Phiên Tòa Dưới Âm Phủ- 3

7

Nỗi Buồn ” Màu Tím ” 

2 giờ chiều. Đợi cho mọi người an vị xong, Thôi Phán Quan bước ra đứng nơi khoảng trống trước mặt Diêm Vương và dãy bàn dành cho bị can ngồi. Ánh mắt sáng rực của ông ta hướng về người dự khán xong di chuyển qua chỗ ngồi của bồi thẫm đoàn rồi sau cùng dừng lại nơi Hình Chí Mô. Mọi người nghe giọng nói rổn rảng của ông ta vang lên.

– Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Kính thưa đồng bào. Để tiếp tục phiên xử tôi xin mời một nạn nhân đồng thời cũng là nhân chứng lên trình bày về tội ác của Tố Bồi Bút nói riêng và của lão Hình Chí Mô và hội kín của hắn nói chung…

Hướng về dãy bàn nơi nhân chứng ngồi Thôi Phán Quan cao giọng.

– Tôi kính mời thi sĩ Hữu Loan…

Thiên hạ vỗ tay rần rần đồng thời đứng lên để tỏ lòng ngưỡng mộ và trọng vọng thi sĩ đã làm một bài thơ vượt không gian và thời gian…

Ai ai cũng đều chăm chú nhìn một ông già râu tóc bạc phơ, gầy gò, hốc hác, lụm cụm bước đi lên ghế ngồi của nhân chứng. Dường như động lòng thương hại và cũng để tỏ sự kính trọng của mình, Thôi Phán Quan ân cần hướng dẫn nhà thơ tới tận ghế ngồi. Đợi cho nhân chứng yên vị xong Thôi Phán Quan bắt đầu bằng câu nói.

– Dù ở âm phủ xa xôi song tôi cũng đã đọc qua bài thơ nổi tiếng của ông. Xin ông vui lòng cho mọi người biết động lực, hay nguyên do nào đã làm cho ông sáng tác một bài thơ được mọi người ưa thích từ xưa cho tới bây giờ và mãi mãi…

Nhờ ngồi ở hàng ghế đầu với khoảng cách gần cho nên Huyền thấy rõ nét buồn rầu và u ẩn hiện ra trên gương mặt già nua và nhiều nhăn nheo của nhà thơ. Hơi mỉm cười thi sĩ Hữu Loan cất giọng yếu vì tuổi già và bệnh hoạn.

– Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ duyên được cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người, nhờ ông mà năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – tôi chơi ngông vác lều chõng ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo tự học cũng có thể đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi chẳng có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài Pháp thời đó rất khó khăn. Số người đỗ trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5, 6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những cậu khóa ấy, trong số có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuân, Đỗ Thiện và tôi…

Với mảnh bằng tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà Tham Kỳ chú ý, vời về nhà dạy kèm cho hai đứa con nhỏ. Tên thật của bà Tham Kỳ là Ngọc Chất, vợ của ông Lê Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, bà Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt đến…

Bà Kỳ là một người hiền lành tốt bụng, đối xử với tôi rất đàng hoàng tử tế, coi tôi chẳng khác người nhà. Nhớ lại ngày đầu tiên khoác áo gia sư, bà gọi mãi, đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi – mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ! “. Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, viết. Tên em là Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh ở trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đó nhưng ít nói và mỗi lần mở miệng là cứ y như một ” bà cụ non “. Đặc biệt em chăm sóc tôi hàng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn, lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng ướt em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà đem ra giếng giặt…

Có lần tôi kể chuyện ” bà cụ non ” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em dỗi! Suốt một tuần liền, em nằm lì ở buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện cho em nghe; rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy, ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: ” Mới ốm dậy, còn yếu lắm, không đi được đâu! “. Em không chịu, nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà Kỳ đưa em lên núi chơi…

Xe kéo chạy chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc con, tôi đuổi theo muốn đứt hơi! Lên tới đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em. Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời. Không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:

– Thầy có thích ăn sim không?

Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên, đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ… Khi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen nhánh, chín mọng.

– Thầy ăn đi!

Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng và trầm trồ:

– Ngọt quá!

Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật chưa bao giờ tôi được ăn những quả sim ngọt đến thế!

Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… Lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó, nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi… Tôi quay đầu nhìn lại… Em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn lại cho tới khi không còn nhìn thấy em nữa…

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi có nhận được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 đã có nhiều chàng trai đến ngõ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ…

Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp…

Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không ” môn đăng hộ đối ” một chút nào. Mãi sau mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ” soạn kịch bản “.

Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, ” không đòi may áo mới trong ngày hợp hôn “, bảo rằng là: ” Yêu nhau, thương nhau cốt cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả “. Tôi cao ráo, học giỏi, làm thơ hay lại… đẹp giai nên em thường gọi đùa là ông chồng độc đáo.

Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!

Hai tuần phép của tôi trôi đi thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ đây em không còn là cô bé Ninh nữa mà đã là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, tôi lại quay đầu nhìn lại… Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ cảm thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.

Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồng ( thuộc ấp Thị Long, Nông Cống ), vì muốn chụp lấy tấm áo bị nước cuốn đi nên trượt chân té xuống sông chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em đi vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại cho tôi nỗi đau không gì có thể bù đắp nổi! Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.

Nỗi đau ấy tôi phải giấu kín trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn… Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm tư gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong tôi được dịp bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng. Hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi, chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:

– Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội

Những em nàng có em vừa mới lớn

Khi tóc nàng đang xanh

Tôi người chiến binh

Xa gia đình…

Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại nhà một người bạn ở Thanh Hóa. Anh bạn này đã chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Hoa Sim Tím…

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi mới viết nổi những câu chiều hành quân/ qua những đồi hoa sim /những đồi hoa sim/ những đồi hoa sim dài trong chiều không hết /màu tím hoa sim /tím chiều hoang biền biệt và chiều hoang tím có chiều hoang biết/ chiều hoang tím tím thêm màu da diết.

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội; từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi ” hay cãi, thích chống đối, không thể làm những gì trái với suy nghĩ của tôi “. ” Bọn nó ” nhiếc móc, chê tôi ủy mị, hoạnh họe tôi đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Tôi chẳng cần, mặc kệ chúng! Tôi thương, tôi nhớ Hoa Sim của tôi quá rồi! Với lại, tôi cũng đã chán ngấy cái mặt nạ yêu nước của ” bọn nó ” rồi…

Nhà thơ ngừng lại để uống hớp nước. Giọng nói bùi ngùi và đôi khi có nước mắt của ông ta khiến cho Bình phải thở dài. Quay qua Huyền anh thấy cô nàng đưa khăn tay lên chùi nước mắt.

– Cũng vì bài thơ Hoa Sim Màu Tím này mà tôi bị người ta trù yểm và đày đọa…

Nghe kể tới đây Thôi Phán Quan chợt xen vào.

– Xin ông vui lòng cho biết lý do tại sao người ta lại hành hạ và ngược đãi ông chỉ vì bài thơ nổi tiếng này…

Thi sĩ Hữu Loan thở dài liếc qua chỗ Tố Bồi Bút rồi di chuyển về phía khung cửa sổ. Ánh mắt của ông ta nhìn vào quãng không như tìm kiếm hình bóng người vợ bất hạnh đã khuất vắng từ lâu lắm rồi. Lát sau ông ta mới thở dài từ từ nói tiếp.

– Tôi về quê chúng chẳng buông tha, theo dõi quản thúc, thường xuyên kiếm chuyện gây khó dễ tôi cũng chẳng cần biết. Theo tôi thì tình hình chung của đất nước bây giờ là thằng nào cũng lợi dụng trèo đầu cỡi cổ thằng dân chứ có cái gì đâu… Dù gian khổ và chết hụt nhiều lần, tôi nhất định không chịu quỵ lụỵ. Hồi ấy, ra làm ở ngoài trung ương thì bắt phải theo cộng sản nên tôi bỏ tôi về. Tôi bỏ về nó không cho về… Nó làm tội, làm tình; làm đủ cách để thủ tiêu nhưng mà tôi vẫn tin là tôi có sự che chở của Trời – Phật cho nên nó không thủ tiêu nổi, bao nhiêu lần đầu độc không xong… Đó là cái thời 1955 – 1956 khi phong trào Văn nghệ sĩ chống đảng bắt đầu bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài và đồng thời chống những Văn nghệ sĩ bồi bút đang tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca tụng đảng để kiếm chút cơm thừa canh cặn của chế độ.

Làm thơ phải có cái tâm mà phải là cái tâm linh thật thiêng liêng thì mới có thơ hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải làm về đảng, ca tụng đảng, ca tụng cộng sản, ca tụng cái buôn bán chiến tranh. Bởi vì cái đánh nhau là cái dễ kiếm chác lắm. Mà kiếm chác ở cái chiến tranh ấy thì khó kiểm tra lắm cho nên những cái bọn ăn bẩn ấy bao giờ cũng chủ trương chiến tranh, buôn bán chiến tranh. Mà tôi thì tôi thấy cái đấy là cái khổ dân nhất nên tôi chống hết sức. Lúc giờ người ta đang một tí là đề cao Hình Chí Mô, hai tí là đề cao Hình Chí Mô… trong khi tôi lại đề cao cái tình yêu. Tôi khóc người vợ tử tế với mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó khóc như vậy, nó cho là khóc cái tình cảm riêng… Y như trong thơ nói đấy: tôi lấy vợ rồi đi bộ đội, mới lấy nhau được có hơn tháng, ở nhà bà ấy đi giặt rồi chết đuối ở sông… Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc. Bài thơ ấy lúc bấy giờ nó cho là phản động, làm thơ là phải làm về cộng sản, làm về bác chứ không được khóc cái đau riêng của mình… Cái đau khổ riêng của con người tại sao lại không được khóc!?

Bọn nó xúc phạm đến danh dự và tình cảm thiêng liêng của người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan về thẳng nhà để đi cày. Bọn ấy không cho bỏ, bắt tôi phải viết đơn xin. Tôi không xin… Tôi có cái tự do của tôi, cái chuyện bỏ đảng, tôi muốn bỏ là tôi bỏ không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày, đi bừa, đi thồ, đi đốn củi đưa về, đi xe đá để bán, bọn nó phá tôi đủ cách, bắt giữ xe đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ phía trước, có hai càng phía sau thùng gỗ để đủn hay kéo đi. Xe cút kít nó cũng không cho, cấm không ai được bán bánh xe cho tôi nữa. Có lần tôi phải gánh bộ, gánh bằng vai tôi cũng cứ nhận. Tôi cứ gánh tôi làm, không bao giờ tôi chịu khuất phục. Thế mà chúng nó cũng theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an mật đi theo dõi, cho người theo hại tôi… Nhưng mà lúc nào cũng như có người cứu tôi! Có một cái lạ là chính thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên mật vụ nói thật với tôi là được giao lệnh giết tôi nhưng nó là cái thằng rất yêu quê hương, nhớ quê nhà. Nó thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Ninh Bình của nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy không nỡ giết tôi.

Ngoài bài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến nỗi không có đến cái chiếu mà nằm…

Thi sĩ Hữu Loan dừng lại uống thêm ngụm nước. Lát sau ông ta mới thở dài từ từ nói tiếp.

– Cuộc đời đẩy đưa, định mệnh dắt tôi đến với một người phụ nữ khác, sống cùng tôi đến ngày hôm nay. Bà tên Nhu, cũng là một người phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Bà vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố điền chủ của đảng cộng sản.

Nhớ lại, lúc đó, tôi còn là chính trị viên tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, hiểu biết luân thường đạo lý, lại có tâm hồn nghệ sĩ, nên tôi cảm thấy chán nản quá và không còn kính trọng lão Hình cũng như chủ nghĩa cộng sản nữa. Tuy nhiên, tôi đã trót làm đảng viên được mấy năm rồi. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng! Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xã tôi ở độ mười lăm cây số, có một gia đình địa chủ rất giầu, nắm trong tay gần năm trăm mẫu tư điền. Ông địa chủ giầu lòng nhân đạo, rất yêu nước thương người. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo tới chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là Trưởng Phòng Tuyên Huấn và Chính Trị nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông ta, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Riêng tôi rất quý mến và luôn luôn nhớ đến ông. Thế rồi một hôm tôi nghe tin gia đình ông ấy bị đấu tố. Hai vợ chồng bị đội đấu tố mang ra cho dân sỉ vả, nhục mạ, rồi chôn xuống đất để hở có cái đầu lên thôi. Xong, họ cho trâu kéo bừa qua lại hai cái đầu cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ xấu số chỉ còn có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội đấu tố đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo. Dã man hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm dân chúng cả việc lấy các con cái của địa chủ làm vợ làm chồng…

Thôi Phán Quán ngắt lời nhà thơ bằng một câu hỏi.

– Như vậy là lão Hình Chí Mô và đảng cộng sản đối xử tàn tệ với những người đã giúp đỡ chúng?

Nhà thơ Hữu Loan gật đầu trả lời.

– Đúng như vậy. Tôi xác nhận điều đó…

– Họ muốn giết người là giết. Muốn kết tội ai là kết tội mà không có đem ra tòa xử gì hết…?

– Đúng như vậy…

Gật gù mỉm cười Thôi Phán Quan nói trong lúc nhìn về phía bồi thẫm đoàn ngồi.

– Mời ông kể tiếp…

Nhấc ly nước lạnh lên uống một ngụm cho thông cổ nhà thơ Hữu Loan hắng giọng kể tiếp.

– Biết chuyện thảm thương giáng xuống gia đình ông bà địa chủ mà tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái của họ sinh sống ra sao, vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé mỗi buổi chiều cứ lén lút đứng bên ngoài song cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Khi gặp nhau, cô bé ấy nói vì đi nghe tôi giảng Kiều nhiều hôm để trâu ăn lúa, nên bị bắt phạt…

Lúc gần tới nơi, may sao tôi gặp cô ta áo quần rách mướp, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom tìm lượm vài củ khoai mà dân bỏ sót nhét vào túi áo, rồi chùi vội một củ vào quần đưa lên miệng gặm. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi lại gần hỏi thăm và được cô ta kể lại rành rọt hôm cha mẹ cô bị đấu tố chết ra sao. Cô ta khóc mếu nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hàng ngày cô phải đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong cái miếu hoang; cô rất đói khổ lo lắng, không biết ngày mai còn sống hay sẽ chết vì đói khát! Tôi nghe mà lấy làm thương tâm quá, trong lòng vô cùng xúc động. Suy nghĩ rất nhiều, tôi quyết định đem cô ta về quê tôi, rồi bất chấp lệnh cấm, tôi đã lấy cô ta làm vợ. Rất may là sự quyết định của tôi đã không nhầm. Khi xưa, quê tôi nghèo, nhà tôî cũng nghèo, tôi lại còn ở trong bộ đội nên không có tiền. Nhưng hai vợ chồng cố gắng chịu đựng đùm bọc nhau bữa đói bữa no… Cho đến ngày nay, bà ấy đã cho tôi 10 người con ngoan, 6 trai, 4 gái và cháu nội cháu ngoại hơn 30 đứa…

Thi sĩ Hữu Loan ngừng lời để ho. Căn phòng xử lặng trang trừ tiếng húng hắng ho của nhà thơ già yếu nhiều bệnh tật. Mọi người hầu như còn đang bàng hoàng vì lời kể của ông ta.

– Tôi là một người thích được tự do, tự do của riêng tôi và tự do của mọi người. Thấy ai mất tự do thì tôi bênh vực cho họ. Tôi cũng không bao giờ để cho chính mình bị mất tự do. Suốt đời tôi bao giờ tôi cũng thương người. Thấy người ta đói thì thương, ai rách thì cho mà ai bị áp bức thì binh vực. Không ai có thể áp bức tôi được. Áp bức là tôi chống lại. Nếu cần đánh nhau tôi cũng đánh…

Nhà thơ ngừng nói như để nghỉ mệt. Thôi Phán Quan mỉm cười. Đợi cho nhà thơ uống nước xong ông ta mới thong thả lên tiếng.

– Tôi có nghe một hiện tượng rất phổ biến…

Được Thôi Phán Quan mớm, nhà thơ hiểu ý cười nói.

– Đó là một hiện tượng quái dị do những tên nịnh hót và bợ đỡ làm ra. Chúng bắt mọi người gặp nhau, trước khi chào hỏi là phải nói như vầy:

– Ơn Đảng ơn Bác, đồng chí có khỏe không?

– Ơn Đảng ơn Bác lâu nay tôi ốm mãi. Ơn Đảng ơn Bác tôi mới xuất viện được hai hôm nay.

– Ơn Đảng ơn Bác vụ mùa này thu hoạch có đủ nộp không?

– Ơn Đảng ơn Bác thế mà em không hay biết gì…

Có tiếng người xì xầm và cười cợt phía bên trái của khu người ngồi coi rồi giọng nói vang lớn lên.

– Ơn đảng ơn bác mà sau năm 75 tôi mới biết ăn bo bo…

Một giọng đàn bà vang vang. Nghe giọng nói ai ai cũng biết bà ta già lắm.

– Dạ… Ơn bác ơn đảng nên sau năm 75 dân miền nam tụi tui mới biết đói như thế nào…

Mọi người trong phòng xử đều nhìn chăm chú vào một bà già vừa đứng lên. Dường như có điều gì uất ức trong lòng bà ta tiếp với giọng hằn học.

– Ơn đảng ơn bác tui mới mở con mắt của tui ra để thấy cái Mặt Trận Ăn Cướp Miền Nam và bác Hình của tụi nó là quân ăn cướp, là đồ nói láo, cái thứ giết người không gớm tay, cái ngữ ăn cháo đá bát…

Bình tủm tỉm cười nhìn bà già mặc bộ bà đen cũ mèm, quấn ngang cổ cái khăn rằn đã bạc màu, đứng giữa phòng, miệng vừa nhai trầu vừa chửi trong lúc tay chỉ thẳng vào cái bàn mà lão Hình Chí Mô và các đồng chí của lão đang ngồi. Theo đúng luật lệ của tòa, các người đi dự phiên xử không được nói nhưng chắc thông cảm cho sự uất ức của bà già nên Diêm Vương cứ để cho bà ta mắng chửi cho hả dạ. Bình thấy một người đàn ông ngồi bên cạnh bà lão níu tay ra hiệu cho bà ta ngồi xuống.

– Thôi má nói bao nhiêu đó đủ rồi… Má nói nhiều quá coi chừng người ta đuổi má ra bây giờ…

Nghe lời con trai bà lão ngồi xuống song còn lớn tiếng chửi thêm một câu.

– Tổ cha tụi nó… Tao phải chửi cho hả cái giận của tao. Hồi lúc trước khi giải phóng, tía mày nuôi tụi nó, cho tụi nó ăn ngập mặt rồi khi thống nhất tụi nó lại trở mặt nói tía mày là Việt gian, làm gián điệp cho Mỹ Ngụy… Mày coi có tức hông… Nó cướp ruộng của tao… Nó giựt nhà của tao. Nó đuổi tao đi cái vùng kinh tế chết đói. Mấy thằng cộng sản đồ bất nhơn. Ngữ đó sao thiên lôi không đánh cho nó chết hết đi cho rồi. Để làm chi cái đồ gian ác, cho nó làm tình làm tội người ta…

Đợi cho căn phòng xử trở lại im lặng Thôi Phán Quan mới lên tiếng hỏi thi sĩ Hữu Loan.

– Ông còn có điều gì để nói nữa không?

Khẽ thở dài nhà thơ nhìn xuống ngay chỗ lão Hình Chí Mô ngồi rồi cất giọng khàn khàn.

– Không có một cộng đồng mà thành viên nào cũng chứa toàn âm mưu đen tối để chủ hại người bên cạnh, không người nào biết phải biết trái, mà sống nổi lâu dài. Nhân loại sinh ra để hợp tác với nhau, để tin nhau là chính, mới sống được đến giờ. Ngày xưa, ngay hồi Pháp thuộc cả một vùng lớn như một huyện mới có độ 5, 6 tên trộm mà trộm không được pháp luật bênh như thế, mà dân cũng còn lo ngay ngáy cho số phận trâu bò của cải của mình. Còn bây giờ thì chỉ một thôn thôi cũng có hàng vài chục tên trộm cướp công khai, coi thường pháp luật thì hỏi người dân còn an cư thế nào để lạc nghiệp được?

Từ trước ai cũng một lòng tin bác và đảng, cả trong lĩnh vực văn học. Tự Liên Xô đưa về rồi tự Diên An đưa sang, tài liệu hiện thực xã hội chủ nghĩa, tức là con đường đi lên trong văn học nghệ thuật. Nghĩa là văn nghệ chỉ được nói đến cái xã hội thiên đường vô cùng đẹp chưa có, chưa biết bao giờ mới có chứ không được nói đến những cảnh trộm cướp áp bức bóc lột đang diễn ra trước mắt. Rất hiếm những bí thư, chủ nhiệm, thủ kho, cửa hàng trưởng tốt, phải nói hầu hết là ăn cắp, thi nhau để ăn cắp, nhưng văn học không được nói thực mà phải dựng lên toàn là những người lý tưởng. Luận điệu thuộc lòng là: Không có ăn cắp mới lạ, có ăn cắp là tất nhiên. Đấy là thứ sốt rét vỡ da của nhân vật khổng lồ, của một chế độ khổng lồ!

Cũng thành khổng lồ thật nhưng lại là khổng lồ đi xuống, một thứ quỷ khổng lồ hay một thứ khổng lồ không tim như đã dự báo trong một truyện ngắn ở Nhân văn. Đường lối đó ở ta đã được ông Trườn Chui tiếp thu, bảo vệ và truyền giáo như một thánh tông đồ xuất sắc.

Xưa nay bất cứ ai nhận một công việc gì đều phải có trách nhiệm với công việc ấy, công việc càng khó khăn, lớn lao trách nhiệm càng nặng nề, ở ta lại toàn chuyện ngược đời. Một lái xe chặn chết người muốn sửa sai không được, anh phải đi tù, phải tước bằng. Anh bác sĩ chữa bệnh làm chết người cũng thế, phải tước bằng và đi tù. Đấy là những người làm chết ít người. Còn những người cầm vận mệnh của cả nước đã làm cho đồng bạc mất giá hàng vạn lần, làm cho hầu hết công nông trường xí nghiệp phá sản, cho 90% con cái gia đình thành lưu manh, cho 50% trẻ em mất dinh dưỡng, giết oan bao nhiêu người có tài có đức, phá phách bao nhiêu công trình văn hóa lịch sử thời lại được thăng quan tiến chức, sống ung dung phè phởn trên máu và nước mắt của đồng bào vô tội… Chế độ cộng sản ngẫm ra còn tệ hại hơn thời quân chủ phong kiến xa xưa nữa…

Đợi cho nhà thơ Hữu Loan dứt lời và bước xuống ngồi vào hàng ghế dành cho nhân chứng xong Thôi Phán Quan đi tới đứng ngay trước mặt 9 vị bồi thẫm. Giọng điệu của ông ta vang lên trong căn phòng xử.

– Sau đây tôi xin mời một nạn nhân nữa lên ngồi ghế nhân chứng…

Hướng về những người ngồi nơi ghế nhân chứng vị đại diện cho âm phủ cao giọng.

– Kính mời thi sĩ Vũ Hoàng Chương…

Tên Vũ Hoàng Chương khiến cho mọi người xôn xao hẳn lên. Ngay cả Diêm Vương cũng lộ vẻ kinh ngạc khi nhìn thấy một người đàn ông dáng dấp nhỏ bé, gầy gò và có vẻ bệnh hoạn đang chậm chạp đi lên. Ông ta ăn mặc giản dị, ngoài khoác thêm chiếc áo vest cũ kỹ và hơi nhầu nát. Riêng Tố Bồi Bút thì có vấn đề liền khi thấy nhà thơ họ Vũ ngồi vào ghế nhân chứng.

Đợi cho nhà thơ họ Vũ làm thủ tục pháp lý và ngồi xuống ghế xong, Thôi Phán Quan đi ngay vào phiên xử bằng câu hỏi.

– Chắc hẳn ông không lạ gì với tên Tố Bồi Bút?

Vũ Hoàng Chương mỉm cười cất giọng nhỏ nhẹ.

– Thưa ngài tôi biết… Ông ta là một nhà thơ nổi tiếng…

Thôi Phán Quan cười nói đùa một câu.

– Chắc không bằng ông…

Nhà thơ họ Vũ cười điềm đạm.

– Điều đó tôi xin để cho những nhà phê bình văn học và nhất là những người yêu thơ thẩm định…

Thôi Phán Quan cười gật gù trước câu trả lời khiêm nhường của một trong nhiều thi sĩ nổi tiếng của nước Việt Nam.

– Theo chỗ tôi biết thì ông bị đi tù sau ngày 30 tháng 4 năm 1975?

– Tôi bị họ bắt giam gần một năm. Sau đó họ thả tôi ra vì tôi bị bệnh nặng. Về đến nhà ít lâu thì tôi mất…

– Xin ông vui lòng cho tòa biết họ bỏ tù ông gì lý do gì?

– Ở vào buổi giao thời sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì họ bắt giam không cần giải thích lý do. Họ muốn bắt ai thì bắt. Riêng tôi bị bắt giam vì lý do mà tôi nghĩ là tư thù…

– Ai là kẻ đã thù ghét ông?

Liếc nhanh Tố Bồi Bút đang ngồi ở ghế bị can, thi sĩ họ Vũ cất giọng chậm và nhỏ nhẹ.

– Tôi xin kể một câu chuyện sau đây cho mọi người nghe. Sau khi nghe xong thì tùy quý vị nhận định ai là kẻ thù của tôi…

Thôi Phán Quan cười đắc ý. Hướng về phía 9 vị bồi thẫm đang ngồi ông ta cao giọng.

– Sau đây tôi kính mời bồi thẫm đoàn nghe câu chuyện của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Từ đó 9 vị có thể xét đoán ai là thủ phạm trong cái chết của ông ta…

Căn phòng xử rộng lớn đầy đặc người ngồi đều im lặng lắng nghe giọng nói chậm, trầm, mạch lạc và khúc chiết của nhân chứng đồng thời là nạn nhân.

– Sau ngày 30- 4- 1975, Thanh Nghị có tới gặp tôi và mời tôi tới tham dự một ” đêm họp văn nghệ ”. Thanh Nghị là một ông quan văn hóa của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam từ trong bưng mới về Sài Gòn sau ngày 30…

– Thanh Nghị mời và ông có đi không?

Thôi Phán Quan ngắt lời nhà thơ họ Vũ. Hình như ông ta có ẩn ý gì khi nêu ra câu hỏi trên. Vũ Hoàng Chương cười gượng.

– Đúng ra thì tôi bị mời chứ không phải được mời… Tôi phải đi vì không đi thì công an tới nhà mời mình đi… Thanh Nghị còn nói thêm trong đêm họp mặt này sẽ có sự tham dự của vị quan văn hóa lớn nhất nước là Tố Bồi Bút. Họ Tố vừa từ ngoài bắc vào để tham dự ngày lễ đổi tên thành phố Sài Gòn ra tên Hồ Chí Minh… Khi tới biệt thự của Thanh Nghị thì tôi thấy sự hiện diện của nhiều văn nghệ sĩ của miền nam và miền bắc trong đó có mấy người nổi tiếng nhất như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hoài Thanh và Huy Cận… Lúc đó Thanh Nghị mới thố lộ cho tôi biết mục đích của buổi họp văn hóa là đánh giá sơ khởi thi ca cả hai miền như là tiền đề cho sự thống nhất văn học sau này. Nhưng mục đích chính là để ” hóa giải “, để ” thẩm định ” lại cho đúng đắn hai câu thơ của Tố Bồi Bút đã thường xuyên bị ” bia miệng ” dân gian ví von, xách mé và châm chọc. Tôi hiểu Thanh Nghị muốn làm hài lòng Tố Bồi Bút, một thần tượng và là xếp lớn của hắn. Tuy hơi ngỡ ngàng nhưng lỡ tới rồi nên tôi cũng không tiện ra về…

Nói tới đó thi sĩ họ Vũ ngừng lại uống ngụm nước cho thấm giọng. Nhân cơ hội Thôi Phán Quan mới lên tiếng hỏi.

– Ông có nói mục đích của đêm họp văn hóa là để hóa giải và thẩm định lại cho đúng đắn hai câu thơ của Tố Bồi Bút. Xin ông vui lòng cho biết hai câu thơ đó là câu thơ gì ạ?

Vũ Hoàng Chương mỉm cười nhìn qua chỗ Tố Bồi Bút đang ngồi.

– Thưa ngài. Đó là hai câu lục bát ” nổi tiếng ” trong bài thơ ” Đời Đời Nhớ Ông ” mà Tố Bồi Bút đã sáng tác vào năm 1953 khi nghe tin Stalin chết.

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một, thương ông thương mười…

Thôi Phán Quan gật gù không nói gì cốt ý để cho nhà thơ kể tiếp câu chuyện.

– Vì là người đứng ra tổ chức nên Thanh Nghị trình bày ý kiến của mình trước. Hắn cho rằng người ta chê bai và châm biếm hai câu thơ của Tố Bồi Bút vì ác ý hơn là vì nghệ thuật đúng đắn. Hai câu lục bát này thật ra không thể chê vào đâu được. Nó vừa khẩu chiếm vừa xuất thần, mà khẩu chiếm và xuất thần là những tiêu chuẩn cao nhất, định giá trị thi ca VN, đồng thời thể hiện truyền thống thi ca bình dân nước ta, qua hai vần lục bát thật thoát sáo, vừa giữ vẹn hồn tính của ca dao vừa đưa loại thi ca giọng quê lên ngang giọng bác học.

Với vỏn vẹn có 14 chữ, trong đó từ ” thương ” bẩy lần láy lại và còn bảy chữ kia ” cha, mẹ, chồng, mình, ông, một và mười ” đều là những từ không có mấy thi tính. Thế mà Tố Hữu đã ghép lại và khi ta ngâm lên thì thấy rõ ràng thần tính của mười bốn chữ (đúng ra là 8 từ) ấy cuồn cuộn thoát ra, thâm nhập hồn người thưởng ngoạn, khiến hồn tính con người rung động như tơ đồng trên phím, khi nhạc sĩ vuốt vào giây. Thơ như vậy mới thật là hết ý, mới thật là tuyệt.

Thanh Nghị vốn khéo ăn khéo nói, lại thao thao bất tuyệt nên mọi người bị lôi cuốn theo mà ” đồng thanh tương ứng ” nhận cách hắn thẩm định hai câu thơ của Tố Bồi Bút thật là xác đáng.

Sau khi Thanh Nghị nói xong thì có người lại yêu cầu những thi nhân đang có mặt lên tiếng về nhận xét của Thanh Nghị bằng cách dựa vào các câu thơ đắc ý nhất của chính họ.

Người trình bày trước nhất chính là Xuân Diệu với hai câu thơ trong bài Buồn Trăng:

Ngẩng đầu ngóng mãi chưa xong nhớ

Hoa bưởi thơm rồi, đêm đã khuya…

Xuân Diệu nói rằng hai câu thơ của mình cũng không thể xuất sắc hơn hai câu thơ của Tố Bồi Bút được. Huy Cận thì đem hai câu thơ:

– Em lùa gió biếc vào trong tóc

Thổi lại phòng anh cả núi non…

trong bài Áo Trắng của mình ra so sánh và sau đó cũng phải nhìn nhận rằng hai câu thơ của Tố Bồi Bút gây xúc động mạnh mẽ hơn, dồn dập hơn trong khu vực tình cảm mỗi bên, khi muốn dùng thi ca để tác động tâm hồn yêu thơ.

Riêng Chế Lan Viên thì lại dùng thơ của Hàn Mặc Tử trong đó có hai câu:

– Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang…

để ca ngợi là hai câu thơ của Tố Bồi Bút hay hơn của Hàn Mặc Tử nhiều lắm. Tôi thấy trong phòng họp còn có nhiều nhà thơ khác nhưng không ai chịu lên tiếng. Có người vì tự biết thân phận dân miền nam thua trận của mình nên im lặng làm như họ đồng tình. Có người sợ lên tiếng phẩm bình sẽ gây ra đụng chạm với các quan lớn văn hóa của miền bắc.

Không ai lên tiếng thì người ta lại nhìn vào Hoài Thanh, một tay phê bình văn học kỳ cựu và nổi tiếng. Không phải là nhà thơ vả lại cũng là tay bồi bút hạng nặng nên Hoài Thanh đâu dám chọc quan lớn của mình. Hắn khôn ngoan lên tiếng mời tôi vì hắn nói tôi là nhà thơ nổi tiếng của thời tiền chiến và có thể đại diện cho giới thi sĩ của miền nam. Riêng tôi cũng biết phê bình thơ của vị quan lớn văn hóa miền bắc là từ bị thương cho tới chết…

Thi sĩ họ Vũ ngừng nói. Ánh mắt của ông ta trở nên đăm chiêu rồi lát sau mỉm cười tiếp.

– Sau đó Thanh Nghị lại nài ép thêm nên tôi không tiện từ chối. Tuy nhiên tôi cũng lên tiếng xin lỗi trước nếu có lời thất thố hoặc xúc phạm tới Tố Bồi Bút…

Ngừng lại để uống thêm ngụm nước xong thi sĩ Vũ Hoàng Chương hướng về 9 vị bồi thẫm đang ngồi im. Họ nhận ra được tính chất từ tốn, điềm đạm song như có lửa hoặc có chất thép trong giọng nói của nhà thơ đại diện cho hai mươi năm văn hóa của miền nam.

– Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của mình, để hồn trí phản ứng theo thất tình con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một tình tự nào đó, rồi đãi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao.

Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được ” đóng khung ” tự bao giờ trong tâm cảnh mình, Tố Bồi Bút đã xuất thần vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đãi lọc nỗi u hoài của mình thành một tiếng nấc rất tự nhiên và đạt đến một mức độ điêu luyện cao. Lời thẩm định của Thanh Nghị thật xác đáng. Tôi nhìn nhận.

Nhưng thơ không phải chỉ có thế; vì xuất thần, khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật; dù đã có thi hứng phần nào, và nếu có thế thì thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt. Tức chưa phải là hay. Thơ hay vừa phải khéo vừa phải đạt thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của tình tự phổ diễn nên lời. Tình tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép. Vấn đề của thơ nói cho đến nơi, là ở đây, có nghĩa là thơ phải thực.

Tố Bồi Bút đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng một bà mẹ VN, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ VN yêu cụ Stalin thay cho mình. Cũng chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca, nhưng trước hết phải biết bà mẹ VN đó có cùng tâm cảnh với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không?

Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài ” Đời Đời Nhớ Ông “, họ Tố đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:

Yêu biết mấy nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng con gọi Stalin

Chắc chắn là không có một bà mẹ VN nào, kể cả bà Tố mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu ta đang mổ xẻ.

Một tình tự không chân thực, dù được luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay mà chỉ là thơ khéo làm. Đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thơ thợ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đòi hỏi cho một tuyên truyền nào đó. Nhà thơ họ Tố nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình. Những bà mẹ VN trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm… Vì vậy mà hai câu thơ đó không thể so sánh với mấy câu thơ của Xuân Diệu, Huy Cận hay Hàn Mặc Tử được…

Ngừng lại giây lát thi sĩ họ Vũ nói cho mọi người trong phòng xử nghe nhưng có thể cũng nói riêng với 9 vị bồi thẫm.

– Mấy ngày sau khi phát biểu những lời vừa nói, tôi được mời đi cải tạo để đả thông tư tưởng và chỉ một năm sau tôi từ trần vì sự trù ếm mà người ta dành cho tôi trong trại tù…

Phòng xử im lặng thật lâu. Lát sau người ta mới nghe giọng nói sang sảng của Thôi Phán Quan cất lên.

– Kính thưa Diêm Vương và bồi thẫm đoàn… Tiếp theo đây tôi xin mời hai nạn nhân đồng thời cũng là nhân chứng để trình bày thêm về tội ác của tên Tố Bồi Bút. Kính mời thi sĩ Hoàng Cầm và Hoàng Hưng…

Kể từ khi phiên tòa bắt đầu đây là lần đầu tiên Thôi Phán Quan mời một lúc hai người lên ngồi vào ghế nhân chứng. Giọng nói sang sảng của ông ta vang lên trong lúc hai nhân chứng thong thả rời chỗ ngồi.

– Chúng ta không ai không biết nhà thơ Hoàng Cầm, nổi tiếng với những bài thơ như Bên Kia Sông Đuống, Lá Diêu Bông, Cây Tam Cúc và Quả Vườn Ổi… Riêng Hoàng Hưng là một giáo sư kiêm thi sĩ đồng thời cũng là ký giả…

Khi hai nhân chứng làm thủ tục xong xuôi, trái với ước đoán của Bình, Thôi Phán Quan lại bắt đầu hỏi chuyện nhà giáo kiêm thi sĩ Hoàng Hưng trước thay vì Hoàng Cầm.

– Theo chỗ tôi dò hỏi thời ông cũng là một nạn nhân của tên Tố Bồi Bút nói riêng và băng đảng cộng sản nói chung. Đó là chuyện mà người ta đồn đại là vụ án ” hậu Nhân Văn hay Về Kinh Bắc ”, trong đó tên Tố Bồi Bút đã ra lịnh cho công an bắt giam ông và thi sĩ Hoàng Cầm. Điều này có đúng không thưa ông?

Hoàng Hưng mỉm cười nhìn Thôi Phán Quan xong hướng mắt về phía chỗ 9 vị bồi thẫm đang ngồi. Giọng nói nhẹ, từ tốn của ông ta vang rõ trong căn phòng im lặng.

– Thưa đúng như vậy. Tôi bị bắt giam 39 tháng… Nguyên nhân mà tôi bị bắt cũng dài dòng và phức tạp nên tiện đây tôi xin kể mọi người nghe tự sự để thấu đáo về tình trạng mất tự do và nhân quyền ở nước tôi…

– Chú em bị bắt về tội gì vậy?

Diêm Vương lên tiếng hỏi. Nhà thơ Hoàng Hưng cung kính trả lời.

– Thưa Diêm Vương tôi bị nhà nước bắt giam vì tội phản động…

Hừ tiếng nhỏ Diêm Vương trầm giọng.

– Lại phản động… Mấy thằng cộng sản này cứ hở ra là ghép người ta vào tội phản động. Chính tụi nó mới đúng là phản động. Như thằng Hình Chí Mô là tên phản động số 1. Theo luật của âm phủ thời nó có tội phản động lại dân chúng Việt Nam. Cái tội bán nước, dâng đất, hiến biển cho Tàu là tội phản động lại dân chúng và tổ quốc Việt Nam… Thôi chú em cứ kể hết ra chuyện vì sao bị thằng Tố bắt giam, bỏ vợ con đói khổ cho ta nghe…

Ánh mắt hướng ra cửa sổ như hồi tưởng lại năm tháng lao tù rồi lát sau nhà thơ họ Hoàng mới thong thả cất tiếng.

– Vụ án “ Về Kinh Bắc ” chắc đã được khởi động từ quãng giữa năm 1982, khi anh Nguyễn Mạnh Hùng, tiến sĩ tinh tế, giáo sư đại học ở Canada, cũng là nhà văn Việt Nam hải ngoại có bút hiệu Nam Dao, đang làm việc/ thăm chơi ở Hà Nội, xin nhà thơ Hoàng Cầm một bản chép tay tập thơ Về Kinh Bắc để đem về Canada. Nguyễn Mạnh Hùng được chính quyền Việt Nam coi là “ Việt kiều yêu nước ”, đã đóng góp tích cực cho phong trào ủng hộ miền Bắc, chống Mỹ và chính quyền miền Nam từ khi còn là sinh viên ở Canada. Sau khi đất nước thống nhất, anh đã nhiều lần về nước, có tham gia tư vấn cho chính phủ về kinh tế. Mặt khác, anh lại quan hệ thân thiết với các nhà văn trong nhóm Nhân văn – Giai phẩm, đặc biệt với nhà thơ Hoàng Cầm mà anh yêu mến.

Việc Hoàng Cầm cho Nguyễn Mạnh Hùng một bản chép tay Về Kinh Bắc chẳng có gì cần bí mật, khi chưa hề có văn bản hay chỉ thị miệng của cấp thẩm quyền nói rằng tập thơ bị cấm lưu hành. Vả lại, ở cái quán rượu 43 Lý Quốc Sư mà Hoàng Cầm sống nhờ vào đó từ nhiều năm, lúc nào cũng chật khách trầm ngâm say và âm u khói thuốc, trong đó hầu hết là những người yêu văn nghệ “ngoài luồng”, và không ít “đặc tình ” (cộng tác viên, nói nôm na là chỉ điểm của công an ), “cá chìm ” (tiếng lóng để chỉ trinh sát công an thường phục), thì có gì liên quan đến ông Hoàng “thơ chui ” này mà giữ kín được! Nhưng muốn hiểu vì sao có vụ án “ Về Kinh Bắc ”, phải ngược thời gian lên mười năm trước, khi một số bài trong bản thảo Về Kinh Bắc bắt đầu được truyền tay hơi rộng trong giới yêu thơ, trong đó ba bài “ Cây tam cúc ”, “ Lá diêu bông ”, “ Quả vườn ổ i” (thường được gọi là bộ ba cây-lá-quả) được mến mộ nhất – phần quan trọng vì chúng được xì xầm diễn giải như lời oán trách của “ em ” (văn nghệ sĩ) với “ chị ” (Đảng), đại khái “ em ” yêu “ chị ”, nhưng “ chị ” đã lừa “ em ”, cho “ em ” ăn toàn “ quả rụng ”, rồi bỏ mặc “ em ” bơ vơ để đi lấy chồng… Theo Hoàng Cầm kể, thì năm 1974, CA Hà Nội có kêu tác giả lên răn đe về việc lưu truyền những bài thơ “ có nội dung xấu ” ấy. Hoàng Cầm phải ngưng, nhưng sau 1975, với không khí hào hứng của những ngày “ miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng ”, Về Kinh Bắc lại có thêm độc giả ở miền Nam, và đến 1979, sự giao lưu với nước ngoài bắt đầu được cởi mở hơn, một số Việt kiều đã có được một số bài thơ chép tay của nhà thơ, trong đó dĩ nhiên “ bộ ba cây-lá-quả ” vẫn đứng đầu bảng. Hoàng Cầm có kể đích danh một nữ bác sĩ xưng tên là Cần Thơ ở Pháp đã xin ông gửi cho một số bài thơ, sau này bà cho biết bà là đệ tử của thiền sư Thích Nhất Hạnh ở Làng Mai. Trong khi xét hỏi bản thân tôi, một sĩ quan công an cho biết: Về Kinh Bắc bắt đầu thành vấn đề nghiêm trọng chính là vì mấy bài thơ này được in trên một tờ báo ở Pháp kèm theo lời bình mang tính chống đối chính trị. Theo Hoàng Cầm thì công an có đọc cho ông nghe bài viết ấy trên báo Đất Mẹ (Quê Mẹ?)

Tóm lại, chậm nhất là vào mùa thu 1982, một chuyên án Về Kinh Bắc đã được mở ra, với mục đích ngăn chặn việc đưa bản thảo này ra nước ngoài và bắt tội tác giả của nó, hoặc đơn giản chỉ là mượn cớ việc chuyển bản thảo này ra nước ngoài để trừng trị tác giả cho bõ ghét. Theo Hoàng Cầm thì khả năng 2 là chính, ông nhất định cho rằng chính Tố Hữu là người chủ trương, vì căm ghét Hoàng Cầm đã dám chê thơ ông ta (vụ phê bình tập Việt Bắc năm 1956), chưa kể đã “ dám nổi tiếng ” hơn ông ta trong kháng chiến! Và cũng theo Hoàng Cầm, để làm việc này, Tố Hữu đã sử dụng một số “ công an riêng ” của mình.

Thế là trong lúc một cái lưới đang giăng ra xung quanh quán rượu Hoàng Cầm ở 43 Lý Quốc Sư, thì tôi ở Sài Gòn ra, vô tình chui vào đó, trở thành con cá to (?) cuối cùng để công an cất vó!

Vì sao định mệnh lại chọn tôi làm con cá oan nghiệt kia? Suốt mấy năm trời trong trại giam tôi vẫn tự hỏi, vì xét theo logique, tôi chẳng thể nào hình dung mình có ngày “ ách giữa đàng đâm quàng vào cổ ” như thế.

Bởi lẽ thứ nhất: từ khi Hoàng Cầm hoàn thành Về Kinh Bắc (mùa Xuân 1960) cho đến tháng 8 năm 1982, đã có hàng trăm bản chép tay của nó được lưu truyền, mà không thấy ai làm sao, cũng không ai phổ biến lệnh cấm dù chỉ là lệnh miệng. Lý lẽ này tôi lặp đi lặp lại trong các buổi hỏi cung, tôi còn vặn lại người cán bộ xét hỏi: “Để một tài liệu ‘phản động’ tự do lưu truyền trong 20 năm như thế thì trách nhiệm của cơ quan an ninh ra sao?”. Tất nhiên họ không trả lời được. Và hậu quả của sự “ cứng đầu ” cộng với ngây ngô của một anh nhà-giáo-nhà thơ-đi-làm-báo tưởng rằng trên đời có thứ gọi là công lý, là tôi phải nhận đến 39 tháng tù trong khi “ đầu vụ ” chỉ có 16 tháng!

Lẽ thứ hai là quan hệ của tôi với tác giả Về Kinh Bắc vốn không có gì mật thiết. Là một trong số những nhà thơ trẻ nổi bật của “ thế hệ chống Mỹ ”, nhưng vì “ trót ” đọc được tiếng Pháp, tôi sớm giác ngộ về “ Chủ nghĩa xã hội với bộ mặt người ” qua những sách báo tiếng Pháp ở ngay trong Thư viện Quốc gia (Nhà nước cho rằng rất ít người biết tiếng Pháp nên không kiểm duyệt bỏ những ấn phẩm tiếng Pháp “ nhạy cảm ” được nhập vào đó theo con đường viện trợ, trao đổi). Đó là thuyết “ chủ nghĩa hiện thực không bờ bến ” của Roger Garaudy, một nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp, những tư tưởng “ xét lại ” của George Lukács, nhà lãnh đạo cộng sản Hungary, tiểu thuyết Docteur Jivago của Boris. Pasternak, các tài liệu về Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX, về những biến động ở Hungary, Tiệp Khắc… Những sách vở ấy cộng với thực tế nhiều phũ phàng mà tôi va chạm trong mấy năm dạy học và “ đi thực tế sáng tác ” ở vùng công nghiệp Hải Phòng, Quảng Ninh, cộng với sự đổ vỡ niềm tin chiến thắng sau Tết Mậu Thân và cái chết của “ Bác ”, khiến tôi ngày càng hoài nghi sự đúng đắn của chế độ. Tất nhiên tôi cũng nhìn lại phong trào Nhân văn – Giai phẩm bằng con mắt hoàn toàn khác những gì Đảng dạy. Vì thế, cuối năm 1969, khi đã viết một số bài thơ “ ngoài luồng ” không thể công bố, tôi tìm đến làm quen với anh Văn Cao qua dịch giả Dương Tường. Chính Văn Cao là người đã khuyến khích tôi tiếp tục lối thơ “ bàng thống ” mà tôi đang bước vào. Anh trở nên thân thiết với tôi, và đã đứng chủ trì buổi tiếp bạn bè văn nghệ trong ngày cưới của vợ chồng tôi đầu năm 1975. Với Hoàng Cầm thì khác. Không chỉ “ có vấn đề ” về tư tưởng, ông còn tai tiếng là con nghiện (thuốc phiện) và chủ quán rượu chui. Tôi – một nhà thơ trẻ đang được ưu ái, lại là nhà giáo và nhà báo của ngành giáo dục (Báo Người Giáo viên Nhân dân), cũng thấy ngại dây dưa! Mãi sau khi đã chuyển vào Sài Gòn công tác, tư tưởng ngày càng “ diễn biến hòa bình ” do tác động của cuộc sống và sách vở tàn dư của chế độ Sài Gòn, trong một lần ra Hà Nội vào cuối những năm 1980 đầu 1981, tôi mới tìm đến Hoàng Cầm, cũng do Dương Tường đưa dắt. Chính lần ấy, tôi được nhà thơ khoe một bản thảo Về Kinh Bắc do ông chép tay chữ rất đẹp, bay bướm uyển chuyển, có mấy phụ bản tranh của Bùi Xuân Phái vẽ các cô gái quan họ. Đó là tập bản thảo mà ông đã bán cho ông Lâm, chủ quán cà phê chuyên sưu tầm tranh của các hoạ sĩ nổi tiếng ở Hà Nội, nay ông mượn lại, có lẽ để khoe với những người bạn mới, có thể là Việt kiều chăng? Nhân dịp, tôi đã xin nhà thơ chép cho ba bài Cây – Lá – Quả đem về Sài Gòn khoe vài người bạn văn nghệ “ chui ” vốn là dân Sài Gòn cũ ( trong đó có anh Phương Kiến Khánh, sau trở thành nhà thơ Chân Phương ở Mỹ ).

Trong chuyến ra Hà Nội tháng 8 năm 1982, định mệnh xui khiến tôi lại đến với Hoàng Cầm ngoài chủ ý. Một bữa tôi gặp Dương Tường trên phố, anh sốt sắng bảo tôi đến an ủi Hoàng Cầm vì nhà thơ vừa trải qua một bi kịch: con gái yêu của ông là nữ diễn viên kịch Hoàng Yến chết đột ngột – nghe đâu là tự tử. Tôi đến chơi, lại nghe ông than là vừa bị mất tập bản thảo Về Kinh Bắc mượn lại của Lâm cà phê (chắc hẳn công an đã lấy đi làm hồ sơ cho vụ án Về Kinh Bắc đang chuẩn bị). Ông tỏ ra rất tiếc xót, vì khó có cơ hội làm lại một tập đẹp như thế. Tôi hứng lên, nói sẽ làm lại cho ông một tập đẹp hơn thế. Ông bảo tôi đến gặp Trần Thiếu Bảo ở phố Bát Đàn, nhờ ông này mua giấy và bút bi loại tốt để ông chép. Trần Thiếu Bảo nhận lời ngay. (Chỗ này, nhân thể nói bài nghiên cứu của tác giả người Đức Heinz Schütte công bố trên talawas 31/7/2010 có chỗ lầm: ông cựu giám đốc NXB Minh Đức sau khi ra tù không bị chỉ định cư trú ở Nam Định cho đến chết, ông đã được về lại Hà Nội từ lúc nào đấy, và vào năm 1982, ông đang chuẩn bị mở quán ăn để sinh sống tại số 5 (?) Bát Đàn. Thế là việc chép tay Về Kinh Bắc tiến hành. Tôi đồng thời đến xin Văn Cao một phác hoạ làm bìa tập thơ Về Kinh Bắc, và xin Bùi Xuân Phái mấy phụ bản. Ít ngày sau, tôi vui sướng có trong tay một bức hoạ mấy cái lá bay (chắc là “ lá diêu bông ”) của Văn Cao và 4 phụ bản màu nước của Bùi Xuân Phái vẽ những cô gái quan họ nón quai thao áo tứ thân. Có một chi tiết mà những ngày đó tôi đã bỏ qua. Trong thời gian này, tôi hầu như ngày nào cũng đến quán rượu Hoàng Cầm để giục nhà thơ chép cho xong tập thơ. Một tối, tôi trông thấy trong quán có một người quen, anh nguyên là giáo viên cùng dạy học với tôi ở Hải Phòng, nhưng đã chuyển về Hà Nội, nghe đâu làm ở Bộ Công an, vì anh là cháu ruột ông tướng công an nổi tiếng Nguyễn Công Tài. Thấy tôi, anh cất giọng lè nhè như của người say rượu bảo: “ Cái ông Hưng này đến là rách việc ”. Tôi hồn nhiên không để ý, chỉ cười rồi đi ra. Sau khi bị bắt tôi mới đoán rằng anh bạn đồng nghiệp cũ có lòng tốt cảnh báo để tôi khỏi sa bẫy. Nhưng lúc đó tôi hoàn toàn ngây thơ và tự tin việc xin thơ Hoàng Cầm chẳng có vấn đề gì mà phải đề phòng!

Ngày Hoàng Cầm hoàn thành việc chép Về Kinh Bắc, tôi muốn nhân đó có một cuộc liên hoan nhỏ với các bậc đàn anh để ăn mừng và cũng là để chia tay lên đường vào lại Sài Gòn. Ông Trần Thiếu Bảo đề nghị làm ngay tại nhà ông ấy, như cũng để khai trương quán của ông. Đầu bếp là Phan Tại, nhà viết kịch và cũng là đồng phạm của ông trong vụ xử án “gián điệp phản động Nhân văn – Giai phẩm” năm 1960. Trong bữa ăn vui vẻ tình cảm dạt dào giữa những người cùng tâm sự ( có Hoàng Cầm, Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại; tôi tuy trẻ tuổi hơn nhưng được các đàn anh cư xử như kẻ ngang hàng ), ông Bảo khoe mọi người hai cái “ bìa ” cho tập Về Kinh Bắc và tập thơ của tôi mà ông trình bày theo lối siêu thực ( Trước đó ít lâu, tôi có khoe một tập bản thảo thơ “ chui ” của mình cho một số bạn văn nghệ ở Hà Nội, trong đó có Nguyễn Thuỵ Kha, tập thơ gây ấn tượng khá mạnh vì sự phá cách của nó. Ông Bảo xin mượn ít hôm ). Sau liên hoan, ông Bảo đề nghị tôi cho ông mượn tiếp tập ấy cùng với tập Về Kinh Bắc vừa mới hoàn thành.

Những ngày sau đó, tôi lo chuẩn bị để lên đường, nên định bụng trước khi đi mới đến nhà ông Bảo lấy lại hai tập thơ. Không hiểu sao ông Bảo rất sốt ruột, ngày nào cũng đến nhà bà chị tôi ( là nơi tôi ở nhờ trong thời gian lưu lại Hà Nội ) thúc giục tôi tới lấy! ( Sau mới ngã ngửa ra là Trần Thiếu Bảo bị công an khống chế, phải làm chỉ điểm cho họ, ít ra là trong vụ Về Kinh Bắc này. Nếu vì lý do gì đó mà tôi không đến lấy hai tập bản thảo, thì vụ án bị hẫng to! )

Hoá ra họ đã sắp xếp rất chu đáo để “ cất vó ” Về Kinh Bắc mà tôi là một con cá hẩm hiu ở đâu đến chui đầu vào lưới. Sau này một anh công an quen thân với gia đình anh cả tôi còn cho biết họ đã bí mật theo dõi, quay phim tôi suốt nửa tháng trời mà tôi không hề để ý!

Chiều 17/8/1982, sau khi sắp xếp xong hành lý để đi chuyến tàu tối xuống Hải Phòng và sáng hôm sau đi tàu biển vào Sài Gòn, tôi đến nhà Trần Thiếu Bảo lấy lại 2 tập thơ. Vào trong quán, tôi thấy hai người đàn ông đang ngồi uống nước. Sau vào trại giam đi “ cung ” mới biết đó là ông Khổng Minh Dụ ở A25, sau này sẽ là Thiếu tướng Cục trưởng và cũng là “ nhà thơ ”, và anh Thuận, trợ lý của ông, sau này sẽ là Cục phó Cục chống Bạo loạn. Tôi cứ hồn nhiên cầm tập thơ đi ra, lên xe đạp phóng. Được một đoạn, bỗng có hai anh thanh niên đèo nhau xe gắn máy ép tôi vào lề đường. Hai anh nhảy xuống, giữ tôi lại, bảo: “ Cái xe đạp anh đang đi là xe của chúng tôi bị mất cắp ”. Tôi kinh ngạc, vì tôi đang đi chiếc xe của bà chị ruột. Đang cãi qua cãi lại, thì một công an mặc sắc phục ở đâu tiến tới, nói: “ Các anh lộn xộn gì thế, mời về đồn giải quyết ”. Đồn công an gần đấy là đồn Hàng Bạc. Vào trong đồn, anh công an xưng là đồn trưởng, yêu cầu tôi bỏ hết các thứ trong túi xách ra. Thấy tập bản thảo của Hoàng Cầm, anh ta hỏi: “ Cái gì thế này? Thơ à? Thơ của ai đây? ”. Tôi đáp: “ Của Hoàng Cầm. ” “ Hoàng Cầm là ai? Anh ngồi đây đợi, cái này tôi phải xin ý kiến cấp trên ”. Tôi ngu đến mức vẫn chưa biết đây chỉ là một màn bi hài kịch dàn dựng sẵn.

Sau khoảng 20 phút chờ đợi, anh đồn trưởng bước vào, bảo: “ Đây là ý kiến cấp trên ”. Anh giở ra một tờ giấy, đọc: “ Lệnh bắt và khám xét khẩn cấp ” vì tội “l ưu truyền văn hoá phẩm phản động ”. Thế là nhanh như cắt, hai anh thanh niên “ mất xe đạp ” lúc nãy hiện nguyên hình là công an, áp giải tôi lên xe bịt bùng, đưa về Hoả Lò!

Ngày 20/8/1982 thì đến lượt Hoàng Cầm bị bắt. Còn Nguyễn Mạnh Hùng, khi ấy đang ở Sài Gòn chuẩn bị bay về Canada. May được Dương Tường kịp báo hung tin, anh gửi ngay tập bản thảo Về Kinh Bắc cho Cao Xuân Hạo giữ, ra sân bay vô tang. (Tuy nhiên, khi khám xét hành lý của tôi, công an thu được một bức thư Hoàng Cầm nhờ tôi đưa cho Nguyễn Mạnh Hùng khi vào Sài Gòn, thư dán kín nên tôi không biết nói gì trong đó). Hùng bị cấm cửa về Việt Nam trong suốt 20 năm. Chuyến anh trở lại Việt Nam sau 20 năm ấy, lần đầu tiên hai người “ đồng phạm ” bất đắc dĩ chúng tôi mới gặp nhau.

Sau khi tôi và Hoàng Cầm bị bắt, tin đồn lung tung, có cả tin tôi bị bắt vì mang thuốc phiện lậu! Theo nhà báo Trần Đức Chính, TBT tờ báo của Hội Nhà báo VN, thì có tờ báo hồi ấy đăng tải cả một chuyện vụ án mang tên “ Vụ án hai ông Hoàng ” với nhiều tình tiết ly kỳ! Gần đây, một số sách báo ở nước ngoài và trên mạng vẫn viết là Hoàng Hưng bị bắt vì âm mưu chuyển tập thơ Về Kinh Bắc vào sứ quán Pháp! Mới biết trí tưởng tượng của người ta phong phú thật!

Kết cục của vụ án tóm tắt như sau: Hoàng Cầm sau mấy tháng bị giam thì kiệt sức vì bị khủng bố tinh thần liên tục mà lại không có nàng tiên nâu trợ lực, phải nhận tội phản động, chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội, chống chế độ, để mong sớm được ra.

Tôi không thể nào quên cái buổi sáng ấy trong Hỏa Lò. Sau mấy tháng không thuyết phục được tôi thừa nhận Về Kinh Bắc là “ phản động ”, công an để tôi nghỉ một hơi dài. Rồi bỗng một hôm tôi lại được gọi đi “ làm việc ”. Người công an đưa tôi vào một phòng hỏi cung, nhưng không có ai trong đó. Mà lại có một tập giấy thếp viết sẵn để trên bàn. Tôi tò mò giở ra, thì… trời ơi, đó là bản tự khai của Hoàng Cầm, tôi nhận ra chữ viết rất nắn nót, đẹp, của ông. Tôi đọc lướt, càng đọc càng hoang mang vì ông nhận tuốt tuột các ý tưởng chống Đảng, đả kích chế độ… trong tập thơ. Để cho tôi một mình đọc xong, người ta mới đưa tôi trở lại phòng giam. Và họ bố trí rất khéo, để như tình cờ tôi gặp Hoàng Cầm đang ngồi ở cổng chờ ( giữa khu trại giam và khu “ làm việc ” có một cái cổng lớn, sau khi “ làm việc ” xong phạm nhân ngồi đó chờ “ quản giáo ” ra nhận để đưa vào buồng giam ). Tôi xông đến bên ông, hỏi gay gắt: “ Anh nhận tội phản động thật à? Sao lại thế? ” Hoàng Cầm cúi đầu xuống, không nói gì, từ khóe mắt ông lăn ra những giọt nước mắt. Đến tận hôm nay, nhớ lại những giọt lệ tủi nhục của nhà thơ đàn anh, lòng tôi vẫn còn đau. Với tôi, tự buộc mình phải hèn để có thể tồn tại là điều không gì đau hơn cho một kẻ sĩ.

Nhưng trong lúc Hoàng Cầm ngong ngóng công an thực hiện lời hứa (?) cho về vào dịp Tết, thì một số trí thức Pháp do thiền sư Thích Nhất Hạnh vận động đã gửi thư cho Lê Đức Thọ đề nghị thả nhà thơ. Tin đến tai Tố Hữu, ông “ bạn thơ ” quý hoá phán một câu xanh rờn: “ Nước ngoài can thiệp hả? Thế thì giam thêm 1 năm nữa cho biết. ” ( theo lời Hoàng Cầm kể, Hoàng Hưng ghi, đăng trên talawas mở đầu tập Về Kinh Bắc 5/4/2007). Thế là Hoàng Cầm bị giam tổng cộng 16 tháng (20/8/1982 – trước Noel 1983).

Còn bản thân tôi, chỉ vì tội bướng, mà bị công an lục tung nhà trong Sài Gòn suốt một ngày trời. Họ tìm ra một số trang nhật ký bằng văn vần làm từ đầu thập kỷ 1970 mà CA nhận định là “phản động gấp 100 lần thơ Hoàng Cầm ” (lời ông Khổng Minh Dụ)[2]. Sau gần ba năm điều tra rất công phu mà không tìm thấy gì chứng tỏ tôi nằm trong đường dây liên lạc với bọn “ văn nghệ sĩ phản động hải ngoại ”, cuối cùng, nhờ là “ cán bộ nhà nước phạm tội lần đầu ”, tôi được đặc ân “ chỉ xử lý hành chính nội bộ chứ không bị truy tố ra toà ” (lời viên công an khi công bố lệnh “ tập trung cải tạo ” dành cho tôi). Mãi đến cuối năm 1985, nhờ không khí chính trị có phần nới lỏng trước Đổi mới, và nhờ người anh ruột là bác sĩ phục vụ các cán bộ cao cấp đứng ra bảo lãnh, tôi mới được về sau 39 tháng tù, với cái lệnh tha mang tội danh được cải thành “ lưu truyền văn hoá phẩm đồi trụy ” (!) Không hiểu sao lại có sự cải đổi từ “ văn hoá phẩm phản động ” sang “ đồi trụy ” như thế? Chắc là công an không muốn có bất cứ bằng chứng nào chứng tỏ có tội danh “ phản động ” trong luật pháp Việt Nam, cũng như họ không bao giờ thừa nhận có “ tù chính trị ” vậy. (Những người bạn vong niên của tôi bị tù đầy trong vụ án “ xét lại ” khi ra tù không ai được cầm lệnh tha hay giấy ra trại!)

Một điều an ủi lớn cho tôi: bị nhà nước bỏ tù, nhưng tôi được đồng nghiệp bạn bè cảm thông. Thời gian tôi bị bắt, có chuyện được coi là hy hữu: Báo Người Giáo viên Nhân dân, cơ quan tôi, hết sức bênh vực tôi. Báo còn trả lương đều đặn và gửi quà cho tôi, bất chấp công an phàn nàn; phải 2 năm sau, khi công an công bố lệnh tập trung cải tạo với tôi, báo mới đành ngưng việc ấy và Bộ Giáo dục mới ra quyết định “ cho ông Hoàng Hưng thôi việc vì vi phạm pháp luật bị tập trung cải tạo ” ( chứ không “ buộc thôi việc ” như thường thấy trong các vụ tương tự ). Người có vai trò lớn trong chuyện này là nhà báo Trường Giang, Bí thư Chi bộ Đảng, Thư ký Toà soạn báo NGVND. Ở Sài Gòn, gia đình tôi lâm vào cảnh “ vợ dại con thơ ” cực kỳ khốn đốn, có những bữa phải ăn chuối trừ bữa, nhưng bù lại đã nhận được sự thông cảm yêu thương của tất cả bà con khu phố, kể cả anh cảnh sát khu vực, của các thầy cô gíao dạy cháu Hoàng Ly.

Sau khi ra tù, Hoàng Cầm mất hằng năm trời sống trong trạng thái thường trực hoảng loạn, hậu quả của thời gian tù ngục. Nhờ sự động viên của bạn bè văn nghệ ông mới dần dần hồi phục. Sau Đổi mới, thơ Hoàng Cầm bắt đầu tái xuất, nhưng riêng Về Kinh Bắc còn bị công an ngăn trở dài dài cho đến tận năm 1994 mới ra mắt được. Hoàng Cầm trở thành gương mặt của truyền thông không thua gì các “ sao ”, cuối cùng ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học (2007). Tuy nhiên, cho đến khi ông qua đời (tháng 5/2010), chính quyền không hề có một lời minh oan hay xin lỗi, đừng nói gì đến bồi thường cho những năm tù đầy oan ức của ông.

Còn tôi, ngay sau khi tôi ra tù, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, Thứ trưởng Bộ Giáo dục, thầy dạy cũ của tôi ở Khoa Văn Đại học Sư phạm, ngỏ ý sẵn sàng nhận tôi làm việc ở cơ quan Bộ. Nhưng tôi chọn tiếp tục nghề báo, và năm 1988, tập Ngựa biển bao gồm hầu hết những bài thơ trong tập bản thảo của tôi bị công an tịch thu năm 1982, là tập thơ “ ngoài luồng ” đầu tiên tự xuất bản ở nước ta sau Đổi mới, nhờ được anh Trương Văn Khuê, Giám đốc NXB Trẻ cương quyết bảo vệ. Từ đó tôi in thơ bình thường. Riêng tập thơ Ác mộng viết về những trải nghiệm tù đầy thì đến nay vẫn bị các nhà xuất bản từ chối. Tuy nhiên một số bài trong đó đã được công bố nhờ sự “chịu chơi” của nhà thơ Quang Huy, Giám đốc NXB Văn hoá – Thông tin, rồi sau đó bài “ Người về ” được đưa vào những tuyển thơ quan trọng nhất; bản tiếng Anh của nó (Nguyễn Đỗ và Paul Hoover dịch) được đưa vào dự án Tổng tập văn học thế giới của một tập đoàn xuất bản quốc tế danh tiếng. Riêng có chuyện xuất cảnh thì tối kỵ. Chắc người ta ngại tôi ra ngoài sẽ trở thành nhân chứng sống cho “ thành tích nhân quyền ” của chế độ. Mãi đến năm 2000, do một đồng nghiệp bảo lãnh trực tiếp với ông Tổng cục trưởng An ninh, tôi mới được ông đích thân cho phép ra khỏi nước mà không kèm “ điều kiện” nào.

Năm 2002, khi tôi về hưu tại báo Lao động, do khiếu nại của tôi, báo Lao động và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã kiến nghị Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội trả lương hưu cho tôi theo cả thời gian làm việc trước khi bị bắt ( quy định phi lý phi nhân của Bộ này là vứt bỏ hết thời gian làm việc của cán bộ công nhân viên trước khi họ bị kỷ luật hay bắt giam, như đã áp dụng với nhà văn Bùi Ngọc Tấn ). Lý do được nêu rõ trong công văn: Ông Hoàng Hưng bị bắt giam vì cầm tập thơ Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm mà thời đó coi là phản động, nay xã hội đã có nhìn nhận khác, quyền lợi của ông Hoàng Hưng phải được trả lại. Kiến nghị bị từ chối. Nhà báo Nguyễn Thị Hằng Nga, đại biểu Quốc hội, bèn đưa thẳng hồ sơ cho bà Bộ trưởng Nguyễn Thị Hằng, thế là Bộ này quay 180 độ, đổi ngay quyết định, phá lệ!

Năm 2005, trên một chuyến bay từ TPHCM ra Hà Nội, tình cờ tôi ngồi ngay bên cạnh một viên công an trực tiếp hỏi cung tôi trong vụ Về Kinh Bắc. Quả đáng tội, hồi đó ông và tôi đã từng khá căng thẳng với nhau. Nay ông giữ một chức vụ quan trọng trong ngành an ninh. Ông vui vẻ chủ động bắt chuyện. Ông nói nhiều chuyện về văn nghệ, rồi bỗng bảo tôi thế này: “ Tập thơ Về Kinh Bắc hay thật! Anh phải viết một kịch bản phim về nó đi! Tôi biết chỉ có anh là viết được thôi !

Lạy Trời! So với bao nhiêu người chịu oan khiên cho đến lúc chết mà chẳng ai biết đến, như ông Lê Nguyên Chí trong vụ Nhân văn – Giai phẩm chẳng hạn, thì Hoàng Cầm và tôi thế là còn có phúc lắm! Nhớ lại lời ông công an họ Khổng phán khi tôi cãi rằng nhật ký của tôi để trong nhà, có lưu truyền đâu mà các ông bắt tội? Ông nói ngay: “ May cho anh đấy! Anh mà lưu truyền thì đi tù không có ngày về…”

Nhà giáo kiêm văn thi sĩ Hoàng Hưng dứt lời. Đán quay qua thì thầm với Bình những gì không ai nghe rõ chỉ thấy Bình gật gù mỉm cười. Giọng nói của Thôi Phán Quan vang rền trong căn phòng xử khi ông ta bước tới chỗ Hoàng Cầm đang ngồi.

– Cá nhân tôi rất thích bài thơ Bên Kia Sông Đuống của ông…

– Cám ơn ngài…

Thi sĩ Hoàng Cầm nói gọn. Bình khe khẽ thở dài khi thấy nét già nua, tiều tụy, thân thể ốm o và yếu đuối của nhà thơ nổi tiếng từ lâu. Ở trong ông ta là sự bạc nhược cả về thể xác lẫn tinh thần vì tù tội, tủi nhục và bị trù dập mấy chục năm dưới một chế độ độc tài vô nhân, nhẫn tâm chà đạp lên quyền làm người.

– Ông bị giam giữ bao lâu ông nhớ không?

– Thưa ngài tôi bị bắt giam 1 năm 2 tháng từ 20 tháng 8 năm 1982 cho tới tháng 11 năm 1983…

– Ai là ngươi có quyền bắt giam ông…

Do dự giây lát Hoàng Cầm trả lời nhỏ.

– Thưa đảng…

Không thỏa mãn với câu trả lời mơ hồ của thi sĩ họ Hoàng, Thôi Phán Quan vặn hỏi.

– Ông có thể nêu rõ danh tánh của nhân vật nào trong đảng đã ra lịnh bắt giam ông?

Nhìn xuống dãy bàn bảy bị cáo đang ngồi xong liếc nhanh qua ghế bị can nơi Tố Bồi Bút đang an vị, Hoàng Cầm nhỏ nhẹ trả lời.

– Thưa ngài. Người ra lịnh bắt và giam giữ tôi chính là ông Tố…

Gật gù mỉm cười Thôi Phán Quan hỏi tiếp.

– Tôi có nghe một chuyện như thế này. Khi ông bị giam được gần nửa năm thì một số bạn bè, người quen ở bên Pháp có viết thư gởi Lê Đức Thọ để nhờ can thiệp cho ông được phóng thích vào dịp Tết Nguyên Đán. Điều này có đúng không?

– Thưa ngài điều đó đúng với sự thực…

– Rồi sau khi họ can thiệp có chuyện gì mà ông lại bị giam giữ tới tháng 11 năm 1983?

Khẽ thở dài Hoàng thi sĩ chậm chạp lên tiếng.

– Chuyện bạn bè ở hải ngoại thương tôi viết thư cho Lê Đức Thọ tới tai ông Tố. Ông bạn thơ quý hóa của tôi nổi giận bèn phán một câu xanh rờn: ” Nước ngoài can thiệp hả? Thế thì giam thêm 1 năm nữa cho biết…”. Do câu nói của ông Tố mà tôi bị tù thêm một năm nữa…

Thôi Phán Quan liếc nhanh về phía Đán. Cái liếc mắt của ông ta dành cho vị chủ tịch bồi thẫm đoàn có nhiều ý nghĩa. Đán mỉm cười khe khẽ gật đầu tỏ ra mình hiểu ý. Đợi cho hai nhân chứng rời khỏi ghế xong vị đại diện cho công tố viện của âm phủ mới cất giọng sang sảng.

– Hai ngày, hôm qua và hôm nay; 9 vị đã nghe bằng tai, thấy bằng mắt những nhân chứng cũng như tài liệu trích dẫn về các tội mà tên Tố Bồi Bút đã vi phạm. Chiếu theo hai bộ luật hình và hộ của âm phủ, với các điều khoản, 4, 7, 9 và 17; tên Tố Bồi Bút đã có tội đồng lỏa mưu sát thi sĩ Hữu Loan và Vũ Hoàng Chương, lạm dụng quyền thế để trù ếm gây thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần cho ba nhà thơ Trần Dần, Lê Đạt, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Trương Tửu cũng như nhà giáo Hoàng Hưng. Dù gián tiếp hay trực tiếp, dù chủ mưu hay đồng lõa, dù ít hay nhiều gì hắn cũng đã làm nhiều chuyện gây ra khổ sở, đớn đau cho người dân vô tội. Ỷ quyền cao chức trọng, mượn thế của lãnh tụ, xử dụng quyền lực một cách bất chánh cùng với lòng thù ghét và ganh tị nhỏ nhen, hắn trù dập và yểm ếm nhân tài. Để làm gương cho kẻ khác cũng như duy trì công lý, tôi xin 9 vị xét nghiệm rồi cho tên Tố Bồi Bút một hình phạt tương xứng với tội ác mà hắn đã làm…

Câu nói của Thôi Phán Quan chấm dứt phiên xử Tố Bồi Bút. Chín vị bồi thẫm đi vào phòng riêng hội họp và sẽ tuyên bố hình phạt dành cho Tố Bồi Bút trong phiên xử kế tiếp.

 

 

 

8

Con heo nọc quốc doanh

Đợi cho Diêm Vương đặt cái bàn tọa của ổng xuống chiếc ghế bành bọc da xong, vị lục sự lớn tiếng.

– Sau đây là bị can thứ nhì. Mời Trần Nước Hòn lên ngồi vào ghế bị can…

Mọi người chăm chú nhìn một người đàn ông tuổi ước năm mươi nhưng cách ăn mặc lại trẻ trung nếu không muốn nói là diêm dúa và lố lăng.

– Hắn giống y chang Xuân Tóc Đỏ của ông Vũ Trọng Phụng hả anh Bình?

Huyền nói nhỏ với Bình, nhưng vì phòng xử thật im lặng nên mọi người đều nghe rõ lời nói của cô ta. Dưới hàng ghế người tham dự vọng lên giọng nói ồm ồm như phụ họa câu nói của Huyền.

– Thì hắn là thằng Xuân Tóc Đỏ của bác và đảng mà… Tôi biết gốc gác ma cô của hắn.… Hắn từng dắt mối cho bác bởi vậy bác mới cho hắn làm bộ trưởng…

– Ủa hắn làm bộ trưởng gì hả anh Tám…?

– Bộ trưởng Công Ăn Chơi kiêm Dắt Mối chứ bộ trưởng gì mậy… Hắn là thằng chuyên môn cung cấp gái cho các cố vấn Nga, Tàu xa nhà cần phải giải quyết sinh lý nên các cố vấn Nga Tàu cưng hắn lắm. Do đó mà hắn ỷ thế không coi ai ra gì… Cả bác còn phải ớn hắn…

Tuy hơi cau mày khi nghe tiếng đối đáp vọng lên nơi hàng ghế của người tham dự nhưng Diêm Vương không nói lời gì khác. Sau khi bị can thề thốt xong vị lục sự cao giọng.

– Bị can Trần Nước Hòn bị cáo buộc về tội hãm hiếp và giết người…

Có tiếng xì xầm vang nho nhỏ.

– Hắn tên là Trần Nước Viên mà sao ông lục sự lại đọc là Hòn. Bộ ông ta lộn tên hay gọi lầm người sao anh Tám…

– Tao nghĩ hổng phải ổng lộn tên hay lầm người đâu mà có lẽ ổng là dân miền nam. Theo dân nam bộ mình thời hoàn, viên cũng có nghĩa giống như hòn. Bởi vậy dân nam bộ mới gọi là viên đạn, hòn bi hay hoàn thuốc tễ… Cũng vì vậy mà sau này mình mới có danh từ ” nâng bi ”. Hể cái gì tròn tròn là mình kêu viên, hòn hay hoàn…

Giọng của vị lục sư vang đều đều giới thiệu về tiểu sử của bị can.

– Trần Nước Hòn tên thật là Nguyễn Ba Cẳng, sinh năm 1916 tại Nghệ An. Con nhà nghèo không được đi học nên khi lớn lên hắn trở thành tên du thử du thực. Năm 1934, bị can gia nhập hội kín của Hình Chí Mô rồi sau đó giữ nhiều chức vụ quan trọng như Xứ Uỷ Bắc Kỳ, Bí thư Thành Ủy Hà Nội, Bí thư các Liên khu II, Khu X.

Năm 1952, Trần Nước Hòn được Hình Chí Mô cho làm Giám đốc Nha Công Ăn Việt Nam. Năm sau, Nha Công Ăn chuyển thành Thứ Bộ Công Ăn thì bị can trở thành Thứ Trưởng Thứ Bộ Công Ăn. Ngay trong năm 1953, Thứ Bộ Công Ăn lại đổi thành Bộ Công Ăn và Trần Nước Hòn trở thành bộ trưởng bộ Công Ăn nhờ vào những vụ thủ tiêu hay ám sát đảng viên các đảng phái đối lập như Quốc Dân Đảng hay các nhân vật yêu nước chống đối lại lão Hình Chí Mô…

Có tiếng xì xầm nhỏ nhỏ văng lên nơi khu dành cho người tham dự phiên tòa.

– Bộ Công Ăn là bộ gì vậy anh Tám. Từ nào tới giờ tôi đâu có nghe Việt Nam mình có bộ Công Ăn?

– Mày khờ quá. Bộ Công Ăn là một bộ quan trọng nhất của nhà nước.

– Anh giải nghĩa như vậy tui càng hổng hiểu…

– Mày sao chậm tiêu quá… Đó là bộ công an… Bộ công an là bộ công khai ăn cướp của dân, công khai ăn hối lộ và công khai ăn nằm với đàn bà con gái. Bởi vậy thằng Trần Nước Hòn mới tha hồ giết người và hãm hiếp phụ nữ…

Thôi Phán Quan bước tới đứng trước mặt bị can ngay sau khi vị lục sự vừa dứt lời. Bằng khuôn mặt đanh lạnh, ánh mắt rực hào quang ông ta nhìn thẳng vào mặt Trần Nước Hòn. Câu hỏi mà ông ta buông ra khiến cho mọi người đâm thắc mắc.

– Tôi nghe thiên hạ đồn ông có số đào hoa lắm. Đúng không thưa ông Hòn?

Huyền thì thầm.

– Sao ổng hỏi gì lạ vậy anh Bình?

Mặc dù cũng thắc mắc như cô bạn gái của mình song vì lớn tuổi và kinh nghiệm đời nhiều hơn nên Bình cười trả lời.

– Chắc phải có lý do ổng mới hỏi như vậy…

Được Thôi Phán Quan khen có số đào hoa Trần Nước Hòn khoái chí.

– Dạ cũng nhờ trời phật thương… Dạ tui nói lộn xin nói lại là nhờ ơn bác ơn đảng nên tôi được đàn bà con gái nó thương. Mà tôi lại có cái lòng nhân hậu. Hể người nào thương tui thời tui thương lại. Thương người như thể thương thân mà…

Nghe bị can ba hoa chích chòe Thôi Phán Quan mỉm cười.

– Xin ông vui lòng cho tòa và bồi thẫm đoàn biết ông đã được bao nhiêu người đàn bà con gái thương?

Ngẫm nghĩ giây lát Trần Nước Hòn thủng thẳng trả lời.

– Nhiều lắm tôi hổng nhớ hết… Có người thương tui mà cũng có người hổng thương tui nhưng tui cứ thương đại. Riết rồi họ cũng thương mình lại…

– Ạ… Hóa ra ông có cách thức đặc biệt để làm cho đàn bà thương ông… Tôi xin ông vui lòng giải thích với tòa ông làm cách nào để đàn bà con gái họ thương ông…

He… he… he… Trần Nước Hòn cười khi được Thôi Phán Quan khen, vì thế hắn không thấy được cái nháy mắt ra hiệu của Hình Chí Mô. Quay qua chỗ Diêm Vương ngồi Trần Nước Hòn vui vẻ nói.

– Dạ bẫm Diêm Vương… Con mà nói ra cái cách thức làm cho đàn bà thương con thời xin ngài giảm án cho con nhẹ nhẹ. Dạ ngài cho con gở chừng vài tờ lịch thôi rồi cho con đầu thai lên dương thế. Ở âm phủ tuy an nhàn nhưng hổng có vui. Hổng có đàn bà, con gái đẹp mà toàn là xương khô nhìn thấy ớn quá. Con mà hổng có thương đàn bà là con héo hon như cây thiếu nước…

Nghe Trần Nước Hòn than, Diêm Vương có lẽ cũng mũi lòng nên nhỏ nhẹ cất tiếng.

– Được rồi. Ngươi khai hết tội lỗi của ngươi và sau đó tỏ lòng ăn năn hối cải thời ta cũng châm chế tội ác mà cho ngươi gở chừng vài cuốn lịch thôi thay vì gở lịch muôn năm…

Được lời hứa hẹn của Diêm Vương, Trần Nước Hòn thong thả cười nói với Thôi Phán Quan.

– Dạ cái cách thức làm cho đàn bà thương của tui giản dị lắm. Hể họ không nắm tay mình thời mình nắm tay họ. Hể họ không chịu hôn mình thì mình hôn họ. Hể họ không chịu ôm mình thì mình ôm họ. Hể họ không chịu ” ấy ” mình thì mình đè họ ra mà ấy. Đó là cách mà tui kêu là ” ấy đại ”.

Thôi Phán Quan gật gù.

– Như thế có bao nhiêu người bị ông ấy đại. Chắc nhiều người lắm phải không?

Trần Nước Hòn trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan một cách lẹ làng.

– Nhiều lắm tôi không nhớ hết nhưng chắc chừng năm bảy chục cô. Năm với bảy là trăm hai đó mà…

– Bây giờ nếu tôi gọi một người mà ông đã thương họ theo cách ông vừa nói chắc ông còn nhớ mặt họ…

Nghe Thôi Phán Quan nói như vậy, Trần Nước Hòn sáng mắt lên.

– Đâu… đâu… Họ là ai… Tôi mà thấy mặt là tôi nhìn ra liền… Người quen biết hông hà…

Hướng về phía chín vị bồi thẫm đoàn Thôi Phán Quan cao giọng.

– Thưa Diêm Vương. Thưa quí vị bồi thẫm. Sau đây tôi xin mời nhân chứng thứ nhất. Kính mời cô Nông Thị Xuân…

Ngồi ở hàng ghế đầu, Huyền, Vui và Đán đều thấy rõ ràng lão Hình Chí Mô và Trần Nước Hòn đều ” có vấn đề ” khi nghe tới tên Nông Thị Xuân. Riêng Bình thấy một thiếu nữ từ dưới hàng ghế nhân chứng đứng lên. Khi cô gái tới gần anh nhận thấy Nông Thị Xuân là một cô gái trẻ đẹp. Dường như cô ta xuất thân từ một gia đình nghèo ở vùng quê xa xôi chứ không phải là người thành thị vì thế cách ăn mặc cũng hơi quê mùa. Có một điều Bình nhận thấy là cô ta có nhan sắc mặn mà với làn da trắng, mày liễu, môi son hồng tự nhiên. Thực sự mà nói cô ta là một thiếu nữ trẻ đẹp và hấp dẫn.

Cô gái mang tên Nông Thị Xuân cúi gầm mặt không nhìn ai đi lên ngồi vào ghế nhân chứng. Đợi cho nhân chứng thề thốt xong Thôi Phán Quan mới bắt đầu chất vấn nhân chứng bằng một câu hỏi.

– Cô tên là Nông Thị Xuân?

– Thưa phải ạ…

– Cô sinh năm 1938 tại Cao Bằng?

– Thưa ngài đúng ạ…

Hai lần cô Xuân chỉ trả lời bằng câu trả lời ngắn gọn và cũng không ngẩng đầu lên nhìn ai. Như hiểu được sự hổ thẹn và nhất là sự lo sợ của cô ta nên Thôi Phán Quan trấn an cô ta bằng câu nói.

– Đây là âm phủ chứ không phải ở trên dương thế và nhất là ở xứ Việt Nam của cô. Do đó cô cứ an tâm trình bày tất cả mọi chuyện vì cô được bảo vệ bởi luật pháp của âm phủ và quyền lực của trời…

Dù Thôi Phán Quan đã nói như vậy song cô Nông Thị Xuân vẫn ấp úng hồi lâu mới thỏ thẻ.

– Thưa tôi sợ…

– Cô sợ ai?

Liếc nhanh chiếc ghế bên cạnh rồi ngó xuống chỗ lão Hình Chí Mô đang ngồi cô Xuân thì thầm.

– Bẩm ngài tôi sợ ông Bộ Trưởng Công Ăn… Ổng đánh đau lắm…

Được cơ hội Thôi Phán Quán hỏi dồn.

– Ông Bộ Trưởng Công Ăn đánh cô… mà đánh ở đâu?

– Thưa… Thưa ngài… Ổng đánh vào đầu tôi… Ổng dùng búa đánh vào đầu tôi… Ổng trùm đầu tôi bằng bao vải… rồi ổng đánh vào đầu… đau lắm… hu… hu… hu…

Cô Nông Thị Xuân bật khóc nức nở. Thiên hạ nhốn nháo. Người người xôn xao khi nghe lời tiết lộ động trời của cô Xuân. Có nhiều người không nhịn được đứng bật dậy khiến cho Diêm Vương phải gõ búa để vãn hồi trật tự. Đợi cho im lặng trở lại, Thôi Phán Quan mới bước tới đứng trước mặt cô Nông Thị Xuân. Nhìn cô gái đang ngồi cúi đầu khóc tức tửi ông ta dịu giọng nói như vỗ về và an ủi.

– Tôi thông cảm cho nỗi đau đớn và khổ sở mà cô đã chịu đựng. Tôi biết cô chết một cách oan ức. Tuy nhiên cô cần bình tỉnh, cằn phải nói rõ cho tòa và mọi người biết về hành động hãm hiếp và giết người của tên Trần Nước Hòn và những kẻ đồng lõa của hắn để âm phủ bắt chúng phải đền tội. Cô phải giúp âm phủ truy tố và phạt nặng những kẻ giết người một cách tàn nhẫn, vô nhân đạo. Bọn chúng đang sống sung sướng trên nỗi đau khổ của cô. Cô hiểu tôi muốn nói gì chứ…

Ngước lên nhìn Thôi Phán Quan cô Nông Thị Xuân gật đầu thỏ thẻ.

– Thưa tôi hiểu…

Mỉm cười hài lòng Thôi Phán Quan hỏi gọn một câu năm chữ.

– Ai đã hãm hiếp cô?

Đôi môi son hơi mím lại cô Nông Thị Xuân quay qua chỉ vào Trần Nước Hòn rồi chắc giọng.

– Người đó… Ổng đã hãm hiếp tôi…

Khẽ gật đầu Thôi Phán Quan nói lớn.

– Hắn tên là Trần Nước Hòn. Phải hắn là người đã hãm hiếp cô?

Cô Xuân gật đầu.

– Thưa phải. Chính hắn đã hãm hiếp tôi…

– Hắn hãm hiếp cô bao nhiêu lần?

Cô Xuân ngập ngừng giây lát mới trả lời.

– Thưa nhiều lần lắm…

– Nhiều là bao nhiêu… Hai, ba, năm mười lần…

– Thưa tôi không nhớ rõ bao nhiêu lần nhưng ít ra cũng phải chục lần…

– Một lần cũng đủ tiêu đời người ta rồi…

Một giọng nói từ phía trái nơi dãy bàn cuối cùng vang lên. Một giọng nói khác phụ họa.

– Thằng đó chỉ có nước thiến nó thôi Diêm Vương ơi…

– Đổi tên Trần Nước Hòn của nó thành Trần Đứt Hòn đi…

Ngồi trên ghế cao Diêm Vương chúm chiếm cười khi nghe thiên hạ lên tiếng. Thong thả đặt tách trà nóng trước mặt cô Nông Thị Xuân xong Thôi Phán Quan từ từ thốt.

– Cô uống chút trà cho ấm và tỉnh táo…

– Cám ơn ngài…

Cô Xuân uống một hớp trà nhỏ trong lúc Thôi Phán Quan đặt câu hỏi.

– Cô có thể trình bày đầu đuôi tự sự cho 9 vị bồi thẫm nghe tại sao cô bị tên Trần Nước Hòn hãm hiếp và giết chết…

Uống thêm một ngụm trà, cô Xuân liếc nhanh xuống chỗ lão Hình Chí Mô ngồi xong mới thỏ thẻ. Dù cô nói nhỏ song vì phòng xử im lặng vả lại nhờ hệ thống khuếch đại âm thanh nên ai ai cũng nghe rõ.

– Tôi tên Nông Thị Xuân. Trong nhà gọi tôi là Sang. Tôi sinh ra ở làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An thuộc tỉnh Cao Bằng. Đầu năm 1955 tôi được đưa về Hà Nội để ” phục vụ bác ”…

Nói tới đó cô Xuân ngừng lại liếc nhanh xuống chỗ lão Hình Chí Mô đang ngồi. Nhân dịp cô Xuân ngừng lại Thôi Phán Quan hỏi.

– Cô sinh năm 1932?

– Thưa phải…

– Vậy là cô về phục vụ bác lúc cô được 23 tuổi?

– Thưa đúng ạ…

Nở nụ cười hóm hỉnh vị đại diện công tố tiếp.

– Tôi là người của âm phủ cho nên không thông thạo tiếng Việt lắm. Xin cô vui lòng giải thích tiếng ” phục vụ bác ” là nghĩa làm sao?

Bình tủm tỉm cười. Quay qua nhìn Huyền anh thấy cô nàng cũng cúi đầu cười lỏn lẻn như thẹn thùng. Đán nghiêng người nói nhỏ vào tai Bình.

– Ông Thôi Phán Quan này thâm thật…

Bình muốn bật cười song rán dằn. Bị Thôi Phán Quan hỏi một câu khó trả lời cô Xuân ú ớ giây lát mới thỏ thẻ.

– Thưa phục vụ… phục vụ… có nghĩa là ăn nằm…

Thấy Thôi Phán Quan nhìn mình đăm đăm cô mím môi nói thêm.

– Thưa phục vụ bác là ngủ với bác…

– Ạ… Tôi hiểu rồi…

Bước xuống đứng trước mặt Hình Chí Mô, Thôi Phán Quan hỏi một câu mà mọi người đều cho là lạc đề vì nó không ăn nhập chút nào vào vụ án.

– Chắc ngươi được bác sĩ tẩm bổ dữ lắm. Họ cho ngươi uống sâm, nhung, dâm dương hoắc và hà thủ ô mỗi ngày hả. Họ có cho ngươi uống Viagra không?

Tới đây thời mọi người mới bật ngửa vì hiểu được cái ý xỏ xiên trong câu nói của vị đại diện công tố. Hình Chí Mô sinh năm 1890. Tính tới năm 1955 thời lão đã được 65 tuổi. Tuổi già thêm danh đạo đức mà lão còn kiếm gái tơ để hú hí. Hóa ra cái danh đạo đức cách mạng chỉ là bức bình phong che đậy cho các hành vi đê tiện và bỉ ổi.

Giọng kể chuyện của cô Xuân vang lên có lúc ngập ngừng, có lúc tức tửi, vang lên trong căn phòng im lặng.

– Về Hà Nội thời tôi được cho ở tại nhà số 66 đường Hàng Bông Nhuộm. Tôi ở tầng trên còn tầng dưới thời ông Nguyễn Quý Kiên là chánh văn phòng thủ tướng phủ ở với gia đình của ông ta… Mấy ngày đầu khi tôi về thời có nhiều người từ trong phủ chủ tịch ra dẫn tôi đi sắm sửa quần áo. Họ cũng mua son phấn và mua nước hoa cho tôi. Ngoài ra họ còn chỉ cho tôi cách thức trang điểm…

Thôi Phán Quán cười chúm chiếm.

– Tôi hiểu… Bác của cô thích con gái trẻ đẹp do đó cô phải cần học làm cho mình duyên dáng, khêu gợi và hấp dẫn…

Có lẽ vui vì được người phụ họa và thông cảm nên cô Xuân cười nói tiếp. Đây là lần đầu tiên cô cười khi bước lên ngồi vào ghế nhân chứng.

– Bẩm… Ông nói đúng. Họ còn chỉ dẫn cho tôi cách thức phục vụ bác…

– Cô có thể nói cho tòa biết họ đã dạy cô cái gì để phục vụ bác?

Cô Xuân đỏ mặt thẹn thùng. Ấp úng hồi lâu cô mới thỏ thẻ.

– Thưa… thì họ dạy tôi cách… cách…

Cô Xuân cứ ấp úng nói không ra lời. Cười chúm chiếm Thôi Phán Quan lên tiếng.

– Tôi biết là cô khó nói nên chúng ta hãy bỏ qua chuyện đó và đi ngay vào vấn đề chính. Cô về phục vụ bác đầu năm 1955 và cuối năm 1956 thời cô có thai. Đúng không?

– Thưa đúng…

– Trong thời gian gần hai năm hầu hạ, bác của cô có nói, có hứa hẹn gì với cô không?

– Thưa có. Bác có nói là nếu tôi phục vụ bác giỏi thời bác sẽ cưới tôi làm vợ… Sau khi tôi sinh đứa con trai thời tôi năn nỉ bác hợp thức hóa nhưng bác nói tôi phải chờ, phải đợi bác hỏi ý kiến các ông trong bộ chính chị. Tin lời bác tôi rán chờ nhưng mãi cho tới ngày tôi bị giết cũng chẳng nghe bác nhắc tới chuyện lấy tôi làm vợ…

Thôi Phán Quan ngắt lời cô Xuân bằng một câu hỏi.

– Cô có nghĩ là bác đã lừa cô, đã lường gạt cô?

Xuân rơm rớm nước mắt.

– Tôi không biết… Hôm tôi mới về ở tên căn gác đường Hàng Bông Nhuộm thời có một bà vợ của một nhân viên của Bộ Công Ăn đã chết lên thăm tôi. Thấy tôi ở một mình bà mới nói.

– Sao cô lại ở đây có một mình. Thấy cô hiền lành và còn con nít không biết gì nên tôi thương tôi nói cho cô biết. Thằng mang cô tới đây ở là Bộ Trưởng Công Ăn. Nó là thằng côn đồ lưu manh, dâm ô và tàn ác lắm. Nó giết người không gớm tay. Ông Lương Khánh Thiện, một Uỷ viên Trung ương, bị đế quốc Pháp giết có con gái tên là Bình. Chị Ðường, vợ anh Thiện đem con gái gởi thằng Hòn nhờ nó kiếm chỗ nào khá giả để tác thành cho cô Bình. Thằng Hòn hãm hiếp cô này tới khi cô ấy có chửa rồi chọn một tên lưu manh làm công an để gả cô Bình làm vợ. Lão lại đem một cô gái có nhan sắc nhận là cháu, cũng hiếp cô gái này cho tới chửa, rồi giết chết quăng xác xuống hồ Ha Le để khỏi mang tiếng. Cán bộ công an nhiều người biết chuyện của nó, nhưng không ai dám hở răng, vì sợ lão vu cho tội gì bắt giam rồi thủ tiêu…

Cô Xuân ngừng lại để thở. Da mặt của cô tái xanh có lẽ vì sợ hãi mà có lẽ nhớ lại những lần cô bị chính tên Trần Nước Hòn hãm hiếp.

– Tôi nghe nói sợ quá nhưng tôi nghĩ dù sao tôi cũng là người có liên hệ mật thiết với bác chắc tên Hòn không dám làm gì tôi đâu. Tôi ngây thơ quá và tôi phải trả cái giá cho sự ngây thơ của tôi…

Ngừng lại cô Xuân rơm rớm nước mắt. Đưa cái khăn mù xoa lên chậm nước mắt xong cô kể tiếp.

– Bữa kia tôi đang ở trên gác một mình thời tên Hòn đi lên. Hắn chào tôi rồi đi thẳng vào nhà đoạn ôm ghì lấy tôi vào lòng rồi hôn tôi.

Tôi cố gắng xô hắn ra nhưng không được nên tôi bèn nói. ” Ông không được hỗn, tôi sắp sửa là vợ của bác ”. Hắn cười dâm đãng: ” Tôi biết cô sắp làm vợ bác nhưng tánh mạng của cô nằm trong tay tôi ”. Rồi hắn lại nói: “ Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà cô cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt ở tù, thủ tiêu đứa nào tuỳ ý. Và tôi nói cho cô biết cụ già nhà cô cũng không ngoài tay với của tôi ”. Rồi hắn rút khẩu súng lục dí vào ngực để dọa tôi. Tôi bảo: ” Ông cứ việc bắn đi…” Hắn cười nhạo báng: ” Tôi bắn cô làm gì… Tôi cho cô thấy khẩu súng nước của tôi là cô hết la làng...” Nói xong hắn vật tôi ra giường, xé quần áo tôi rồi sau đó hãm hiếp tôi. Hiếp xong hắn cười nói đùa: ” Thanh niên phục vụ không khoái hơn ông già sao mà còn vờ làm gái…” Trước khi ra về hắn còn hăm dọa tôi một câu ” Việc này phải tuyệt đối bí mật, nếu cô hé miệng nói cho người khác biết là tôi sẽ giết cô, giết cả bố mẹ và anh chị em của cô. Tôi nói cho cô biết là ông cụ tin tôi hơn tin cô ”. Rồi từ đó tôi biến thành một thứ đồ chơi của hắn. Thấy bóng dáng hắn tôi như một con mèo nhìn thấy con cọp, hồn vía lên mây để mặc cho hắn muốn làm gì tuỳ ý…

Dứt lời cô Nông Thị Xuân khóc tức tửi. Dù còn có nhiều điều muốn hỏi cô Xuân song thấy cô bi thương quá nên Thôi Phán Quan bèn cho lính đưa cô về chỗ ngồi xong quay qua nhìn Trần Nước Hòn.

– Ngươi nghĩ sao về những lời cô Xuân đã kể trước tòa?

Trần Nước Hòn cười làm thinh. Dĩ nhiên hắn không ngu dại gì thố lộ tội ác để đi tù. Chẳng thà ngậm miệng rồi tới đâu hay tới đó. Hơi mỉm cười Thôi Phán Quan cao giọng.

– Tiếp theo đây tôi xin mời thêm một nhân chứng nữa. Mời cô Nông Thị Vàng…

Mọi người chăm chú nhìn cô gái ăn mặc quê mùa bước lên ngồi vào ghế nhân chứng.

– Cô là em ruột của cô Nông Thị Xuân?

– Thưa phải ạ…

– Cô vui lòng kể lại cho tòa nghe chuyện cô về Hà Nội để ở với chị của cô…

Không như chị của mình có vẻ rụt rè hay lo sợ cô Vàng rất bình tĩnh khi kể chuyện.

– Đầu năm 1955 khi chị Xuân được đưa về Hà Nội phục vụ bác, thời gian sau em được người ta lên đón về căn gác nơi chị của em đang ở. Rồi vài ngày sau cô Nguyệt là bạn của em cũng tới. Tụi em không làm gì hết. Tối ngày chỉ quanh quẩn trên căn gác nhỏ. Thỉnh thoỏang thời người ta mới tới chở chị Xuân đi gặp bác và thường thường thời ở cả đêm cho tới sáng hôm sau mới trở về. Cuối năm 1956 chị Xuân sinh được một bé trai và được đặt tên Trung. Em có bổn phận phải săn sóc cháu Trung. Vì lãnh nhiệm vụ quản lý chị Xuân nên ông bộ trưởng Hòn nên tới nhà luôn. Nhưng một buổi tối vào khoảng mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957, tên Hòn tới, ngồi nói chuyện vu vơ một tí rồi nắm tay chị Xuân, kéo vào một cái buồng xép, từ cầu thang đi lên, vật chị Xuân lên một cái giường nhỏ định hãm hiếp. Chị Xuân bị nhét khăn vào miệng nhưng vẫn ú ớ la lên. Em hoảng sợ la tru tréo. Còn chị Nguyệt sợ quá, rúm người lại ngồi một góc tường. Nghe tiếng cửa sổ nhà dưới xô xầm vào tường, tên Hòn bỏ chị Xuân ra, rút khẩu súng lục trong túi áo hoa lên nói to: “ Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết ” rồi hầm hầm chạy xuống thang ra ô tô chuồn.

Chị Xuân thất thểu đi ra khóc nức nở, ôm choàng lấy em. Em hỏi nó nắm tay chị, sao chị không văng vào mặt nó để nó dắt đi? Chị Xuân vừa nức nở vừa nói: ” Ðau khổ nhục nhả lắm. Chị phải nói hết để các em tha tội cho chị. Chị Xuân kể cho em nghe những gì tên Hòn đã làm. Nó cũng là những gì mà chị Xuân đã kể cho quí vị nghe.

Em nói với chị Xuân: “ Hay là chị em ta trốn đi ”. Chị Xuân nói: “ Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin bác cho mẹ con ra công khai ”. Bác nói: “ Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Ðức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa ”. Mấy tuần trước Bác lại hỏi chị: “ Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không? ”. Chị thưa: “Ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội. Còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu ”. Bác nói: “Không nhẽ ông Bộ Trưởng Công Ăn nói dối ”.

Tụi em bán tán và suy nghĩ mãi mới thấy rõ là tên Hòn muốn vu cáo chị em chúng tôi liên hệ với gián điệp hoặc đặc vụ gì đó để định kế thoát thân nếu sau này chuyện hắn hãm hiếp chị Xuân bị bại lộ. Bây giờ có trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta. Chị Xuân lại nói: “ Chị bị giết cũng đáng đời, chị rất hối hận xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị ”. Em thấy chuyện nguy hiểm quá vì tên Hòn đã nổi tiếng ở Bộ Công Ăn là một tên dâm bôn vô cùng tàn ác. Ðộ một tuần sau, vào 7 giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, ngày em còn nhớ như đinh đóng cột. Một chiếc xe com măng ca thường đón chị Xuân lên gặp bác Hồ, anh Ninh xồm, người bảo vệ Trần Nước Hòn chuyển lên bảo vệ Bác, vào gặp chị Xuân nói lên gặp Bác. Chị Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra đi. Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên Công an Hà Nội đến báo tin chị Xuân gặp tai nạn ô tô chết rồi, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phủ Doãn. Em hốt hoảng đưa cháu cho chị Nguyệt, ra lên xe công an vào bệnh viện. Em không được vô nhà xác, họ nói còn mổ tử thi. Lên phòng chờ em thấy trong phòng đã khá đông người gồm có nhân viên Công an, Tòa án và Kiểm sát viên.

Sau một tiếng đồng hồ, hai bác sĩ, một cán bộ Công an, một kiểm sát viên lên phòng chờ, đem theo một tờ biên bản đọc to lên cho mọi người nghe. Tử thi của chị Xuân không có thương tích gì, thấy rõ không bị tai nạn ô tô và cũng không phải bị đâm chém đánh đập gì. Mổ tử thi trong cơ thể lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì. Dạ dầy không có thức ăn, không có thuốc độc. Tử cung không có tinh trùng biểu thị không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nức. Mổ sọ não không còn óc, mà chỉ còn nước nhờn chảy tuôn ra. Bác sĩ tuyên bố đây có thể bị chùm chăn lên đầu rồi dùng búa đánh vào giữa đầu. Ðây là phương pháp giết người của bọn lưu manh chuyên nghiệp của nhiều nước đã xử dụng. Em vô cùng đau đớn chạy về kể chuyện lại cho chị Nguyệt nghe để hai chị em cùng khóc. Ít lâu sau một cán bộ Công an đến bế cháu Trung đi, chúng em không được biết đem đi đâu. Rồi em thì được đi học một lớp y tá của khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên. Chị Nguyệt không biết họ cho đi đâu sống chết thế nào. Học mấy tháng thì em được chuyển về bệnh viện Cao Bằng. Vì buồn rầu lẫn lo sợ nên em khóc luôn. Họ cho là em bị thần kinh nên cho về đây điều trị. Em đoán chắc chắn sẽ bị chúng giết vì em đã nói vụ này cho nhiều người quen biết hành động tàn nhẫn của kẻ giết người. Bọn sát nhân thế nào cũng giết người để ém nhẹm chuyện chúng đã làm. Ở Cao Bằng có hôm em thấy thằng Ninh xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, rồi ít hôm sau họ tuyên bố em bị thần kinh nên được chuyển về điều trị tại Hoà An. Đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957 em đi về thăm ông cậu Hoàng văn Ðệ thì bị tên Ninh xồm đi theo dùng búa đập vào đầu của em. Thấy em chưa chết hẳn nên hắn quăng em xuống sông…

Sau khi cô Vàng rời ghế nhân chứng Thôi Phán Quan bước tới đứng trước mặt bị can. Chiếu ánh mắt nghiêm lạnh như muốn thôi miên bị can đang ngồi trước mặt mình, Thôi Phán Quan cất giọng chậm và rõ.

– Sau đây tôi xin mời thêm một nhân chứng nữa. Kính mời ông Nguyễn Cần…

Đợi cho nhân chứng làm xong thủ tục thề thốt Thôi Phán Quan bắt đầu bằng một câu nói.

– Xin ông vui lòng nói trước tòa những gì ông biết về vụ cô Xuân, cô Vàng và cô Nguyệt…

Trầm ngâm giây lát ông Cần mới thở dài rồi thông thả lên tiếng.

– Sau khi rời Hà Nội đi Moskva, theo học ở Trường đảng cao cấp của Trung ương đảng cộng sản Liên Xô hồi năm 1962, và nhất là sau khi tôi đã ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản hồi đầu tháng 6 năm 1964, trong lòng tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi một câu chuyện mà càng ngày tôi càng thấy rõ có cái gì đây đầy oan khuất, đầy mờ ám, rất là nghiêm trọng, mà bây giờ ở ngoài nước, trong hàng chục năm, lắm lúc tôi cảm thấy bó tay không thể nào tìm hiểu được. Chuyện thế này: ” Hồi cuối những năm 50 đầu những năm 60, tôi là phó chủ tịch Ủy Ban Hành Chính Thành Phố Hà Nội, thường ngày tôi xuống các cơ sở. Nhưng sáng hôm đó, tôi nhớ là vào đầu xuân, tôi phải đến thường trực tại Ủy ban, thì anh Nguyễn Quốc Mạnh, ủy viên trong Ủy ban, phụ trách văn phòng, bước vào phòng tôi, hồi hộp nói: ” Báo cáo anh có một việc xảy ra, có một người đàn bà bị xe ô tô cán ở đoạn đường Nhật Tân phía đi lên Chèm…”. Tôi đưa mắt nhìn Quốc Mạnh, có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng không nói gì. Ngạc nhiên vì trong óc tôi thoáng một ý nghĩ, xe ô tô cán người ở Hà Nội chẳng phải là chuyện gì hiếm, sao anh ấy lại báo cáo với mình. Tôi im lặng chờ đợi. Quốc Mạnh nói tiếp: ” Nhưng mà, anh à, theo sự điều tra thì không phải là xe cán người, mà làm ra vẻ xe cán người...” Dừng lại một lúc, anh nói thêm: ” Mà… theo báo cáo thì chiếc xe ấy lại chạy từ Chủ tịch phủ ra…” Mấy tiếng cuối cùng ” từ Chủ tịch phủ ra ” đã gây cho tôi một cảm giác thật mạnh. Nhưng lúc đó, thật ra, tôi không hề có mảy may ý nghĩ là việc này có liên quan gì đến vị chủ tịch nước mà hồi đó, tôi chân thành kính yêu và tin tưởng. Một ý nghĩ thoáng qua trong óc: hay là bọn phục vụ ở chủ tịch phủ đã làm bậy bạ cái gì đây với chị kia, rồi giết đi và bày trò cán xe? Suy nghĩ một lúc, tôi nói: ” Theo quyết định của Trên, mọi vấn đề thuộc về công an, tòa án thì do bí thư Thành ủy giải quyết, nhất là những chuyện có dính dấp đến Trên, việc này không thuộc thẩm quyền của Ủy ban hay Thành ủy, vậy hôm nay, anh đến gặp anh Tuyến báo cáo ngay anh ấy biết để anh giải quyết thì hơn.”

Hôm sau, gặp lại, tôi hỏi thì Quốc Mạnh cho biết: đã báo cáo rồi và anh Tuyến bảo anh sẽ trực tiếp làm việc với anh Thận ( Lê Thận, hồi đó là giám đốc Sở công an Hà Nội, về sau được thăng chức thứ trưởng Bộ công an ). Khoảng một tuần sau, nhân gặp Trần Tuyến, bí thư Thành ủy kiêm phó chủ tịch Ủy ban hành chính thành phố, tôi tranh thủ hỏi về vấn đề đó, thì anh ta lạnh lùng gạt đi: ” Thôi, việc đó xong rồi.” Biết là không thuận lợi cho một cuộc trao đổi cởi mở, nên tôi im… Khi đã ở nước ngoài, trong nhiều năm tôi cứ băn khoăn mãi về chuyện đó.

Hồi tháng 7 năm 1993, khi gặp nhà văn họ Vũ Thư, một người ” cùng cảnh ngộ ” tức là cùng bị dính vào ” vụ án xét lại-chống đảng ” đã sang được Moskva, tôi mới đem chuyện đó kể ra. Vũ Thư bật người lên, vui mừng ra mặt, dường như anh được thêm một người nữa biết cái chuyện ” thâm cung bí sử ” này và chuyện tôi kể cho anh một lần nữa xác nhận điều mà cụ thân sinh của anh, ông Vũ Đình, đã dặn dò anh. Vũ nói liền: ” Nhưng không phải ô tô từ Chủ tịch phủ phóng ra đâu, anh ạ. Mà từ phố Hàng Bông Nhuộm đi lên Nhật Tân…” Tôi đáp lại: ” Chính là Quốc Mạnh nói với tôi thế! “. Rồi Vũ thủng thẳng tâm sự với tôi: ” Có một hôm, ông cụ tôi bảo tôi lên xe, chúng tôi đi lên Hồ Tây, rồi theo đường Quảng Bá đi lên đường Nhật Tân, chỗ làng đào, anh biết chứ? ” Tôi trả lời theo kiểu dân Bắc: ” Biết quá đi, chứ lị! Từ 51, tôi phụ trách ngoại thành cơ mà “. Yên trí là tôi biết rõ địa thế vùng này, anh kể tiếp: ” Dừng xe lại, hai bố con ra xe, ông cụ dẫn anh đến một đoạn đường, hình như một bên có rặng ổi, rồi bảo: ” Con ơi, con nhớ những lời bố dặn đây! Tới đây, đánh dấu một vụ án mạng, một vụ oan khuất khủng khiếp mà Trần Nước Hòn (ủy viên Bộ chính chị, bộ trưởng Ăn Chơi) là chính danh thủ phạm. Con hãy ghi nhớ, khi có dịp thì nói lên sự thật…”

Ngừng lại để uống ngụm nước cho thông cỏ xong ông Cần hắng giọng tiếp.

– Câu chuyện đại để thế này: có một chị người Nùng ở Cao Bằng, tên là Nông Thị Xuân, được đưa đến ” phục vụ ” Bác, cô đưa em là Nông Thị Vàng và một cô em họ nữa về Hà Nội. Sau đó, cô Xuân đẻ cho Bác một đứa con trai, được đặt tên là Nguyễn Tất Trung, và còn có tin đồn, một đứa con gái nữa, tên là Nguyễn Thị Trinh… Thế rồi Trần Nước Hòn hiếp cô Xuân tại nhà phố Hàng Bông Nhuộm, sau đó giết chết, rồi bày trò xe ô tô cán người tới đường Nhật Tân để lấp liếm tội ác. Sau khi cô chị bị giết, cô em chạy về Cao Bằng, rồi cũng bị giết nốt để ” bịt đầu mối ” và người em họ cô Xuân cũng không thoát khỏi bàn tay đẫm máu của nó. Người yêu của cô Vàng đã viết thư tố cáo hung thủ.

Thật ra, những điều nhà văn họ Vũ kể tuy có rọi thêm vài tia sáng, nhưng vẫn chưa thỏa mãn được cái ý muốn tìm hiểu sự việc cụ thể của tôi, nên tôi vẫn tiếp tục cố làm sáng tỏ vấn đề này. Những năm gần đây, nhờ việc đi lại của người trong nước sang Nga được dễ dàng hơn, nên vài người đã kể cho tôi thêm những chi tiết rất có giá trị, bổ sung cho những điều tôi đã biết. Nhưng tất cả những điều đó chỉ là nghe lại của người này, người khác, không có chứng cứ nào, không có tài liệu cụ thể nào xác minh, giúp cho tôi được vững tin. May mắn là mới đây có một người quen cho tôi xem một tài liệu với nhiều chi tiết cụ thể xác nhận về cơ bản những điều tôi đã tìm hiểu được trong những năm qua. Sau khi cẩn thận xem xét kỹ tài liệu đó, tôi có thể tin tưởng ở tính chất chân thật của nó. Tài liệu gồm có một bức thư dài năm trang đánh máy của người chồng chưa cưới của cô Vàng đã bị giết, viết ngày 29 tháng 7 năm 1983 gửi ông Nguyễn Vô Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kèm theo một bức thư một trang của một số thương binh, bạn cùng chiến đấu với anh ta, không đề ngày (có lẽ là gửi cùng ngày?), gửi ông Nguyễn Vô Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước Dân Chửi Cười Trừ Việt Nam, đồng gửi ông Ba Duân, Tổng bí thư đảng CSVN, ông Phạm Văn Chì, Chủ tịch HÐBT và ông Phạm Mạnh, Phó Chủ tịch HÐBT, tố cáo hành vi tội ác của bọn hung thủ đã giết hai nhiều người vô tội. Nhưng có một điều rất ” kẹt ” cho tôi là anh bạn cho xem tài liệu lại dặn tôi đến hai lần ” đừng công bố bản tài liệu ” cho nên tôi không thể làm trái ý ” người chủ ” tài liệu.

Tuy nhiên, tôi mong rằng anh ấy sẽ nghĩ lại và tự anh hoặc nếu anh thấy không tiện cho mình thì giao cho một người nào khác sớm công bố toàn văn bản tài liệu đó để thực hiện ước nguyện của những người đã chết oan và của những người đã bất chấp nguy hiểm, ” máu hòa nước mắt viết thư này ” ( lời trong thư ). Phải nói rằng những người viết thư thật rất dũng cảm, đáng kính phục. Vì Chân Lý, người ta coi thường cái chết, khi viết những lời thật xót xa, đầy mai mỉa và thách đố đối với những kẻ cầm quyền và chế độ hiện tồn trong nước; những lời ấy vang lên như tiếng thét đau thương, ai oán, đã bị nhóm cầm quyền cộng sản dìm đi, bóp nghẹt trong hàng mấy thập niên rồi: ” Chúng tôi, những thương binh đã đổ xương máu vì độc lập của quốc gia, tự do, công lý cho nhân dân, chúng tôi rất mong Ngài vì chân lý mà tìm ra hung thủ, xử lý thích đáng, treo cổ hung thủ công khai hoặc bí mật. Nếu trái lại, vì bè lũ, phải bao che cho hung thủ không trừng trị được bọn tàn ác này, thì chúng tôi xin Ngài phổ biến rộng rãi vụ bê bối này cho toàn thể thương binh và bộ đội biết. Riêng chúng tôi, những kẻ từng đổ xương máu bảo vệ NGAI VÀNG CỦA CÁC NGÀI, sẽ dùng hết sức mình tuyên bố vụ giết người này cho toàn thế giới biết để cả nhân loại đặt câu hỏi vào chế độ ưu việt của các Ngài. Chúng tôi một số thương binh sống dở chết dở, vì vấn đề này mà các Ngài muốn bỏ tù hay thủ tiêu, chúng tôi không hề sợ, và có khi như vậy lại đỡ khổ cho chúng tôi…”

Ngừng lại giây lát ông Cần nói trong lúc nhìn xuống dãy bàn chỗ 8 bị can đang ngồi xong mới từ từ cất tiếng.

– Đó là những điều tôi đã tai nghe mắt thấy về vụ giết người của tên Trần Nước Hòn và các đồng lỏa của hắn…

Trong lúc nhân chứng trở về chỗ ngồi Thôi Phán Quan suy nghĩ thật nhanh. Ông ta biết rằng trong vụ hãm hiếp và giết người này có lắm điều phức tạp, dính líu tới nhiều người trong đó có tên Trần Nước Hòn và có thể liên hệ tới lão Hình Chí Mô bởi vì nếu lão không bằng lòng hoặc cho phép thời bố bảo tên Hòn cũng không dám hãm hiếp hoặc mưu sát Nông Thị Xuân. Ông ta cũng biết tên Hòn là thằng lưu manh, khôn ngoan, tráo trở do đó muốn cho hắn nhận tội không phải là chuyện dễ dàng. Muốn cho tên Trần Nước Hòn cung khai ông ta phải có cách gì đặc biệt hơn là lối hỏi cung thông thường. Ngẫm nghĩ giây lát Thôi Phán Quan bước tới thì thầm vào tai Diêm Vương những gì không ai nghe được. Nghe xong Diêm Vương mỉm cười thốt.

– Ta cho phép ngươi làm bất cứ việc gì để bắt hắn khai sự thực…

Được phép của Diêm Vương, Thôi Phán Quan nháy mắt ra hiệu cho Hắc Bạch Sứ Giả đang đứng hầu hai bên Diêm Vương xong bước tới đứng ngay trước mặt Trần Nước Hòn. Ánh mắt sáng quắc của ông ta nhìn chằm chặp vào mặt bị can cùng với giọng nói nghiêm lạnh vang vang.

– Lần cuối cùng ta cho ngươi dịp may cung khai sự thực về hành vi hãm hiếp và giết người của ngươi…

Trước lời hăm dọa của Thôi Phán Quan tên Trần Nước Hòn vẫn giữ thái độ ung dung và cười nói.

– Thưa ngài. Tôi đâu có hãm hiếp và giết ai đâu. Mấy người đó không được tôi thương nên họ ghét tôi rồi vu oan giá họa cho tôi…

Thôi Phán Quan nhếch môi cười gằn.

– Được… Để ta cho ngươi thấy tận mặt các nạn nhân của ngươi…

Thôi Phán Quan phất tay áo rộng. Đèn trong căn phòng xử tự nhiên mờ dần khiến cho người ta chỉ thấy lờ mờ. Gió lạnh ở đâu bốc lên vù vù làm cho mọi người đều cảm thấy buốt xương. Có tiếng người thì thầm vang vang khắp nơi xen lẫn với tiếng khóc tỉ tê và tiếng rên rỉ. Điều kỳ dị hơn hết là mọi người trong phòng có cảm giác không khí trở nên âm u, lạnh lẽo, tương tự như họ đang ở trong bãi tha ma vào lúc ban đêm.

– Cái gì kỳ dậy anh Bình… Trời ơi ma… Tôi nghe như có ai thở ở đằng sau ót của mình…

Huyền la nho nhỏ. Bình im lặng trân mình chịu đựng cảm giác như có bàn tay lạnh, trơn nhớt nắm lấy tay của mình.

Riêng tên Trần Nước Hòn còn sợ muốn tè ra quần. Ngồi chết cứng trên ghế bị can, hắn thấy cô Nông Thị Xuân mặt xanh lè, mắt trợn trắng, đầu bị bể phân nửa lòi cả óc và máu me sền sệt. Hai bàn tay của cô Xuân bụm lại đưa ra trước mặt chất gì sền sệt như là óc và máu me. Mùi hôi thúi bốc lên khiến cho hắn lợm giọng. Tiếng khóc xen lẫn iếng thỏ thẻ vang lên: ” Ngươi… Ngươi hãm hiếp ta… Ngươi đập vào đầu ta… Đau quá…” Sợ quá hắn quay qua bên trái thời lại thấy cô Nông Thị Vàng máu me đầy mình, quần áo sủng nước, lưỡi le dài thòng đang kề cái mặt xanh lè vào bên má hắn. Ở đàng sau lưng hắn lại nghe tiếng cô Nguyệt la hét… Quân giết người… Thằng sát nhân… đền mạng cho ta. Xoay qua bên phải hắn thấy một cô gái khác nhe hàm răng tráng nhỡn với hai cái răng nanh dài ra và nhọn hoắt như nanh chó sói chực cắn cổ mình.

– Bớ… Bớ… Cứu… Ai cứu tôi… Làng nước ôi…

Trần Nước Hòn kinh sợ tới độ muốn chạy trốn mà hai chân xụi lơ, hai tay tê liệt nên đành ngồi chết cứng trên ghế mặc cho mấy con ma tiến lại càng lúc càng gần ghế mình ngồi.

– Ngươi giết ta mà ngươi chối… Nói mau… Nhận tội mau không ta cắn cổ ngươi…

Mồ hôi dầm dề, người run bây bẩy, Trần Nước Hòn vừa gật đầu vừa nói trong tiếng thở hổn hển.

– Nói… Tôi nói… Dang ra cho tôi nói…

Đèn tự nhiên cháy sáng trở lại. Mọi người ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra. Bình thấy Trần Quốc Hòn ngồi bất động trên ghế, hai mắt trợn trừng như mất hết hồn vía.

– Ngươi chịu khai không hay hồn oan của cô Xuân, cô Vàng, cô Nguyệt tới hỏi thăm sức khỏe của ngươi…

Trần Nước Hòn vừa thở dốc vừa gật đầu lia lịa.

– Bẩm tôi nói… Con nói… Ông vui lòng cho xin ly nước…

Nháy mắt với Hắc Y sứ giả, Thôi Phán Quan sai lính quỉ đem nước cho Trần Nước Hòn. Hắn cầm ly nước đầy mà tay run run như còn sợ hãi vì cảnh tượng vừa rồi. Ực một hơi cạn ly nước xong hắn thều thào.

– Bẩm ngài. Con đâu có thù hằn gì mà giết cô Xuân. Cổ đẹp quá mạng mà giết chi uổng của trời. Chẳng qua… chẳng qua…

Thấy hắn ấp úng Thôi Phán Quan hỏi dồn.

– Chẳng qua cái gì. Ai sai, ai bảo ngươi giết cô Xuân…

Trần Nước Hòn gục đầu xuống không dám nhìn ai.

– Bẩm lệnh từ phủ chủ tịch ạ. Một bữa có người bảo con vào phủ chủ tịch gặp bác… Bác hỏi con tỉ mĩ về tình trạng của cô Xuân. Con tình thực trình bày là con săn sóc cổ chu đáo vì nghĩ nay mai vì cổ cũng là vợ của bác. Bác cười khẩy bảo: ” Tao mà lấy nó à...” Nói xong bác cười hỏi con” ” Mày thích nó không? ”. Con thực thà thưa là thích.” Đẹp như cổ ai mà hổng thích...”. Bác vỗ vai con nói: ” Mày thích thời tao cho mày đó. Mày muốn làm gì thì làm. Ủa mà mày chịu sái nhì hôn? ”. Con khoái quá trả lời: ” Dạ. Bác cho sái nhì, sái ba gì con cũng lượm hết…” Bác gật đầu bảo: ” Mày xài nó chán rồi thời mày đem nó đi cho khuất mắt tao nghe chưa. Xong xuôi rồi mày kiếm cho tao con khác trẻ đẹp hơn...”. Được bác cho phép xài cô Xuân nên con mới dám hãm hiếp cô ta. Chứ bác mà không cho phép thời bố bảo ba đời nhà con cũng không dám đụng tới đào nhí của bác. Xài chán chê cô ta xong là con vâng theo lệnh của bác cho cô đi tàu suốt. Còn cô Vàng vì cái tật bép xép nên cổ chết oan. Cái đó không phải lỗi của con…”

Nhìn Trần Nước Hòn co rúm người trên ghế bị can xong Thôi Phán Quan hướng về 9 vị bồi thẫm.

– Quí vị đã nghe nạn nhân thuật lại những hành vi hãm hiếp và giết người của tên Trần Nước Hòn. Quí vị cũng nghe hắn thú nhận tội lỗi. Do đó tôi yêu cầu quí vị dành một hình phạt tương xứng với tội ác mà hắn đã phạm phải. Riêng về tội đồng lõa giết cô Xuân của lão Hình Chí Mô sẽ được tôi đề cập tới trong phiên xử đặc biệt dành cho hắn…

Nghe Thôi Phán Quan nói xong Diêm Vương tuyên bố ngưng phiên xử để nghỉ giải lao và cũng để cho bồi thẫm đoàn vào phòng riêng thảo luận hình phạt của Trần Nước Hòn.

Đợi cho mọi người ngồi vào bàn xong Đán hắng giọng.

– Ai bắt thăm Tố Bồi Bút?

Vui đưa tay lên.

– Chị Vui đã nghĩ ra hình phạt dành cho hắn chưa?

Liếc nhanh mọi người Vui cười gượng.

– Dạ chưa thưa anh. Tội của Tố Bồi Bút coi nhẹ mà nặng và hơi đặc biệt. Nó khác tội hãm hiếp và giết người của Trần Nước Hòn. Đêm qua tôi thức trắng dờ con mắt mà nghĩ không ra hình phạt dành cho hắn. Chắc tôi phải nhờ mấy anh chị góp ý kiến…

Ngẫm nghĩ giây lát Đán mới cười nói.

– Tôi có ý kiến như thế này. Một hồi nữa tôi sẽ tuyên bố trước tòa tạm hoãn hình phạt của Tố Bồi Bút cho tới phiên xử kế để mình họp lại tìm ra hình phạt cho hắn. Bây giờ tôi muốn biết ai bắt trúng tên Trần Nước Hòn?

Mọi người thấy Định đưa tay lên. Đán hỏi liền.

– Chị Định đã nghĩ ra hình phạt cho tên Trần Nước Hòn chưa?

Khẽ gật đầu Định cười đáp.

– Tôi đã nghĩ ra. Một hồi nữa anh tuyên bố hay là tôi?

Đán cười cười.

– Chị nghĩ ra thời chị phải tuyên án. Đó là bổn phận của chị mà….

Mọi người cười đùa, nói chuyện chờ tới giờ xử. Đúng 10 giờ phiên xử Trần Nước Hòn được tiếp tục khi Diêm Vương ngồi vào ghế chánh án. Hướng về nơi chín vị bồi thẫm ngồi ông ta hỏi lớn.

– Quí vị đã có hình phạt dành cho bị can Tố Bồi Bút và Trần Nước Hòn chưa?

Nghe Diêm Vương hỏi Đán đứng lên trả lời.

– Thưa Diêm Vương… Tội của Tố Bồi Bút hơi phúc tạp nên chúng tôi cần thời gian nghiên cứu, thảo luận để tìm ra hình phạt tương xứng dành cho hắn. Phần bị can Trần Nước Hòn thời hình phạt của hắn sẽ do bồi thẫm Nguyễn Thị An Định tuyên xử…

Mọi người đồng quay nhìn vào vị bồi thẫm có bổn phận tuyên xử hình phạt cho Trần Nước Hòn.

– Cho nó gở vài trăm cuốn lịch đi chị…

– Cho hắn ở tù mục tóc nghe bà…

– Thiến hắn đi cho hắn bỏ tật…

Thiên hạ la rầm rầm khiến cho Diêm Vương phải gõ búa ra hiệu cho mọi người im lặng.

– Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa mọi người. Tội hãm hiếp và giết người của tên Trần Nước Hòn đã rành rành không ai có thể chối cãi được. Vì vậy mà tôi sẽ cho hắn một hình phạt xứng đáng…

Ngừng lại như để cho mọi người chú ý tới lời nói của mình rồi An Định mới cao giọng tiếp.

– Tuy nhiên tôi là một người theo đạo Phật mà Phật tổ đã dạy rằng ” Bỏ dao đồ tể xuống thành Phật ”, do đó để giúp cho Trần Nước Hòn có dịp ăn năn hối cải tội của mình tôi xin với tòa cho tên Trần Nước Hòn được đầu thai trở lại dương thế…

Thiên hạ nhốn nháo hẳn lên sau khi nghe vị bồi thẫm nói cho tên Trần Nước Hòn được đầu thai trở lại dương gian. Có tiếng hét từ nơi đám người dự thính phiên tòa.

– Bà này thân cộng rồi tụi bay ơi…

– Bả bị cấy vào người con vi trùng cộng sản rồi…

– Bả ăn tiền của tụi nó…

Diêm vương gõ búa liên tiếp để trấn áp sự bất bình của thiên hạ. Định cười thản nhiên trước bất bình cũng như sự giận dữ của mọi người. Đợi cho yên lặng trở lại chị mới cất tiếng. Ngay cả Đán, Bình, Vui và Huyền ngồi ở hàng ghế đầu cũng quay lại nhìn Định.

– Tên Hòn lúc còn nhỏ lêu lỏng chơi bời, không được giáo dục nên hư thân mất nết. Hắn chơi nhiều hơn làm cho nên tôi đề nghị âm phủ cho hắn đầu thai trở lại dương thế để bắt hắn làm việc có ích lợi cho dân cho nước…

Hướng về đám đông Định mỉm cười tiếp.

– Quí vị cũng biết nước ta nghèo, dân ta khổ trăm điều, lam lũ làm ăn mà cũng không no đủ được. Nghề chăn nuôi là một trong những nghề chính của dân ta. Dựa theo chính sách toàn dân thi đua tăng gia sản xuất của nhà nước, dân quê nuôi rất nhiều gia súc như trâu, bò, heo, gà, vịt… Trong việc chăn nuôi, heo được dân ta ưa chuộng vì dễ nuôi, chóng lớn và bán có tiền nhiều. Vì vậy nảy sinh ra tình trạng thiếu heo con để bán cho dân nuôi heo. Sở dĩ có tình trạng thiếu hụt heo con như vậy là vì nước ta không có giống tốt và nhất là thiếu heo giống. Do đó tôi xin tòa cho tên Hòn đầu thai làm con heo nọc của đảng và nhà nước. Dân chúng nuôi heo, ai có heo nái sẽ được con heo nọc quốc doanh của nhà nước truyền giống miễn phí…

Giọng nói của Định bị át bởi tiếng cười, tiếng hò la và tiếng vỗ tay hoan hô của mọi người.

– Chị nói phải đó. Hắn thích chơi thời mình cho hắn chơi thoải mái…

– Cho hắn chơi liệt luôn…

– Kỳ này tôi phải đăng ký nuôi heo để được giống heo Nước Hòn nghe bà con…

Thiên hạ la rần rần, cười nói ồn ào nên không chú ý tới bị can đã xỉu nằm gục trên ghế khi được biết là bồi thẫm đoàn cho mình đầu thai trở lại dương thế làm con heo nọc.

9

 

Cải Cách Ruộng Đất: Cải Cắt Tánh Mạng

Chưa tới 9 giờ sáng mà thiên hạ đã lũ lượt kéo nhau vào phòng xử. Nhiều người đã vào phòng rất sớm mong tìm được chỗ ngồi thoải mái hầu có thể nghe cũng như thấy phiên xử thứ ba. Ai ai cũng biết một điều phiên xử đi theo một lịch trình đặc biệt từ nhỏ cho tới lớn, mà số càng lớn thời tội của bị can càng nặng hơn. Theo lịch trình mà âm phủ đã thông báo, hôm nay là phiên xử của Trườn Chui, một lãnh tụ cao cấp của đảng và nhà nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ, nhân vật liên hệ rất nhiều vào vụ cải cách ruộng đất, một chính sách đẫm máu gây ra cái chết cho hàng trăm ngàn sinh mạng của dân chúng ở miền bắc vào những năm 50.

– Kính thưa Diêm Vương. Thưa 9 vị bồi thẫm… Để tiếp tục phiên tòa hôm nay tôi gọi tới bị can thứ ba ra trước vành móng ngựa. Kính mời ông Trườn Chui…

Đợi cho bị can làm xong thủ tục và vị lục sự giới thiệu tiểu sử của Trườn Chui xong, Thôi Phán Quan mở đầu bằng giọng nói sang sảng.

– Bị can thuở nhỏ được cha mẹ cho đi học, thấm nhuần giáo lý Khổng Mạnh, nhưng khi lớn lên hắn bị nhiễm con vi trùng cộng sản, phò lão Hình Chí Mô thờ cái đạo vô thần của Các Mác, Lê Nin, Xít Tê Linh, mà tàn hại sanh linh bá tánh của nước Việt. Chỉ nội vụ Cải Cách Ruộng Đất ở miền bắc hắn đã giết gần hai mươi vạn người, gây ra cảnh con mất cha, vợ mất chồng, nhà tan cửa nát và máu thấm đỏ đất. Tiếng than oán của dân lành vô tội thấu tới thiên đình, tràn lan cả tam sơn ngũ nhạc và năm châu bốn biển. Sau đây tôi xin mời một người ra trước tòa phê bình về những ” sai lầm cố ý ” trong vụ cải cách ruộng đất. Tiếp theo đó tôi sẽ mời các nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp của tên Trườn Chui nói riêng và của toàn thể các lãnh tụ của đảng cộng sản Việt Nam vào những năm 1950 ra đây đối chất trước tòa…

Hướng về dãy bàn dành cho nhân chứng Thôi Phán Quan cao giọng.

– Kính mời luật sư Nguyễn Mạnh Tường…

Mọi người trong phòng xử đều đứng lên vỗ tay hoan hô luật sư Tường, một người lưng hơi còm, tóc bạc lưa thưa, đầy vẻ già nua, cằn cỗi và bệnh hoạn. Ông ta hơi mỉm cười khi thấy mọi người vỗ tay hoan hô. Ông ta cũng bắt tay Thôi Phán Quan khi ông này bước tới chào đón rồi đích thân đưa ông tới ngồi nơi ghế nhân chứng.

Đợi cho yên lặng trở lại Thôi Phán Quan hướng về 9 vị bồi thẫm.

– Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Kính thưa quý vị. Tôi thiết nghĩ không cần phải giới thiệu về luật sư Tường bởi chúng ta không ai xa lạ gì với ông ta. Với nhiệm vụ của một trí thức, với tinh thần yêu nước và yêu tự do, luật sư đã mạnh dạn vạch rõ những sai lầm của các lãnh tụ cộng sản đương thời, những kẻ tự xem cũng như được cấp dưới tâng bốc ” không bao giờ sai lầm ”. Sau đây tôi kính mời quí vị lắng nghe luật sư Tường trổ tài hùng biện nói lên những sai lầm của lãnh tụ cũng như những hình phạt mà ông phải hứng chịu hơn bốn mươi năm chỉ vì ” vạch lá tìm sâu ” của chế độ…

Ngồi nơi hàng ghế đầu, Bình nhận ra Trườn Chui có ” vấn đề lớn ” khi thấy luật sư Tường ngồi vào ghế nhân chứng. Ngay cả lão Hình Chí Mô cũng lộ vẻ lo ra vì sự hiện diện của ông ta. Căn phòng xử rộng lớn đầy đặc người ngồi lại lặng trang trừ giọng nói sang sảng của một người.

– Kính thưa Ngài Diêm Vương. Thưa bồi thẩm đoàn. Thưa toàn thể quý vị hiện diện trong phiên xử này. Hôm nay tôi rất hân hạnh được mời làm nhân chứng cho phiên tòa lịch sử ở âm phủ. Đáng lẽ các bị can hiện diện phải được xét xử trong một phiên tòa ở trên dương gian, cách đây năm mươi mấy năm với một hình phạt tương xứng dành cho các lãnh tụ coi quyền lợi của quốc gia và dân tộc nhẹ hơn quyền lợi và tham vọng cá nhân của họ. Tôi, thúc đẩy bởi lòng yêu nước của một người dân, cộng thêm trách nhiệm của một luật gia, đã mạnh dạn đứng ra chỉ vạch, phê phán những sai lầm trong vụ Cải Cách Ruộng Đất, hầu mong các nhà lãnh đạo đất nước theo đó mà sửa chữa những sai lầm của mình. Tuy nhiên với một quan niệm ” Đảng không bao giờ lầm cũng như lãnh tụ không bao giờ sai ”, đảng, đại diện là tổng bí thư, chủ tịch nước, chủ tịch đảng, đã xử dụng quyền lực có sẵn, nhân danh tổ quốc và dân tộc để trù, yểm, ếm, thanh trừng, đe dọa, đày đọa cá nhân tôi và gia đình hơn bốn mươi năm…

Ngừng lại giây lát, vị luật sư họ Nguyễn nhìn xuống ngay chỗ lão Hình Chí Mô ngồi xong cao giọng tiếp.

– Kính thưa quí vị. Không muốn làm mất thời giờ quí báu của quí vị nên tôi chỉ xin trình bày vài đoạn chính yếu trong bài diễn văn mà tôi đã nói cùng Mặt Trận Tổ Quốc ngày 30-10- 1956 với nhan đề ” Qua Những Sai Lầm Trong Cải Cách Ruộng Đất. Xây Dựng Quan Điểm Lãnh Đạo…”

Dường như có ý định thầm kín nào đó nên ngay khi luật sư Tường vừa nói dứt câu, Thôi Phán Quan nháy mắt ra hiệu cho Hắc Bạch Sứ Giả đang đứng hầu đằng sau lưng Diêm Vương. Hắc Bạch Sứ Giả gật đầu phất tay áo rộng. Căn phòng xử tự nhiên mờ dần dần rồi sau đó một cảnh tượng khác hiện lên. Chín vị bồi thẫm và mọi người ngồi dự khán chỉ thấy một căn phòng rộng có tới mấy trăm người ngồi im lặng lắng nghe một người đang ứng khẩu. Đó là hình ảnh của luật sư Nguyễn Mạnh Tường năm 1956.

Tôi phấn khởi được nghe bản phê bình của Đảng Lao Động do ông Trườn Chui đọc trước hội nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng phấn khởi của tôi một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đã phạm trong công cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng mình trước những người vô tội đã chết oan, không phải vì bàn tay của địch mà chính của ta. (…) Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh…

Ngồi nơi ghế bồi thẫm, Bình hơi rùng mình khi nghe giọng nói sang sảng của luật sư Tường trong lời buộc tội đanh thép và nghiêm khắc nhắm vào các lãnh tụ của đảng cộng sản đương thời.

Những người lãnh đạo, có trách nhiệm trong vụ Cải Cách Ruộng Đất làm cho bao nhiêu người chết oan, không thể chỉ đứng ra xin lỗi, hoặc nhận là Đảng đã sai lầm, mà xong đâu. Xin lỗi không phải là hành động luật pháp. Giết người rồi, không thể chỉ xin lỗi mà xí xoá được.

– Đúng rồi đó. Giết người là phải đền mạng… Lôi cổ thằng Trườn Chui, lão già Hình Chí Mô ra đây thường mạng cho tôi…

– Cho tụi nó ở tù rục xương…

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cười nhìn xuống chỗ lão Hình Chí Mô đang ngồi xong mới hắng giọng tiếp.

Trong một nước dân chủ thực sự, thì quốc hội phải lập một ủy ban điều tra, phải đưa họ ra toà, và toà sẽ phân xử, kết án, tùy theo trách nhiệm nặng nhẹ của mỗi người, từ lãnh đạo cao nhất xuống dưới…

Tiếng vỗ tay hoan hô mới đầu còn lác đác sau từ nhiều hơn rồi toàn thể hội trường đồng loạt vỗ tay cùng với tiếng la hét của người nghe.

– Đúng đó…

– Lôi cổ bọn chúng ra tòa…

– Cho tụi nó mỗi đứa gỡ vài chục cuốn lịch…

Mỉm cười chờ cho mọi người yên lặng xong luật sư Bích hắng giọng.

Khi đưa ra khẩu hiệu ” thà chết 10 người oan còn hơn để sót 1 địch ” thì khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa… Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn: ” Thà 10 địch sót còn hơn 1 người bị kết án oan ”…

Ngừng lại nhìn xuống chỗ bàn 8 bị can ngồi luật sư Tường cao giọng tiếp.

– Sỡ dĩ có những sai lầm đó là vì giới lãnh đạo của đảng hoặc không biết hoặc cố tình làm như không biết ba điểm chính yếu sau đây. Thứ nhất là quan điểm ta-địch, thù-bạn mơ hồ. Thứ nhì là khinh thường hay bất chấp luật pháp. Thứ ba là bất chấp chuyên môn…

– Tụi nó mà luật pháp gì ông ơi. Tụi nó xài luật rừng không hà…

Có tiếng ở đám người tham dự la lớn và luật sư Bích cười tiếp tục.

– Vì quan điểm ta-địch, thù-bạn mơ hồ cho nên ” những người suốt đời hi sinh cho sự nghiệp cách mạng, rồi bỗng nhiên bị truất quyền, bị khai trừ ra khỏi Đảng, bị tống giam, thậm chí có khi bị giết nữa “. Trong cuộc cải cách ruộng đất, bao nhiêu ” chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy ” cũng ” bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình “.

Vì chính trị bất chấp pháp luật cho nên, muốn xử tử ai cũng được: “Quyền xử tử người một cách đơn giản như vậy trái với luật pháp”.

Vì bất chấp chuyên môn cho nên ” Trong 10 năm vừa qua, ta thấy một tình trạng quái gở. Chính trị ám ảnh đầu óc chúng ta đến nỗi hai chữ “ lập trường ” làm ta mất ăn mất ngủ (…) Khi chọn một người vặn lái ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đã vặn lái bao năm, ta chỉ hỏi: “ Có lập trường không? ” Kết quả là từ hai năm nay, riêng trong thủ đô Hà Nội, hàng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái ô tô có lập trường mà không nắm chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện một bệnh nhân cần cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là: Bệnh nhân thuộc thành phầnnào, giai cấp nào? Chữa cho địa chủ thì “ mất lập trường ”. Để nó chết mới chứng minh mình có “ lập trường giai cấp ” (hiện tượng do B.S. Nguyễn Xuân Nguyên đưa ra…). Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là vì chính trị chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ các chân lý…

Quốc hội thành lập đã mười năm [từ 1946 đến 1956]. ” Nhưng quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu? ” ” Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các chính sách mà thôi “.

” Trong bản Tuyên ngôn độc lập, trong Hiến pháp cũng như trong các sắc lệnh, đạo luật, nguyên tắc dân chủ đã được ban bố “. Nhưng trong thực tế: người dân không có quyền, không có phương tiện nói lên ý kiến của mình, tham gia xây dựng các chính sách của Chính phủ “.

Có tiếng người la lớn.

– Quốc hội bù nhìn ông ơi…

–  Hạnh phúc của loài người xây dựng trên cơ sở dân sinh và dân quyền. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây về vấn đề dân quyền. Ta được biết từ hai thế kỷ nay chủ yếu trong vấn đề dân quyền là vấn đề dân chủ, nghĩa là quyền của người dân làm chủ trên đất nước, đồng thời là quyền của con người được sống theo các nhu cầu thiết yếu và chính đáng của nhân bản. Tuy rằng trong nước ta có một Bộ Tư pháp, có các toà án, có luật lệ, nhưng chế độ pháp trị hầu như không có…

Có tiếng nói khàn khàn vang lên nơi cánh trái.

Dưới chế độ độc tài độc đảng cộng sản thời người dân làm ” chủ không ” mà nhà nước quản lý và xử lý hết trơn hết trọi ông ơi…

Có tiếng cười rần rần vì câu nói giỡn của một người nào đó.

Một chế độ thực sự dân chủ là trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế nữa...

Mọi người thấy Diêm Vương ngồi rung đùi như đắc ý khi nghe những lời diễn giải về tự do dân chủ của luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Thôi Phán Quan tằng hắng.

– Họ đã đối xử với ông như thế nào sau khi ông phát biểu lời phê bình của mình?

Luật sư Tường nhìn xuống chỗ giáo sư Trương Tửu ngồi xong từ từ cất tiếng.

– Những gì họ đã làm với giáo sư Trương Tửu thời họ cũng áp dụng đối với tôi hay với bất cứ giới trí thức trong nước như giáo sư Đào, giáo sư Trịnh…

– Tại sao họ lại đối xử tàn tệ với ông như vậy?

Luật sư Tường chua chát trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.

– Bởi vì tôi là một trí thức-thức chứ không phải trí thức-ngủ…

Mọi người cười cái rần vì cách dùng chữ của ông. Đợi cho tiếng cười dứt ông ta cao giọng tiếp.

Giới lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam hiểu rất tận tường vấn đề trí thức và dân chủ. Họ chia ra hai loại trí thức. Đó là trí thức thật và trí thức giả. Trí thức giả là bọn bồi bút để chính quyền sai bảo. Trí thức thật, có uy tín với quần chúng mới là những người mà Đảng cần phải thanh trừng bởi vì họ là sự đe dọa cho đảng. Họ mang trong người tinh thần dân chủ, họ chống lại chính sách độc tài đảng trị và họ truyền bá ý thức tự do cá nhân cho dân chúng để chống lại chủ nghĩa tập thể. Đó là những điểm mà giới lãnh đạo cộng sản không thể chấp nhận được…

Tôi muốn nói những nhà trí thức đích thực, đối cực của thứ trí thức giả hiệu ngực phồng những phẩm hàm, những bằng cấp thật giả không sao biết được…

 Ở những nhà trí thức đích thực, nhân cách đi đôi với văn hoá. Văn hóa ở đây không có nghĩa là kiến thức. Có những người đầy kiến thức, là chuyên viên hàng đầu trong địa hạt hoạt động của mình, nhưng họ vẫn vô văn hoá, bởi lối nhìn về con người, về vạn vật của họ ấu trĩ vô cùng. Sự nhận thức thực tế xã hội và con người của họ ngây ngô lạ lùng!

Họ thiếu cái gì? Thiếu sự phán đoán được rèn luyện qua sách vở, thiếu sự giao tiếp với con người, thiếu tiếp cận những vấn đề của cuộc sống, thiếu trao đổi tư tưởng với người khác, thiếu sự suy nghĩ sâu xa và đúng đắn về những thành công và thất bại mà kinh nghiệm sống đem lại. ” Nhờ nhân cách và văn hoá mà người trí thức, trung quân trong thời phong kiến, có uy tín đối với quần chúng và được vương quyền nể trọng. Sau khi thi đỗ, ra làm quan cai trị dân là họ hoàn tất nhiệm vụ của mình.

 Trong thời Pháp thuộc, giai cấp quan lại bị mất uy tín vì sa vào vòng thối nát hối lộ, mất đi cái hào quang xưa, trở thành cái bia cho báo chí và quần chúng chế giễu, phỉ báng.

Nhưng lớp trí thức mới được đào tạo từ những trường hay đại học Pháp, lại được hưởng niềm tin và kính trọng của quần chúng mà lớp trí thức xưa để lại. Thêm một sự kiện mới nữa: Những nhà trí thức tân học đích thực này đã tiếp nhận tinh thần dân chủ Pháp thoát thai từ cách mạng 1789. Họ không xa lạ gì với vấn đề nhân quyền.

  Cái nguy hiểm của giới trí thức tân học đối với cộng sản là ở chỗ ” Con trùng dân chủ và nhân quyền đã thấm vào máu trong tầng lớp trí thức xuất thân từ đại học Luật mới mở những năm gần đây. Dĩ nhiên có người vẫn còn chịu ảnh hưởng truyền thống cũ, có người là nạn nhân những di tật người trước để lại, nhưng trong đáy lòng họ, vẫn le lói ngọn lửa dân chủ… Cộng sản không muốn dân chủ mà họ muốn làm chủ dân… Giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam không muốn tự do độc lập mà họ chỉ muốn tự do độc tài…

Nước ta đã phải chứng kiến sự thâm nhập của một chủ nghĩa ngoại bang hoàn toàn không bắt rễ từ quá khứ dân tộc. Bao nhiêu nhà ái quốc lớn mà mọi người đều kính phục đã bảo vệ, đã bênh vực, đã bảo trợ cho chủ nghĩa này. Họ đã đưa nó ra rồi bắt dân chúng phải thừa nhận, bằng cách hứa hẹn nó là chìa khoá mở cửa vào thiên đàng trần thế. Quần chúng tin vào lời nói của lãnh đạo và chờ đợi sự thực hiện những lời hứa. Chính nhờ vào sự đồng tình, vào những cố gắng, những hy sinh của toàn dân mà đất nước đã giành được độc lập và tự do. Những cánh tay làm việc và những cái đầu suy nghĩ đã là rường cột cho đảng cầm quyền.

Bất hạnh thay, con đường chúng ta đi không bọc nhung. Hợm mình trước những chiến công hiển hách mà họ tưởng đã đạt được nhờ chủ nghiã mác-xít, những người lãnh đạo đã xây dựng nền móng và áp dụng sâu rộng hơn chủ nghĩa này trong tất cả các ngành, không cần đếm xỉa đến khoa học và thực tế, tuy vẫn hô hào kính trọng giáo dục. Cuộc cải cách ruộng đất đưa đến những sai lầm nghiêm trọng mà những người cầm quyền phải chịu trách nhiệm. Sự đói khổ của nhân dân đã đến mức khốc liệt, vậy mà những kẻ trách nhiệm vẫn khoác lác rêu rao những điều ngược lại.

Trước bi kịch này, thái độ của trí thức phải như thế nào? Có kẻ bịt mắt đút nút lỗ tai để đồng thanh phụ họa với bọn cơ hội và phỉnh nịnh, luôn miệng kêu gào: ” Cộng sản thắng lợi. Đảng Cộng sản muôn năm “. Những kẻ này hy vọng được ân sủng đến ba đời. Công chúng biết rõ và khinh họ. Nhưng những khối óc biết nghĩ, những trái tim yêu tổ quốc và dân tộc không thể nhẫn nhục chịu đựng trong im lặng và thụ động, những cay đắng của khát vọng không thành và những giấc mơ bị chà đạp. Họ lên tiếng tố cáo những sai lầm và đề nghị những biện pháp sửa đổi. Họ được cám ơn bằng những cú roi quất, bằng tù tội suốt đời, họ bị kết tội phản đảng, phản cách mạng, là kẻ thù của nhân dân! Sự an ủi duy nhất của họ là được quần chúng hiểu, ái ngại, nhưng không làm gì cho họ được. Họ phải đợi sự phán đoán của lịch sử “…

Ngừng nói luật sư Nguyễn Mạnh Tường nhìn xuống ngay chỗ Hình Chí Mô và các đồng chí của lão đang ngồi. Giọng của ông ta cất lên thật nghiêm nghị.

Bỏ qua những lời ca tụng của bọn bồi bút và của đám cận thần chuyên tâng bốc; hoặc tự mình thần thánh hóa mình, vị lãnh tụ tối cao của đảng cộng sản Việt Nam sẽ bị chính những người dân Việt Nam, những kẻ khốn cùng bị giết chết, bị tước đoạt tài sản, bị mất quyền dân chủ, bị tước đoạt tự do, phê phán về hành động của ông ta, về công tội của ông ta. Trăm năm bia đá thời mòn, nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ…

Câu ca dao chấm dứt lời nói của luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Diêm Vương hơi cau mày khi thấy mọi người vỗ tay hoan hô ầm ỉ. Thật lâu ông ta mới lấy cái búa sắt gõ côm cốp lên bàn ra lệnh cho mọi người giữ trật tự.

Nhìn luật sư Tường bằng cái nhìn thân thiện Thôi Phán Quan cười nói.

– Xin cám ơn luật sư…

Lính quỉ đưa ông luật sư họ Nguyễn xuống ngồi kế bên giáo sư Trương Tửu. Liếc thấy đồng hồ chỉ 2 giờ 55 chiều, Thôi Phán Quán bước tới đứng trước mặt Trườn Chui. Chiếu đôi mắt lấp lánh hàn quang như để hớp hồn bị can, vị đại diện của âm phủ buông một câu hỏi.

– Ngươi đã giết bao nhiêu người trong vụ Cải Cách Ruộng Đất?

Trườn Chui tủm tỉm cười trả lời.

– Chắc khoảng vài chục thằng địa chủ hay cường hào ác bá…

Thôi Phán Quan dựng mặt khi nghe câu trả lời này. Thái độ thản nhiên và câu nói khinh khỉnh của bị can khiến cho ông ta tức giận. Giết vài chục mạng người mà bị can tỉnh bơ, xem mạng người còn thua con sâu cái kiến.

– Ngươi nói sao nói lại cho ta nghe…

Trườn Chui cười cười lập lại.

– Tôi đoán chắc khoảng vài trăm người…

Hồi nãy ở câu trả lời thứ nhất hắn nói vài chục, bây giờ tăng lên vài trăm. Thôi Phán Quan gằn giọng.

– Vài trăm… Ta cho ngươi nói lại lần nữa…

Trườn Chui nhìn xuống ngay chỗ lão Hình Chí Mô ngồi. Thấy lão Hình gật đầu ra hiệu, hắn mới cười trả lời.

– Chắc vài ngàn thằng thằng địa chủ với phú nông…

Bước trở lại bàn của mình, cầm lấy một cuốn sách đưa lên cao như muốn cho 9 vị bồi thẫm thấy rõ, Thôi Phán Quan cao giọng nói.

– Đây là quyển Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000 tập 2 xuất bản tại Hà Nội năm 2004. Nó là một tài liệu chính thức của nhà cầm quyền Hà Nội, viết về giai đoạn 1955-1975, cho biết cuộc Cải Cách Ruộng Đất đợt 5 xảy ra từ năm 1955 cho tới 1956, được thực hiện ở 3,563 xã, có khoảng 10 triệu dân, tổng số người bị sát hại trong đợt 2 này lên đến 172,008 người, trong đó có 123, 266 người (71,66%) sau nầy được xác nhận đã bị giết oan. Trong số 172,008 nạn nhân, bảng thống kê cho biết cụ thể như sau:

– Thành phần bị liệt vào địa chủ hay cường hào số người bị giết lên tới 26,453 người mà số người bị chết oan là 20,493 tức là 77,4%. Thành phần địa chủ thường bị giết là 82,777, bị giết oan là 51,480 tức 62%. Riêng thành phần phú nông có 62,192 người bị giết, trong đó có 51,003 người bị chết oan tức 82%. Thành phần địa chủ kháng chiến có 586 người mà lại có 290 người bị giết oan tức là 49%. Chỉ riêng trong vụ cải cách ruộng đất đợt 2 này, tổng số người bị giết lên tới 172,008 mà số người bị giết oan là 123,666 người. Tỷ lệ người bị kết tội oan lên tới con số gần 72%…

Ngừng lại giây lát Thôi Phán Quan nói với 9 vị bồi thẫm.

– Xuyên qua cuốn Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam này, giới cầm quyền của cộng sản Việt Nam đã nhìn nhận họ có giết người…

Chín vị bồi thẫm đều nghe Thôi Phán Quan nhấn mạnh ba tiếng ” có giết người ”.

– Theo tôi vụ Cải Cách Ruộng Đất của đảng cộng sản Việt Nam phải được sửa tên lại là Cải Cắt Tánh Mạng mới đúng nghĩa của nó. Với tổng số 10 triệu dân mà lão Hình và tay sai của hắn đã giết gần hai trăm ngàn sinh mạng của thường dân vô tội. Sở dĩ chúng nhẫn tâm làm như vậy vì phải đạt cho được chỉ tiêu 5% để noi gương đàn anh Nga Tàu và nhất là lãnh lệnh giết người từ các tên lãnh tụ cộng sản quốc tế. Những điều mà tôi đã đọc cho quí vị nghe dựa trên thống kê của tài liệu chính thức mà đảng cộng sản đã lưu giữ. Có thể con số người bị giết nhiều hơn vì cộng sản lúc nào cũng hạ thấp con số khi cảm thấy bất lợi cho họ… Điều này tỏ cho chúng ta biết rằng Cải Cách Ruộng Đất là một cuộc tắm máu dân lành của các tên đồ tễ như Hình Chí Mô, Trườn Chui, Ba Duân, Phạm Văng Chì… Nếu tính trung bình một gia đình ở miền bắc lúc đó có năm người thời bọn chúng đã gây đau khổ, tóc tang và điêu linh cho một triệu người vô tội. Xuyên qua cuộc Cải Cắt Tánh Mạng, lão Hình Chí Mô và các đồng chí của lão đã phạm phải các trọng tội sau đây:

1- Giết người có dự mưu

2- Xâm phạm và chiếm đoạt tài sản của dân một cách bất hợp pháp

3- Phá hoại và tiêu diệt tín ngưỡng

4- Phá hoại phong tục tập quán và đạo lý, luân thường của dân tộc

5- Phá hoại các di tích lịch sử và văn hóa

6- Phá hoại nông nghiệp

Sáu người chính thức gây ra tội ác tày trời đó chính là Hình Chí Mô, Trườn Chui, Hoàng Quốc Việt Nam, Lê Văn Lươn Lẹo, Hồ Viết Bại và Chu Văn Biện. Từng giữ chức vụ bí thư khu ủy, Biện nổi tiếng hiếu sát đến độ có câu: ” Giết người nổi tiếng gã Chu Biện ”…

Nói tới đây Thôi Phán Quan quay sang nhìn Trườn Chui rồi đột ngột hỏi một câu.

– Ta nghe đồn trong vụ Cải Cắt Tánh Mạng, để làm gương cho thuộc cấp, ngươi lôi cả cha mẹ ruột của ngươi ra đấu tố. Có hay không?

Trườn Chui im lặng không trả lời. Cười gằn Thôi Phán Quan hỏi lần nữa.

– Có hay không?

Trườn Chui ấp úng trả lời.

– Dạ không có đâu. Tôi là con có hiếu mà. Bác mấy lần bảo tôi phải làm gương cho cán bộ, bảo tôi phải đem bố mẹ ra đấu tố nhưng tôi… tôi…

Trường Chui áp úng mãi cũng không ra lời. Giọng nói của Thôi Phán Quan rền vang phòng xử khiến cho mọi người ai ai cũng đều nghe rõ.

– Nếu ngươi không có làm thì tại sao ở Hà Nội năm 1956 lại có câu: ” Đấu tố phụ mẫu, tôn thờ Mác Lê, nhục ấy đời chê thằng họ Được. Hãm hại sĩ nông, đảo điên văn hóa, tội kia sách chép đứa Xương Khu…” Ngươi có đem cha mẹ ra đấu tố không?

Trườn Chui ngước nhìn lên trần nhà làm như không nghe câu hỏi của Thôi Phán Quan. Liếc đồng hồ treo trên tường chỉ quá 5 giờ vị đại diện luật pháp của âm phủ lên tiếng.

– Kính thưa quí vị. Tôi xin phép được tạm ngưng phiên xử ở đây. Sáng mai tôi sẽ mời các nạn nhân cũng như nhân chứng ra trước tòa để trình bày một cách chi tiết về tội ác của tên Trườn Chui và các đồng lỏa của hắn…

Còn Tiếp