Theo Tà Áo Bay gồm nhiều tản văn nói về tà áo dài đủ mọi sắc màu đã làm thành kỹ niệm trong đời. Đầu tiên tôi mời mọi người đọc:
Thu rơi trên áo ai màu tím…
Chiều mùa thu xuống chậm chạp và uể oải trong không gian lười biếng. Nắng hanh vàng đọng trên tàng cây phong cao lá bắt đầu đổi ra màu vàng óng ánh phản chiếu ánh nắng mặt trời. Gió man mát song nhuốm đầy sự quạnh hiu và lặng lẽ của một buổi chiều thu. Nhạc từ trong nhà vẳng ra. Tôi nhận ra đó là bản Chiều Tím của nhạc sĩ Đan Thọ. ” Chiều tím chiều nhớ thương ai, người em tóc dài… Sầu trên phím đàn… tình vương không gian… Mây bay quan san, có hay? Đàn nhớ từng cánh hoa bay… vầng trăng viễn hoài… Màu xanh ước thề.. dòng sông trôi đi… Lúc chia tay còn nhớ chăng? ”. Giọng hát trữ tình và lãng mạn vọng trong buổi chiều tím, tím cả không gian mùa thu và trong lòng người xa xứ làm tôi nhớ lại thời xa xưa. 38 năm sống lạc quê hương, cộng thêm 8 năm thôi học nhưng tôi vẫn nhớ hoài tà áo dài màu tím của người con gái đã nhuộm tím hồn mình, làm tôi mê màu tím cho tới bây giờ. Tôi mê tà áo dài màu tím, mê bất cứ thứ hoa gì có màu tím. Nhớ dạo ở Vĩnh Long, thỉnh thoảng tôi đạp xe đạp chạy trên con đường từ Vĩnh Long về bắc Cần Thơ, có một đoạn người ta trồng dọc hai bên mé lộ hàng cây ô môi tới mùa nở đầy hoa tím. Màu tím ngát không gian làm tôi thẩn thờ nhớ ”người áo tím ” đi qua đời mình đã lâu mà tưởng chừng như hôm qua…
Năm đó tôi học lớp đệ nhị ( lớp 11 bây giờ ). Vì đi học bằng xe ô tô buýt nên mỗi sáng tôi phải thức dậy khoảng 6 giờ rưởi để đủ thời giờ sửa soạn và đi bộ từ nhà ra trạm xe ở đường Hùng Vương Thị Nghè ngay trước cửa nhà thờ. Ngày đầu của niên học, vì chưa biết giờ giấc của xe buýt nên tôi phải đi sớm hơn chừng 15 phút. Từ nhà tới ngoài đường Hùng Vương non cây số. Vừa đi hết cây cầu ván bắt qua con rạch nhỏ, tôi thấy xa xa dáng một người con gái đang lặng lẽ đi. Tiếng guốc gõ trên đường nghe nhẹ và êm trong buổi bình minh. Khi tới một ngã ba có nhiều nhà hơn, tôi mới nhận ra tà áo dài thấp thoáng lại chính là tà áo dài màu tím bay trong buổi ban mai. Tò mò tôi bước nhanh hơn để theo kịp cô gái mà cũng không dám tới gần. Đi sau lưng cô ta chừng mươi bước, tôi lặng lẽ ngắm phía sau lưng của cô gái. Phải nói cô ta có một vóc dáng đẹp để mặc áo dài. Mảnh mai, dịu dàng, uyển chuyển, thanh tao và quyến rũ. Thiếu một trong những tính chất đó, người con gái không thể nào đẹp với tà áo dài được. Huống chi cô ta còn biết dùng màu sắc để điểm tô cho nét đẹp của mình. Màu đen huyền hoặc của mái tóc. Màu trắng thanh khiết của chiếc quần trắng. Màu tím lãng mạn của chiếc áo dài; ba màu đó hòa quyện với nhau trong buổi bình minh tạo thành nét đẹp ” tím chiều hoang biền biệt ”. Chắc nghe tiếng chân người ở đằng sau lưng, cô gái quay đầu lại nhìn. Nhờ vậy tôi mới thấy được khuôn mặt không giống bất cứ khuôn mặt của bất cứ ai, khuôn mặt không đẹp không xấu, nhưng lại là khuôn mặt làm cho tôi không bao giờ quên. Khuôn mặt như một ám ảnh dịu dàng, vì cho tới bây giờ tôi vẫn còn nhớ và mỗi lần hồi tưởng và hình dung ra khuôn mặt đó, tâm hồn tôi chìm vào nỗi buồn lắng trầm hoài huỷ.
Ngày đầu tiên chỉ có thế thôi. Sáng hôm sau, tôi thức sớm hơn thường lệ. Diện bộ đồng phục Hồ Ngọc Cẩn mới, ôm chồng sách vở tôi ra đứng bên này đầu cầu ván chờ đợi. Khi thoáng thấy tà áo dài màu tím bay bay trong buổi sáng gió nhẹ tôi bước vội lên cầu ván. Như một vô tình được tính toán, tôi đụng mặt cô gái mà tôi tự đặt cho cái tên ” Cô Áo Tím ”. Chỉ là cái nhìn thoáng e lệ rồi đôi môi mím lại thay cho lời chào hỏi của cô ta cũng đủ làm tôi phấn khởi và cảm thấy đời đẹp biết bao. Cô áo tím đi trước và tôi theo sau. Trong buổi sáng còn tôi tối của ngày sắp lên, tôi cảm thấy tà áo dài màu tím đẹp song lại phảng phất chút ảm đạm và buồn bã. Vừa đi tôi vừa nghĩ ngợi. Tự dưng tiếng hát của người ca sĩ nào đó trong bản nhạc Ngàn Thu Áo Tím bật ra trong đầu: ” Ngày xưa xa xôi em rất yêu màu tím … Ngày xưa vô tư em sống trong trìu mến … Chiều xuống áo tím thường thướt tha … Lướt trên đường gấm hoa … Ngắm mây chiều thướt tha… Từ khi yêu anh anh bắt xa màu tím … Sầu thương cho em mơ ước chưa kịp đến… Trời đã rét mướt cùng gió mưa … Khóc anh chiều tiễn đưa… Thế thôi tàn giấc mơ…”. Nếu lỡ em mà yêu anh thì anh vẫn xin em mặc mãi chiếc áo dài màu tím. Ngay cả khi em không yêu anh, anh vẫn xin em mặc chiếc áo dài màu tím em yêu bởi vì tôi đã yêu màu tím. Tôi sẽ lặng lẽ theo sau tà áo dài màu tím của em…
Tiếng guốc gõ trên đường rộn ràng. Trước sau chừng mươi bước, hai người lặng lẽ đi ra tới đường lớn. Sau thoáng ngần ngừ tôi băng qua bên kia đường đi về phía nhà thờ. Đứng nơi trạm xe buýt tôi còn thấy được tà áo dài tím lẻ loi trong đám người đứng chờ xe buổi sáng. Chiếc xe buýt trờ tới và phút đồng hồ sau lại chạy đi mang theo tà áo tím đã nhạt nhòa hình bóng. Sau này khi lớn lên tôi mới hiểu rằng cô áo tím cũng chỉ là hình bóng của ” em cũng như trăm ngàn kẻ khác… lần hai vai ta bước chậm qua đời…” (thơ Viên Linh?). Cứ như thế, mỗi ngày từ thứ hai tới thứ sáu, tôi đều đặn theo sau tà áo tím mà không hề nói lời nào. Chỉ mái tóc huyền. Tà áo dài màu tím bay. Họa hoằn lắm, khuôn mặt mới quay lại với đôi môi he hé nụ cười như cố cầm giữ lời chào hỏi không để cho thoát ra. Cuối cùng tới một ngày thứ sáu( thứ sáu của định mệnh…), thay vì băng qua đường để đón xe đi Bà Chiểu, tôi lại bước tới đứng bên cạnh cô áo tím chờ xe buýt đi ra Sài Gòn. Đứng bên cạnh cô ta mà tôi run, hồi hộp và lo âu vì hành động bất thường của mình. Nhất là khi thấy ánh mắt nghiêm lạnh và cái mím môi của cô nàng, tôi càng thêm e dè và ngại ngùng không dám mở miệng nói tiếng nào dù chỉ là lời chào hỏi thông thường. Khi chiếc xe buýt trờ tới tôi là người sau cùng lên xe. Không còn chỗ trống nào ngoại trừ chỗ bên cạnh cô áo tím đang ngồi. Tôi ngần ngừ chưa biết tính sao thì may thay cô nàng ngước lên. Ánh mắt trong veo như muốn nói.
– Anh muốn ngồi thì ngồi… Tôi hổng có cấm anh đâu…
– Cám ơn cô…
Tôi nói nhỏ trong lúc ngồi xuống. Cô áo tím lặng thinh không nói gì hết. Xe chạy qua cầu Thị nghè, tới trại lính rồi ngã tư Nguyễn Bĩnh Khiêm mà tôi vẫn không thể mở miệng nói lời nào dù chỉ hỏi cho biết tên cô gái. Đó là chuyện giản dị và cần thiết để làm quen, nhưng không hiểu tại sao tôi lại không làm được. Xe dừng lại tại ngã tư Hồng Thập Tự và Hai Bà Trưng. Tôi phân vân không biết làm gì khi cô áo tím bước xuống đường. Xe chạy. Ngồi tại chỗ tôi ngoái đầu nhìn. Tà áo tím bay trong gió. Chỉ một lần đó thôi, tôi không bao giờ được ngồi cạnh cô áo tím trên xe buýt nữa. Mỗi buổi sáng tôi lặng lẽ theo sau tà áo tím bằng nỗi nhớ vời vợi trong lòng.
Ngày đầu của mùa tựu trường năm đệ nhất, tôi nghe lòng mình xôn xao và hồi hộp với mong ước sẽ được thấy lại tà áo dài tím. Than ôi… Tà áo tím không thấy đâu… Bóng dáng mảnh mai của cô áo tím mất tăm hơi, chỉ còn mình tôi lủi thủi đi mà trong tâm tưởng vang mơ hồ tiếng hát: ” … Màu áo tím sao luyến thương, màu áo tím sao vấn vương … Rồi lòng bâng khuâng theo màu áo ấy…Màu áo tím hôm nào tình quyến luyến ban đầu…Chập chờn tâm tư màu áo thoáng chiêm bao… Mong một tà áo, một tà áo qua đường… Như mong một lời nói, một lời nói yêu thương… Mặc thời gian dìu đôi cánh biếc… Mặc dòng sông dịu hiền luyến tiếc… Mặc chiều thu buồn như hối tiếc, tôi mơ màu áo… Ước mong sao áo màu khép kín bên nhau… Để rồi chiều chiều tôi đi bên dòng Hương Giang… Mong tìm lại tà áo ấy, màu áo tím nay thấy đâu… Người áo tím nay thấy đâu, dòng nước vẫn trôi cuốn mau… Rồi chợt nghe tin qua lời gió nhắn… Người áo tím qua cầu và áo tím phai mau… Để dòng Hương Giang hờ hững cũng nao nao… ”. Đứng nơi trước cửa nhà thờ ngó sang trạm xe buýt bên kia đường, tôi cảm thấy mắt mình cay cay. Gió vẫn thổi mà tà áo dài màu tím của tôi không bay. Người áo tím cũng không thấy đâu. Niên học thật dài. Con đường từ nhà tôi ra tới trạm xe buýt cũng dài như nỗi vấn vương của tôi theo thời gian dài ra như tà áo dài.
Mấy năm sau. Từ cậu học trò tôi đã thành người lính xa nhà, di chuyển từ nơi này sang nơi khác khắp miền lục tỉnh. Nhờ vậy mà tôi gặp, quen, biết nhiều người song trong lòng tôi sao vẫn hoài vấn vương hình bóng cô áo tím. Từ khi gặp cô, tôi đã yêu màu tím, ngẩn ngơ và bồi hồi nhớ tới hình bóng của ai kia khi tình cờ đi trên con lộ rực màu tím hoa ô môi và trong lòng vẫn vọng vang lời hát ” … Màu áo tím sao luyến thương, màu áo tím sao vấn vương … Rồi lòng bâng khuâng theo màu áo ấy…Màu áo tím hôm nào tình quyến luyến ban đầu…Chập chờn tâm tư màu áo thoáng chiêm bao… Mong một tà áo, một tà áo qua đường… Như mong một lời nói, một lời nói yêu thương…”.
Cho tới một hôm trên đường công tác tôi ghé thăm Chiến, thằng bạn thân đang phục vụ ở phòng tâm lý chiến thuộc bộ tư lệnh sư đoàn 9 bộ binh đóng tại Sa Đéc.
– Mày ở lại chơi với tao đêm nay đi…
Chiến nói trong lúc tôi với nó ngồi lai rai trong câu lạc bộ sư đoàn.
– Có chuyện gì không?
– Đêm nay là đêm ca nhạc ở bộ tư lệnh sư đoàn. Có mấy cô ca sĩ của Sài Gòn xuống nữa… Tao sẽ giới thiệu cho mày một cô ca sĩ…
Chiến cười hì hì. Làm ở phòng tâm lý chiến của bộ tư lệnh nên nó rành ba cái vụ tổ chức ca nhạc giúp vui cho lính tráng lắm. Không muốn làm mất lòng thằng bạn thân với lại được nghe nhạc chùa tội gì không nhận vì vậy mà tôi ừ liền. Nó dẫn tôi về phòng trong cư sá nghỉ ngơi chờ tới giờ khai mạc.
8 giờ tối. Không biết là sự trùng hợp hay lựa chọn khéo léo mà ban tổ chức đã làm hai việc khiến cho không khí của buổi ca nhạc thật đậm màu sắc văn nghệ lãng mạn và trữ tình bằng ánh trăng chiếu bàng bạc trên sân khấu lộ thiên hoà hợp dịu dàng với chút ánh sáng nhân tạo tạo khung cảnh huyền hoặc và mông lung. Dù chưa có nhạc cùng với tiếng hát, tôi cũng đã cho 10 điểm về cung cách tổ chức một đêm nhạc tình đúng nghĩa. Dĩ nhiên sẽ có những bản nhạc nói về lính song theo chương trình mà Chiến đã cho tôi đọc thì nó, phụ trách phần chọn nhạc đã chọn lựa kỹ càng các bản nhạc được ca sĩ trình diễn. Tôi biết cá tính lãng mạn, đa tình và nhiều đam mê của thằng bạn mà sau này đã học văn khoa cho tới khi nhập ngũ. Sau các màn mở đầu đúng thủ tục mà các đêm văn nghệ trong lính đều phải qua, hàng loạt tiếng vỗ tay, hò hét, hú la vang rền doanh trại khi tiết mục mà mọi người mong đợi bắt đầu. Đó là những bản tình ca, bất kể của ai, của phe bên này hay của phe bên kia, bất kể phản chiến hoặc không phản chiến. Đó là cái lạ và cái độc đáo của miền nam trong cuộc chiến chống lại miền bắc. Nếu như thơ của Hữu Loan, Hoàng Cầm, Trần Dần, Thâm Tâm, Quang Dũng bị cấm ở ngoài bắc thì nó lại được chính tôi và vô số người miền nam trân quí và gìn giữ. Nếu như nhạc của Văn Cao, Đoàn Chuẩn hay bất cứ loại nhạc nào không ca tụng đảng bị cấm ở miền bắc thì ngược lại ở miền nam, nó lại được mọi người nghe, say mê và thưởng thức. Ngay như nhạc của Trịnh Công Sơn bị chính quyền cấm hát trên đài phát thanh, nhưng lại được giới trẻ trong đó có lính nữa, nghe ở khắp mọi nơi. Chính quyền có ngăn cản song không thể ngăn cản dân chúng bày tỏ thái độ hay quan điểm chính trị của họ xuyên qua hình động nghe nhạc mà điển hình là lính. Lính, bất kể mọi màu áo đều thích nghe nhạc phản chiến, nói về chiến tranh. Đó là một điều lạ. Có thể nói một cách không ngoa tự do là sự khác biệt lớn lao nhất giữa hai miền nam bắc trong cuộc chiến tranh. Ở miền bắc bị cấm thì trong miền nam lại được phổ biến rộng rãi.
– Kính thưa quý vị… Để tiếp tục chương trình tôi xin hân hạnh giới thiệu một giọng ca mới song đầy triển vọng. Cô Hương Trà sẽ trình bày nhạc phẩm Tà Áo Tím của nhạc sĩ Hoàng Nguyên…
Vì là khách không được mời với lại đứng quá xa nên tôi không thể thấy rõ mặt mày, nhưng khi tiếng hát cất lên thì xúc động oà vỡ trong hồn tôi. Trong ánh trăng bàng bạc màu trắng huyền hoặc, tà áo tím của ai kia bay bay trong gió đêm thổi về từ sông Tiền. Tiếng hát là tiếng hát của lòng tôi, tà áo tím là tà áo mà bấy lâu nay tôi mãi ngóng tìm. Tôi nghe nhịp tiếng guốc gõ lốc cốc trên con lộ mỗi buổi sáng đi học. Ánh mắt nhìn. Khuôn mặt. Thân vóc mảnh mai, dịu dàng mà tôi thầm lặng theo sau nhìn ngắm để mỗi ngày ăn sâu vào nỗi đam mê trầm lắng của cậu học trò vấn vương mà không hề nói. Đam mê thầm lặng như xoáy sâu vào tâm khảm hình thành nỗi nhớ đoài đoạn trong đêm trăn trở nghe tiếng súng nổ vu vơ. ”… Màu áo tím sao luyến thương, màu áo tím sao vấn vương … Rồi lòng bâng khuâng theo màu áo ấy… Màu áo tím hôm nào tình quyến luyến ban đầu…Chập chờn tâm tư màu áo thoáng chiêm bao… Mong một tà áo, một tà áo qua đường… Như mong một lời nói, một lời nói yêu thương…”. Như bị tiếng hát cuốn hút tôi nhìn lên sân khấu. Vóc dáng thật quen. Tà áo dài mường tượng như tà áo năm nào của ” cô áo tím” thời còn cắp sách. Màu tím mơ hồ như màu tím tôi mơ, ngóng tìm trên bước đường chinh chiến bao năm qua… Để rồi chiều chiều tôi đi bên dòng Hương Giang… Mong tìm lại tà áo ấy, màu áo tím nay thấy đâu… Người áo tím nay thấy đâu, dòng nước vẫn trôi cuốn mau… Rồi chợt nghe tin qua lời gió nhắn… Người áo tím qua cầu và áo tím phai mau… Mấy năm như một thoáng giây… Tôi thường tự hỏi ” cô áo tím ” bây giờ ở đâu? ra sao? làm gì? yêu ai? chồng con chưa? làm sao gặp lại? gặp lại để làm gì? Hoạ chăng chỉ còn màu áo tím chưa phai mờ trong trí tưởng. Sau khi thấy tà áo dài màu tím trên sân khấu cũng như nghe bản nhạc Tà Áo Tím tôi hầu như không còn chú ý tới buổi trình diễn nữa tới lúc Chiến xuất hiện.
– Đi… lại đằng này… tao sẽ giới thiệu cho mày cô ca sĩ… Tao lăng xê mày dữ lắm nên ráng mà ăn nói nghen… đừng để mất mặt lính…
Chiến dặn dò và tôi ừ hử vì không còn lòng dạ nào. Tôi ngẩn người ra khi cô ca sĩ mà Chiến nói đứng trước mặt mình. Ôi… có thể nào chăng… Cô ca sĩ vừa hát Tà Áo Tím cũng chính là cô áo tím của tôi ngày xưa. Cũng áo dài tím buồn ngày xưa. Cũng ánh mắt ngày xưa thỉnh thoảng quay lại nhìn người con trai thầm lặng theo sau mỗi buổi sáng. Cũng nụ cười e ấp. Dù có đổi thay, cô áo tim vẫn còn nhiều dáng nét của ngày xưa.
– Anh là người theo tôi mỗi buổi sáng ngày xưa?
Cô áo tím cười e ấp hỏi. Tôi cười gượng.
– Cám ơn cô vẫn còn nhớ…
– Chưa lâu mà kể từ khi tôi và anh thôi học…
Bây giờ tôi mới nhận ra giọng nói mang chút gì âm hưởng như của Huế.
– Cô người Huế hả?
Cô áo tím cười thật tươi.
– Huế-Sài Gòn thì đúng hơn. Mẹ tôi Huế, ba tôi Sài Gòn mà tôi sinh ra ở Sài Gòn…
Tôi gật gù cười khen.
– Bởi vậy cô hát Tà Áo Tím hay tuyệt… hay hơn tất cả những ai tôi đã từng nghe qua. Giọng hát làm tôi thêm vấn vương tà áo tím…
Cô áo tím nhìn tôi. Tôi đọc trong mầu mắt đen của cô một cảm thông đan chen với trìu mến. Cô nói một câu mà tôi không biết nó thật hay là giả song lúc đó tôi cứ nghĩ là thật.
– Tôi nhớ tới anh lúc tôi hát Tà Áo Tím… Tôi nhớ lần ngồi cạnh anh trên chuyến xe buýt… Tôi nhớ những buổi sáng đứng bên này đường nhìn thấy anh đón xe…
Nhiều thắc mắc đè nặng tâm tư của tôi bỗng biến mất tiêu vì câu nói của cô áo tím.
– Anh đi lính lâu chưa?
– Gần 5 năm rồi… Cô đi hát lâu chưa…?
– Chừng ba năm… Tôi chỉ hát giúp vui chứ không chuyên nghiệp…
Tôi hiểu cái ý của cô áo tím. Đó cũng là cách của tôi. Mê văn chương nhưng tôi không có ý định dấn sâu vào thế giới của chữ nghĩa. Thích thì viết, còn không thích thì quẳng bút. Không muốn vì cơm áo mà phải viết. Câu chuyện kéo dài lan man. Có những điều tôi muốn nói mà không thể nói được vì nghĩ dường như không đúng lúc hoặc người đối thoại với mình cố né tránh không muốn nghe mình nói. Cuối cùng thì cũng phải chia tay. Hai người, không ai nói lời gặp lại, như biết và chấp nhận điều đã được định sẵn. Gặp gỡ và chia ly là chuyện thường trong đời sống.
Từ ngày đó tôi không bao giờ gặp lại cô áo tím nhưng tà áo dài màu tím bay trong đêm trăng mờ cùng với tiếng hát ”… Màu áo tím sao luyến thương, màu áo tím sao vấn vương … Rồi lòng bâng khuâng theo màu áo ấy… Màu áo tím hôm nào tình quyến luyến ban đầu…Chập chờn tâm tư màu áo thoáng chiêm bao… Mong một tà áo, một tà áo qua đường… Như mong một lời nói, một lời nói yêu thương…” làm tôi cứ ngóng hoài tà áo ai bay trong trí tưởng của mình.
chu sa lan
Châu Đốc: Dáng ai còn trong kỷ
niệm?
Đầu năm học đệ tam, tôi có đứa bạn mới tên Thiều, ngồi ở bàn trước tôi. Sở dĩ tôi chú ý tới nó ngay lần đầu gặp mặt vì nhiều thứ lắm. Thứ nhất, cách ăn mặc tố cáo nó là thằng nhà quê mới lên tỉnh. Thứ nhì cách ăn nói. Cùng một thứ ngôn ngữ mà nó có vài tiếng trọ trẹ khó nghe. Lớp tôi có nhiều thằng ở khắp nơi trong nước. Bắc kỳ 54 cũng có. Dân Đà Nẳng, Huế, Quảng Nam, Quảng Ngải, Bình Định, Nha Trang gì cũng có. Còn dân miền nam thì Lục Tỉnh, miền Đông và Đà Lạt xuống học cũng có. Dĩ nhiên đông nhất là dân Sài Gòn. Nói dân Sài Gòn thì cũng đã lẫn lộn trong đó vì trừ những thằng sinh đẻ tại Sài Gòn không kể còn đa số là dân di cư lên Sài Gòn ở rồi tự xem như mình là dân Sài Gòn. Nói tóm lại học sinh đứa nào cũng đều hãnh diện được xem như dân Sài Gòn.
Chúng tôi thường nói đùa với nhau một câu là: ” Làm dân Việt Nam đã khó mà làm dân Sài Gòn còn khó hơn…”. Bốn năm trước đây tôi cũng là học trò ở tỉnh lên Sè Gòn học. Nhưng sau bốn năm nấu chữ riết thành cháy hết sách vở của ông bà thì tôi đã lột xác nhà quê rồi. Bởi vậy gặp Thiều thì tôi chú ý liền. Chắc cũng biết thân phận học trò nhà quê lên thủ đô trọ học nên Thiều rất hiền lành và im lặng ít có quậy trong đám học trò. Năm đệ tam là năm vừa học vừa chơi, mà riêng tôi còn đi xa hơn: chơi nhiều hơn học. Nhiều lần trong giờ ra chơi, Thiều lân la bắt chuyện với tôi. Nhờ vậy mà tôi biết nó quê ở Châu Đốc, lên nhà bà cô ở để đi học thi tú tài. Tôi hỏi nó sao hổng học ở dưới Châu Đốc thì được nó trả lời là trên Sài Gòn thày giỏi hơn. Dĩ nhiên thày ở Sài Gòn phải giỏi hơn. Tôi hãnh diện nói với nó như vậy. Tôi dấu biệt gốc gác của mình không cho nó biết tôi cũng là thằng học trò nhà quê lên tỉnh như nó. Ước vọng của nó là sau khi thi đậu tú tài toàn phần sẽ thi vào trường đại học sư phạm để thành giáo sư về dạy học tại quê nhà. Đó là ước vọng lớn của thằng học trò nhà quê. Nó hỏi tôi lớn lên muốn làm cái gì. Tôi trả lời tỉnh bơ: ” Trời sinh tao ra để chơi chứ không phải để làm…” Thiều trợn trắng con mắt khi nghe tôi phang tiếp một câu: ” Ngu sao làm… Phải có những thằng làm như mày thì cũng có thằng chơi như tao. Mày thì dạy chữ còn tao chơi với chữ…”.
Hổng ngờ nó khoái tôi vì câu trả lời này và hai thằng học trò nhà quê bắt đầu thân nhau tới mực tôi dẫn nó về nhà tôi chơi, còn nó cũng đưa tôi về nhà bà cô của nó cho biết nhà. Nó khoái tới nhà tôi chơi vì cái không khí tự do và dân chủ của gia đình tôi. Đó là tự do ăn, tự do nói và tự do làm. Dĩ nhiên tự do trong giới hạn của luật gia đình đã được định bởi mẹ và anh chị của tôi. Mẹ tôi dễ tính, thương con của bạn cũng như thương con mình. Tôi ăn gì thì nó ăn đó. Tôi đi đâu nó đi đó. Nó có thể pha trò, tán dóc và cười đùa tự nhiên với hai bà chị của tôi. Một hôm gặp nhau ở trường, nó nằng nặc kêu tôi tới nhà bà cô để gặp em gái của nó từ dưới Châu Đốc lên thăm anh ở Sài Gòn. Tuy đã 16 tuổi nhưng ” thủa đó nào tôi có biết gì ” về chuyện tình trai gái nhưng tôi cũng tới nhà để gặp em nó vì tò mò muốn xem mặt con nhỏ mà theo Thiều tả thì đẹp chỉ thua nàng Kiều của ông Nguyễn Du chút xíu thôi. Phải đợi 6 năm sau, tôi mới biết cái ” chút xíu thôi ” đó nó có ý nghĩa gì.
Dường như sợ tôi không tới nên Thiều còn tán thêm là em gái nó làm thơ hay hết sẩy. Cô bé nhỏ tuổi ( mới 15) mà tài cao, là trưởng thi văn đoàn Thất Sơn ( mà sau này khi quen nhau tới độ tôi chọc quê là thi văn đoàn Mất Tiêu ) ở Châu Đốc, học lớp đệ tứ trường trung học Thủ Khoa Nghĩa. Nó đánh trúng vào cái đam mê của tôi. Lúc còn học trung học tôi mê nhất thơ. Tôi hay nói với lũ bạn cùng lớp là làm thơ khỏe và sướng hơn viết văn. Văn viết nhiều mỏi tay và tốn giấy mực. Các thi sĩ như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Tản Đà… được tôi cưng nhất bằng cách thuộc lòng các bài thơ của họ. Nay nghe Thiều giới thiệu em gái của nó làm thơ thì bảo nhảy vào miệng núi lửa tôi cũng chẳng ngần ngại.
Thế rồi một hôm đẹp trời của ngày thứ bảy, tôi diện bộ quần áo đẹp nhất mà tôi có được tới diện kiến cô thi sĩ nhà quê có bút danh Nhật Huyền… Cô bé hổng có đẹp như nàng Kiều của ông Nguyễn Du, song có đôi mắt huyền mơ đen láy đính trên cái mặt trái soan với nụ cười e ấp cùng giọng nói mà thú thật sau này đi khắp nơi của vùng Lục Tỉnh rồi ra tận miền trung và sang tới Mỹ tôi cũng chưa gặp ai có giọng nói như cô bé thi sĩ Nhật Huyền quê ở Châu Đốc. Thiều, tôi và cô bé ngồi trước hàng ba tán dóc hàng giờ. Tôi nghe nhiều hơn nói vì lòng còn ngẩn ngơ bởi cái giọng ngọt như đường thốt nốt của Huyền. ” Mai mốt anh Chu về Châu Đốc chơi nghen… Huyền dẫn anh đi núi Sam, uống nước thốt nốt… ngọt và thơm lắm anh… ”. Lúc đó tôi chưa uống nước thốt nốt nên hỏng biết nó ngọt chua ra sao, nhưng tôi nghĩ nó cũng hổng có ngọt bằng giọng nói và mùi thơm thoang thoảng mà tôi ngửi được từ mái tóc đen dài của Huyền. Hổng biết có phải do cơ duyên nào xui khiến hay phước đức ông bà để lại mà tuần lễ trước khi nghỉ hè, Thiều rủ tôi về Châu Đốc chơi. Tôi về nhà xin phép và được mẹ cho phép.
Tôi thích phong cảnh ở Châu Đốc vì vừa có sông mà lại có núi nữa. Tôi yêu người Châu Đốc. Phong cảnh đẹp, sông núi hữu tình đã hun đúc cho con gái Châu Đốc có nhiều đặc tính như mơ mộng, đam mê và lãng mạn, thứ lãng mạn ngầm, ẩn trong lòng vì vùng quê này còn có phong tục và tập quán ràng buộc họ lại. Tôi thấy được những thứ đó xuyên qua những bài thơ và cách đối xử của Nhật Huyền đối với tôi, một tri kỹ. Sau này, dù xa nhau chúng tôi vẫn thư từ qua lại, mà trong đó chứa nhiều bài thơ Huyền làm. Dường như cô bé cần một người hiểu mình để nghe, đọc và hiểu cái đam mê, mơ mộng và lãng mạn của mình. Tôi thích những đêm có trăng, trăng sáng hay trăng mờ đều thơ mộng, lung linh và huyền ảo. Tôi đã ngồi im lặng bên dòng sông Hậu mênh mông nước chảy có những dề lục bình trôi để đọc tập thơ của Nhật Huyền.
Những câu thơ được viết bằng mực tím, bằng ngòi viết lá rong, được nắn nót bởi bàn tay trắng thon dài, nhỏ nhít, đủ nói lên cái đam mê và mơ mộng của cô bé. Thiều, từ ngày về lại quê xưa vì có lắm bạn bè cũ nên bận bịu luôn. Nó giao khoán cho em gái của nó. Được cái là ba má của Thiều với Nhật Huyền tính tình hiền lành, vui vẻ và cởi mở. Họ coi tôi như con trong nhà và cũng chẳng nói gì khi thấy tôi và Nhật Huyền suốt ngày ở cạnh nhau, lang thang khắp nơi trong phố và nhiều thắng cảnh khác. Tôi đã cùng với Huyền đạp xe chay rong trên những con đường rợp bóng cây, ngang qua trường Thủ Khoa Nghĩa, để nghe cô bé thỏ thẻ kể chuyện về ngôi trường mang tên vị anh hùng mà toàn dân Châu Đốc đều ngưỡng mộ và thờ kính. Cô bé nhắc tới trường của mình bằng nhiều tự hào và yêu thương và cuối cùng với nụ cười ngây thơ và câu nói đáng yêu làm sao: ” Chắc trường của Huyền không lớn bằng trường của anh…”
Câu trả lời của tôi khiến cho Huyền hồng nét mặt và mắt long lanh vì thẹn thùng lẫn sung sướng: ” Trường của Huyền không lớn nhưng đẹp, đẹp như Huyền…”. Cô bé thi sĩ đã cám ơn lời khen tặng của tôi bằng cách tình nguyện làm hướng dẫn viên tôi đi núi Sam, lăng Thoại Ngọc Hầu, miểu Bà Chúa Xứ, đi Tịnh Biên xem kinh Vĩnh Tế, thăm Tân Châu, Tri Tôn. Đêm cuối cùng ở Châu Đốc, tôi cùng với Thiều và Nhật Huyền ngồi ăn chè thốt nốt trước sân nhà. Qua ánh trăng mùng mười tôi thấy khuôn mặt của cô bé đẹp lung linh và mong manh như thứ tình cảm mà hai đứa biết sẽ tàn phai theo thời gian cho dù những lá thư vẫn đi lại đều đặn trong suốt hai năm học cuối cùng của trung học đệ nhị cấp và còn kéo dài nhưng thưa dần dần bởi vì mỗi người đều có đời sống riêng để sống. Tôi vào lính và lang bạt theo bước chân của người lính. Nhật Huyền, sau khi thi đậu tú tài cũng đi dạy học và vẫn còn làm thơ như là thú tiêu khiển hay đúng hơn là cách bày tỏ sự mơ mộng, đam mê và lãng mạn của mình.
Chăm chú đọc tờ đơn xin đi phép thường niên của tôi, sếp hơi cau mày hỏi: Tại sao anh lại đi Châu Đốc… Nhà anh ở Sài Gòn mà? Nghe câu hỏi của sếp tôi hơi bất mãn song cũng rán nhịn vì nếu phát ngôn bừa bải là ổng không chịu ký giấy. Bởi vậy tôi phải giải thích: Thưa chỉ huy trưởng tôi muốn đi thăm một người bạn ở Châu Đốc… Bạn trai hay gái? Dạ… Bạn gái… Nếu là bạn trai thì nó phải thăm tôi. Còn bạn gái thì tôi mới phải đi thăm… Có lẽ khoái câu giải thích của tôi nên ông gật đầu viết thêm một hàng dài rồi mới chịu ký tên đoạn trao giấy phép cho tôi. Ra khỏi phòng của sếp, liếc nhanh tờ giấy phép cầm trên tay tôi thầm cám ơn ông sếp chịu chơi của tôi. Dòng chữ mà ông viết thêm vào là sửa lại thời hạn đi phép của tôi. Thay vì 7 ngày trơn xuông thì ổng lại cho tôi 8 ngày và cộng thêm hai ngày đi và về thành ra 10 ngày. Mô Phật… Hoan hô sếp… Sáng hôm sau tôi có mặt trên chuyến xe đò sớm nhất từ Rạch Giá đi Cần Thơ. Vì lý do an ninh nên tôi phải mặc thường phục. Ngoài ra tôi còn lận lưng khẩu Colt45 dù biết khẩu súng bắn chim này chỉ để hù đàn bà và con nít thôi. Đã nhiều lần đi lại trên quãng đường này nên tôi biết an ninh khá tốt song không có nghĩa là không có bất trắc xảy ra.
10 giờ sáng tôi xuống xe tại ngã ba Ô Môn chờ đón xe khác đi Long Xuyên rồi từ Long Xuyên lại đón xe về Châu Đốc. Đứng tại ngã ba chờ xe tôi tự hỏi tại sao người ta lại đặt tên cho chỗ này là Ô Môn. Sau khi hút hết hai điếu thuốc lá tôi mới được ngồi lên băng chiếc xe đò về Long Xuyên ( tôi sẽ kể về Long Xuyên trong một bài viết khác ). Xuống xe tôi vào chợ Long Xuyên ăn tô cháo cá xong lên xe đò trực chỉ Châu Đốc. Ngồi trên chiếc xe đò cũ kỹ chạy trên con lộ có ổ gà, tôi miên man suy nghĩ. Khuôn mặt của cô bé thi sĩ Nhật Huyền hiện ra chập chờn gãy đổ theo sự dằn xóc của chiếc xe. Trong lá thư gởi cho tôi cách đây hơn 1 năm, Huyền cho biết Thiều vẫn còn ở Sài Gòn học đại học sư phạm. Hình như năm tới nó mới tốt nghiệp. Riêng nàng sau khi đậu tú tài cũng xin được chân dạy học tại trường Thủ Khoa Nghĩa.
Nàng muốn học lên cao hơn nữa nhưng vì cần ở cạnh để săn sóc cha mẹ nên cô bé chọn một chân giáo sư quèn nơi tỉnh lỵ. Tôi cảm thấy tội nghiệp cho Huyền vì chữ hiếu mà đành phải bỏ ngang ước vọng của mình. Trong mấy lá thư trước tôi hỏi sao cô bé không gởi hình cho tôi xem để ” nhìn cho rõ mặt mày ” thì cô bé trả lời ” khi nào gặp lại anh sẽ biết liền ”. Bốn năm xa nhau tôi biết chắc là cô bé có nhiều thay đổi. Chắc phải lớn hơn, già dặn và đẹp hơn. Cũng như tôi ngày nào là một anh học trò đầy ắp mơ mộng và lãng mạn mà giờ đây đã thành người lính. Giống như Huyền tôi cũng phải bỏ dở sự học để đi lính, chiến đấu cho điều gì mà mình tin tưởng. Xe chạy qua ngôi làng mà anh lơ xe cho biết tên Chắc Cà Đao. Tên nghe thật ngộ và tôi đoán phiên âm từ tiếng Miên mà ra. Vùng này xưa kia là đất của người Miên. Bây giờ họ vẫn còn sống rải rác và đôi khi sống chung đụng với người Việt. Con lộ nối Long Xuyên- Châu Đốc có khúc chạy sát bờ sông Hậu đục ngầu nước chảy.
Tôi cũng không hiểu sao tôi lại muốn gặp Huyền. Dường như có cái gì thôi thúc tôi phải gặp nàng, dù biết cũng chẳng để làm gì. Chỉ để thấy lại cô bé-thi sĩ ngày xưa.Thế thôi. Gần 3 giờ chiều tôi xuống xe ở bến xe đò tại chợ Châu Đốc. Tới khách sạn An Biên mướn phòng trọ xong định kêu xe lôi tới trường để gặp Nhật Huyền nhưng nghĩ sao tôi lại lên xe lôi tới nhà. Ngồi ở cái bàn lộ thiên của cái quán sát đường, gọi ly trà đá tôi chờ Huyền đi dạy về. Đây rồi. Cô bé ngày xưa hiện ra trong tầm mắt. Sau này, trong một thư gởi vào năm sau, Huyền nói đã thấy tôi từ xa. Dường như cô bé có linh tính sẽ gặp lại tôi dù tôi không hề nói sẽ đi thăm.
Chiếc xe đạp dừng lại. Huyền đi bộ thật chậm. Tà áo dài màu trắng bay trong gió chiều. Mái tóc đen dài với chút tóc rối vì gió xoả trên mặt, tôi thấy và tôi biết Huyền đã khóc. Trong không khí êm ả, trong ánh nắng chiều âm ấm, tôi thấy mắt cô bé ( bây giờ là một thiếu nữ 19 tuổi ) long lanh. Dù những giọt nước mắt không chảy ra song đối với tôi quí giá vô cùng. Đời sống có biến dịch, có đổi thay nhưng tôi biết dù xa nhau tình cảm của hai chúng tôi dành cho nhau vẫn hiện hữu hoài hoài trong tâm hồn. Đó là thứ tình cảm đa dạng. Tình yêu trai gái không chưa đủ mà còn thêm sự quí mến, thông cảm, hiểu biết và cùng tính tình với sở thích nữa. Từ khi biết nhau cho tới bây giờ và mãi về sau tôi không hề nói tiếng yêu. Huyền cũng ngược lại không có tiếng ” yêu anh ” đối với tôi, mặc dù cả hai đều biết trái tim đã thuộc về nhau. Sau này, có những lúc buồn ngồi nghĩ lại tôi thấy tình yêu giữa hai chúng tôi có điều kỳ quặc và khó hiểu tới độ không giải thích được. Dường như chúng tôi sinh ra để yêu nhau nhưng không phải sống bên nhau mà để xa nhau. Ở xa mà vẫn nghĩ về nhau. Tôi biết, nếu tôi nói lên tiếng yêu thương thì Huyền sẽ đáp lại. Cũng như nàng nếu mở miệng thì tôi cũng ừ liền. Tuy nhiên chẳng biết có điều gì làm cho tôi không thể mở miệng. Cũng như nàng bằng tia nhìn đằm thắm, dịu dàng và đôi lúc âu yếm đủ tỏ lộ tình yêu nồng nàn song không hề nói một tiếng.
Về tới nhà tôi chào ba má Huyền. Ông bà vẫn còn nhớ tôi. Được biết tôi đã đi lính ông bà tỏ ra quí trọng và đối đãi đặc biệt hơn. Tối hôm đầu tiên gặp lại nhau sau 4 năm xa cách, chúng tôi thức tới mười hai giờ tôi mới trở về khách sạn An Biên ngủ. Chúng tôi nói gì. Có lẽ không nói nhiều mà nhìn nhau và cười với nhau nhiều hơn. ” Nhìn nhau cũng đủ lãng quên đời…”. Tôi hỏi Huyền vẫn còn làm thơ và nàng đem ra khoe tập thơ mới. Vẫn âm điệu cũ. Vẫn cái chất mơ mộng và lãng mạn của cô gái sinh trưởng từ vùng đất có sông có núi hữu tình, ý tưởng mới lạ và một nhận thức chín hơn bởi vì giờ nàng là cô giáo tỉnh lỵ. Huyền hỏi tôi có còn viết văn. Tôi cười cười nói có mà ít lắm. Chắc tại anh bận chuyện lính? Tôi trả lời không mà chỉ vì mãi say với rượu. Anh có yêu cô nào không? Huyền hỏi mà tôi im lặng vì biết nàng đã có sẵn câu trả lời. Thật lâu tôi mới nhẹ nhàng lên tiếng. ” Không… Anh không biết tại sao anh không yêu ai được… Có lẽ... ” Tôi ngập ngừng… Nhìn vào đôi mắt của nàng tôi cười trả lời: ” Có lẽ vì anh còn bị nhốt trong đôi mắt của Huyền…” Cô giáo-thi sĩ cười hăng hắc vì câu trả lời của tôi. ” Tại anh trốn trong đó chứ Huyền không có nhốt anh. Cũng vì anh ở trong đó mà Huyền khóc hoài...” Nói xong nàng chợt nắm tay tôi. Đó là lần duy nhất chúng tôi nắm tay nhau trong suốt 13 năm quen biết.
Tám ngày ở Châu Đốc của tôi diễn ra một cách đều đặn và trật tự. Ban ngày khi Huyền đi dạy học thì tôi mướn xe đi long nhong trong phố, ngồi quán cà phê lai rai chai bia, thăm viếng chỗ nào tôi thích. Chiều sau khi cơm nước xong, tôi tới nhà nàng ngồi nói chuyện hoặc hai đứa đi ra công viên cạnh bờ sông ngồi nói chuyện mỏi miệng, mỏi lưng thì đi ăn tối tới khuya mới về nhà rồi tôi trở lại khách sạn. Tôi chỉ mong có vậy thôi. Trở lại Châu Đốc lần này, tôi chỉ muốn có một nơi yên tịnh, một người có thể trò chuyện một cách thoải mái và tự nhiên để tạm quên đi chút nhọc mệt và gian khổ của đời lính. Ở bên Huyền, tôi có được cảm giác bình lặng, an nhàn, nhận hưởng sự chiều chuộng và săn sóc của nàng. Ba má nàng, dù không nói ra dường như ngầm chấp nhận sự giao du của con gái. Dù gì nàng cũng đã lớn, ở thời sẵn sàng lập gia đình rồi.
Phần tôi cũng rất quí trọng ba má Huyền, những người nghèo mà thanh bạch, không thích bon chen luồn cúi. Hai ngày cuối tuần nàng mượn được chiếc xe gắn máy để tôi chở nàng đi xuống Tịnh Biên thăm kinh Vĩnh Tế và ngắm núi Tà Lơn ở bên kia biên giới Miên và bên này là Thất Sơn. Nàng giải thích một cách rành mạch ( cô giáo mà lị… ) về nguồn gốc của Thất Sơn. ” Anh biết hông…” Nhật Huyền thường bắt đầu câu chuyện kể cho tôi nghe bằng ba tiếng đó. ” Châu đốc có nhiều núi đồi lắm song lại không nằm trong nhóm Bảy Núi như núi Sam chẳng hạn. Mình đang đứng ở Tịnh Biên…” Nhật Huyền dậm dậm bàn chân nhỏ nhắn của nàng mấy lần trên mặt đất như để gây sự chú ý của tôi vì lúc đó tôi đang mãi mê ngắm phong cảnh toàn vùng.
Giọng nói ấm dịu nhẹ êm, thoảng hương thơm của hoa đồng cỏ nội vang vang trong cơn gió nhẹ đến từ mặt kinh Vĩnh Tế. ” Anh biết hông… Đứng đây mình có thể thấy hết bảy ngọn núi chính của Thất Sơn…” Nhật Huyền đưa ngón tay nhỏ nhắn ra chỉ về hướng trước mặt. ” Anh nhìn theo ngón tay Huyền chỉ anh sẽ thấy phía bên trái của mình có hai ngọn là Ngũ Hồ Sơn và Anh Vũ Sơn. Dân chúng ở đây gọi Ngũ Hồ Sơn là núi Dài Năm Giếng vì có 5 hồ nước nhỏ nằm liên tiếp với nhau. Còn Anh Vũ Sơn là núi Két vì trên núi có những viên đá xếp chồng lên nhau giống như mũi con két khổng lồ. Phía bên trái của mình xa về hướng Ba Chúc thì có núi Tượng giống hình con voi hay Liên Hoa Sơn, núi Nước hay Thủy Đài Sơn và núi Dài hay Ngọa Long Sơn. Riêng núi Cô Tô thì xa hơn nằm ở trên miệt Tri Tôn… Phần núi Cấm hay Thiên Cẩm Sơn thì ngay đây nè…” Huyền nắm tay tôi lên chỉ về hướng trước mặt xế về bên trái một chút. Một ngọn núi cao nhất đứng riêng lẻ một mình với cây cối xanh rì nhô lên bầu trời nhiều mây xanh trông đơn độc và nhuốm chút huyền bí.
Người ta đồn núi Cấm là nơi linh thiêng vì có nhiều người lên đó tu hành. ” Anh biết hông… em nghe ba má nói núi Cấm rất linh thiêng…” ” Mà Huyền có tin hông? ” Hỏi xong tôi bắt gặp nụ cười lỏn lẻn trên môi của nàng. ” Dạ tin thì cũng tin… mà tin chút xíu thôi…” Huyền đưa hai ngón tay cái và trỏ lên làm dấu một khoảng cách rất ngắn khiến cho tôi phì cười và nàng cũng bật cười hăng hắc. ” Huyền có hai bàn tay thật đẹp…”. Lần đầu tiên gặp nhau ở Sài Gòn tôi đã có nhận xét đó song lại không nói ra. Rồi trong suốt hai tháng nghỉ hè, tôi đã nhiều lần nhìn ngắm hai bàn tay của nàng mà cũng không hề nói tiếng khen cho tới hôm nay. ” Mấy người bạn dạy cùng trường đều nói Huyền phải là họa sĩ hay nhạc sĩ chứ làm cô giáo không hợp…” Huyền cười nói. Tôi nghe trong giọng nói của nàng chút buồn rầu và nhẫn nhục.
Đưa hai bàn tay trắng hồng với những ngón tay thon dài lên như để cho tôi ngắm nghía Huyền thì thầm: ” Huyền sẽ dùng mười ngón tay này viết thư cho anh…” ” Thư tình hả…” Tôi hỏi trong lúc quay nhìn vào đôi mắt của nàng để thấy bóng mình lung linh trong đó và bên tai văng vẳng câu nói: ” Điều đó tùy thuộc ở anh…”. Tôi thầm thở dài. Đời lính của tôi có quá nhiều điều ” không tính trước ” được. Nó làm cho tôi ngần ngại, do dự khi yêu và muốn lập gia đình với người mà mình thương yêu. Tôi là người ít có so sánh, phân biệt trong tình yêu. Xấu đẹp giàu nghèo tôi cóc cần. Ngu dốt, học thức, bằng cấp gì tôi cũng pha luôn. Chỉ cần tôi yêu được thì dù cô gái đó có nghèo rớt mồng tơi, đui mù, tàn phế, câm điếc tôi cũng lấy làm vợ.
Đối với Huyền, tôi biết nếu lấy nhau tôi sẽ không lo lắng nhiều về tiền bạc sinh kế cho con cái sau này. Tôi chỉ lo có mỗi một điều. Nếu tôi chết… Tôi không muốn Huyền sống trong cảnh góa bụa hoặc đơn chiếc như mẹ tôi. Bà có chồng mà chồng lại ở xa nhà. Suốt quãng đời xuân xanh của bà là sự chờ đợi, chờ hoài hủy, chờ mõi mòn, chờ rũ buồn ra. Lúc còn nhỏ thì không biết, song từ khi có chút trí khôn, tôi đau nỗi đau của mẹ tôi, tôi buồn chung với nỗi buồn của mẹ tôi. Bà sống không chồng thì tôi sống không cha. Bà chờ một người đi xa chưa về thì tôi cũng chờ một người đi chưa chịu trở lại. Cho nên vào lính, đi đây đó, gặp nhiều người, có tình cảm với họ song tôi lại sợ làm cho họ chờ mình. Tôi sợ khi nghĩ tới vợ tôi cũng lại lâm vào tình cảnh bi thảm của mẹ tôi. Ánh mắt đăm chiêu, dõi trông về phương trời nào xa thẳm có hình bóng ai đó ám ảnh tôi. Tiếng thở dài u uất, những giọt lệ ứa ra âm thầm được lau vội đi vì sợ con thấy làm tôi ngần ngại chuyện lập gia đình.
Tôi không thể nói cho Huyền biết ý nghĩ của tôi, cái day dứt mà tôi cưu mang trong trí. ” Anh biết hông…” Ba tiếng quen thuộc của Huyền làm đứt đoạn ý tưởng, tôi quay qua cười. ” Anh biết… anh biết là Huyền sẽ chở anh đi uống nước thốt nốt nguyên chất như Huyền đã hứa…” Câu nói của tôi làm nàng cười hăng hắc. ” Anh muốn Huyền lái xe hả…” ” ừ… Huyền lái để anh ngồi sau ôm eo ếch của Huyền. Cái này gọi là nhập gia tùy tục… có bạn thì tòng bạn… lấy vợ thì tòng thê…”. Cười hắc hắc Huyền để yên cho tôi ôm eo và ngã đầu vào lưng của nàng trong lúc xe chạy dọc theo con đường song song với dòng kinh đi về Châu Đốc. Vùng này thưa vắng nhà cửa vả lại cũng xa tỉnh lỵ nên ít người để ý vì thế cô giáo cảm thấy được tự do thành ra dạn dĩ hơn. Chứ còn ở nhà hay đi ra phố chợ, đi song song mà chúng tôi chưa hề có cử chỉ, thái độ nào âu yếm và tình tứ. Càng xa Sài Gòn chừng nào thì văn minh thành thị và ảnh hương của lối sống Âu Mỹ càng ít đi chừng đó. Châu Đốc là thị trấn miền biên giới lại thêm ngăn cách bởi hai con sông vì thế mà ảnh hưởng của Sài Gòn lan tới rất chậm so với những nơi khác như Mỹ Tho, Bến Tre, Cần Thơ hay Vĩnh Long. Trai gái ở đây vẫn ăn mặc giản dị và không theo mốt.
Vì chiến tranh mỗi ngày một lan rộng do đó du khách cũng ít lui tới viếng thăm vùng Thất Sơn. Hàng quán mở ra chủ yếu bán cho dân địa phương thành ra không có chuyện bán hàng giả. Uống nước thốt nốt ở đây là thứ thiệt bởi vì pha thêm nước lả vào thì dân làng biết liền. Huyền ngừng xe ở cái quán bên đường cất dưới chòm cây thốt nốt cao nghều nghệu. Hai đứa ngồi vào cái bàn thấp với mấy cái ghế thấp lè tè. Xa đằng kia là Núi Dài Năm Giếng hay Ngũ Đài Sơn. Tiếp theo là Anh Vũ Sơn hay núi Két quay cái mũi khổng lồ chỉa về hướng năm cái giếng nước của Ngũ Đài Sơn như muốn uống nước. Hai ly nước thốt nốt có thêm phần cơm trăng trắng được mang ra. Vị ngọt mà mùi thơm. ” Ngọt hông anh? ” Huyền hỏi. Tôi cười thì thầm: ” ngọt còn hơn…” Thấy tôi dừng nói và nhìn đăm đăm vào môi của mình Huyền chợt hiểu đỏ bừng mặt. ” Anh kỳ ghê…”. Tôi yêu nét thẹn thùng của Huyền, cô gái miền Hậu Giang nhiều thuỳ mị, thẹn thùng và hiền thục. Từ Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Chương Thiện, Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Đốc, Chợ Mới, Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến tre, Mỹ Tho, Cai Lậy, Cao Lãnh, các cô gái đều có nét đặc thù riêng làm thành nét duyên dáng làm tôi nhớ mãi không quên. Xin nhắc lại đây là ngày xưa của những năm 1967. Bây giờ thì tôi mù tịt nên chẳng dám viết gì.
Ngước nhìn và xem xét cây thốt nốt tôi lên tiếng: ” Thốt nốt giống cây dừa nhưng trái lại khác…” ” Anh nói đúng… Trái thốt nốt màu tím như màu của trái cà tím, còn trái dừa màu xanh lúc còn non và vàng khi già. Trái thốt nốt hổng có nước ngọt như trái dừa đâu. Cơm của trái dừa mỏng và có vị ngọt trong khi cơm thốt nốt lại dày và không có vị… ” ” Ủa mà sao nước lại ngọt như…” Tôi ngắt lời Huyền. Hiểu ý tôi nàng cười sung sướng giải thích tiếp: ” nước thốt nốt được lấy từ cây chứ không phải ở trong trái dừa. Cực khổ lắm mới hứng được nước thốt nốt. Anh thấy cây thốt nốt cao lắm mà người ta phải leo lên tận ngọn, cắt cuống hoa để hứng nước vào ống tre. Bởi vậy nước thốt nốt quí lắm…” Tôi cười nhìn Huyền: ” Cũng như người Châu Đốc phải hông? ” Huyền cười gật đầu sung sướng nhận lãnh lời khen của tôi. Quả thật nước thốt nốt nguyên chất ngọt lịm, có thể nói ngọt như đường chứ không ngọt lờ lợ như nước dừa. ” Anh có ăn đường thốt nốt chưa? ” ” Chưa… ” ” Một hồi Huyền sẽ mua đường thốt nốt cho anh ăn để anh…” Nói tới đó nàng ngưng lại mỉm cười má hồng lên cho tôi biết nàng đang mắc cỡ. Điều chưa nói ra phải có gì làm cho nàng thẹn thùng. ” Để anh cái gì…” ”… Dạ… để anh nhớ hoài 1 cô gái Châu Đốc…” Huyền bật cười vui vẻ vì tìm được câu trả lời có ý nghĩa. Nhìn thẳng vào mặt tôi nàng lập lại và nhấn mạnh câu nói: ” 1 thôi chứ hổng có 2 nghen…” Tôi gật đầu: ” 1 đủ rồi…”
Đêm cuối cùng ở Châu Đốc, sau khi cơm nước xong Huyền rủ tôi ra công viên chơi. Thích ngồi ở nhà hơn song tôi cũng chiều nàng cùng đi bộ ra công viên nằm cạnh bờ sông. Đèn tỉnh lỵ thiếu điện hắt hiu màu vàng buồn và ủ ê. Ngồi cạnh nhau chúng tôi im lặng nhiều hơn nói. Nghĩ tới sáng mai lên xe trở lại đơn vị bỏ lại đây một người con gái mà mình thương yêu, mỏi mòn chờ đợi một người đi biền biệt ngày về tôi cảm thấy xót thương cho thân phận của người đàn bà trong chiến tranh. Câu thơ ” Không chết người trai khói lửa mà chết người gái nhỏ miền xuôi ” trong Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan làm tôi chạnh lòng nghĩ rằng Huyền đã chết nửa tâm hồn rồi khi tôi rời nàng sáng ngày mai. Nghĩ tới thơ tôi yêu cầu Huyền ngâm cho tôi bài thơ của nàng làm nhưng nàng lắc đầu cười: ” Huyền sẽ đọc cho anh nghe bài thơ hổng phải của Huyền mà Huyền thích và biết anh cũng thích nữa…”.
Mơ hồ tiếng sóng vỗ, tiếng gió rung cây và tiếng đọc thơ buồn da diết của người ngồi dựa vào mình, tôi nghe như từng giọt nước mắt rơi trong hồn mình: ” Đưa người, ta không đưa qua sông… .Sao có tiếng sóng ở trong lòng… Bóng chiều không thẳm, không vàng vọt… Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?… Đưa người ta chỉ đưa người ấy… Một giã gia đình một dửng dưng… Li khách! Li khách! Con đường nhỏ… Chí lớn chưa về bàn tay không… Thì không bao giờ nói trở lại!… Ba năm ” người tình ” cũng đừng mong...”. Tôi quay qua nhìn Huyền khi nghe nàng đổi hai tiếng mẹ già thành ra người tình. Sóng vỗ bờ đá và sóng ở trong lòng tôi nữa. Bây giờ tôi mới thấm thía những câu thơ của thi sĩ Thâm Tâm. Ôi bóng chiều không thẳm không vàng vọt… Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong.
Nhìn vào đôi mắt lóng lánh lệ của Huyền tôi mới biết thế nào là hoàng hôn trong mắt trong. Khóc mà không có âm thanh. Khóc mà không có ngôn từ. Tôi nhớ lại những giọt nước mắt của mẹ tôi. Tôi nghĩ tới một sự chia lìa càng sớm càng tốt. Tôi muốn và tôi cầu xin Huyền hãy quên tôi để sống cho chính mình. Tôi với nàng gặp gỡ là để chia xa thì luyến lưu làm chi …Ta biết người buồn chiều hôm trước… Bây giờ mùa hạ sen nở nốt… Một chị, hai chị cũng như sen… Khuyên nốt em trai dòng lệ sót…. Ta biết người buồn sáng hôm nay… Giời chưa mùa thu tươi lắm thay… Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc… Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay… Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!… Mẹ thà coi như chiếc lá bay… Chị thà coi như là hạt bụi… Em thà coi như hơi rượu say… Tình thà coi như mây trắng bay… Huyền im lặng thật lâu sau khi đọc hết bài thơ Tống Biệt Hành mà nàng đã thêm vào câu cuối cùng. Tôi biết vai mình nặng và ướt vì có người gục đầu vào đó.
Sáng hôm sau, mặc dù Huyền hẹn sẽ gặp để tiễn tôi đi nhưng tôi đáp chuyến xe sớm nhất rời Châu Đốc. Tôi sợ gặp lại Huyền. Tôi sợ tiễn đưa. Ngồi trong lòng chiếc xe đò chật hẹp tôi hỏi: bao giờ lòng tôi mới hết tơ vương. Không có câu trả lời.
chu sa lan
Hương Áo Mộng
Điện, ông trung sĩ trưởng toán quân lương của đại đội cười cười khi trao lá thư cũ và nhầu nát cho tôi. Cầm lấy phong thư với cọc tiền lương, tôi nói lời cám ơn Điện xong nhét hai thứ đó vào túi áo rồi bước ra ngoài sân. Nắng bên kia con sông hẹp vàng hực. Hàng dừa nước đong đưa trong gió nhẹ. Ngồi xuống gốc cây quen thuộc ngó ra bờ sông, tôi chậm chạp lấy phong thư ra. Nhìn nét chữ như ” rồng bay phượng múa ” của Huyền, tôi mỉm cười. Hình ảnh cô gái Châu Đốc hiện ra lung linh nhạt mờ trong trí nhớ của tôi. Hơn ba năm rồi tôi không gặp mặt cô giáo thi sĩ. Thư từ khi có khi không. Huyền viết thư cho tôi nhiều hơn tôi viết cho nàng. Xé phong thư hơi nhầu nát, tôi lấy ra tờ giấy học trò. Đây là một việc khác thường, bởi vì Huyền thường hay viết thư trên giấy pelure màu xanh. Lá thư ngắn, gọn.
– Anh thương,
Huyền xin lỗi anh vì gấp quá nên chỉ viết vội vài dòng cho anh. Em vừa nhận được thư của anh Thiều nói sẽ về nhà đầu tháng tới tức là ngày 1-4-1971. Ảnh nhờ em nhắn với anh là nếu có thể anh về nhà gặp ảnh. Ảnh mong gặp anh lắm. Anh cũng biết lâu lắm rồi anh chưa trở lại CĐ, cũng như có một người mong được thấy cái ” bản mặt đáng ghét ” của anh… Vậy anh nhớ về nghen…
Gấp phong thư lại tôi ngồi im nghĩ ngợi. Từ ngày đi lính tới nay đã mấy năm tôi không gặp lại Thiều. Huyền, trong một lá thư cách đây khá lâu có nói, không biết vì lý do gì mà Thiều, đang học đại học sư phạm ở Sài Gòn, đã bỏ dở việc học và tình nguyện đi Thủ Đức. Điều khiến cho tôi ngạc nhiên là thằng bạn nhút nhát và hiền lành, sau khi ra trường lại chọn về Biệt Động đóng đâu đó ở cao nguyên. Đây là dịp cho tôi gặp lại Thiều, thằng bạn từ hồi trung học may mắn còn sống sót trong số gần năm chục thằng ở trung học.
Buổi chiều xuống nhanh. Cơm nước xong, trong căn hầm mà cũng là nhà của mình hơn một năm, tôi nằm im mường tượng tới ánh mắt long lanh buồn của Huyền đêm giã từ cách đây ba năm. Hai đứa ngồi với nhau nơi công viên cạnh bờ sông. Đêm thăm thẳm sâu. Gió lành lạnh làm cho Huyền phải rút sát vào tôi như tìm chút hơi ấm. Tôi im lặng nhiều hơn nói. Trái với lệ thường Huyền cũng im lặng ngã đầu vào vai tôi nhìn dòng sông Hậu về đêm. Chút ánh đèn điện lù mù của công viên vừa đủ soi sáng khuôn mặt buồn nhiều hơn vui của nàng. Ba năm không ngắn nhưng chắc cũng không dài để tôi có thể quên người con gái đặc biệt này.
Một tháng trôi qua bình thường cho tới ngày cuối của tháng 3. Từ Long An tôi đón xe đi Châu Đốc. Đường không xa nhưng phải mất cả ngày vì phải qua bắc Mỹ Thuận và bắc Vàm Cống xong còn phải đón xe từ Long Xuyên về Châu Đốc nữa. Dù đường xá xa xôi cách trở tôi cũng phải đi vì muốn gặp lại thằng bạn thân. Tự trong thâm tâm tôi biết, Huyền mới chính là người mà tôi muốn gặp nhất. Tôi muốn biết ba năm qua nàng có thay đổi gì không, nhất là tình cảm đối với tôi. Dù không muốn bị ràng buộc nhưng nếu biết Huyền vẫn còn yêu thương thì điều đó làm cho tôi sung sướng và hãnh diện. Tôi ích kỷ, nhỏ nhoi, hèn mọn ở chỗ đó. Giống như đứa con nít, có món đồ chơi, dù không thích chẳng thà bỏ xó chứ không chịu để cho nó lọt sang tay người khác. Tôi không muốn nàng yêu ai ngoại trừ tôi. Cho dù sau này nàng có lấy chồng thì hình bóng của tôi vẫn ở trong tim nàng. Cũng như tôi, nếu có lập gia đình với bất cứ ai thì hình ảnh của Huyền vẫn được tôi gìn giữ trong ngăn ký ức của mình. Tôi là người sống để hoài niệm quá khứ và hoài niệm quá khứ để mà sống. Đó cũng chính là sự mâu thuẫn trong tôi. Bởi vậy kỹ niệm thật khó mà phai mờ đối với tôi. Ngồi trong lòng chiếc xe đò cũ kỹ, dơ dáy và ồn ào; tôi để ý nghĩ mặc tình rong chơi cho tới khi xe dừng ở bắc Mỹ Thuận. Theo dòng người xuống phà ra tới giữa sông, nhìn mênh mông nước chảy, tôi nhớ mấy câu thơ của Huy Cận: ” sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp… con thuyền xuôi mái nước song song… người về nước lại sầu trăm ngã...”. Nước đẩy tôi về vùng Thất Sơn trong lần gặp nhau ba năm trước, Huyền đứng cạnh gốc cây thốt nốt. Tà áo dài của nàng lộng gió bay về núi Cấm. Nụ cười hạnh phúc. Tôi hỏi ” … thường ngày Huyền có cười như đi với anh không? ”. Nàng trả lời một câu nghe thật bùi ngùi: ” Chỉ cười khi có anh. Lòng em chỉ ấm khi có anh bên cạnh…”. Tôi ước gì chinh chiến chấm dứt để tôi có thể cởi bỏ quân phục, trở về bên nàng sống một đời bình yên và hạnh phúc. Nhưng súng vẫn nổ, người vẫn chết và tôi, mỗi khi bóng tối ụp xuống, lủi thủi trong căn hầm ẩm mốc, sống cô đơn và buồn bã kéo dài đời lính đóng đồn. Xe dừng nơi Bắc Vàm Cống. Sông Hậu miên man trầm lắng, nước đục phù sa và lang thang lục bình trôi. Ta bên này sông Tiền… Em bên kia sông Hậu… Chờ nhau bao lâu nữa… Hai chữ bên này và bên kia cứ lẩn quẩn trong trí tôi cho tới khi chiếc bắc cập cầu. Lại một lần đổi xe. Người cũng như xe đến rồi đi, thay nơi ở, đổi chỗ về. Từ khi sinh ra tới bây giờ, tôi đã bao lần dời nhà, thay chỗ ở. Nhiều lắm không nhớ hết. Những địa danh mà tôi đã đi qua trong đời lính. Cà Mau với Đầm Dơi, Năm Căn, Sông Ông Đốc, Thới Bình, U Minh Hạ, Trèm Trẹm, Cạnh Đền. Bạc Liêu. Sóc Trăng. Chương Thiện. Rạch Giá với Tắc Cậu, Xẻo Rô, Miệt Thứ, U Minh Thượng, Rạch Sỏi. Ngồi trên chiếc xe đò chạy đường Long Xuyên- Châu Đốc, tôi miên man suy nghĩ. Một thằng bạn thân bảo tôi có tật hay suy nghĩ, vì thế mà tôi không thể thành một người lính tốt được. Tuy nhiên lằn ranh của cái tốt và cái xấu mơ hồ, lộn xộn và khó mà đoán định được. Tôi nào muốn trở thành một người lính tốt, một chiến sĩ xuất sắc. Tôi chỉ muốn làm tròn bổn phận của kẻ cầm súng bảo vệ cái gì mình tin tưởng hay nói theo cách mà người ta hay điểm tô cho đẹp là trả nợ núi sông. Xe qua Cái Dầu. Tôi biết còn cách tỉnh lỵ Châu Đốc không xa. Tự dưng tôi hồi hộp và điều đó khiến cho tôi buồn cười. Mấy năm quen nhau, tôi biết Huyền là cô gái dịu dàng và hiền thục. Cho dù bây giờ có thành cô giáo, nàng cũng vẫn là cô giáo-thi sĩ lãng mạn, đa sầu đa cảm và mơ mộng như lúc còn đi học. Nàng đâu có dữ dằn, hăm he tôi này nọ để làm tôi phải lo âu, hồi hộp khi diện kiến nàng. Trong nhiều thư gởi, nàng có nói dù yêu thương tôi tha thiết và mong ước được làm vợ nhưng nàng không muốn ” ép duyên ” mà để tôi hoàn toàn tự do quyết định muốn lấy ai cũng được. Dĩ nhiên nàng cũng nhắc khéo ” lấy em tốt hơn ” vì em yêu anh, hiểu anh, anh em mình tính tình và sở thích hợp với nhau hơn, anh viết văn em làm thơ… Nàng không nghĩ tới chuyện hai người được bạn bè thương mến gọi đùa là ” sĩ ? ” sống chung với nhau hoài đâm ra hết ” sĩ ” mà ” sỉ ” vả nhau nhiều hơn. Đối với tôi, yêu là một chuyện mà lập gia đình lại là chuyện khác. Yêu thương là hành động lãng mạn của tình cảm, trong khi lấy vợ là một hành động thực tế kể cả lấy người mà mình yêu thương. Tôi là lính, nguy hiểm có thể không nhiều như những người lính khác song không có nghĩa tôi không bị chết một cách bất ngờ. Đối với lính, trừ các ông ở Sài Gòn hay lính văn phòng không ít thì nhiều cũng sẽ phải đối diện với kẻ địch. Mà súng đạn thì vô tình lắm. Là cô giáo, Huyền nên lấy chồng cùng nghề có vẻ phù hợp hơn. Chỉ có điều không phù hợp là, nàng bảo không yêu ai ngoại trừ tôi. Đó là một trở ngại. Hiền hậu và nhu mì song Huyền cũng rất bướng, cứng đầu và cương quyết khi bảo vệ điều mà nàng tin tưởng.
Xe dừng tại bến xe. Không biết Thiều có mặt ở nhà chưa nên tôi tạt vào cái quán bên đường, nhìn xế về phía cổng trường Thủ Khoa Nghĩa để chờ tới lúc tan học. Không lâu lắm, bóng cô gái mà tôi phải vượt gần 200 cây số để gặp thấp thoáng trong đám học trò chỉ còn lác đác ở sân trường. Thủ Khoa Nghĩa là một ngôi trường đẹp trong số những ngôi trường của miền lục tỉnh như Thoại Ngọc Hầu Long Xuyên, Đoàn Thị Điểm Cần Thơ, Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho và Phan Thanh Giản Bến Tre. Nó có đẹp hơn những ngôi trường khác không thì tôi không biết, nhưng tôi thích nét ấm cúng, thơ mộng, yên ả và thanh tịnh của trường này. Không nhỏ quá mà cũng không lớn quá để cảm thấy chật chội hay lạc lõng. Trường Hồ Ngọc Cẩn của tôi ở Gia Định lớn hơn song cảnh trí lại không đẹp. Sau này vì đông học trò nên phải xây thêm lớp bằng cách lấn sân trường khiến cho sân chơi mất hết cây cối và chật hẹp. Vào trong đó rồi tôi có cảm tưởng như ở trong một cái hộp có nhiều ngăn.
Phải thành thật mà nói, nhìn thấy ánh thu ba long lanh nước mắt của Huyền khi gặp lại, tôi có thể làm bất cứ điều gì mà nàng yêu cầu ngay cả rời quân ngũ để về sống cạnh nàng. May là nàng không năn nỉ tôi chạy chọt để được đổi về Châu Đốc làm một anh lính văn phòng sáng đi chiều về đúng giờ giấc.
– Anh…
Huyền mừng vui tới độ nghẹn ngào chỉ kêu được một tiếng. Phần tôi cũng chỉ cười hỏi nhỏ.
– Huyền khỏe?
– Dạ cũng khoe khỏe…
Tôi bật cười vì cái giọng hờn mát và ngôn từ của Huyền. Nàng vẫn không thay đổi cung cách nói chuyện với tôi.
– Có nghĩa là không được khỏe hay chỉ khỏe khi thấy anh…?
– Cả hai… Anh về rồi chừng nào anh đi?
Tôi thở dài thầm lặng. Vừa mới thấy mặt nhau mà đã nghĩ tới chuyện lìa xa nhau rồi. Có lẽ cảm nhận được tiếng thở dài của tôi, Huyền lên tiếng bằng giọng nói cố làm ra bình thường song vì vậy mà lại trở nên không bình thường.
– Huyền chỉ hỏi vậy thôi… Anh muốn đi lúc nào cứ tự nhiên…
Tôi nheo mắt nhìn cô gái đang đứng trước mặt mình. Vài đứa học trò đi ngang cúi đầu chào Huyền rồi vừa đi vừa cười vừa rù rì. Chắc chúng nó ngạc nhiên khi thấy cô giáo đứng nói chuyện với một ông lính lạ mặt mà chúng nó đoán là bồ của cô giáo.
– Có nghĩa là Huyền không năn nỉ anh ở lại…
– Hông… hông năn nỉ mà cũng hông níu kéo…
Cười vì cái giọng dấm dẳn của nàng, tôi đùa.
– … Nhưng có đe dọa và trói buộc…
Huyền ngước nhìn tôi cười. Tôi nhận ra nụ cười thật tươi tắn mà ánh mắt nâu đen lại buồn bã và óng ánh như có chút nước mắt, biểu lộ chút gì mâu thuẫn và tương phản trong lòng nàng.
– Thiều có nhà chưa?
– Dạ có… Ảnh về từ hôm qua…
– Vậy thì mình đi về… Đi xe lôi hả em?
– Dạ…
Tôi ngoắc chiếc xe lôi đang đậu bên kia đường. Hai đứa leo lên. Thay vì ngồi cạnh, tôi lại ngồi đối diện cốt ý ngắm nghía cô giáo để xem có gì thay đổi. Biết tôi đang chiếu tướng nên Huyền có vẻ ngượng ngùng và bối rối.
– Có gì thay đổi đối với Huyền…
Huyền ngước lên với tia nhìn dò hỏi. Tôi cười tiếp.
– Về tình cảm…
Gió từ dòng sông Hậu kéo về bay bay những sợi tóc đen dài của Huyền. Tôi nghe mùi hương thoảng đưa mà tôi thường hay gọi đùa ” hương sông Hậu ” khi hôn lên tóc của nàng.
– Chẳng có gì thay đổi… chỉ có chờ… trông… ngóng… đợi… mong…
– Chờ ai vậy?
Tôi vừa cười vừa hỏi. Huyền háy tôi một cái thật dài.
– Em mà là con trai em đạp cho anh một đạp văng xuống đường liền…
Nói xong Huyền ngước nhìn tôi rồi bật cười hắc hắc. Tôi cũng cười.
– Con gái cũng đạp được mà…
– Em yếu đuối hổng nở đạp anh văng ra khỏi đời em…
– Chắc tại anh nặng tình với em nên em hổng nở đạp…
Cô giáo lườm tôi một cái và thân hình hơi ngã nghiêng vì chiếc xe quẹo vào con đường nhỏ dẫn về nhà.
– Anh mà nặng tình…? Tình của anh nhẹ hều… Anh là người tình tệ nhất thế gian này…
Ngừng lại giây lát Huyền thở dài nhè nhẹ nói tiếp. Giọng của nàng buồn như than thở.
– Nếu anh là người tình tệ nhất thế gian thì em là cô gái ngu nhất thế gian…
Thấy Huyền có vẻ buồn buồn, tôi bèn lảng sang chuyện khác.
– Thiều ra sao?
– Đen và ốm nhách… xí trai lắm… kể cả anh luôn…
Nói xong Huyền bật cười thánh thót. Tôi cũng cười thừa nhận điều đó. Lần gặp nhau này tôi nhận thấy Huyền ít lộ ra vẻ buồn bã hơn nhưng điều đó không có nghĩa nàng vui hơn. Dường như nàng đã già dặn, đã trưởng thành hơn trong suy tư nên từ đó biết cách giấu kín nỗi buồn của mình không để lộ ra ngoài cho người khác thấy được. Huyền là cô gái đa cảm, lãng mạn, mơ mộng, thích thi ca, sống thuần nội tâm, thiên về tình cảm hơn vật chất vì vậy khó mà hoà đồng với mọi người cùng lứa tuổi hay cùng nghề nghiệp. Lần đầu gặp nhau ở Sài Gòn, tôi với Huyền đã nói chuyện văn chương, thi ca rất nhiều. Tính lãng mạn và mê văn nghệ đã kéo hai đứa gần nhau và cuối cùng ràng buộc hai đứa lại với nhau.
– Anh vẫn còn viết?
Huyền hỏi.
– Chút chút…
Tôi trả lời hai tiếng rồi hỏi lại.
– Em vẫn làm thơ?
Huyền gật đầu. Nàng lây cách nói chuyện của tôi nên thỉnh thoảng bị ba má rầy là con nhỏ này dị hợm hỏi không trả lời mà chỉ gật đầu.
– Anh có đọc thơ em trên Tiểu Thuyết Tuần San…
Tôi ngừng lại giây lát như muốn người đối diện phải chú ý tới lời sắp nói của mình.
– Dường như có sự chuyển hướng trong thơ của em…
Trả lời câu hỏi của tôi bằng cái gật đầu nhìn nhận rồi lát sau Huyền mới thong thả nói tiếp.
– Em lớn rồi… Hết cái thời than mây khóc gió, khóc tình yêu của tuổi học trò rồi… Em muốn, bằng thi ca, tham dự vào cuộc chiến tranh này, đau cái đau của dân tộc, chia xẻ nhọc nhằn và gian khổ với những người bên cạnh mình, với những người lính như anh. Yêu anh và cám ơn sự hi sinh của anh không gì hơn là nhìn thẳng vào cuộc chiến bằng thái độ trung thực của một người đang sống trong chiến tranh. Em không dám nói em là trí thức, nhưng em cũng có chút hiểu biết để nhận thức anh chiến đấu cho ai và cho cái gì…
Tôi nhìn Huyền. Cô gái đang ngồi trước mặt tôi đã lớn với cái nhìn khác lạ và mới mẻ hơn. Xe dừng trước cửa nhà. Nghe tiếng hò lớn của ông anh ruột, Huyền cười đùa.
– Tối nay anh tha hồ ăn với nói… Em thấy anh ba mua bia đợi anh về…
Tôi xuống xe trước. Huyền đỏ mặt cười sung sướng khi thấy tôi làm cử chỉ khác thường là đưa tay ra cho nàng nắm lấy để rồi âu yếm dìu nàng xuống xe.
– Sao bữa nay anh nịnh em dữ vậy?
Trả tiền xe xong tôi thì thầm vào tai nàng.
– Sáng thứ hai anh mới đi… Anh dành cho em một ngày trọn… 24 giờ phép của anh…
Nét mặt của cô giáo rạng rỡ lên. Giọng nói âu yếm và trữ nặng tình của nàng rót vào tai tôi.
– Chủ nhật nghen… Em muốn anh làm mọi em nguyên ngày chủ nhật…
Tôi gật đầu. Cười hắc hắc Huyền ủn vào lưng đẩy tôi đi trước. Thiều bước ra với bộ quân phục rằn ri. Tôi với nó xiết tay nhau thật chặt. Không có lời chào, thăm hỏi gì hết. Nói cũng thừa thời nói làm chi cho mệt. Tôi chào ba má Huyền. Ông bà rất vui mừng vì sự có mặt của tôi trong nhà. Cả hai đã biết mối giao tình giữa tôi với Thiều và Huyền thành ra đối đãi với tôi như con cái. Bữa cơm chiều thật vui vẻ, ấm cúng và thân mật. Tối hôm đó, tôi với Thiều thức tới hơn 1 giờ sáng, uống bia ít mà đối thoại cũng không nhiều lắm. Dường như sự im lặng nói nhiều hơn hoặc giả hai đứa đồng cảm với nhau rồi thì cần gì ngôn từ nữa.
– Chuyện của mày với Huyền ra sao?
Thiều lên tiếng. Có lẽ đó là điều mà nó cần biết và cần nói với tôi nhất.
– Huyền nói với mày cái gì?
Thiều lắc đầu. Thấy nó có vẻ ngập ngừng như khó nói, tôi hỏi.
– Mày nghĩ tao nên lập gia đình với Huyền?
Thiều làm thinh. Thật lâu nó mới cựa mình, với tay đốt thuốc, hít hơi dài, hớp ngụm bia rồi cất giọng rời rạc, không thành câu và thiếu ý nghĩa song nếu gom góp lại tôi hiểu được.
– Mày lãng mạn… nó mơ mộng… mày đa tình… nó đa cảm… lấy nhau khổ nhiều hơn… thì thôi nên xa nhau… dứt khoát sớm càng tốt… càng lâu càng bi lụy nhiều hơn… Muốn nhớ nhau hoài, mày nên để cho tình đẹp cũng như đừng để cho người mà mình yêu thương vỡ mộng về mình. Tao nói như thế nhưng tùy tụi mày… Nếu mày muốn lột son phấn của tình yêu để thấy cái mặt thực thì cứ lấy nhau…
Tôi bật cười vì câu nói cuối của Thiều. Tôi hiểu nó cũng như tôi. Sống trong sự sợ hãi và lo âu là điều không ai muốn. Rất nhiều đêm, nằm trong hầm núp bóng tối vây quanh, lắng nghe tiếng depart của pháo, tôi hồi hộp tự hỏi trái đạn vô tình đó sẽ đi về đâu, rớt xuống nơi nào, có ngay chỗ mình nằm? Lương lính ba cọc ba đồng, chẳng đủ cho mình hút thuốc, ăn nhậu và xài vặt lấy gì nuôi vợ với ba con. Hằng ngày nhìn thấy cảnh mấy bà vợ lính ăn mặc luộm thuộm, sống trong những ngôi nhà tồi tàn, còn con lính thì gầy gò đói ăn đói uống, chẳng được học hành gì hết, tôi không muốn vợ con phải sống cảnh đời nheo nhóc và tăm tối. Điều đó làm cho tôi đắn đo khi có ý định lập gia đình với Huyền hay bất cứ cô gái nào khác…
Nước sông Hậu chảy miên man. Sóng vỗ bờ. Đêm chủ nhật thật yên tịnh. Công viên vắng lặng. Gió man mát thổi bay tà áo dài đen của Huyền. Bên cạnh nàng, tôi đứng im nhìn mặt sông thăm thẳm. Hai đứa chỉ còn có đêm nay thôi. Ngày mai tôi sẽ đi và không biết bao giờ trở lại. Hiểu điều đó nên Huyền cam chịu, không than van và hờn giận gì hết. Tôi đi làm tròn bổn phận của người lính để cho nàng được sống tự do, dù là tự do sống với nỗi buồn của nàng.
– Em thương anh…
Quen biết và vương vấn tình cảm từ hồi còn đi học, lần đầu tiên Huyền mới tỏ bằng lời. Nhìn vào ánh mắt long lanh buồn có những sợi lông mi dài cong cong, tôi mỉm cười.
– Anh biết… cũng như anh biết anh thương em… Nói ra thì có vẻ tiểu thuyết và cải lương nhưng đó chính là sự thực. Cũng tại anh thương em mà anh không muốn em trở thành vợ anh…
Huyền nhìn tôi dò hỏi. Tôi kể cho nàng nghe về cảnh đời tối tăm của người lính, về sự đợi chờ cái chết của tôi hằng đêm, về những suy tư vụn vặt của tôi khi nằm co ro trong căn hầm ẩm thấp nghĩ về những người thân yêu của mình.
– Anh không muốn em trở thành góa phụ cũng như những đứa con của anh lớn lên không có cha. Anh sợ… Em đã biết là anh sống xa cha của anh từ nhỏ…
Huyền nhẹ gật đầu như vẫn còn nhớ những gì tôi kể cho nàng nghe về chuyện gia đình của tôi. Im lìm nhìn xuống mặt nước sáng mờ mờ nhờ ánh đèn điện vàng của công viên, nàng chợt nắm lấy tay tôi rồi xiết chặt lại.
– Em sẽ chờ anh…
– Bao lâu?
– Bao lâu em cũng chờ…
– Em không sợ già…
Huyền lắc đầu rồi mới cười nói một câu.
– Em già mà tình em không già…
Nói xong nàng xoay người đi trước. Đứng nhìn theo tà áo dài đen bay trong gió tôi có cảm tưởng như là cái vẫy tay chào từ biệt. Sáng thứ hai, tôi rời Châu Đốc thật sớm. Thiều vẫn còn ngủ hay cố ý để em gái tiễn tôi ra bến xe. Gió ban mai từ sông Hậu thổi về bay bay tà áo dài màu đen của Huyền. Ngồi trong xe, nhìn nàng đứng im lặng, buồn bã và cô đơn, tôi biết còn lâu hoặc sẽ không bao giờ gặp lại nàng nữa. Dù xa cách và chia lìa, hình ảnh của nàng với tà áo dài màu đen đã theo tôi suốt cuộc đời.
chu sa lan
nếu như sống không có những áng văn – thì vũ trụ chỉ trơ toàn sỏi đá – nếu sỏi đá chỉ trơ trơ vô cảm – lời thơ văn sỏi đá cũng mềm lòng —- trải ân tình, yêu vô bờ lãng mạn – thiết tha lắm nhưng nặng tình non nước – trái tim anh và khối óc tuyệt vời – cám ơn anh những giòng châu ngọc ……… rất ngưỡng mộ nhà văn Chu Sa Lan ……… 3 – 4 – 2016 ….. dung,
Cám ơn những câu viết như thơ của cô kim. Đó là cơn gió làm cho tà áo bay lên lay động kỹ niệm mà tôi đã cất giữ. 2 chữ ” nhà văn ” thì tôi không dám nhận… cứ gọi tôi là gì cũng được ngoại trừ nhà văn…