nhờ người bạn giúp vốn mua vịt con, lúa dự trữ và dựng một căn nhà lá bên dòng kinh Chắc Cà Đao, cách chưn Núi Sập khá xa. Khu vực nằm giữa con kinh Chắc Cà Đao và con kinh Rạch Sỏi đi Vàm Cống là đồng lúa phì nhiêu, rộng thẳng cánh cò bay, chó chạy le lưỡi cong đuôi là một nơi lý tưởng để nuôi vịt chạy đồng sau mỗi mùa gặt. Vụ đầu tiên, tía nuôi trên 1.000 con vịt thịt và 500 vịt trứng, bầu diều no lúa, vịt lớn như thổi nhưng cực lắm. Những ngày mưa tầm tã, gió lạnh thổi qua cách đồng vắng, không một người ra đồng vào lúc mưa gió như thế nầy. Chú chống một xuồng, tía đã có tuổi mà cũng chống một xuồng lo chăn vịt chạy đồng giữa lúc trời mưa trắng đồng, tiếng vịt gọi bầy xao xác lẫn tiếng ếch nhái kêu dậy đồng. Nhìn dáng tía đứng trên xuồng chống sào, lùa bầy vịt một quãng đồng thật xa để về chuồng trước khi trời chạng vạng, thấy tía tội nghiệp lắm! Vì vậy, chú Năm cất một cái chòi chăn vịt trên một cái gò đất, nằm chơi vơi giữa cánh đồng ngập nước gần ấp Tây Lân, cách kinh Bốn Tổng vài trăm thước để tía nghĩ ngơi lấy sức, ngày hôm sau lùa vịt về nhà sớm đỡ vất vả. Tối đến, chú Năm và con chó canh chừng bầy vịt.”
-“Bộ chú Năm không sợ ma hả?” Bền cười, hỏi.
-“Ma thì chú không sợ mà chỉ sợ bọn ăn trộm vịt, con chó đã phát hiện trước sau bốn vụ trộm. Nửa đêm, vừa lim dim đôi mắt, chợt nghe lũ vịt trong chuồng kêu rộ lên, nhốn nháo là hai cha con ngồi bật dậy, đốt đuốc bước ra lều quan sát động tĩnh,” chú Năm nói. “Vào những buổi chiều chạng vạng, mưa rỉ rả, tía nhớ quê nhà không ngủ được, chú Năm bắt ấm nước trà cho tía nhâm nhi, rồi ngồi co ro trong chòi nghe tía kéo đờn cò. Tiếng đờn cò trong đêm mưa gió buồn thúi ruột, thúi gan làm chú Năm nhớ cô Yến, con ông cai tổng Hoành quá trời! Tía định sau vài lứa vịt, để dành tiền trả nợ xong sẽ làm lễ dạm hỏi cô Yến cho chú. Nghe tía nói, ông cai tổng Hoành cũng đã đồng ý gả cô Yến cho chú Năm. Nhưng mà, trời không chìu lòng người!”
-“Sao vậy chú Năm?” Bền tò mò, hỏi.
Chú Năm giọng buồn buồn, nói:
-“Những năm đầu, hai cha con chú gặp vận may, nghề chăn vịt phất lên như diều gặp gió, chỉ vài ba tháng là vịt lớn như thổi, vốn một lời hơn chục lần. Tía trả nợ xong, mua đất cất nhà, chuẩn bị cưới vợ cho chú Năm. Nhưng, những năm kế tiếp thì thất bại ê chề, nuôi vịt lứa nào bị dịch chết hết lứa đó. Ngũ một đêm thức dậy, thấy bầy cả ngàn con chết nằm sắp lớp trong chuồng. Vụ cuối cùng, tía buộc phải vay nợ thêm mua lúa dự trữ và mua gần hai ngàn con vịt mong gỡ gạc lại vốn đã mất. Chỉ còn một tháng nửa là mối lái từ Long Xuyên xuống mua hết bầy vịt chở đi. Nhưng, vài ngày sau đó, trong một đêm mưa gió, cả nhà ngủ say, vịt xổng chuồng, bơi ra kinh Chắc Cà Đao theo dòng nước ra sông Hậu Giang. Sáng thức dậy, thấy chuồng vịt trống trơn không còn một con, tía buồn quá sinh bệnh, rồi qua đời. Chú Năm bán hết nhà cửa trả nợ cho tía. Chú trắng tay, ông cai tổng Hoành nuốt lời, không gả cô Yến cho chú Năm. Sau khi an táng cha già dưới chưn núi Sập, chừng một tháng sau, con chó cũng bỏ ăn rồi chết theo chủ. Chú Năm lìa bỏ nơi đó về Mộc Hóa, kế đó chú gặp thím rồi mở cái tiệm chạp phô nho nhỏ, buôn bán không đủ sống để nuôi hai mặt con. Nhớ nghề chăn vịt đồng xa, chú vào vùng Đồng Tháp Mười thử thời vận, cho đến bây giờ là hơn chục năm rồi.”
-“Sao, chú Năm thấy nuôi vịt chạy đồng ở Đồng Tháp Mười, có thuận lợi cho chú hơn không?” Bền hỏi.
-“Theo chú Năm thấy, nuôi vịt chạy đồng vùng nầy rất thuận lợi, một mình, một chợ không ai cạnh tranh; hơn nữa, trong đồng có nhiều đám lúa ma, mỗi đám rộng vài công tới cả mẫu, hột lúa chín rụng xuống đất không hư thối, tới mùa sau lại mọc thành đám khác mà còn mọc lan rộng ra thêm cho bầy vịt tha hồ ăn no nứt bầu diều. Đây là giống lúa ma trời cho, chỉ vùng nầy mới có, hột lúa tuy nhỏ, hơi đỏ, nấu chín để nguội ăn hơi cứng, hột cơm có vị ngọt. Nhưng, cũng có rất nhiều bất tiện nên không có ai dám vô vùng nầy nuôi vịt chạy đồng như chú Năm, vì vùng nầy có rất nhiều loại rắn độc như rắn hổ mang, mái gầm, chàm quạp?chú Năm cũng bị rắn mổ mấy lần, nếu không nhờ bác Ba cứu kịp thời, chắc chú Năm cũng hui nhị tỳ từ lâu.”
-“Theo cháu thấy, bác Ba nói vậy mà đúng đó! Chú nói với bác Hai Bảnh cấp cho gia đình chú vài ba mẫu đất, trồng cây ăn trái, vài ba năm sau là có huê lợi dưỡng già có hơn không? Chú Năm nên nghĩ lại coi!” Bền nói.
-“Chú cũng đang suy nghĩ tới vấn đề nầy, nghe cũng có lý. Nhưng, chú chỉ sợ thím không chịu thôi! Vô đây tiếp tế gạo, muối, nước mở, dầu?rồi ở chơi với chú được vài ngày, nghe tiếng bầy vịt kêu cạp cạp suốt ngày, mùi hôi lông vịt là than nhức đầu, chịu không nỗi, còn chú thì khác,” chú Năm cười giòn, nói. “Mối lái từ Long Xuyên xuống đây mấy ngày trước, chở hết bầy vịt đi rồi. Vắng tiếng bầy vịt kêu, chú thấy hơi buồn buồn, nhớ tụi nó, ăn cơm cũng không vô!”
***
Vừa lúc đó, hai con chó đi săn mồi, sục sạo trong rừng tràm chạy về. Một con ngoạm trong miệng một con rắn hổ mang, bự bằng bắp tay dài cả 2 thước, nó tha về bỏ dưới chưn của chú Năm, con rắn bị cắn gẫy cổ và cột sống, nằm ngo ngoe dưới dất. Chú Năm nắm cổ con rắn lên xem, rồi nói:
-“Miệng con rắn hổ mang nầy quá nhỏ mà ngoạm con mồi là con chuột cống nhum quá lớn so với cái miệng của nó, nuốt con mồi vô không được, nhả ra cũng không xong nên khi bị hai con chó tấn công đành chịu chết, bất lực không thể chống cự được,” chú Năm nói. “Con rắn nầy chết, nó dạy cho chúng ta một bài học kinh nghiệm ở đời là “quan dĩnh tự cầu khẩu thực”, có nghĩa phải đo miệng mà nuốt mồi; cho dầu, nó nuốt được con chuột cống nhum nầy, chính lúc đó, con rắn hổ nầy trở nên yếu nhứt vì con mồi trong bụng chưa tiêu hóa được. Còn thái độ con hổ ngược lại, “hổ thị trầm trầm, kỳ dục trục trục”, nghĩa là con hổ đăm đăm nhìn con mồi, thèm khát lên đến cực độ, để tự lượng sức mình vồ con mồi nầy được hay không? Nếu con mồi quá lớn mạnh như con voi thì lẳng lặng bỏ đi.”
Bền nhìn hai con chó của chú Năm, rồi tò mò, hỏi:
-“Hai con chó nầy thuộc giống gì mà có bộ lông màu vàng rất mượt, ôm sát thân mình giống như chó phèn. Nhưng, trên lưng đều có xoáy mà dãy lông mọc ngược chiều so với phần lông trên lưng vậy, chú Năm?”
-“Hai con chó nầy thuộc giống chó xoáy Phú Quốc, những cái xoáy lưng bí ẩn trên lưng chó Phú Quốc là đặc điểm riêng của giống chó nầy, cho tới nay, không ai giải thích nỗi. Cái xoáy lưng là tiêu chuẩn để đánh giá khả năng của nó, thích hợp cho việc dùng để giữ nhà hay dùng để đi săn. Các xoáy lưng thường bắt đầu từ vai tới mông hoặc từ vai tới hông. Ngoài ra, có những xoáy lạ nằm ở hai bên cổ, sau mông,” chú Năm nói. “Cách đây hai năm, nhân dịp bốc mộ của tía dưới chưn núi Sập đưa về an táng tại làng chài ở xóm Bãi Dâu, chú Năm quá giang ghe đánh cá tới đảo Phú Quốc thăm gia đình bác Hai Quyền, chú được biết là giống chó xoáy Phú Quốc là giống chó bản địa, nguồn gốc là chó rừng sống hoang dã trên đảo. Chúng đào hang khi sanh nở, khi chó con mới sanh ra đều nằm trong cái bọc, nếu con nào cựa quậy mạnh thì chó mẹ sẽ cắn bọc cho chui ra; nếu chó con nào yếu thì chó mẹ sẽ giết ngay. Chính vấn đề nầy đã giúp giống chó rừng Phú Quốc có khả năng sinh tồn, chống chọi với thiên nhiên rất cao. Một khi được dân sống trên đảo thuần dưỡng, nó đã nhanh chóng thích ứng với điều kiện sống bên cạnh con người. Một khi đã trở thành chó nhà, chó xoáy Phú Quốc rất tinh khôn, thành thạo đi săn heo rừng, săn nai, tấn công cả rắn độc để cứu chủ.”
-“Ngoài biệt tài đó ra, chó Phú Quốc còn có biệt tài nào khác hay không, chú Năm?” Bền hỏi.
Chú Năm huýt sáo, vỗ tay trên đùi mấy cái, con chó hiểu ý, chống hai chân trước lên đùi của chú Năm, chú cầm mấy ngón chưn của nó xòe ra, chỉ cho Bền, nói:
-“Mấy ngón chưn của nó được nối liền với nhau bằng một miếng da, giống cái màng cẳng vịt,” chú Năm nói. “Những gia đình ngư dân sống trên ghe thuyền ở đảo Phú Quốc, có con nhỏ thường nuôi một, hai con chó để trông chừng. Nhờ khả năng bơi lội rất giỏi, nó đã cứu nhiều trẻ em rơi xuống biển bằng cách cắn cổ áo của nạn nhân lôi vô ghe hay vô bờ. Nhưng, lòng trung thành và tính can đảm của loại chó Phú Quốc đã trở thành những huyền thoại được dân chúng lưu truyền trên đảo.”
-“Chú Năm có thể kể cho cháu nghe vài câu chuyện được không?” Bền hỏi.
-“Chuyện nầy xảy ra ở Bãi Khem, đây là bãi biển cát trắng mịn và có những gềnh đá nhấp nhô rất đẹp nằm cách thị trấn Dương Đông khoảng 25 cây số, phía xa xa trên Bãi Khem là khu rừng già chưa ai khai khẩn với nhiều gỗ quý giá và dã thú,” chú Năm kể. “Có một gia đình ngư phủ tên Dương, sống với vợ, hai đứa con trai và có nuôi một con chó xoáy Phú Quốc. Một hôm, ông ta cùng hai người con lên núi đốn gỗ về cất lại căn nhà của họ ở Bãi Khem. Trên đường vác gỗ về nhà, khi lội băng ngang qua một con suối, ông Dương bắt gặp 20 trứng màu trắng ngà trong một hốc cây cổ thụ mà mấy người ôm chưa giáp vòng. Tưởng là trứng gà rừng, ông ta hốt hết đem về nhà. Tối hôm đó, cha con chồng vợ đang quây quần bên mâm cơm chiều thưởng thức mấy quả trứng gà rừng luộc chín; bỗng thình lình, một con rắn hổ mang chúa dài khoảng 3 thước, từ ngoài cửa phóng ào vô nhà tấn công, làm mọi người quăng chén đũa chạy tán loạn, may nhờ con chó xoáy Phú Quốc phóng ra liều chết cứu chủ. Lúc đó, mọi người mới hoàn hồn, dùng cuốc, xẻng, gây gộc xúm nhau ví đập nó, làm con rắn hổ mang chúa phóng ra cửa chạy mất. Qua tối hôm sau, con rắn hổ mang chúa bò vô nhà lúc nào không hay. Sáng ra, cả nhà phát hiện ra đứa con trai lớn, nằm ngủ trên cái chõng tre bị rắn cắn chết lúc nào không một ai hay biết.”
-“Con chó xoáy Phú Quốc lúc đó ở đâu?” Bền ngắt lời, hỏi.
-“Có lẽ lúc đó, nó đang đi săn mồi ở đâu đó trong khu rừng. Sau khi mai táng cho đứa con trai xong, con chó xoáy Phú Quốc biến đi đâu mất, không thấy trở về nhà nữa. Ít lâu sau, ông Dương mới tìm thấy xác con chó xoáy của mình, chết bên cạnh xác con rắn hổ mang chúa gần gốc cây cổ thụ. Con rắn hổ bị con chó xoáy Phú Quốc cắn gẫy cổ, còn con chó xoáy bị nhiều vết mổ ở đầu, ở đùi, nó chết vì nọc độc của rắn,” chú Năm nói. “Câu chuyện nầy được đồng bào quanh vùng truyền tụng về lòng can đảm và trung thành của giống chó Phú Quốc.”
-“Hai con chó Phú Quốc nầy, chú đặt tên nó là gì vậy?” Bền hỏi.
-“Chú mua hai con chó xoáy nầy ở đảo Phú Quốc, tới nay được trên hai tuổi rồi,” chú Năm nói. “Con đực chú đặt tên “Tả”, còn con cái tên “Hữu”. Khi vịt thả chạy đồng, con Tả chanh chừng vịt chạy lạc bầy bên phải, còn con Hữu lo bên trái, khi nào thấy trứng do bầy vịt đẻ rớt trên đồng thì nó sủa lên cho chú tới lượm trứng. Hai đứa nó giúp chú đắc lực lắm, cực khổ tới mấy cũng không phàn nàn. Mấy thằng ăn trộm vịt sợ nó, còn hơn sợ cọp; vậy mà, nó chỉ chịu thua mấy thằng nhóc con, ăn trộm vịt ở ngoài rạch Long Khốt. Lúc trước, mỗi lần lùa bầy vịt ra ngoài rạch để mò cua, bắt ốc, tới buổi chiều lùa vịt về chuồng thì hao mất vài con. Hai thằng Tả, Hữu cũng “bó cẳng” luôn với tụi nhóc đó, thế mới ghê!”
Bền cũng ngạc nhiên, hỏi:
-“Mầy thằng nhóc ăn trộm vịt bằng cách nào mà ghê vậy, chú Năm?”
-“Lúc bầy vịt thả ăn rông dọc theo bờ rạch, chú và hai con chó xoáy ngồi trên xuồng, cấm sào dưới gốc cây bần tránh nắng thì bọn nhóc dùng cái tĩn nước mắm bằng đất nung nặng chình chịch, chung quanh tĩn có dây dừa bện lại dùng làm quai xách. Sau khi dùng hết nước mắm trong tĩn, bọn nhóc dùng nó để làm bẫy vịt, bằng cách đổ nước vô tĩn, vừa đủ cho nó nổi lềnh bềnh trôi theo dòng nước,” chú Năm phì cười, nói. “Một sợi câu dài chừng 3, 4 thước có móc mồi, thường là cá lòng tong hoặc cá rô non còn sống, bọn trộm cột sợi dây câu vô cái quai xách, chờ khi bầy vịt bơi trên rạch, kêu cạp cạp là thả những tĩn nước nầy xuống dòng nước. Vịt thấy cá lội như mèo thấy mở, lội tới đớp liền, ăn phải lưỡi câu, nó giằng qua, giựt lại làm cái tĩn chao nghiêng qua một bên làm nước tràn vô đầy tĩn chìm lỉm xuống nước, lôi con vịt xuống dưới đáy rạch và neo con vịt xuống đó. Chờ khi chú Năm lùa bầy vịt đi khuất dạng, bọn nhóc phăng theo sợi dây câu, kéo mấy con vịt tham ăn bị mắc bẫy lên, bỏ vô xuồng về nhà ăn nhậu với nhau.”
Vừa lúc đó, bác Ba Tỵ đi thăm chòi dơi trở về, thấy con rắn hổ mang còn ngo ngoe dưới đất, bác Ba Tỵ hỏi:
-“Con rắn hổ mang ở đâu vậy, chú Năm?”
-“Hai con chó mới đi săn trong khu rừng tràm tha về đó! Tôi chưa biết phải quăng nó đi đâu đây, anh Ba!”
Bác Ba Tỵ nói:
-“Nọc độc của con rắn hổ mang nầy thuộc hạng tối độc, nhưng mà thịt của nó lại lành, nấu nó với đậu xanh, ăn mát gan, giải độc, chiêu nầy gọi là lấy độc trị độc. Chú Năm cho tôi mang nó về nhà nấu cháo đậu xanh cho cháu Bền ăn để tẩy sạch nọc độc của rắn chàm quạp còn tồn động trong người của cháu Bền thì tốt lắm! Chỉ còn vài hôm nữa, cháu Bền phải đi theo giúp cậu Hai Bảnh lên Thất Sơn, săn hỗ dữ để giúp dân làng ở trên đó.”
-“Tôi có nghe tin đồn nầy rồi,” chú Năm nhìn Bền, hỏi. “Cháu giúp cậu Hai Bảnh lên Thất Sơn săn ác thú. Nhưng, cháu có kinh nghiệm gì về việc săn bắt mãnh hổ chưa?”
-“Dạ chưa, đây là lần đầu tiên cháu đi giúp cậu Hai Bảnh đi săn hổ dữ.” Bền nói.
-“Quê cháu ở Giang Thành, có khi nào cháu nghe nói sự tích núi “Ngũ hổ” ở Hà Tiên không?” chú Năm hỏi.
-“Cháu chỉ biết núi “Ngũ hổ” đó ở Hà Tiên, chớ cháu không sự tích của nó, tại sao có tên gọi là núi Ngũ Hổ.” Bền hỏi.
-“Thuở xa xưa, Rạch Giá có nhiều thú dữ lắm, có nhiều địa danh còn lưu lại địa phương cho tới bây giờ như: gò “Long Xà” ở kinh thứ 15 tại Tân Bằng, rạch “Thuồng Luồng”, rạch “Cà Bơ he” là rạch sấu lội từng bầy, “Vàm Trư” nơi heo rừng sống từng đàn ở đó, “Tắc Ráng” cánh đồng ráng, voi đi thành con đường mòn, “Láng Tượng” nơi voi ở thành đàn, còn “Giục Tượng” là nơi voi đến phá phách hoa màu. Núi Ngũ Hổ nằm về phía Bắc chợ Hà Tiên, các lão tiền bối ở đây kể lại rằng: Những người sống trong xóm nhà bên ven sông Hà Tiên thường tới chân núi đó để lấy nước ngọt trong một cái giếng nước gần đó để đem về nhà dùng nấu ăn, uống. Bỗng một hôm, cả xóm náo động vì có một người trong xóm đi lấy nước tới chạng vạng mà chưa thấy trở về. Anh em lực điền trong xóm tập hợp lại, đốt đuốc sáng rực một gốc trời, vừa đánh phèn la, vừa đi vừa la hét vang trời để thú dữ sợ tránh xa họ. Khi gần tới chưn núi, họ nghe tiếng bầy cọp rống vang lên rùng rợn trong đêm vắng. Họ sợ tới hồn vía lên mây, quăng đuốc, nạnh ai nấy chạy thục mạng về trong xóm. Từ đó, không còn một ai đủ can đảm, dám léo hánh tới giếng đó lấy nước ngọt nữa.”
-“Chắc bầy cọp hung dữ nầy có tới 5 con nên người ta đặt tên cho nó là núi “Ngũ Hổ, phải không, chú Năm?” Bền hỏi.
Chú Năm lắc đầu, kể tiếp:
-“Thế rồi một hôm, có một chiếc ghe bầu từ miền Trung, ghé bến Hà Tiên xin tiếp tế nước ngọt, để dự trữ trước khi vượt biển ra đảo Phú Quốc. Gặp mùa hạn hán, người trong xóm không đủ nước mưa để uống thì lấy gì để tiếp cho họ. Cuối cùng, họ phải liều mạng tới cái giếng ở dưới chưn núi để lấy nước ngọt, bất chấp lời cảnh giác của đồng bào địa phương về nạn cọp rừng hoành hành ở vùng nầy. Một thanh niên tình nguyện dùng cây thiếc côn gánh một cặp thùng thiếc đi về hướng giếng lấy nước ngọt và cho mãi tới xế chiều mà chưa thấy anh ta trở lại chiếc ghe bầu. Những người đi trên ghe bèn vầy đoàn với lực điền trong xóm đi tìm. Khi vừa đến chân núi, họ chứng kiến một cảnh tượng bi tráng. Trước mắt họ, cây cối ngả nghiêng, lông và máu cọp rải rác khắp nơi. Bốn xác cọp nằm bị đập vỡ sọ chết, nằm lăn lóc khắp nơi.”
Bền nôn nóng, ngắt lời, hỏi:
-“Còn người thanh niên võ sĩ đâu, chú Năm?”
-“Xác người thanh niên nằm ngữa trên mặt đất, chống cây thiết côn lên, chọc thủng xác con cọp rằn bự nhứt, ngọn côn xuyên suốt từ bụng lên trên lưng. Điều nầy chứng tỏ rằng, con cọp rằn chúa đàn bị trúng ngọn côn vỡ sọ. Nhưng, trước khi chết, nó dùng hết tàn lực phóng lên vồ móc họng người đã giết nó, còn người thanh niên võ sĩ kiệt sức, ông đã chống ngọn côn lên đỡ, đó là chiêu cuối cùng của đời võ sĩ để hạ ác thú,” chú Năm nói. “Người võ sĩ Bình Định đã lưu danh thiên cổ trên núi Ngũ Hổ tại Hà Tiên.”
Bền thắc mắc, hỏi:
-“Chỉ có 4 con cọp bị giết, tại sao gọi là núi Ngũ Hổ, phải gọi là núi “Tứ Hổ” mới đúng chớ, chú Năm?”
-“Dân chúng vùng Hà Tiên đã vinh danh người thanh niên võ sĩ Bình Định, có sức khỏe kinh người mạnh như mãnh hổ nên ông được tôn sùng là thần hổ; vì vậy, ngọn núi nầy có tên là Ngũ Hổ từ đó,” chú Năm nói. “Đây là một kinh nghiệm về bản chất của loài cọp dữ, trước khi chết, nó có thể vồ móc họng người thợ săn để cùng chết với nó. Phải đề cao cảnh giác, dầu thấy nó đã bị trúng đạn.”
-“Dạ, cháu sẽ ghi nhớ lời chú Năm dặn! Đây là một kinh nghiệm rất quí báu! Cám ơn chú Năm.” Bền nói.
Bác Ba Tỵ thấy mặt trời gần đứng bóng, nói:
-“Thôi, bây giờ bác cháu tui xin kiếu chú Năm về nhà, kẻo tụi nhỏ nó trông.”
-“Cám ơn chú Năm cho cháu con rắn hổ mang nầy nghe!” Bền nói.
-“Làm thịt rắn hổ có hai điều tối kỵ: tránh dùng thớt me để chặt khúc nó và khi nấu cháo đừng để bồ hóng rớt vô nồi, ăn vô có thể gây tử vong.” Chú Năm dặn.
-“Dạ, cháu nhớ rồi! Chào tạm biệt chú Năm nghen!” Bền nói.
-“Cháu Bền còn ở với anh Ba tối nay, ngày mai đi rồi. Nếu có rảnh rang, tối ra nhà anh Ba ăn cháo rắn hổ nấu với đậu xanh, bàn chuyện “Quốc sự” nghe chơi, anh Ba có một vài thắc mắc muốn hỏi chú Năm!” bác Ba Tỵ nói. “Ở vùng nầy, ngoài chú Sáu Trí ở nhà cậu Hai Bảnh ra, chú Năm là người có ăn, có học hiểu biết nhiều hơn ai hết.”
-“Anh Ba quá khen, học lực của tôi không bằng ai đâu, nhờ đọc sách nhiều để mở mang thêm sự hiểu biết. Tối nay, tôi ra nhà Ba bàn chuyện “trà dư tửu hậu”. Sáng mai, tôi sẽ về Mộc Hóa thăm vợ con vài ngày, rồi chèo ghe ra chợ Thủ Thừa mua vịt con tại mấy “lò ấp”, gầy dựng lại bầy vịt kế tiếp. Nhờ trời thương, mấy năm nay được mùa nuôi vịt chạy đồng, dành được một ít tiền cho vợ sửa lại căn nhà tươm tất.”
-“Thôi, anh Ba về nhà trước nghen! Hẹn gặp chú Năm tối nay!” bác Ba quay sang Bền nói. “Nhổ sào đi cháu!”
CÒN TIẾP